Sunday, November 30, 2014

Bài học. Chủ Nhật ngày 30-11-2014

GIÁO TRÌNH KINH TẬP SUTTANIPÀTA

Giảng Sư:  TT Giác Đẳng

Chương  Ba - Đại Phẩm

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

(XII) Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán (Sn 139)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Ðông Viên, tại lâu đài mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ, trong ngày trai giới Uposatha, vào ngày rằm, trăng tròn, trong đêm rằm, Thế Tôn ngồi giữa trời với chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Thế Tôn nhìn xung quanh chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, nói với các Tỷ-kheo:

- Này các Tỷ-kheo, phàm có những thiện pháp nào thuộc bậc Thánh có khả năng hướng thượng, đưa đến giác ngộ; này các Tỷ-kheo, đối với các thiện pháp thuộc bậc Thánh có khả năng hướng thượng đưa đến giác ngộ ấy do lý do gì các Thầy nghe những pháp ấy? Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thể được hỏi như vậy, các Thầy có thể trả lời cho những người câu hỏi ấy như sau: "Vì muốn có như thật trí đối với hai pháp". Và nếu các Thầy nói: "Thế nào là hai?". - "Ðây là khổ, đây là khổ tập", đây là tuỳ quán thứ nhất. "Ðây là khổ diệt, đây là con đường đưa đến khổ diệt", đây là tùy quán thứ hai.

Này các Tỷ-kheo, như vậy do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Ðược chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

724. Ai không tuệ tri khổ,
Và hiện hữu của khổ,
Và chỗ khổ hoàn toàn
Ðược đoạn tận không dư,
Vị ấy không biết đường,
Ðưa đến khổ an tịnh.

725. Không có tâm giải thoát,
Không có tuệ giải thoát,
Vị ấy không có thể
Ðoạn tận sanh và già.

726. Những ai tuệ tri khổ
Và hiện hữu của khổ
Và chỗ khổ hoàn toàn
Ðược đoạn tận không dư,
Vị ấy biết con đường,
Ðưa đến khổ an tịnh.

727. Ðầy đủ tâm giải thoát,
Với trí tuệ giải thoát,
Những vị ấy có thể
Với trí tuệ giải thoát,
Ðoạn tận sanh và già.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có chân chánh tuỳ quán hai pháp, theo một pháp môn khác không?" Các Thầy cần phải trả lời: "Có thể có". Có thể có như thế nào? "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên sanh y", đây là tuỳ quán pháp thứ nhất. "Do sự đoạn diệt, ly tham, các sanh y không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán thứ hai.

- Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tuỳ quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Ðược chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

728. Chính do duyên sanh y,
Các khổ được sanh khởi,
Tất cả các khổ đau,
Sai biệt ở trên đời,
Ai chính do vô minh
Tạo lên sự sanh y,
Kẻ ngu ấy gặp khổ
Nối tiếp nhau sanh trưởng,
Do vậy vị hiểu biết,
Không tạo lên sanh y,
Tuỳ quán được hiện hữu
Của sanh và của khổ.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có chân chánh tùy quán hai pháp theo một pháp môn khác không?" Các Thầy cần phải trả lời: "Có thể có". Có thể có như thế nào? "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên vô minh", đây là tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham, vô minh không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Ðược chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo sư lại nói thêm:

729. Những ai tiếp tục rơi,
Dòng luân chuyển sanh tử,
Ðến hữu này hữu khác,
Sanh thú do vô minh.

730. Vô minh này, đại si,
Ðưa đến luân chuyển dài,
Chúng sanh, minh đạt được,
Không còn phải tái sanh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên các hành", đây là tuỳ quán pháp thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham, các hành không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo sư lại nói thêm:

731. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả duyên các hành,
Do đoạn diệt các hành,
Khổ không có hiện hữu.

732. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên các hành,
Tịnh chỉ tất cả hành,
Do phá hoại các tưởng,
Như vậy, khổ được diệt,
Biết như thực là vậy.

733. Bậc Hiền trí chánh kiến,
Hiểu biết, với chánh trí,
Nhiếp phục Ma kiết sử,
Không đi đến tái sanh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thức", đây là tùy quán pháp thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thức không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, bậc Ðạo sư lại nói thêm:

734. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả do duyên thức,
Với thức được đoạn diệt,
Khổ không có hiện hữu.

735. Do biết nguy hiểm hày,
Khổ do duyên các thức,
Tỷ-kheo tịnh chỉ thức,
Không dục ái, tịch tịnh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:.... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên xúc", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham xúc không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

736. Những ai, xúc chi phối,
Chạy theo dòng sanh hữu,
Những người hành tà đạo,
Xa vời diệt kiết sử.

737. Những ai liễu tri xúc,
Nhờ trí, thích an tịnh,
Do họ thắng tri xúc,
Không dục ái, tịch tịnh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thọ", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thọ không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

738. Với lạc thọ, khổ thọ,
Hay bất khổ, bất lạc;
Nội thọ và ngoại thọ,
Phàm có cảm thọ gì.

739. Biết được đây là khổ,
Giả dối bị hủy hoại.
Thấy các xúc hoại diệt,
Như vậy, đây ly tham,
Tỷ-kheo diệt các thọ,
Không dục ái, tịch tịnh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên ái", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham ái, không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chán tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

740. Người có ái bạn đường,
Bị luân chuyển dài dài,
Ðến hữu này, hữu khác,
Luân chuyển không dừng nghỉ.

741. Do biết nguy hiểm nầy,
Chính ái tác thành khổ,
Ly ái, không chấp thủ,
Chánh niệm, Tỷ-kheo hành.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:.... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thủ", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thủ không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

742. Do duyên thủ, có hữu,
Do hữu, đi đến khổ,
Từ sanh nên có chết,
Ðây hiện hữu của khổ.

743. Do vậy, bậc Hiền trí,
Diệt thủ, nhờ chánh trí,
Nhờ thắng trí sanh diệt,
Không đi đến tái sanh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên khởi xướng", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt ly tham khởi xướng không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

744. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả duyên khởi xướng,
Do đoạn diệt khởi xướng,
Khổ không có hiện hữu.

745. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên khởi xướng,
Từ bỏ mọi khởi xướng,
Không khởi xướng, giải thoát.

746. Do đoạn tận hữu ái,
Tâm Tỷ-kheo tịch tịnh,
Vượt khỏi sanh luân chuyển
Vị ấy không tái sanh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thức ăn", đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thức ăn không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

747. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả duyên thức ăn,
Do đoạn diệt thức ăn,
Khổ không có hiện hữu.

748. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên thức ăn,
Liễu tri mọi thức ăn,
Không y mọi thức ăn.

749. Nhờ chánh trí không bệnh,
Ðoạn diệt các lậu hoặc,
Thọ dụng các thức ăn,
Giác sát, trú Chánh pháp,
Vị đạt được trí tuệ,
Không rơi vào ước lượng.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên dao động", đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham dao động không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

750. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả duyên dao động,
Do đoạn diệt dao động,
Khổ không có hiện hữu.

751. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên dao động,
Do vậy, bỏ dao động,
Chận dừng lại các hành,
Không có gì chướng ngại
Không chấp thủ, chánh niệm,
Vị Tỷ-kheo bộ hành,
Khắp tất cả chân trời.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Ai có nương tựa, thì bị dao động", đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. "Ai không có nương tựa, không bị dao động", đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

752. Không nương tựa, không động,
Nương tựa có chấp thủ,
Chấp hữu này, hữu khác,
Không chinh phục luân chuyển.

753. Sau khi rõ biết được,
Nguy hiểm tai hại nầy,
Trong các sự nương tựa,
Có sợ hãi lớn lao,
Không nương tựa y chỉ,
Không chấp thủ, chánh niệm,
Vị Tỷ-kheo bộ hành,
Khắp tất cả chân trời.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có như thế nào?" Này các Tỷ-kheo "Các pháp vô sắc an tịnh hơn các sắc pháp", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Sự đoạn diệt an tinh hơn các pháp vô sắc", đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

754. Chúng sanh thuộc sắc giới,
Chúng sanh trú vô sắc,
Không tuệ tri đoạn diệt,
Chúng đi đến tái sanh.

755. Những ai liễu tri sắc,
Khéo an trú vô sắc,
Giải thoát trong đoạn diệt,
Họ từ bỏ sự chết.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có như thế nào?" Này các Tỷ-kheo, "Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: "Ðây là sự thật", cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này là hư vọng", đây là pháp tùy quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, "Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: "Ðây là hư vọng", cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này là chân thật", đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

756. Hãy xem thế giới nầy,
Với thế giới chư Thiên,
Hoan hỷ với phi ngã,
An trú trên danh sắc,
Nghĩ rằng danh sắc này
Là chân thật không ngụy.

757. Dầu họ nghĩ thế nào,
Khi danh sắc đổi khác,
Danh sắc là hư vọng,
Giả dối sống tạm bợ,

758. Niết-bàn không hư ngụy,
Bậc Thánh chân thật biết,
Họ thắng tri chân thật,
Không ái dục, tịch tịnh.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có như thế nào?" Này các Tỷ-kheo, "Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: "Ðây là an lạc", cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này là khổ", đây là pháp tùy quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, "Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: "Ðây là khổ", cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này là lạc", đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.

Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

759. Sắc, tiếng, hương, vị, xúc,
Tất cả những pháp này,
Khả lạc, hỷ, khả ý,
Khi nào chúng hiện hữu.

760. Thế giới với chư Thiên
Xem chúng là khả lạc,
Khi chúng bị hoại diệt,
Mới thấy chúng là khổ.

761. Bậc Thánh thấy là lạc,
Khi có thân đoạn diệt,
Ðây hoàn toàn trái ngược,
Ðiều mọi giới được thấy.

762. Ðiều người khác gọi lạc,
Bậc Thánh gọi là khổ,
Ðiều người khác gọi khổ,
Bậc Thánh biết là lạc,
Hãy xem pháp khó biết,
Kẻ không thấy mê mờ.

763. Kẻ bị che, tối tăm,
Kẻ không thấy, tối mù,
Bậc thiện, được rộng mở,
Bậc thấy, được ánh sáng,
Kẻ ngu dầu có gần,
Cũng không biết con đường,
Cũng không có thiện xảo,
Ðối Chánh pháp Phật dạy.

764. Bị hữu tham chiến bại,
Bị trôi theo dòng hữu,
Rơi vào Ma chi phối,
Pháp này khó chánh giác.

765. Ai ngoài các bậc Thánh,
Xứng đáng đạo chánh giác.
Do chánh trí đạo ấy
Chứng vô lậu Niết-bàn.

Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỉ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi pháp này được giảng, tâm của hơn sáu mươi Tỷ-kheo giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.


II. Thảo Luận:   TT Giác Đẳng  điều hợp.
1. Phải chăng những "dưỡng tố" của đời sống không nhất thiết là chỉ đến trong hiện tại? - TT Tuệ Siêu
 2. Nếu tất cả khổ đều do chất liệu nuôi dưỡng thì chúng ta làm sao để nguồn cung ứng chất liệu đó cạn kiệt? - TT Tuệ Siêu
3. Nếu tất cả khổ đều do chất liệu nuôi dưỡng thì chúng ta làm sao để nguồn cung ứng chất liệu đó cạn kiệt? - TT Giác Đẳng
 4. Nếu tất cả khổ đều do chất liệu nuôi dưỡng thì chúng ta làm sao để nguồn cung ứng chất liệu đó cạn kiệt? - TT Tuệ Siêu

Friday, November 28, 2014

Bài học. Thứ Bảy ngày 29-11-2014

GIÁO TRÌNH KINH TẬP SUTTANIPÀTA

Giảng Sư:  TT Pháp Tân

Chương Ba - Đại Phẩm
(IX) Kinh Vàsettha (Sn 115)


(Kinh này giống với kinh Vàsettha, số 98 của Trung Bộ Kinh, Tập II)

Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya

98. Kinh Vàsettha
(Vàsettha sutta)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Icchanankala (Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchanankala.

Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có trú tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn Pokkharasati, Bà-la-môn Janussoni, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Thế nào là một vị Bà-la-môn?"

Thanh niên Bharadvaja nói như sau:

-- Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn.

Thanh niên Vasettha nói như sau:

-- Nếu ai có giới hạnh và thành tựu các cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn.

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vasettha, và thanh niên Bà-la-môn Vasettha không thể thuyết phục thanh niên Bharadvaja. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja:

-- Này Bharadvaja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchanankala, tại khu rừng Icchanankala. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn". Này Tôn giả Bharadvaja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.

-- Thưa vâng.

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja vâng đáp thanh niên Vasettha. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vasettha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn:

Chúng con cả hai người, 
Ðược tôn xưng, tự nhận, 
Là những bậc thông thái
Cả ba tập Vệ-đà.

Con là đệ tử Ngài, 
Pokkharasati, 
Còn vị thanh niên này, 
Ðệ tử Tarukkha.

Ba Vệ-đà nói gì, 
Chúng con đều thông đạt, 
Văn cú và văn phạm, 
Chúng con đều thấu hiểu, 
Thuyết giảng và giải thích, 
Thật giống bậc Ðạo sư.

Tôn giả Gotama, 
Giữa hai người chúng con
Có sự tranh luận này, 
Về huyết thống thọ sanh.

Bharadvaja nói: 
"Chính do sự thọ sanh".
Con nói: "Do hành động, 
Mới thành Bà-la-môn".

Mong bậc có Pháp nhãn, 
Hiểu cho là như vậy.
Cả hai người chúng con, 
Không thể thuyết phục nhau. 
Chúng con đến hỏi Ngài, 
Bậc Chánh Giác tôn xưng.

Như trăng được tròn đầy, 
Quần chúng đến chấp tay,
Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng. 
Cũng vậy, ở trong đời, 
Quần chúng đến đảnh lễ, 
Gotama Tôn giả.

Chúng con đến hỏi Ngài, 
Bậc Pháp nhãn thế gian, 
Bà-la-môn do sanh, 
Hay chính do hành động? 
Chúng con không được biết, 
Hãy nói chúng con biết.

Ðức Thế Tôn bèn nói:

Này Ông Vasettha, 
Ta trả lời cho Ông, 
Thuận thứ và như thật, 
Sự phân loại do sanh, 
Của các loại hữu tình, 
Chính do sự sanh đẻ, 
Do sanh, có dị loại.

Hãy xem cỏ và cây, 
Dầu chúng không nhận thức, 
Chúng có tướng thọ sanh, 
Do sanh, có dị loại.

Hãy xem loại côn trùng, 
Bướm đêm, các loại kiến, 
Chúng có tướng thọ sanh, 
Do sanh, có dị loại.

Hãy xem loại bốn chân, 
Loại nhỏ và loại lớn, 
Chúng có tướng thọ sanh, 
Do sanh, có dị loại.

Hãy xem loài bò sát, 
Loại rắn, loại lưng dài, 
Chúng có tướng thọ sanh, 
Do sanh, có dị loại.

Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước, 
Chúng có tướng thọ sanh,
Da sanh, có dị loại.

Hãy xem các loại chim, 
Loại có cánh trên trời, 
Chúng có tướng thọ sanh, 
Do sanh, có dị loại.

Tùy theo sự thọ sanh, 
Chúng có tướng tùy sanh. 
Trong thế giới loài Người, 
Tướng sanh không có nhiều.

Không ở đầu mái tóc, 
Không ở tai, ở mắt,
Không ở miệng, ở mũi, 
Không ở môi, ở mày, 
Không ở cổ, ở nách, 
Không ở bụng, ở lưng, 
Không ở ngực, ở vú, 
Không âm hộ, hành dâm.

Không ở tay, ở chân, 
Không ở ngón, ở móng, 
Không ở cổ chân, vế, 
Không ở sắc, ở tiếng.

Không tướng, do tùy sanh, 
Tùy sanh, loại sai khác.
Trên tự thân con người, 
Không có gì đặc biệt. 
Chỉ tùy theo danh xưng, 
Loài Người được kêu gọi.

Ðối người tự sinh sống. 
Chăn bò, lo ruộng đất, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là nông phu, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống theo nghề nghiệp, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là công thợ, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề buôn bán, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là thương nhân, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống hầu hạ người, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là nô bộc, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống lấy của người, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là kẻ trộm, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề cung tên, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là nhà binh, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề tế tự, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là tế quan, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống giữa loài Người, 
Thọ hưởng làng, quốc độ, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là vua chúa, 
Không phải Bà-la-môn.

Và Ta không có gọi, 
Kẻ ấy Bà-la-môn. 
Chỉ vì do thọ sanh, 
Dầu vị ấy cao sang, 
Dầu vị ấy giàu có, 
Nhưng còn ham thế lợi.

Không tham lam thế lợi, 
Không chấp thủ sở hữu, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Vị đoạn tận kiết sử, 
Không ai không sợ hãi, 
Siêu việt mọi chấp trước, 
Thoát ly các hệ phược, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Cắt dây thừng, dây ách, 
Dây cương, cùng dây trói, 
Quăng đi cây chắn ngang, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Bậc sáng suốt, giác ngộ, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai không lỗi, chịu đựng, 
Nhiếc mắng cùng đánh trói, 
Trang bị với nhẫn lực, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Không phẫn nộ, giữ luật, 
Có giới hạnh không kiêu, 
Nhiếp phục, thân tối hậu, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Như nước trên lá sen, 
Hột cải trên đỉnh nhọn, 
Không tham luyến dục vọng, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận, 
Gánh nặng được đặt xuống, 
Xa lìa các hệ phược, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo, 
Ðích tối thượng đạt được, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai không còn liên hệ, 
Cả tại gia, xuất gia, 
Không nhà trú, thiểu dục, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Bỏ gậy đối chúng sanh, 
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh, 
Không giết, không hại ai, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Giữa kẻ thù, không thù, 
Giữa hung bạo, an tịnh, 
Giữa chấp thủ, không chấp, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Dối, tham, sân, mạn, phú, 
Ai bỏ rơi được chúng, 
Như hột cải rơi khỏi. 
Ðầu nhọn của mũi kim, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai dạy thật nhỏ nhẹ, 
Nói lên lời chơn thực, 
Không xúc chạm một ai, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Dài ngắn hay lớn nhỏ, 
Thanh tịnh hay bất tịnh, 
Ở đời vật dài ngắn, 
Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh, 
Không lấy vật không cho, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Với ai không tham cầu, 
Ðời này và đời sau, 
Từ bỏ mọi tham cầu, 
Ðoạn rời mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai không có chấp tàng, 
Với trí đoạn nghi hoặc, 
Ðạt nhập đáy bất tử. 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Ở đời ai vượt khỏi, 
Mọi buộc ràng thiện ác, 
Không sầu, không bụi uế, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai không uế, thanh tịnh, 
Không gợn, sáng như trăng, 
Hỷ, hữu được đoạn trừ, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai vượt qua hiểm lộ, 
Ác lộ, luân hồi, si, 
Vượt khỏi, đến bờ kia, 
Thiền tư, không dao động, 
Ðoạn trừ mọi nghi hoặc, 
An tịnh, không chấp trước, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Ở đời, bỏ dục vọng, 
Không nhà, sống xuất gia, 
Ðoạn trừ dục và hữu, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Ở đời, bỏ tham ác, 
Không nhà, sống xuất gia, 
Ðoạn trừ ác và hữu, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai từ bỏ nhân ách, 
Vượt qua cả thiên ách, 
Ðoạn trừ mọi ách nạn, 
Thoát ly mọi hệ phược, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Từ bỏ lạc, bất lạc, 
Thanh lương, không y trú, 
Chiến thắng mọi thế giới, 
Bậc anh hùng dũng mãnh, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai biết thật hoàn toàn, 
Sự sanh diệt chúng sanh, 
Không tham trước, Thiện Thệ, 
Giác ngộ, đạt chánh giác, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Không biết chỗ sở thủ, 
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà, 
Lậu hoặc được đoạn trừ, 
Bậc Ứng Cúng, La-Hán, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai không có chấp trước, 
Ðời trước, sau, đời này, 
Không chấp, không sở hữu, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Ngưu vương, bậc Tối thắng, 
Anh hùng, bậc Ðại sĩ, 
Bậc Chinh phục, Bất động, 
Tắm sạch, bậc Giác Ngộ, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai biết được đời trước, 
Thấy được thiện, ác thú, 
Ðạt được sanh diệt đoạn, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

Ðiều thế giới cho gọi,
Là "tên" và "gia tộc", 
Chỉ tục danh, thông danh, 
Danh từ khởi nhiều chỗ.

Ðã lâu đời chấp trước, 
Tà kiến của kẻ ngu,
Kẻ ngu tự tuyên bố, 
Bà-la-môn do sanh.

Không phải do sanh đẻ, 
Ðược gọi Bà-la-môn, 
Không phải do sanh đẻ, 
Gọi phi Bà-la-môn.

Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn, 
Chính do sự hành động
Gọi phi Bà-la-môn.

Hành động làm nông phu, 
Hành động làm công thợ, 
Hành động làm lái buôn, 
Hành động làm nô bộc.

Hành động làm ăn trộm, 
Hành động làm nhà binh. 
Hành động làm tế quan, 
Hành động làm vua chúa.

Kẻ trí thấy hành động, 
Như thật là như vậy. 
Thấy rõ lý duyên khởi, 
Biết rõ nghiệp dị thục.

Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi. 
Nghiệp trói buộc chúng sanh, 
Như trục xe quay bánh.

Do khổ hạnh, Phạm hạnh, 
Tiết chế và chế ngự, 
Tác thành Bà-la-môn. 
Bà-la-môn như vậy, 
Mới thật là tối thượng,

Ba Vệ-đà thành tựu, 
An tịnh, tái sanh đoạn, 
Vesettha nên biết, 
Kẻ ấy được Phạm thiên, 
Ðược Thiên chủ Sakka, 
Biết đến thật tường tận.

Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.


II. Thảo Luận:   TT Giác Đẳng   điều hợp.