Saturday, August 31, 2013

Bài học, Chủ Nhật 1-9-2013

Phật Pháp Vấn Đáp qua Kinh Milindapanha

Giảng Sư: TT Giác Đẳng

Milinda Vn Đo

Câu hỏi của Vua Milinda
VII. PHẨM XÁC ĐỊNH CÁC PHÁP VÔ SẮC


Tỳ khưu Nguyệt Thiên dịch

XEM MẶT MÀ BẮT HÌNH DONG

10. Dīghaṭṭhipañho
10. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, tumhe evaṃ bhaṇatha ‘aṭṭhikāni dīghāni yojanasatikānipī’ti, rukkhopi tāva natthi yojanasatiko, kuto pana aṭṭhikāni dīghāni yojanasatikāni bhavissantī’’ti?
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, sutaṃ te ‘mahāsamudde pañcayojanasatikāpi macchā atthī’’’ti? ‘‘Āma, bhante, suta’’nti. ‘‘Nanu mahārāja, pañcayojanasatikassa macchassa aṭṭhikāni dīghāni bhavissanti yojanasatikānipī’’ti?
‘‘Kallosi , bhante nāgasenā’’ti.
Dīghaṭṭhipañho dasamo.
 10. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, ngài nói như vầy: ‘Có những khúc xương dài một trăm do-tuần.’ Cho đến ngay cả cây cối còn không cao một trăm do-tuần, do đâu mà sẽ có được những khúc xương dài một trăm do-tuần?”
 “Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Có phải ngài đã được nghe là ở đại dương có loài cá dài năm trăm do-tuần?”
“Thưa ngài, đúng vậy. Đã được nghe.”
 “Tâu đại vương, không phải những khúc xương của con cá dài năm trăm do-tuần sẽ là có chiều dài năm trăm do-tuần?”
“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

II. Thảo Luận: TT Giác Đẳng  điều hợp.

1. - Những hình thức thi triển phép thuật có được chấp nhận trong Phật Giáo hay không? ĐĐ Pháp Tín
2. - Qua những tich chuyện Phật pháp thì nghĩ gì về  hinh nh những bộ xương của những khng long? --TT Pháp Đăng 
3.  Một người có ngoại hình đẹp là do phước đã tạo trong quá khứ, nhưng đời sống lại chuân chuyên thì cái đẹp đó là phước hay họa? - TT Tuệ Siêu
4. Trong kinh có đề cập đến các vị Alahan ở trong kiếp chót có cơ duyên đắc đạo quả nhưng lại có ngoại hình xấu. Tại sao một người đầy đủ pháp balamat để thành đạo quả mà lại không đủ để có ngoại hình đẹp? - ĐĐ Pháp Tín
5.Phải chăng tướng tự tâm sanh, tức là tướng biểu lộ nội tâm? TT Tuệ Siêu 
6. Có chăng sự khác giữa tâm tục sinh của vị Bồ Tát kiếp chót đạt đạo quả với tâm của một chúng sanh bình thường? TT Tuệ Siêu
7. TT Giác Đẳng tóm tắt bài học



Friday, August 30, 2013

Bài học, Thứ Bảy 31-8-2013

Phật Pháp Vấn Đáp qua Kinh Milindapanha

Giảng Sư: TT Pháp Tân

Milinda Vn Đo

Câu hỏi của Vua Milinda
VII. PHẨM XÁC ĐỊNH CÁC PHÁP VÔ SẮC


Tỳ khưu Nguyệt Thiên dịch

THẦN LỰC CHÍNH Ở TÂM LỰC


9. Uttarakurukādigamanapañho

9. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, atthi koci, yo iminā sarīrena uttarakuruṃ vā gaccheyya, brahmalokaṃ vā, aññaṃ vā pana dīpa’’nti? ‘‘Atthi, mahārāja, yo iminā cātummahābhūtikena kāyena uttarakuruṃ vā gaccheyya, brahmalokaṃ vā, aññaṃ vā pana dīpa’’nti.

‘‘Kathaṃ, bhante nāgasena, iminā cātummahābhūtikena kāyena uttarakuruṃ vā gaccheyya, brahmalokaṃ vā, aññaṃ vā pana dīpa’’nti? ‘‘Abhijānāsi nu, tvaṃ mahārāja, imissā pathaviyā vidatthiṃ vā ratanaṃ vā laṅghitā’’ti? ‘‘Āma, bhante, abhijānāmi ‘ahaṃ, bhante nāgasena, aṭṭhapi rataniyo laṅghemī’’’ti. ‘‘Kathaṃ, tvaṃ mahārāja, aṭṭhapi rataniyo laṅghesī’’ti? ‘‘Ahañhi, bhante, cittaṃ uppādemi ‘ettha nipatissāmī’ti saha cittuppādena kāyo me lahuko hotī’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, iddhimā bhikkhu cetovasippatto kāyaṃ citte samāropetvā cittavasena vehāsaṃ gacchatī’’ti.

‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.

Uttarakurukādigamanapañho navamo.

9. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, có người nào có thể đi đến xứ Uttarakuru, hoặc cõi Phạm Thiên, hoặc hòn đảo khác bằng cách phân thân này không?”

“Tâu đại vương, có người có thể đi đến xứ Uttarakuru, hoặc cõi Phạm Thiên, hoặc hòn đảo khác bằng thân tứ đại này.”

“Thưa ngài Nāgasena, làm thế nào có thể đi đến xứ Uttarakuru, hoặc cõi Phạm Thiên, hoặc hòn đảo khác bằng thân tứ đại này?”

“Tâu đại vương, chắc ngài biết rõ là đã nhảy lên khỏi trái đất này một gang tay hoặc một ratana?”[3]

“Thưa ngài, trẫm biết rõ. Thưa ngài Nāgasena, trẫm nhảy lên đến tám ratana.”

“Tâu đại vương, làm thế nào ngài nhảy lên đến tám ratana?”

“Thưa ngài, chính vì trẫm lập tâm rằng: ‘Ta sẽ rơi xuống ở chỗ này.’ Với sự lập tâm ấy, thân thể của trẫm trở thành nhẹ.”

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế vị tỳ khưu có thần thông, đã đạt đến năng lực của tâm, sau khi đặt thân vào tâm rồi di chuyển ở không trung bằng năng lực của tâm.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”


II. Thảo Luận: TT Giác Đẳng  điều hợp.

 1. Chúng ta có thể trãi nghiệm tâm lực trong cuộc sống bình thường chăng? ĐĐ Pháp Tín

Thursday, August 29, 2013

Bài học, Thứ Sáu 30-8-2013

Phật Pháp Vấn Đáp qua Kinh Milindapanha

Giảng Sư: ĐĐ Pháp Tín

Milinda Vn Đo

Câu hỏi của Vua Milinda
VII. PHẨM XÁC ĐỊNH CÁC PHÁP VÔ SẮC


Tỳ khưu Nguyệt Thiên dịch

HÀNH ĐỘNG VÀ SỰ HIỂU BIẾT


8. Jānantājānantapāpakaraṇapañho

8. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, yo jānanto pāpakammaṃ karoti, yo ajānanto pāpakammaṃ karoti, kassa bahutaraṃ apuñña’’nti? Thero āha ‘‘yo kho, mahārāja, ajānanto pāpakammaṃ karoti, tassa bahutaraṃ apuñña’’nti. ‘‘Tena hi, bhante nāgasena, yo amhākaṃ rājaputto vā rājamahāmatto vā ajānanto pāpakammaṃ karoti, taṃ mayaṃ diguṇaṃ daṇḍemā’’ti? ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, tattaṃ ayoguḷaṃ ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ eko jānanto gaṇheyya, eko ajānanto gaṇheyya, katamo [kassa (ka.)] balavataraṃ ḍayheyyā’’ti. ‘‘Yo kho, bhante, ajānanto gaṇheyya, so [tassa (pī. ka.)] balavataraṃ ḍayheyyā’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, yo ajānanto pāpakammaṃ karoti, tassa bahutaraṃ apuñña’’nti.

‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.

Jānantājānantapāpakaraṇapañho aṭṭhamo.

8. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, người làm nghiệp ác mà biết và người làm nghiệp ác mà không biết, người nào có tội nhiều hơn?”
Vị trưởng lão đã nói rằng: “Tâu đại vương, người nào làm nghiệp ác mà không biết, người ấy có tội nhiều hơn.”
“Thưa ngài Nāgasena, chính vì điều ấy hoàng tử nào hoặc quan đại thần nào của chúng tôi làm nghiệp ác mà không biết, có phải chúng tôi phạt người ấy gấp đôi?”
“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Một người cầm lấy cục sắt được nung nóng, đốt nóng, cháy rực, có ngọn lửa mà không biết, một người cầm lấy mà biết, người nào bị phỏng với mức độ trầm trọng hơn?”
“Thưa ngài, người nào cầm lấy mà không biết, người ấy bị phỏng với mức độ trầm trọng hơn.” 
“Tâu đại vương, tương tợ y như thế người nào làm nghiệp ác mà không biết, người ấy có tội nhiều hơn.”
“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

II. Thảo Luận: TT Giác Đẳng  điều hợp.


 1. Trong trường hợp người tạo ác nghiệp với nhận thức đó là nghiệp bất thiện thì quả nhẹ hơn, như vậy trong trường hợp một người tạo nghiệp lành và biết rõ nhân quả của việc mình là thì quả có ít hơn chăng?- TT Pháp Tân

2. Tại sao có những trường hợp một người sanh vào địa ngục vì kiến chấp sai lạc? - TT Pháp Đăng

 3. Tại sao không có tâm bất thiện hợp trí trong lúc có người làm việc không tốt nhưng vẫn có sự hiểu biết? - TT Tuệ Siêu

 4. Phải chăng chính sự hiểu biết đúng đắn khiến sự chủ tâm (cetana) trong ác hạnh yếu và cũng chính sự hiểu biết khiến  sự chủ tâm trong thiện hạnh mạnh mẽ? - TT Tuệ Siêu


Wednesday, August 28, 2013

Bài học, Thứ Năm 29-8-2013

Phật Pháp Vấn Đáp qua Kinh Milindapanha

Giảng Sư: TT Giác Đẳng

Milinda Vn Đo

Câu hỏi của Vua Milinda
VII. PHẨM XÁC ĐỊNH CÁC PHÁP VÔ SẮC


Tỳ khưu Nguyệt Thiên dịch

PHƯỚC BÁU THÌ VÔ LƯỢNG


7. Pāpapuññānaṃ appānappabhāvapañho

7. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, kataraṃ nu kho bahutaraṃ puññaṃ vā apuññaṃ vā’’ti? ‘‘Puññaṃ kho, mahārāja , bahutaraṃ, apuññaṃ thoka’’nti. ‘‘Kena kāraṇenā’’ti? ‘‘Apuññaṃ kho, mahārāja, karonto vippaṭisārī hoti ‘pāpakammaṃ mayā kata’nti, tena pāpaṃ na vaḍḍhati. Puññaṃ kho, mahārāja, karonto avippaṭisārī hoti, avippaṭisārino pāmojjaṃ jāyati, pamuditassa pīti jāyati, pītimanassa kāyo passambhati, passaddhakāyo sukhaṃ vedeti, sukhino cittaṃ samādhiyati, samāhito yathābhūtaṃ pajānāti, tena kāraṇena puññaṃ vaḍḍhati. Puriso kho, mahārāja, chinnahatthapādo bhagavato ekaṃ uppalahatthaṃ datvā ekanavutikappāni vinipātaṃ na gacchissati. Imināpi, mahārāja, kāraṇena bhaṇāmi ‘puññaṃ bahutaraṃ, apuññaṃ thoka’’’nti.
‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.
Pāpapuññānaṃ appānappabhāvapañho sattamo.

7. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, phước và tội cái nào nhiều hơn?”

“Tâu đại vương, phước thì nhiều hơn, tội thì ít.”

“Vì lý do gì?”

“Tâu đại vương, trong khi làm tội thì có sự ân hận rằng: ‘Nghiệp ác được ta làm,’ do đó ác không tăng trưởng. Tâu đại vương, trong khi làm phước thì không có sự ân hận. Đối với người không có sự ân hận, hân hoan sanh khởi; đối với người được hân hoan, hỷ sanh khởi; đối với người có tâm hỷ, thân khinh an; thân được khinh an thì cảm giác sự an lạc; có sự an lạc, tâm được định tĩnh; đã được định tĩnh, thì nhận biết đúng theo thực thể. Vì lý do ấy, phước tăng trưởng. Tâu đại vương, người có chân tay bị chặt đứt sau khi dâng lên đức Thế Tôn một bó hoa sen thì sẽ không rơi vào đọa xứ chín mươi mốt kiếp. Tâu đại vương, cũng vì lý do này mà tôi nói rằng: ‘phước thì nhiều hơn, tội thì ít.’”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”


II. Thảo Luận: TT Giác Đẳng  điều hợp.
 1. Có đúng chăng khi nói rằng những niềm vui to lớn không tồn tại lâu dài bằng niềm vui nhẹ nhàng? - TT Pháp Tân
 2. Phải chăng sự nghĩ tưởng đến phước hạnh đã làm cũng là điều làm tăng trưởng phước lành? - TT Pháp Đăng
3. Niềm hãnh diện mang tính ngã chấp về phuớc hạnh đã làm có giống với điều được nói là "hoan hỷ với công đức đã làm"? - TT Tuệ Quyền
 4. Tại sao đa số chúng sanh xu hướng theo điều ác quấy nhưng cái bất thiện không tồn tại lâu dài? - ĐĐ Pháp Tín
 5. Nhiều người nói "miễn vui là được rồi". Một người hiểu đạo phân biệt thế nào giữa thọ hỷ trong tâm bất thiện và niềm vui trong phúc quả? - TT Tuệ Siêu
 6. Những người tạo dựng cơ nghiệp lớn bằng phương cách bất thiện nhưng theo lý nhân quả thì sự thành công đó có phần nào do phước quá khứ chăng? TT Tuệ Siêu
7. Những người tạo dựng cơ nghiệp lớn bằng phương cách bất thiện nhưng theo lý nhân quả thì sự thành công đó có phần nào do phước quá khứ chăng? TT Tuệ Quyền






Tuesday, August 27, 2013

Bài học, Thứ Tư 28-8-2013

Phật Pháp Vấn Đáp qua Kinh Milindapanha

Giảng Sư: TT Pháp Đăng

Milinda Vn Đo

Câu hỏi của Vua Milinda
VII. PHẨM XÁC ĐỊNH CÁC PHÁP VÔ SẮC


Tỳ khưu Nguyệt Thiên dịch

NẮM MỘT GÓC LÀ NẮM TẤT CẢ

  6. Bojjhaṅgapañho

6. Rājā āha ‘‘kati nu kho, bhante nāgasena, bojjhaṅgā’’ti? ‘‘Satta kho, mahārāja, bojjhaṅgā’’ti. ‘‘Katihi pana, bhante, bojjhaṅgehi bujjhatī’’ti? ‘‘Ekena kho, mahārāja, bojjhaṅgena bujjhati dhammavicayasambojjhaṅgenā’’ti. ‘‘Atha kissa nu kho, bhante, vuccanti ‘satta bojjhaṅgā’’’ti? ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, asi kosiyā pakkhitto aggahito hatthena ussahati chejjaṃ chinditu’’nti. ‘‘Na hi, bhante’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, dhammavicayasambojjhaṅgena vinā chahi bojjhaṅgehi na bujjhatī’’ti.
‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.
Bojjhaṅgapañho chaṭṭho.

6. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, có bao nhiêu giác chi (chi phần đưa đến giác ngộ)?”
“Tâu đại vương, có bảy giác chi.”
“Thưa ngài, được giác ngộ với bao nhiêu giác chi?”
“Tâu đại vương, được giác ngộ với một giác chi là với trạch pháp giác chi.”
“Thưa ngài, vậy thì tại sao lại được nói là ‘bảy giác chi’?”
“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Cây gươm đã được tra vào vỏ, không được nắm bằng tay, có thể cắt được vật cần phải cắt?”
“Thưa ngài, không thể.”
“Tâu đại vương, tương tợ y như thế thiếu đi trạch pháp giác chi thì không được giác ngộ bằng sáu chi phần (còn lại).”
“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”



II. Thảo Luận: TT Giác Đẳng  điều hợp.

1. Giải thích ý nghĩa của "Thất Giác Chi" - TT Giác Đng
 2. Đối với "những danh sách liệt kê" pháp hành như tứ niệm xứ, thất giác chi, bát chánh đạo... có phải theo trình tự thứ lớp chăng? - TTTuệ Siêu
 3. Đối với hành giả tu tập thì sự phân biệt những trạng thái thiện hay bất thiện đang xẩy ra trong nội tâm có khó khăn chăng? - TT Pháp Đăng
4. Chưa đắc đạo chứng quả thì chúng ta có thể vận dụng được ánh sáng của tuệ giác chăng? - TT Tuệ Quyền
5.  Phải chăng ngày nay người ta sống sung túc quá nên ít bận tâm đến giá trị của giác ngộ, giải thoát? - TT Pháp Đăng
6. Làm sao để phân biệt tuệ giác với sự khôn ngoan bình thường? - TT Tuệ Quyền









Monday, August 26, 2013

Bài học, Thứ Ba 27-8-2013

Phật Pháp Vấn Đáp qua Kinh Milindapanha

Giảng Sư: TT Tuệ Quyền

Milinda Vn Đo

Câu hỏi của Vua Milinda
VII. PHẨM XÁC ĐỊNH CÁC PHÁP VÔ SẮC


Tỳ khưu Nguyệt Thiên dịch

TÂM THỨC KHÔNG CÓ HẠN CUỘC CỦA KHÔNG GIAN  

5. Dvinnaṃ lokuppannānaṃ samakabhāvapañho

5. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, yo idha kālaṅkato brahmaloke uppajjeyya, yo ca idha kālaṅkato kasmīre uppajjeyya, ko cirataraṃ ko sīghatara’’nti? ‘‘Samakaṃ, mahārājā’’ti.

‘‘Opammaṃ karohī’’ti. ‘‘Kuhiṃ pana, mahārāja, tava jātanagara’’nti? ‘‘Atthi, bhante, kalasigāmo nāma, tatthāhaṃ jāto’’ti. ‘‘Kīva dūro, mahārāja, ito kalasigāmo hotī’’ti. ‘‘Dvimattāni, bhante, yojanasatānī’’ti. ‘‘Kīva dūraṃ, mahārāja, ito kasmīraṃ hotī’’ti? ‘‘Dvādasa, bhante, yojanānī’’ti. ‘‘Iṅgha, tvaṃ mahārāja, kalasigāmaṃ cintehī’’ti. ‘‘Cintito, bhante’’ti. ‘‘Iṅgha, tvaṃ mahārāja, kasmīraṃ cintehī’’ti. ‘‘Cintitaṃ bhante’’ti. ‘‘Katamaṃ nu kho, mahārāja, cirena cintitaṃ, katamaṃ sīghatara’’nti? ‘‘Samakaṃ bhante’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, yo idha kālaṅkato brahmaloke uppajjeyya, yo ca idha kālaṅkato kasmīre uppajjeyya, samakaṃ yeva uppajjantī’’ti.

‘‘Bhiyyo opammaṃ karohī’’ti. ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, dve sakuṇā ākāsena gaccheyyuṃ , tesu eko ucce rukkhe nisīdeyya, eko nīce rukkhe nisīdeyya, tesaṃ samakaṃ patiṭṭhitānaṃ katamassa chāyā paṭhamataraṃ pathaviyaṃ patiṭṭhaheyya, katamassa chāyā cirena pathaviyaṃ patiṭṭhaheyyā’’ti? ‘‘Samakaṃ, bhante’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, yo idha kālaṅkato brahmaloke uppajjeyya, yo ca idha kālaṅkato kasmīre uppajjeyya, samakaṃ yeva uppajjantī’’ti.

‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.

Dvinnaṃ lokuppannānaṃ samakabhāvapañho pañcamo.

 5. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, người từ trần ở đây rồi sanh vào cõi Phạm Thiên, và người từ trần ở đây rồi sanh vào xứ Kasmīra, ai là lâu hơn, ai là mau hơn?”
“Tâu đại vương, bằng nhau.”
“Xin ngài cho ví dụ.”
“Tâu đại vương, thành phố quê hương của ngài ở đâu?”
“Thưa ngài, có ngôi làng tên là Kalasi. Trẫm sanh ra tại nơi ấy.”
“Tâu đại vương, ngôi làng Kalasi cách đây bao xa?”
“Thưa ngài, khoảng cách hai trăm do-tuần.”
“Tâu đại vương, Kasmīra cách đây bao xa?”
“Thưa ngài, mười hai do-tuần.”
“Tâu đại vương, đại vương hãy nghĩ đến ngôi làng Kalasi đi?”
“Thưa ngài, đã nghĩ đến rồi.”
“Tâu đại vương, đại vương hãy nghĩ đến Kasmīra đi?”
“Thưa ngài, đã nghĩ đến rồi.”
“Tâu đại vương, cái nào đã được suy nghĩ lâu, cái nào mau hơn?”
“Thưa ngài, bằng nhau.”
“Tâu đại vương, tương tợ y như thế người từ trần ở đây rồi sanh vào cõi Phạm Thiên, và người từ trần ở đây rồi sanh vào xứ Kasmīra, họ sanh lên đều bằng nhau.”
“Xin ngài cho thêm ví dụ.”
“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Hai con chim bay ở không trung, một con trong số đó đậu xuống ở cây cao, một con đậu ở cây thấp. Khi chúng đồng thời đáp xuống, bóng của con nào thành lập ở mặt đất trước, bóng của con nào thành lập ở mặt đất lâu hơn?”
“Thưa ngài, bằng nhau.”
“Tâu đại vương, tương tợ y như thế người từ trần ở đây rồi sanh vào cõi Phạm Thiên, và người từ trần ở đây rồi sanh vào xứ Kasmīra, họ sanh lên đều bằng nhau.”
“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.


II. Thảo Luận: TT Giác Đẳng  điều hợp.

 1. Theo những gì ghi nhận trong kinh sách thì những trường hợp nào một chúng sanh có khả năng lựa chọn cảnh giới tái sanh?- TT Pháp Đăng
2. Người tu Phật có nên nghĩ nhiều về kiếp sau chăng? ĐĐ Pháp Tin

3. Phải chăng đa số chúng sanh có khuynh hướng nương gá vào vật chất (sắc pháp)? - TTTuệ Sieu

4. Theo A Tỳ Đàm thì khái niệm về khoảng cách thuộc về chơn đế hay tục đế? nếu là tục đế thì có năm trong "hư không chế định" chăng?- TTTuệ Siêu

5. Khái niệm dài ngắn của không gian (như trong Phật ngôn: đường dài với khách lữ hành mỏi chân) là một thi thiết hay chân đế?TT Tuệ Quyền







Sunday, August 25, 2013

Bài học, Thứ Hai 26-8-2013

Phật Pháp Vấn Đáp qua Kinh Milindapanha

Giảng Sư: TT Tuệ Siêu

Milinda Vn Đo

Câu hỏi của Vua Milinda
VII. PHẨM XÁC ĐỊNH CÁC PHÁP VÔ SẮC


Tỳ khưu Nguyệt Thiên dịch

TÂM VÀ VẬN TỐC 


4. Brahmalokapañho



4. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, kīvadūro ito brahmaloko’’ti? ‘‘Dūro kho, mahārāja, ito brahmaloko kūṭāgāramattā silā tamhā patitā ahorattena aṭṭhacattālīsayojanasahassāni bhassamānā catūhi māsehi pathaviyaṃ patiṭṭhaheyyā’’ti.



‘‘Bhante nāgasena, tumhe evaṃ bhaṇatha ‘seyyathāpi balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya , pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya, evameva iddhimā bhikkhu cetovasippatto jambudīpe antarahito brahmaloke pātubhaveyyā’ti etaṃ vacanaṃ na saddahāmi, evaṃ atisīghaṃ tāva bahūni yojanasatāni gacchissatī’’ti.



Thero āha ‘‘kuhiṃ pana, mahārāja, tava jātabhūmī’’ti? ‘‘Atthi, bhante, alasando nāma dīpo, tatthāhaṃ jāto’’ti. ‘‘Kīva dūro, mahārāja, ito alasando hotī’’ti? ‘‘Dvimattāni, bhante, yojanasatānī’’ti. ‘‘Abhijānāsi nu tvaṃ, mahārāja, tattha kiñcideva karaṇīyaṃ karitvā saritā’’ti? ‘‘Āma, bhante, sarāmī’’ti. ‘‘Lahuṃ kho tvaṃ, mahārāja, gatosi dvimattāni yojanasatānī’’ti.



‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.


4. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, cõi Phạm Thiên cách đây bao xa?”

 “Tâu đại vương, cõi Phạm Thiên cách đây xa lắm. Tảng đá kích thước bằng ngôi nhà mái nhọn bị rơi từ nơi ấy, trong khi rơi xuống ngày đêm bốn mươi tám ngàn do-tuần thì bốn tháng mới có thể đến được trái đất.”

 “Thưa ngài Nāgasena, ngài nói như vầy: ‘Cũng giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại, hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tợ y như thế, vị tỳ khưu có thần thông, đã đạt đến năng lực của tâm, biến mất ở Jambudīpa có thể hiện ra ở cõi Phạm Thiên.’ Trẫm không tin lời nói này. Như vậy vị ấy sẽ di chuyển cực kỳ nhanh đến cả nhiều trăm do-tuần?” 

 Vị trưởng lão đã nói rằng: “Tâu đại vương, sanh quán của ngài ở đâu?”

 “Thưa ngài, có hòn đảo tên là Alasandā. Trẫm sanh ra tại nơi ấy.”

 “Tâu đại vương, Alasandā cách đây bao xa?”

 “Thưa ngài, khoảng cách hai trăm do-tuần.”

 “Tâu đại vương, phải chăng ngài biết rõ là ngài đã làm một việc cần làm nào đó ở tại nơi ấy và ngài vẫn còn nhớ?”

 “Thưa ngài, đúng vậy. Trẫm nhớ.”

 “Tâu đại vương, quả là ngài đã di chuyển khoảng cách hai trăm do-tuần một cách nhẹ nhàng.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”



II. Thảo Luận: TT Giác Đẳng  điều hợp.
 1. Tâm là một trạng thái cực kỳ tế nhị khó nhận thức. Một hành giả tu tập thiền quán nên quán chiếu tâm thế nào? - TT Pháp Tân
2. Phải chăng theo Phật Pháp thì năng lực của thần thông dựa vào tâm lực? - TT Tuệ Quyền
 3. Phải chăng một người sống nghiêng nặng về tư duy thì cảnh giới rộng hơn là một người nặng về vật chất? - ĐĐ Pháp Tín
4.Một người rất thích tạo phước nhưng chỉ hướng cầu quá phúc vật chất vậy cảnh giới của người đó nghiêng về mặt vật chất hay tâm linh? - TTTuệ Quyền
5. Một vị giác ngộ giải thoát có nhất thiết phải có thần thần thông, và một vị có thần thông có nhất thiết phải giác ngộ không? - TT Tuệ Siêu 
 6. Một người có "đầu óc mau lẹ" có phải là tâm sanh diệt nhanh hơn người thường? - TT Tuệ Siêu
 7. Đầu óc mau lẹ có phải do phước từ quá khứ? - TT Tuệ Siêu






Saturday, August 24, 2013

Bài học, Chủ Nhật 25-8-2013

Phật Pháp Vấn Đáp qua Kinh Milindapanha

Giảng Sư: TT Giác Đẳng

Milinda Vn Đo

Câu hỏi của Vua Milinda
VII. PHẨM XÁC ĐỊNH CÁC PHÁP VÔ SẮC


Tỳ khưu Nguyệt Thiên dịch

NGỪA BỆNH HƠN TRỊ BỆNH


3. Dukkhappahānavāyamapañho



3. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, kiṃ tumhe atītassa dukkhassa pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Na hi, mahārājā’’ti. ‘‘Kiṃ pana, bhante, anāgatassa dukkhassa pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Na hi, mahārājā’’ti. ‘‘Kiṃ pana paccuppannassa dukkhassa pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Na hi, mahārājā’’ti. ‘‘Yadi tumhe na atītassa dukkhassa pahānāya vāyamatha, na anāgatassa dukkhassa pahānāya vāyamatha, na paccuppannassa dukkhassa pahānāya vāyamatha, atha kimatthāya vāyamathā’’ti. Thero āha ‘kinti, mahārāja, idañca dukkhaṃ nirujjheyya, aññañca dukkhaṃ nuppajjeyyā’ti etadatthāya vāyamāmā’’ti.

‘‘Atthi pana te, bhante nāgasena, anāgataṃ dukkha’’nti? ‘‘Natthi [kathā. 828, 829 passitabbaṃ], mahārājā’’ti ‘‘tumhe kho, bhante nāgasena, atipaṇḍitā, ye tumhe asantānaṃ anāgatānaṃ dukkhānaṃ pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Atthi pana te, mahārāja, keci paṭirājāno paccatthikā paccāmittā paccupaṭṭhitā hontī’’ti? ‘‘Āma, bhante, atthī’’ti. ‘‘Kiṃnu kho, mahārāja, tadā tumhe parikhaṃ khaṇāpeyyātha, pākāraṃ cināpeyyātha gopuraṃ kārāpeyyātha, aṭṭālakaṃ kārāpeyyātha, dhaññaṃ atiharāpeyyāthā’’ti? ‘‘Na hi, bhante, paṭikacceva taṃ paṭiyattaṃ hotī’’ti. ‘‘Kiṃ tumhe, mahārāja, tadā hatthismiṃ sikkheyyātha, assasmiṃ sikkheyyātha, rathasmiṃ sikkheyyātha, dhanusmiṃ sikkheyyātha, tharusmiṃ sikkheyyāthā’’ti? ‘‘Na hi, bhante, paṭikacceva taṃ sikkhitaṃ hotī’’ti. ‘‘Kissatthāyā’’ti? ‘‘Anāgatānaṃ, bhante, bhayānaṃ paṭibāhanatthāyā’’ti. ‘‘Kiṃ nu kho, mahārāja, atthi anāgataṃ bhaya’’nti? ‘‘Natthi, bhante’’ti . ‘‘Tumhe ca kho, mahārāja, atipaṇḍitā, ye tumhe asantānaṃ anāgatānaṃ bhayānaṃ paṭibāhanatthāya paṭiyādethā’’ti.

‘‘Bhiyyo opammaṃ karohīti. ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, yadā tvaṃ pipāsito bhaveyyāsi, tadā tvaṃ udapānaṃ khaṇāpeyyāsi, pokkharaṇiṃ khaṇāpeyyāsi, taḷākaṃ khaṇāpeyyāsi ‘pānīyaṃ pivissāmī’’’ti? ‘‘Na hi, bhante, paṭikacceva taṃ paṭiyattaṃ hotī’’ti. ‘‘Kissatthāyā’’ti? ‘‘Anāgatānaṃ, bhante, pipāsānaṃ paṭibāhanatthāya paṭiyattaṃ hotī’’ti. ‘‘Atthi pana, mahārāja, anāgatā pipāsā’’ti? ‘‘Natthi, bhante’’ti. ‘‘Tumhe kho, mahārāja, atipaṇḍitā , ye tumhe asantānaṃ anāgatānaṃ pipāsānaṃ paṭibāhanatthāya taṃ paṭiyādethā’’ti.

‘‘Bhiyyo opammaṃ karohī’’ti. ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, yadā tvaṃ bubhukkhito bhaveyyāsi, tadā tvaṃ khettaṃ kasāpeyyāsi, sāliṃ vapāpeyyāsi ‘bhattaṃ bhuñjissāmī’’’ti? ‘‘Na hi, bhante, paṭikacceva taṃ paṭiyattaṃ hotī’’ti. ‘‘Kissatthāyā’’ti. ‘‘Anāgatānaṃ, bhante, bubhukkhānaṃ paṭibāhanatthāyā’’ti. ‘‘Atthi pana, mahārāja, anāgatā bubhukkhā’’ti? ‘‘Natthi, bhante’’ti. ‘‘Tumhe kho, mahārāja, atipaṇḍitā, ye tumhe asantānaṃ anāgatānaṃ bubhukkhānaṃ paṭibāhanatthāya paṭiyādethā’’ti.

‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.

Dukkhappahānavāyamapañho tatiyo


3. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, có phải ngài tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc quá khứ?”


“Tâu đại vương, không phải.”


“Vậy có phải ngài tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc vị lai?”


“Tâu đại vương, không phải.”


“Vậy có phải ngài tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc hiện tại?”


“Tâu đại vương, không phải.”


“Nếu ngài không tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc quá khứ, không tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc vị lai, không tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc hiện tại, vậy ngài tinh tấn nhằm mục đích gì?”


Vị trưởng lão đã nói rằng: “Tâu đại vương, làm cách nào để cho khổ này diệt, và khổ khác không thể sanh lên? Chúng tôi tinh tấn nhằm mục đích này.”


“Thưa ngài Nāgasena, vậy (bây giờ) có khổ thuộc vị lai không?”


“Tâu đại vương, không có.”


“Thưa ngài Nāgasena, ngài quả là quá sáng trí khi ngài tinh tấn nhằm loại bỏ các khổ không hiện hữu!”


“Tâu đại vương, vậy có những vị vua đối nghịch, những kẻ thù đối nghịch, những bạn bè đối nghịch chống đối lại ngài không?”


“Thưa ngài, đúng vậy. Có.”


“Tâu đại vương, phải chăng khi ấy ngài mới bảo đào hào, mới bảo đắp lũy, mới bảo xây cổng thành, mới bảo làm vọng gác, mới bảo đem lại thóc?”


“Thưa ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.”


“Tâu đại vương, phải chăng khi ấy ngài mới rèn luyện về voi, mới rèn luyện về ngựa, mới rèn luyện về xe, mới rèn luyện về cung, mới rèn luyện về gươm?”


“Thưa ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.” 


“Nhằm mục đích gì?”


“Thưa ngài, nhằm mục đích ngăn chặn các nỗi lo sợ thuộc vị lai.”


“Tâu đại vương, phải chăng (bây giờ) có nỗi lo sợ thuộc vị lai?”


“Thưa ngài, không có.”


“Tâu đại vương, đại vương quả là quá sáng trí khi ngài chuẩn bị nhằm mục đích ngăn chặn các nỗi lo sợ thuộc vị lai!”


“Xin ngài cho thêm ví dụ.”


“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Phải chăng khi nào ngài bị khát thì khi ấy ngài mới bảo đào giếng nước, mới bảo đào ao nước, mới bảo đào hồ nước (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ uống nước’?”


“Thưa ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.”


“Nhằm mục đích gì?”


“Thưa ngài, được chuẩn bị nhằm mục đích ngăn chặn các sự khát nước còn chưa đến.”


“Tâu đại vương, phải chăng (bây giờ) có sự khát nước ở vị lai?”


“Thưa ngài, không có.”


“Tâu đại vương, đại vương quả là quá sáng trí khi ngài chuẩn bị việc ấy nhằm mục đích ngăn chặn các sự khát nước ở vị lai!”


“Xin ngài cho thêm ví dụ.”


“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Phải chăng khi nào ngài thèm ăn thì khi ấy ngài mới bảo cày ruộng, mới bảo trồng lúa sāli (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thọ dụng bữa ăn’?”


“Thưa ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.”


“Nhằm mục đích gì?”


“Thưa ngài, được chuẩn bị nhằm mục đích ngăn chặn các sự thèm ăn ở vị lai.”


“Tâu đại vương, phải chăng (bây giờ) có sự thèm ăn ở vị lai?”


II. Thảo Luận: TT Giác Đẳng  điều hợp.
1. So sánh hai điều kiện khó khăn và thuận tiện thì điều nào giúp hành giả tu tập tiến bộ hơn? - TT Pháp Đăng
2. Nói về phòng bệnh thì nên rõ bệnh gì để phòng ngừa? - TT Tuệ Quyền
3:Phải chăng một tỳ kheo sống an lạc là hình ảnh đặc trưng của những đệ tử Phật? - ĐĐ Pháp Tín
4. Chữ khổ mà vua Milinda hỏi ở đây có nghĩa chính xác là gì? - TT Tuệ Siêu
5. Sự tu tập tâm xã có trái chống với tâm bi không? - TT Tuệ Siêu
6. Người tu tập có nên né tránh sự khổ chăng? - TT Tuệ Siêu