Monday, October 5, 2020

Phạn ngữ Pàli - Bài 9 CÁI GỌI LÀ CHÚNG SANH - Thứ Hai, ngày 5 tháng 10, 2020

 Phạn ngữ Pàli – Lễ Phật - cách phát âm

 Giảng Sư: TT Tuệ Siêu

Ngày 5.10.2020

 Bài 9

Kinh văn: CÁI GỌI LÀ CHÚNG SANH

Học Phạn ngữ: Tiếp vĩ ngữ của danh từ 

Phật pháp dạy sự đau khồ phần lớn bắt nguồn từ sự chấp ngã đối với dòng sanh diệt của thân tâm hay năm uẩn. Người ta tin rằng chấp kiến là hạnh phúc, phần lớn các tôn giáo dạy về chân ngã. Quán sát “đây không phải là của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta “ là cách thắp sáng ý thức về thực tướng vô ngã đối với tất cả hiện tượng.

 


  CÁI TÔI LÀ GÌ? CHÚNG SANH LÀ GÌ?

 X. Vajirà

 1) Ở tại Sàvatthi.

 Tỷ-kheo-ni Vajirà vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Khất thực xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni Vajirà đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày, đi sâu vào rừng Andha và ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.

 2) Rồi Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Vajirà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến, nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Vajirà:

 3)

 Do ai, hữu tình này,

Ðược sanh, được tạo tác?

Người tạo hữu tình này,

Hiện nay ở tại đâu?

Từ đâu hữu tình sanh?

Ði đâu hữu tình diệt?

4) Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?"

 5) Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà lại suy nghĩ: "Chính là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ này".

 6) Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà biết được: "Ðây là Ác ma", liền trả lời Ác ma với bài kệ:

 

“kiṃ nu sattoti paccesi?
māra diṭṭhigataṃ nu te.

suddhasaṅkhārapuñjoyaṃ,
nayidha sattupalabbhati.

yathā hi aṅgasambhārā,
hoti saddo ratho iti.

evaṃ khandhesu santesu,
hoti sattoti sammuti

dukkhameva hi sambhoti, dukkhaṃ tiṭṭhati veti ca.

nāññatra dukkhā sambhoti, nāññaṃ dukkhā nirujjhatī”ti.

 

Sao người lại nói mãi

Ðến  chữ chúng hữu tình?

Hỡi này Ác ma kia

Người rơi vào kiến chấp

Ðây quy tụ các hành,

Chúng sanh được hình thành,

Như bộ phận kết hợp,

Tên xe được nói lên.

Cũng vậy, uẩn quy tụ.

Thường thức gọi chúng sanh.

Chỉ có khổ được sanh,

Khổ tồn tại, khổ diệt,

Ngoài khổ, không gì sanh,

Ngoài khổ không gì diệt.

 

 7) Rồi Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Vajirà đã biết ta", nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

  

 (Bản dịch của HT Thích Minh Châu)

  


kiṃ = cái gì? tại sao?

Nu = bây giờ, nay

Sattoti = satta + iti = chúng sanh, loài hữu tình

Paccesi = lập lại

Māra = ác ma, ma vương

diṭṭhigataṃ = kiến chp

nu

te= ngươi, ông (nhân xưng đại danh từ biến thể của tvaṃ)

suddhasaṅkhārapuñjoyaṃ = suddha+saṅkhāra+puñjoya = ở đây  chỉ là sự tập hợp của pháp hữu vi

nayidha sattupalabbhati = na+ idha + satta + upalabbhati = ở đấy không tìm thấy một thực thể chúng sanh (chân ngã)

yathā = giống như

hi = đối với

aṅgasambhārā = aṅga + sambhārā =sự kết hợp các cơ phận

hoti = là

saddo = âm thanh, tên gọi

ratho = chếc xe

iti

evaṃ = như vậy

khandhesu = uẩn, ấm

santesu = hiện hữu

hoti = là

sattoti = chúng sanh , loài hữu tình

sammuti = thi thiết, chế định, gọi theo thông tục, mặc định thường thức

dukkhameva = khổ

hi

sambhoti = sanh, tập khởi

dukkhaṃ = khổ

tiṭṭhati = tiếp diễn, tồn tại

veti = diệt, tan biến

ca = và

nāññatra = na+āññatra = không có cái khác,

dukkhā = đau khổ

sambhoti = sanh khởi

nāññaṃ

dukkhā

nirujjhatī”ti.+ đoạn diệt

Hai câu cuối: nāññatra dukkhā sambhoti, nāññaṃ dukkhā nirujjhatī”ti. Nên hiểu chung là “tất cả chỉ là hiện tượng sanh diệt của khổ chứ không có bản ngã hằng hữu (chỉ có đau khổ chứ không có người đau khổ)

 


 Chữ ma trong tiếng Việt có nguồn gốc từ chữ Māra trong tiếng Phạn được người Trung Hoa phiên âm. Người ta thường nghĩ là ma thấp hơn quỷ, thần. Đó là quan niệm thường thức. Chữ Māra trong kinh điển Phật giáo mang ý nghĩa rộng hơn là lối hiểu về “những linh hồn vất vưởng”. Trong bài kinh nầy dịch là Ác ma có thể là một vị thiên tà kiến quấy phá những bậc tu hành.

 


Trong một bài học trước đây có đề cập về sự phân loại danh từ trong Phạn ngữ Pàli theo ba giống là nam tánh (pulliṅga).

nữ tánh ( itthiliṅga) và trung tánh (napuṃsakaliṅga). Nhưng phân chia như vậy vẫn “chưa hết phiền phức” với người Việt Nam. Mỗi giống lại được biến thể tuỳ vào nguyên âm cuối cùng (tiếp vĩ ngữ) như a, i, u. Những danh từ Buddha (Phật), Dhamma (Pháp) and Saṅgha (Tăng) thuộc nam tánh có tiếp vĩ ngữ A. Một số danh từ sau đây cũng cùng giống và tiếp vĩ ngữ:

 

NGƯỜI

ĐỒ VẬT

SINH VẬT

NƠI CHỐN

purisa = đàn ông

putta = con trai

dāraka = bé trai

cora = kẻ trộm

vāṇija = thương gia

sāvaka = thinh văn đệ tử Phật

amacca = thượng thư

ācariya = giáo sư

sissa = học trò

mitta = bạn hữu

kassaka = nông dân

ratha= chiếc xe

Āhāra = thực phẩm

Odana = cơm

Hattha = tay

Pāda = chân

Rukkha = cây

tiṇa = cỏ

ovāda = huấn ngôn

pañha = câu hỏi

pāṭha = bài học

aja = dê

sīha = sư tử

sunakha = chó

assa = ngựa

gaja = voi

maccha = cá

mora = công

kāka = quạ

suka / suva = két

vana = rừng

magga = đường

pabbata= núi

nagara = thành phố

gāma = làng

ākāsa = sky

samudda = biển

vihāra = tịnh xá

geha = nhà

pāsāda = cung điện

sagga = thiên giới

niraya = địa ngục

 

Có rất nhiều từ phân theo giới tính nghe không hợp lý nhưng đừng hỏi tại sao (…). Cách chia danh từ tuỳ thuộc vào tiếp vĩ ngữ nên đây là điểm cần lưu ý.

 


Nguyên âm V trong tiếng Pàli đọc như W trong tiếng Anh hay QU trong tiếng Việt thí dụ chữ evaṃ. Không nên phát âm theo V trong tiếng Việt dù giọng Bắc hay giọng Nam. 



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành



Thảo luận 1. Thảo luận 1. Tại sao chấp ngã tạo nên đau khổ hơn là hạnh phúc? - ĐĐ Nguyên Thông

Thảo luận 2. Thảo luận 2. Tên gọi theo quy ước thì thât thế nào? giả thế nào? - TT Tuệ Quyền



 III Trắc Nghiệm

 

 


No comments:

Post a Comment