Saturday, October 3, 2020

Trung Bộ Kinh - 44 Tiểu Kinh Phương Quảng - Thứ Bảy, ngày 3 tháng 10, 2020

 Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya

Giảng Sư: TT Pháp Tân

GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH  HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY  3/10/2020 

44. Tiểu Kinh Phương Quảng

(Cūḷavedalla Sutta)

 

Cũng như bài kinh trước Phương Quảng (Vedalla) ở đây chỉ cho sự trình bày giáo nghĩa qua hình thức vấn đáp. Kinh nầy ngắn hơn bài kinh trước nên gọi là tiểu kinh.

         

Thuở ấy Đức Thế Tôn trú ở thành Rājagaha (Vương Xá). Nam cư sĩ Visākha đến vấn đạo Ni sư Dhammadinnā. Những câu vấn đáp khởi đầu tự nhận thức bản thân cho tới cứu cánh giải thoát. Những câu trả lời sau đó đã được xác chứng bởi Bậc Đạo Sư.

 

Ni sư  Dhammadinnā là một bậc thánh ni được Đức Thế Tôn tuyên bố là đệ nhất về thuyết pháp trong số các đại đệ tử bên Ni giới.

 

Nam cư sĩ Visākha là một phú thương có tiếng tại Vương Xá. Là chồng cũ của Ni sư Dhammadinnā khi chưa xuất gia. Vị nam cư sĩ nầy cũng là một bậc thánh a na hàm.

 

203. Nhận thức tự thân

 

Tự thân, hay sự hiện hữu của mỗi chúng sanh, là sự cấu thành của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Năm uẩn tập khởi từ ái (dục ái, hữu ái và phi hữu ái). Chấm dứt khát ái là tên gọi của Niết bàn. Bát thánh đạo là hành trình dẫn đến giải thoát:

 


N
hư vầy tôi nghe.

 

Một thời Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), tai Veluvana (Trúc Lâm), chỗ Kalandaka Nivapa. Rồi nam cư sĩ Visākha đến chỗ Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā ở, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Visākha thưa với Tỷ-kheo ni Dhammadinnā:

 

(Tự thân)

 

-- Thưa Ni sư, tự thân, tự thân, (Sakkaya), được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân là như thế nào?

 

-- Hiền giả Visākha, Thế Tôn gọi năm thủ uẩn là tự thân, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn. Hiền giả Visākha, năm thủ uẩn này, Thế Tôn gọi là tự thân.

 

-- Lành thay, thưa Ni sư.

 

Nam cư sĩ Visākha hoan hỷ, tín thọ lời Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā nói, rồi hỏi Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā thêm một câu hỏi nữa:

 

-- Tự thân tập khởi, tự thân tập khởi, thưa Ni sư, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân tập khởi (Sakkaya samudaya) là như thế nào?

 

-- Hiền giả Visākha, khát ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Hiền giả Visākha, khát ái này, Thế Tôn gọi là tự thân tập khởi.

 

-- Tự thân diệt, tự thân diệt, thưa Ni sư, được gọi là như vậy. Thế Tôn gọi tự thân diệt là như thế nào?

 

-- Hiền giả Visākha, sự đoạn diệt, không tham đắm, không có dư tàn của khát ái ấy, sự xả ly, sự vất bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp. Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt.

 

-- Thưa Ni sư, tự thân diệt đạo, tự thân diệt đạo, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân diệt đạo là như thế nào?

 

-- Hiền giả Visākha, Con đường Thánh tám ngành này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt đạo, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

 

-- Thưa Ni sư, thủ này tức là năm thủ uẩn kia hay thủ này khác với năm thủ uẩn?

-- Không phải, Hiền giả Visākha. Thủ này tức là năm thủ uẩn kia, thủ này không khác với năm thủ uẩn kia, Hiền giả Visākha, phàm có dục tham đối với năm thủ uẩn, tức là (chấp) thủ đối với chúng ở đây vậy.

 

204. Nhận thức sai lạc về tự thân, hay thân kiến

 

Thân kiến không đơn thuần là một quan niệm mang tánh lý luận suông mà đó là sự chấp thú sai lầm tạo nên bao hệ lụy. Đó là một kiết sử  sợi dây trói buộc. Ngay cả một người hiểu được Phật Pháp nhưng chưa chứng thánh quả vẫn chấp thủ thân kiến. Đó là một kiếp chấp vốn sâu đậm trong tâm khảm của mỗi chúng sanh:

 


 
(Thân kiến)

 

-- Thưa Ni sư, thế nào là thân kiến?

 

-- Ở đây, Hiền giả Visākha, kẻ vô văn phàm phu không đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, xem sắc là tự ngã hay xem tự ngã là có sắc, hay xem sắc là trong tự ngã hay xem tự ngã là trong sắc; xem thọ là tự ngã, hay xem tự ngã là có thọ, hay xem thọ là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thọ; xem tưởng là tự ngã, hay xem tự ngã là có tưởng, hay xem tưởng là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong tưởng; xem hành là tự ngã, xem tự ngã là có hành, hay xem hành là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong hành; xem thức là tự ngã, hay xem tự ngã là có thức, hay xem thức là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thức. Như vậy, Hiền giả Visākha, là thân kiến.

 

-- Thưa Ni sư, thế nào là không phải thân kiến?

 

-- Ở đây, Hiền giả Visākha, vị Ða văn Thánh đệ tử đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, không xem sắc là tự ngã, không xem tự ngã là có sắc, không xem sắc là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong sắc; không xem thọ là tự ngã, không xem tự ngã là có thọ, không xem thọ là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thọ; không xem tưởng là tự ngã, không xem tự ngã là có tưởng, không xem tưởng là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong tưởng; không xem các hành là tự ngã, không xem tự ngã là có các hành, không xem các hành là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong các hành; không xem thức là tự ngã, không xem tự ngã là có thức, không xem thức là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thức. Như vậy, Hiền giả Visākha, là không có thân kiến.

 




 
Sớ giải chú thích về  4 thân kiến đối với 5 uẩn bằng thí dụ:

 

1.  Chấp thủ các uẩn là bản ngã như nói ánh sáng chính là ngọn đèn;

 

2.  Chấp thủ bản ngã chính là các uẩn như thấy cái cây chính là bóng cây;

 

3.  Chấp thủ  các uẩn trong bản ngã như chấp mùi hương là hoa;

 

4.  Chấp có bản ngã trong các uẩn như là viên ngọc trong hộp đựng châu báu.

 

Bài học thứ ba ngày 06/10/2020

 

205. Bát chánh đạo hay đạo đế

 

Bát chánh đạo hay con đường giải thoát có tám chi phần là làm được tác thành do duyên (hữu vi) nhưng dẫn đến niết bàn (vô vi):

 



 (Bát chánh đạo)

 

-- Thưa Ni sư, thế nào là Thánh đạo Tám ngành?

 

-- Hiền giả Visākha, đây là Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

 

-- Thưa Ni sư, Thánh đạo Tám ngành này là hữu vi hay vô vi?

 

-- Hiền giả Visākha, Thánh đạo Tám ngành này là hữu vi.

 

-- Thưa Ni sư, ba uẩn được Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp hay Thánh đạo Tám ngành được ba uẩn thâu nhiếp?

 

-- Hiền giả Visākha, ba uẩn không bị Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp; Hiền giả Visākha, Thánh đạo Tám ngành bị ba uẩn thâu nhiếp. Hiền giả Visākha, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, những pháp này được thâu nhiếp trong giới uẩn. Chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, những pháp này được thâu nhiếp trong định uẩn. Chánh tri kiến và chánh tư duy, những pháp này được thâu nhiếp trong tuệ uẩn

 

206. Tương quan giữa chánh niệm, chánh tinh tấn và chánh định

 

Đây là một vấn đề tương đối chuyên biệt về pháp hành. Định là hiểu là nhất tâm hay tập chú vào một điểm (bền bĩ với đề mục tu tập). Bốn niệm xứ là định tướng hay cơ sở của định. Theo sớ giải thì chữ samādhinimitta có nghĩa là nền tãng của định chứ không phải là biểu hiện (tướng) của định. Chánh tinh tấn là tư cụ của định vì chính pháp nầy phân biệt và sàng lọc thiện, bất thiện. Riêng sự lập đi lập lại gọi là tu tập định giải thích tại sao trong quán có chỉ (chánh niệm là quán, lập đi lập lại tạo thành lực của chỉ):

 


 
(Ðịnh)

 

-- Thưa Ni sư thế nào là định, thế nào là định tướng, thế nào là định tư cụ, thế nào là định tu tập?

 

-- Hiền giả Visākha, nhất tâm là định, Bốn Niệm Xứ là định tướng, Bốn Tinh cần là định tư cụ, sự luyện tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở đây vậy.

 

207. Sự hiện hữu của thân tâm trong cái nhìn của thiền giả

 

Sự hiện hữu hay sự sống được “bắt mạch” qua ba hành: thân hành, khẩu hành, ý hành. Ba hành nầy được nhận diện ở mức độ tế nhị của đời sống qua cái nhìn của thiền giả: hơi thở là thân hành; tầm và tứ (hướng tâm và gắn kết) thuộc khẩu hành; thọ và tưởng (cảm giác và nhận thức) là ý hành.

 


 
(Hành)

 

-- Thưa Ni sư, có bao nhiêu hành?

 

-- Hiền giả, có ba loại hành này: thân hành, khẩu hành, và tâm hành.

 

-- Thưa Ni sư, thế nào là thân hành, thế nào là khẩu hành, thế nào là tâm hành?

 

-- Thở vô, thở ra, Hiền giả Visākha, là thân hành, tầm tứ là khẩu hành, tưởng và thọ là tâm hành.

 

-- Thưa Ni sư, vì sao thở vô thở ra là thân hành, vì sao tầm tứ là khẩu hành, vì sao tưởng và thọ là tâm hành?

 

-- Thở vô, thở ra, Hiền giả Visākha, thuộc về thân, những pháp này lệ thuộc với thân, nên thở vô thở ra thuộc về thân hành. Hiền giả Visakha, trước phải tầm và tứ rồi sau mới phát lời nói, nên tầm tứ thuộc về khẩu hành. Tưởng và thọ và tâm sở, các pháp này lệ thuộc với tâm, nên tưởng và thọ thuộc về tâm hành.

 

Bài học thứ tư ngày 07/10/2020

 

208. Diệt thọ tưởng định

 

Những vấn đáp sau đây tương đối là một mô tả khúc chiết về diệt thọ tưởng định:

 


 
(Diệt định)

 

-- Thưa Ni sư, như thế nào là chứng nhập Diệt thọ tưởng định?

-- Hiền giả Visākha, Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ tưởng định, vị ấy không nghĩ rằng: "Tôi sẽ chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đang chứng nhập Diệt thọ tưởng định" hay "Tôi đã chứng nhập Diệt thọ tưởng định". Vì rằng, tâm của vị này trước đã được tu tập như vậy nên đưa đến trạng thái như vậy.

 

-- Thưa Ni sư, Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ tưởng định, những pháp gì diệt trước, thân hành, hay khẩu hành, hay tâm hành?

 

-- Hiền giả Visākha, vị Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ tưởng định, khẩu hành diệt trước, rồi đến thân hành, rồi đến tâm hành.

 

-- Thưa Ni sư, làm thế nào xuất khởi Diệt thọ tưởng định?

 

-- Hiền giả Visākha, vị Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, không có nghĩ rằng: "Tôi sẽ xuất khởi Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đang xuất khởi Diệt thọ tưởng định", hay: "Tôi đã xuất khởi Diệt thọ tưởng định". Vì rằng tâm của vị này trước đã tu tập như vậy nên đưa đến trạng thái như vậy.

 

-- Thưa Ni sư, Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, những pháp nào khởi lên trước, thân hành, hay khẩu hành hay tâm hành?

 

-- Hiền giả Visākha, Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, tâm hành khởi lên trước nhất, rồi đến thân hành, rồi đến khẩu hành.

 

-- Thưa Ni sư, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, vị ấy cảm giác những xúc nào?

-- Hiền giả Visākha, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, vị ấy cảm giác ba loại xúc: không xúc, vô tướng xúc, vô nguyện xúc.

 

-- Thưa Ni sư, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, tâm của vị ấy thiên về gì, hướng về gì, khuynh hướng về gì?

 

-- Hiền giả Visākha, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, tâm của vị ấy thiên về độc cư, hướng về độc cư, khuynh hướng về độc cư.


Theo A Tỳ Đàm và Sớ giải thì diệt thọ tưởng định là trình độ thiền cao nhất chỉ có thể nhập được bởi vị thánh tam quả (A na hàm) hay tứ quả (A la hán) với sự thuần thục cả tám tầng thiền sắc giới và vô sắc giới. Sau khi nhập xuất mỗi tầng thiền vị ấy chú tâm vào không tánh bằng sự quán chiếu về chân tướng vô thường, trống rỗng, vô ngã. Ngay sau đó vị ấy tác ý không khởi sanh tâm trong một thời gian nhất định rồi nhập vào thiền phi tưởng phi phi tưởng trong khoảnh khắc ngắn sau đó toàn bộ bốn danh uẩn ngưng sanh diệt. Chính do sanh khởi theo trình tự mà không có ý tưởng về một chủ thể (chỉ có thể nhập chứ không có người thể nhập) nên ni sư Dhammadinnā mô tả là: , vị ấy không nghĩ rằng: "Tôi sẽ chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đang chứng nhập Diệt thọ tưởng định" hay "Tôi đã chứng nhập Diệt thọ tưởng định". Vì rằng, tâm của vị này trước đã được tu tập như vậy nên đưa đến trạng thái như vậy. Như trường hợp một nghệ nhân làm nên một tuyệt tác trong lúc ấy chỉ nghĩ đến nghệ thuật mà không bận tâm sự khen chê, thành bại…

 

Khẩu hành (tầm, tứ) diệt ở nhị thiền (hay tam thiền theo A Tỳ Đàm); thân hành (hơi thở) không còn ở trạng thái tứ thiền (hay ngũ thiền theo A Tỳ Đàm); tâm hành (tho, tưởng) ngưng ở diệt thọ tưởng định.

 

209. Cảm thọ qua cái nhìn của thiển giả

 

Câu hỏi của thiện nam Visàkha mới nghe như “lạ tai”: đối với lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ? Ðối với khổ thọ, cái gì khổ, cái gì lạc? Ðối với bất khổ bất lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ? Nhưng kỳ thật là một câu hỏi đào sâu về cảm thọ: Dù khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ đều có mặt tích cực, mặt tiêu cực; có cái được cái không được. Như một người lớn lên trong gia đình nghèo khó có cái khổ là thiếu thốn nhưng cũng có cái hay là chịu khó phấn đấu. Chính cái nhìn nầy tạo nên sự khác biệt giữa người có tu và không tu đối với các cảm thọ.

 


 
(Thọ)

 

-- Thưa Ni sư, có bao nhiêu thọ?

-- Hiền giả Visākha, có ba thọ này, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ.

-- Thưa Ni sư, thế nào là lạc thọ, thế nào là khổ thọ, thế nào là bất khổ bất lạc thọ?

 

-- Hiền giả Visākha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm, một cách khoái lạc, khoái cảm, như vậy là lạc thọ. Hiền giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm, một cách đau khổ, không khoái cảm, như vậy là khổ thọ. Hiền giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm không khoái cảm, không khoái cảm như vậy là bất khổ bất lạc thọ.

 

-- Thưa Ni sư, đối với lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ? Ðối với khổ thọ, cái gì khổ, cái gì lạc? Ðối với bất khổ bất lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ?

 

-- Hiền giả Visākha, đối với lạc thọ, cái gì trú là lạc, cái gì biến hoại là khổ. Ðối với khổ thọ, cái gì trú là khổ, cái gì biến hoại là lạc. Ðối với bất khổ bất lạc thọ, có trí là lạc, vô trí là khổ.

 

210. Cảm thọ  và sự liên hệ với phiền não

 

Chữ tùy miên ở đây có nghĩa là khả năng khiến sanh khởi. Đối với hành giả tu tập thì lạc thọ có thể tạo nên tham tuỳ miên, khổ thọ có thể tạo nên sân tùy miên, bất khổ bất lạc thọ có thể tạo nên vô minh tuỳ miên. Gọi là có thể có nghĩa là không nhất thiết luôn là vậy.

 


 
(Tùy miên)

 

-- Thưa Ni sư, trong lạc thọ, có tùy miên gì tồn tại; trong khổ thọ, có tùy miên gì tồn tại; trong bất khổ bất lạc thọ, có tùy miên gì tồn tại?

 

-- Hiền giả Visākha, trong lạc thọ, tham tùy miên tồn tại; trong khổ thọ, sân tùy miên tồn tại; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại?

 

-- Thưa Ni sư, có phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên tồn tại; trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên tồn tại; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại?

 

-- Hiền giả Visākha, không phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên tồn tại; không phải trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên tồn tại; không phải trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại.

 

-- Thưa Ni sư, trong lạc thọ, cái gì phải từ bỏ. Trong khổ thọ, cái gì phải từ bỏ. Trong bất khổ bất lạc thọ, cái gì phải từ bỏ?

 

-- Hiền giả Visākha, trong lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ. Trong khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ. Trong bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ.

 

-- Thưa Ni sư, có phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ. Trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ. Trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ?

 

-- Hiền giả Visākha, không phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ; trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ. Ở đây, Hiền giả Visākha, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm và tứ. Do vậy tham đã được từ bỏ, không còn tham tùy miên tồn tại ở đây.

 

Ở đây, Hiền giả Visākha, vị Tỷ-kheo suy tư như sau: "Chắc chắn ta sẽ chứng và an trú trong trú xứ mà nay các vị Thánh đang an trú". Vì muốn phát nguyện hướng đến các cảnh giải thoát vô thượng, do ước nguyện ấy, khởi lên ưu tư. Do vậy, sân được từ bỏ, không còn sân tùy miên tồn tại ở đây.

 

Ở đây, Hiền giả Visākha, vị Tỷ-kheo xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Do vậy vô minh đã được từ bỏ, không còn vô minh tùy miên tồn tại ở đây.

 


Tham, sân và si đối với các cảm thọ được trừ diệt bởi hành giả tu thiền ở đây được mô tả khác với cách nói thông thường vì y cứ trên pháp hành chỉ, quán.  Tham được diệt bởi sự chứng đạt sơ thiền một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh. Sân được trừ diệt bởi hướng tâm đến sự giải thoát hoàn toàn giống như một người làm công bị la rầy nặng nề nhưng giữ được sự điềm đạm thanh thản với ý nghĩ chỉ cần kiên nhẫn khi có đủ tiền sẽ không còn bị cảnh nầy nữa. (chữ tadāyatana - xứ ấy- theo sớ giải chỉ cho quả vị viên giác A la hán). Vô minh được đoạn ở tứ thiền với “xả niệm thanh tịnh” không còn lạc thọ. Sớ giải cũng nói thêm là trạng thái xã niệm thanh tịnh được dùng làm đối tượng quán chiếu để ly tham, xả ly, giải thoát để thành tựu quả vị A la hán (chứ không có nghĩa là chỉ có chứng đạt tứ thiền là đoạn tận vô minh).

 

211. Đối đãi và bất nhị

 

Tất cả nhận thức các pháp hữu vi đều mang tánh đối đãi (paṭibhāga) thí dụ hiểu được vui là do thấy được khổ, thấy bất thiện nên hiểu cái thiện. Niết bàn vượt ngoài đối đãi nên được gọi là bất nhị nên không thể hiểu bằng cách dựa trên tương phản.  Đây là điểm rất tế nhị trong Phật pháp khi nói về Niết Bàn.

 


 
(Ðối đãi)

 

-- Thưa Ni sư, lạc thọ lấy gì làm tương đương?

 

-- Hiền giả Visākha, lạc thọ lấy khổ thọ làm tương đương.

 

-- Thưa Ni sư, khổ thọ lấy gì làm tương đương?

 

-- Hiền giả Visākha, khổ thọ lấy lạc thọ làm tương đương.

 

-- Thưa Ni sư, bất khổ bất lạc thọ lấy gì làm tương đương?

 

-- Hiền giả Visākha, bất khổ bất lạc thọ lấy vô minh làm tương đương.

 

-- Thưa Ni sư, vô minh lấy gì làm tương đương?

 

-- Hiền giả Visākha, vô minh lấy minh làm tương đương.

 

-- Thưa Ni sư, minh lấy gì làm tương đương?

 

-- Hiền giả Visākha, minh lấy giải thoát làm tương đương.

 

-- Thưa Ni sư, giải thoát lấy gì làm tương đương?

-- Hiền giả Visākha, giải thoát lấy Niết-bàn làm tương đương?

 

-- Thưa Ni sư, Niết-bàn lấy gì làm tương đương?

 

-- Hiền giả Visākha, câu hỏi đi quá xa, vượt ra ngoài giới hạn câu trả lời. Hiền giả Visākha, phạm hạnh là để thể nhập vào Niết-bàn, để vượt qua đến Niết-bàn, để đạt cứu cánh Niết-bàn. Hiền giả Visākha, nếu Hiền giả muốn, hãy đến chỗ Thế Tôn ở, và hỏi ý nghĩa này. Và Thế Tôn trả lời cho Hiền giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì.

 

212. Đức Phật nói gì về những câu trả lời của thánh ni

 

Đức Phật xác nhận hai điểm: Thánh ni Dhammadinnā là bậc đại tuệ và những gì đã trả lời hoàn toàn chính xác, nếu hỏi Đức Phật thì Ngài cũng trả lời không khác. Đây là lời khen cao nhất của Bậc Đại Giác đối với một thanh văn thánh đệ tử.

 


 
(Kết luận)

 

Rồi nam cư sĩ Visākha hoan hỷ, tín thọ lời Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tỷ-kheo ni Dhammadinnā, thân bên phải hướng về phía Tỷ-kheo-ni rồi từ biệt, đi đến chỗ Thế Tôn ở. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, nam cư sĩ Visākha thuật lại cho Thế Tôn tất cả câu chuyện đàm đạo với Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā. Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với nam cư sĩ Visakhā:

 

-- Này Visākha, Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā là bậc Hiền trí! Này Visākha, Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā là bậc Ðại tuệ. Này Visakha, nếu Ông hỏi Ta ý nghĩa ấy, Ta cũng trả lời như Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā đã trả lời. Ông đối với nghĩa này, hãy như vậy thọ trì.

 

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nam cư sĩ Visākha hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu

Phân đoạn & chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

 

Kinh số 44 [tóm tắt]

Tiểu Kinh Phương Quảng

(Cūḷavedalla Sutta)

(M.i, 299)

Nam cư sĩ Visākha đến Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā để hỏi về Phật pháp. Tất cả bảy câu của Visākha được Tỷ- kheo-ni Dhammadinnā trả lời và giải thích.

Bảy câu hỏi như sau:

 

1/ Thế nào là có thân (sakkāya)? Tập khởi của thân; đoạn diệt của thân, con đường đưa đến đoạn diệt của thân? Thủ tức là năm uẩn hay khác với năm uẩn?

 

2/ Thế nào là thân kiến? Thế nào là không phải thân kiến?

 

3/ Thế nào là Thánh đạo tám ngành? Thánh đạo tám ngành là hữu vi hay vô vi? Ba uẩn được Thánh đạo tám ngành thâu nhiếp hay Thánh đạo tám ngành thâu nhiếp ba uẩn? Thế nào là định? Thế nào là định tướng? Thế nào là định tư cụ? Thế nào là định tu tập?

 

4/ Có bao nhiêu hành? Thế nào là thân hành, khẩu hành, tâm hành?

 

5/ Thế nào là chứng nhập diệt thọ tưởng định? Tỷ-kheo nhập diệt thọ tưởng định, thân hành, khẩu hành, tâm hành, pháp nào diệt trước? Làm thế nào xuất khởi diệt thọ tưởng định? Khi xuất khởi diệt thọ tưởng định, pháp nào khởi trước? Khi vị Tỷ-kheo xuất khởi diệt thọ tưởng định, vị ấy cảm giác những xúc nào? Vị Tỷ-kheo xuất khởi diệt thọ tưởng định, tâm vị ấy thiên về gì?

 

6/ Có bao nhiêu thọ? Thế nào là lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ? Đối với lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ? Đối với khổ thọ, cái gì lạc, cái gì khổ? Đối với bất khổ bất lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ? Trong ba thọ, có tùy miên gì tồn tại? Trong ba thọ, cái gì phải từ bỏ?

 

7/ Ba thọ lấy gì làm tương đương? Vô minh lấy gì làm tương đương? Minh lấy gì làm tương đương được? Giải thoát lấy gì làm tương đương? Niết-bàn lấy gì làm tương đương?

 

Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu

-ooOoo-

 

 

 

 

 

 

 

Kinh số 44 [dàn ý]

Tiểu Kinh Phương Quảng

(Cūḷavedalla Sutta)

(M.i, 299)

 

A. Duyên khởi:

 

Nam cư sĩ Visākha đến hỏi Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā một số vấn đề về chánh pháp. Tỷ-kheo-ni trả lời với bài kinh này.

 

B. Chánh kinh:

 

Cuộc đàm luận giữa Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā với nam cư sĩ Visākha.

 

I. Thân 5 uẩn, định nghĩa, tập khởi, đoạn diệt, con đường đưa đến thân 5 uẩn đoạn diệt, thủ và 5 uẩn.

 

II. Thân kiến và không thân kiến.

 

III. Thánh đạo 8 ngành, hữu vi pháp, phân tích theo giới, định, tuệ.

 

IV. Có bao nhiêu hành, sự liên hệ giữa các hành với hơi thở vô, hơi thở ra. Tầm tứ, tưởng và thọ.

 

V. Thế nào là diệt thọ tưởng định. Pháp nào diệt trước, pháp nào diệt sau, cảm giác những cảm xúc nào, và có khuynh hướng gì.

 

VI. Các cảm thọ và các tuỳ miên.

VII. Các cảm thọ và các pháp tương đương.

 

VIII. Cư sĩ Visakha đi đến Thế Tôn và thuật lại các câu trả lời của Tỷ-kheo-ni Dhammadinnā, và Thế Tôn tán thán Tỷ-kheo-ni là bậc hiền trí.

 

C. Kết luận:

 

Nam cư sĩ Visākha tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu

-ooOoo-

 

Kinh số 44 [toát yếu]

Tiểu Kinh Phương Quảng

(Cūḷavedalla Sutta)

(M.i, 299)

 

I. TOÁT YẾU

 

Cūlavedalla Sutta - The shorter series of questions and answers.

Tập hợp ngắn các vấn đáp. (Xem kinh 43.)

 

II. TÓM TẮT

 

Ni sư Dhammadinnā giảng cho nam cư sĩ Visākha về những điểm:

 

1. Tự thân: năm thủ uẩn là tự thân. Tập khởi của tự thân là khát ái câu hữu hỉ, tham, tìm cầu hỉ lạc chỗ này chỗ khác. Tự thân diệt là đoạn diệt khát ái. Con đường đoạn diệt là thánh đạo tám ngành.

 

2. Thủ và uẩn: có dục tham đối với năm uẩn thì gọi là thủ uẩn.

 

3.Thân kiếnlà sự chấp trước của phàm phu, xem 5 uẩn là tự ngã, hay xem tự ngã có năm uẩn, hay xem 5 uẩn ở trong tự ngã, hay xem tự ngã ở trong 5 uẩn. Phi thân kiến là không có những quan điểm như vậy.

 

4. Tám thánh đạo và ba uẩn. Thánh đạo là hữu vi, không phải vô vi; Ba uẩn thâu nhiếp tám thánh đạo: Giới uẩn là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng; Ðịnh uẩn là chính tinh tấn, chánh niệm, chánh định; Tuệ uẩn là chánh kiến, và chánh tư duy.

 

5. Ðịnh, định tướng, định cư tụ, và định tu tập: Nhất tâm là định; 4 niệm xứ là tướng của định, bốn chính cần là tư cụ của định, tu tập các pháp ấy gọi là tu tập định.

 

6. Ba hành là thân, khẩu, ý. Thở vô thở ra là thân hành vì lệ thuộc thân; tầm tứ là khẩu hành vì do suy tư mà có lời nói; tưởng, thọ là ý hành vì hai pháp này tùy thuộc về tâm.

 

7. Nhập và xuất Diệt thọ tướng định: Một người nhập định này không khởi lên ý nghĩ tôi sẽ nhập, đang nhập hay đã nhập, chỉ do tu tập nên đưa đến trạng thái ấy. Khi nhập định này, thứ tự diệt ba hành là khẩu, thân, ý. Khi xuất, thứ tự sinh khởi trở lại ba hành là ý, thân, khẩu. Khi xuất Diệt định, vị ấy cảm thọ ba loại xúc là không, vô tướng, vô nguyện. Tâm vị ấy hướng về độc cư.

 

8. Ba thọ: đối với lạc thọ, thì trú là lạc, biến hoại là khổ. Ðối với khổ thọ, thì trú là khổ, biến hoại là lạc. Ðối với bất khổ bất lạc, thì có trí là lạc, vô trí là khổ. Trong lạc thọ, có tham tùy miên; trong khổ thọ có sân tùy miên; trong bất khổ bất lạc có si tùy miên. Tuy nhiên, ba thọ này ở trong thiền định thì không có tùy miên tham, sân, si. Ví dụ lạc thọ ở sơ thiền không có tham tùy miên; ưu tư muốn đạt các cảnh giới cao thượng là một loại khổ thọ nhưng không có sân tùy miên; và xả niệm thanh tịnh ở tứ thiền là bất khổ bất lạc thọ nhưng không có vô minh tùy miên.

 

9. Minh và vô minh;

10. Giải thoát và Niết-bàn.

 

III. CHÚ GIẢI

 

Visākha là một thương gia giàu có ở thành Vương xá. Dhammadinnā khi còn tại gia, là vợ ông ta. Sau khi xuất gia làm tỳ kheo ni, bà đắc quả A-la-hán, được Phật công bố là đệ tử ni xuất sắc nhất về giảng Pháp.

 

Năm thủ uẩn là toàn bộ chân lý về Khổ, nên bốn câu hỏi đặt ra đầu tiên về Bốn chân lý liên hệ đến bản ngã hay Khổ.

 

Thủ ở đây chỉ tham ái, là một phần của hành uẩn, nên nó không phải năm uẩn; nhưng vì nó không tách rời 5 uẩn, nên cũng không có thủ ở ngoài năm uẩn.

 

Kiến chấp bản ngã có 20 kiểu. Luận dẫn 4 hình thức chấp ngã liên hệ đến sắc uẩn như sau. Hoặc chấp hình chất là ngã, như ngọn lửa là một với màu sắc ngọn lửa. Hoặc chấp ngã có một hình chất như cây có cái bóng cây. Hoặc chấp hình chất ở trong ngã, như mùi hương ở trong hoa. Hoặc chấp ngã ở trong hình chất, như viên ngọc nằm trong cái hộp.

 

Thứ tự diệt và tái sinh khởi ba hành trong thiền định: tầm tứ hay khẩu hành diệt trước, trong nhị thiền; kế đến là hơi thở hay thân hành diệt ở tứ thiền; và cuối cùng thọ và tưởng hay ý hành diệt khi chứng nhập Diệt định. Khi xuất diệt định, trước hết là tâm hành, tức ý thức về sự đắc quả khởi lên, cùng với nó là thọ và tưởng tương ứng; kế tiếp là khi hữu phần tâm khởi lên, thì hơi thở hay thân hành bắt đầu trở lại. Cuối cùng, khi thiền giả trở về với sinh hoạt bình thường, thì khẩu hành khởi lên.

 

Tương đương, patibhāga, chỉ sự tương quan giữa hai pháp vừa đối nghịch vừa phụ thuộc vào nhau, như sáng với tối.

 

Vô minh là tương đương với bất khổ bất lạc, vì cảm thọ này rất vi tế khó nhận diện.

 

Niết-bàn cũng có cái đối nghịch là các pháp hữu vi, nhưng theo nghĩa tuyệt đối, nó không có pháp phụ thuộc vì làm sao có cái gì phụ thuộc vào Niết-bàn là pháp vô vi, vô điều kiện?

 

IV. PHÁP SỐ

Ba hành, ba thọ, ba tùy miên, ba uẩn [giới định tuệ], bốn chân lý, năm triền cái, năm thiền chỉ, năm uẩn, tám thánh đạo.

 

V. KỆ TỤNG

 

1. Cư sĩ Vi-sa-kha Hỏi Dhammadinna

Về tập khởi của thân

Và đoạn diệt của nó.

Năm uẩn là tự thân

Có ra vì khát ái

Câu hữu với hỉ, tham

Tìm hỉ lạc khắp chỗ.

Sự chấm dứt tự thân

Là xả ly ái, thủ

Con đường dứt ái thủ

Là thánh đạo tám ngành.

 

2. Thủ khác với năm uẩn

 Hay thủ, uẩn là một?

Thủ không khác năm uẩn

Vì ở trong năm uẩn

Thủ thuộc về hành uẩn.

Nhưng khi có dục tham

Ðối với thân năm uẩn

Mới gọi là thủ uẩn.

 

3. Thân kiến nghĩa là gì

Kẻ phàm phu chấp trước

Xem sắc tự ngã,

Hoặc tự ngã sắc,

Hoặc sắc ở trong ngã,

Hoặc ngã ở trong sắc

Với thọ, tưởng, hành, thức

Thành hai mươi thân kiến.

 

4. Tám thánh đạo, ba uẩn.

Thánh đạo là hữu vi

Bao gồm trong ba uẩn

Giới uẩn là chánh ngữ,

Chánh nghiệp và chánh mạng;

Ðịnh uẩn chính tinh tấn,

Chánh niệm cùng chánh định;

Tuệ uẩn là chánh kiến

Cùng với chánh tư duy.

 

5. Gì là Ðịnh, định tướng,

Tư cụ và tu tập?

Nhất tâm gọi là định;

Tướng định: 4 niệm xứ;

 Tư cụ: bốn chính cần;

Tu tập các pháp ấy

Gọi là tu tập định.

 

6. Ba hành nghĩa là gì?

Thân, khẩu, và ý hành.

Thân hành là hơi thở

Vì do thân sinh ra;

Khẩu hành là tầm tứ

Vì nghĩ trước, nói sau.

Ý hành là tưởng, thọ

Vì do tâm mà có.

 

7. Trạng thái nhập Diệt định

Xảy ra do tu tập

Không do móng khởi tâm

"Ta sẽ nhập, trú, xuất"

Tỳ kheo nhập định này

Ngữ hành tầm tứ diệt

Rồi thân hành, ý hành.

Khi xuất Diệt tận định

Ý khởi, đến thân, khẩu.

Cảm thọ ba loại xúc:

Vô tướng, vô nguyện, không.

 

8. Ðối với cảm thọ lạc,

Trú lạc, biến hoại khổ.

Ðối với cảm thọ khổ,

Trú khổ, biến hoại lạc.

Với bất khổ bất lạc,

Trí lạc, vô trí khổ.

Trong lạc, tham tùy miên,

Trong khổ, sân tùy miên,

Trong xả, si tùy miên.

Tuy vậy trong các thiền

Có thọ, không tùy miên:

Hỉ lạc ở sơ thiền

Không có tham tùy miên;

Ưu tư muốn đắc thiền

Là khổ thọ không sân

Xả niệm ở tứ thiền

Không vô minh tiềm ẩn.

Lạc lấy khổ làm đối

Khổ lấy lạc đắp đổi

Bất khổ bất lạc thọ

Là vô minh gần kề.

 

9. Vô minh lấy gì đối?

- đối xứng và đối nghịch –

Lấy "Minh" làm tương đương

Minh lấy gì để đối?

Giải thoát làtương đương.

Giải thoát lấy gì đối?

Giải thoát đối Niết-bàn

Ðến đây là hết đối.

 

1. Cư sĩ Vi-sa-kha Hỏi Dhammadinnā

Về tập khởi của thân

Và đoạn diệt của nó.

Năm uẩn là tự thân

Có ra vì khát ái

Câu hữu với hỉ, tham

Tìm hỉ lạc khắp chỗ.

Sự chấm dứt tự thân

Là xả ly ái, thủ

Con đường dứt ái thủ

Là thánh đạo tám ngành.

 

2. Thủ khác với năm uẩn

Hay thủ, uẩn là một?

Thủ không khác năm uẩn

Vì ở trong năm uẩn

Thủ thuộc về hành uẩn.

Nhưng khi có dục tham

Ðối với thân năm uẩn

Mới gọi là thủ uẩn.

 

3. Thân kiến nghĩa là gì

Kẻ phàm phu chấp trước

Xem sắc tự ngã,

Hoặc tự ngã sắc,

Hoặc sắc ở trong ngã,

Hoặc ngã ở trong sắc

Với thọ, tưởng, hành, thức

Thành hai mươi thân kiến.

 

4. Tám thánh đạo, ba uẩn.

Thánh đạo là hữu vi

Bao gồm trong ba uẩn

Giới uẩn là chánh ngữ,

Chánh nghiệp và chánh mạng;

Ðịnh uẩn chính tinh tấn,

Chánh niệm cùng chánh định;

Tuệ uẩn là chánh kiến

Cùng với chánh tư duy.

 

5. Gì là Ðịnh, định tướng,

Tư cụ và tu tập?

Nhất tâm gọi là định;

Tướng định: 4 niệm xứ;

Tư cụ: bốn chính cần;

Tu tập các pháp ấy

Gọi là tu tập định.


6. Ba hành nghĩa là gì?

Thân, khẩu, và ý hành.

Thân hành là hơi thở

Vì do thân sinh ra;

Khẩu hành là tầm tứ

Vì nghĩ trước, nói sau.
Ý hành là tưởng, thọ

Vì do tâm mà có.

 

7. Trạng thái nhập Diệt định

Xảy ra do tu tập

Không do móng khởi tâm

"Ta sẽ nhập, trú, xuất"

Tỳ kheo nhập định này

Ngữ hành tầm tứ diệt

Rồi thân hành, ý hành.

Khi xuất Diệt tận định

Ý khởi, đến thân, khẩu.

Cảm thọ ba loại xúc:

Vô tướng, vô nguyện, không.

 

8. Ðối với cảm thọ lạc,

Trú lạc, biến hoại khổ.

Ðối với cảm thọ khổ,

Trú khổ, biến hoại lạc.

Với bất khổ bất lạc,

Trí lạc, vô trí khổ.

Trong lạc, tham tùy miên,

Trong khổ, sân tùy miên,

Trong xả, si tùy miên.

Tuy vậy trong các thiền

Có thọ, không tùy miên:

Hỉ lạc ở sơ thiền

Không có tham tùy miên;

Ưu tư muốn đắc thiền

Là khổ thọ không sân

Xả niệm ở tứ thiền

Không vô minh tiềm ẩn.

Lạc lấy khổ làm đối

Khổ lấy lạc đắp đổi

Bất khổ bất lạc thọ

Là vô minh gần kề.

 

9. Vô minh lấy gì đối?

- đối xứng và đối nghịch –

Lấy "Minh" làm tương đương

Minh lấy gì để đối?Giải thoát là

tương đương. Giải thoát lấy gì đối?

Giải thoát đối Niết-bàn

Ðến đây là hết đối.

 

Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu

Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải

-ooOoo-

 

44. Cūḷavedallasuttaṃ [Mūla]

 

460. Evaṃ    me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Atha kho visākho upāsako yena dhammadinnā bhikkhunī tenupasaṅkami upasaṅkamitvā dhammadinnaṃ bhikkhuniṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho visākho upāsako dhammadinnaṃ bhikkhuniṃ etadavoca : '''sakkāyo sakkāyoti, ayye, vuccati. Katamo nu kho, ayye, sakkāyo vutto bhagavatāti? ''pañca kho ime, āvuso visākha, upādānakkhandhā sakkāyo vutto bhagavatā, seyyathidaṃ : rūpupādānakkhandho, vedanupādānakkhandho, saññupādānakkhandho, saṅkhārupādānakkhandho, viññāṇupādānakkhandho. Ime kho, āvuso visākha, pañcupādānakkhandhā sakkāyo vutto bhagavatāti. ''Sādhayyeti kho visākho upāsako dhammadinnāya bhikkhuniyā bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā dhammadinnaṃ bhikkhuniṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi : '''sakkāyasamudayo sakkāyasamudayoti, ayye, vuccati. Katamo nu kho, ayye, sakkāyasamudayo vutto bhagavatāti? ''yāyaṃ, āvuso visākha, taṇhā ponobbhavikā nandīrāgasahagatā tatratatrābhinandinī, seyyathidaṃ : kāmataṇhā bhavataṇhā vibhavataṇhā ayaṃ kho, āvuso visākha, sakkāyasamudayo vutto bhagavatāti. '''Sakkāyanirodho  sakkāyanirodhoti, ayye, vuccati. Katamo nu kho, ayye, sakkāyanirodho vutto bhagavatāti? ''yo  kho, āvuso visākha, tassāyeva taṇhāya asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo ayaṃ kho, āvuso visākha, sakkāyanirodho vutto bhagavatāti. '''Sakkāyanirodhagāminī paṭipadā sakkāyanirodhagāminī paṭipadāti, ayye, vuccati. Katamā nu kho, ayye, sakkāyanirodhagāminī paṭipadā vuttā bhagavatāti? ''ayameva kho, āvuso visākha, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo sakkāyanirodhagāminī paṭipadā vuttā bhagavatā, seyyathidaṃ  : sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhīti. ''Taññeva nu kho, ayye, upādānaṃ te [teva (sī.)] pañcupādānakkhandhā udāhu aññatra pañcahupādānakkhandhehi upādānanti? ''na kho, āvuso visākha, taññeva upādānaṃ te pañcupādānakkhandhā, nāpi  aññatra pañcahupādānakkhandhehi upādānaṃ. Yo kho, āvuso visākha, pañcasu upādānakkhandhesu chandarāgo taṃ tattha upādānanti.

 

461. ''Kathaṃ panāyye, sakkāyadiṭṭhi hotīti? ''idhāvuso visākha, assutavā puthujjano, ariyānaṃ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto, sappurisānaṃ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto, rūpaṃ attato samanupassati, rūpavantaṃ vā attānaṃ, attani vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ. Vedanaṃ - pe - saññaṃ... saṅkhāre... viññāṇaṃ attato samanupassati, viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, attani vā viññāṇaṃ, viññāṇasmiṃ vā attānaṃ. Evaṃ kho , āvuso visākha, sakkāyadiṭṭhi hotīti. ''Kathaṃ panāyye, sakkāyadiṭṭhi na hotīti? ''idhāvuso visākha, sutavā ariyasāvako, ariyānaṃ dassāvī ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto, sappurisānaṃ dassāvī sappurisadhammassa kovido sappurisadhamme suvinīto, na rūpaṃ attato samanupassati, na rūpavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā rūpaṃ, na rūpasmiṃ vā attānaṃ. Na vedanaṃ - pe - na saññaṃ... na saṅkhāre - pe - na viññāṇaṃ attato samanupassati, na viññāṇavantaṃ vā attānaṃ , na attani vā viññāṇaṃ, na viññāṇasmiṃ vā attānaṃ. Evaṃ kho, āvuso visākha, sakkāyadiṭṭhi na hotīti.

 

462. ''Katamo panāyye, ariyo aṭṭhaṅgiko maggoti? ''ayameva kho, āvuso visākha, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto  sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhīti. ''Ariyo panāyye, aṭṭhaṅgiko maggo saṅkhato udāhu asaṅkhatoti? ''ariyo kho, āvuso visākha, aṭṭhaṅgiko maggo saṅkhatoti . ''Ariyena nu kho, ayye, aṭṭhaṅgikena maggena tayo khandhā saṅgahitā udāhu tīhi khandhehi ariyo aṭṭhaṅgiko maggo saṅgahitoti? ''na kho, āvuso visākha, ariyena aṭṭhaṅgikena maggena tayo khandhā saṅgahitā tīhi ca kho, āvuso visākha, khandhehi ariyo aṭṭhaṅgiko maggo saṅgahito. Yā cāvuso visākha, sammāvācā yo ca sammākammanto yo ca sammāājīvo ime dhammā  sīlakkhandhe saṅgahitā. Yo ca sammāvāyāmo yā ca sammāsati yo ca sammāsamādhi ime dhammā samādhikkhandhe saṅgahitā. Yā ca sammādiṭṭhi yo ca sammāsaṅkappo, ime dhammā paññākkhandhe saṅgahitāti. ''Katamo panāyye, samādhi, katame dhammā samādhinimittā, katame dhammā samādhiparikkhārā, katamā samādhibhāvanāti? ''yā kho, āvuso visākha, cittassa ekaggatā ayaṃ samādhi cattāro satipaṭṭhānā samādhinimittā cattāro sammappadhānā samādhiparikkhārā. Yā tesaṃyeva dhammānaṃ āsevanā bhāvanā bahulīkammaṃ, ayaṃ ettha samādhibhāvanāti.

 

463. ''Kati panāyye, saṅkhārāti? ''tayome, āvuso visākha, saṅkhārā : kāyasaṅkhāro, vacīsaṅkhāro, cittasaṅkhāroti. ''Katamo panāyye, kāyasaṅkhāro, katamo vacīsaṅkhāro, katamo cittasaṅkhāroti? ''assāsapassāsā kho, āvuso visākha, kāyasaṅkhāro, vitakkavicārā vacīsaṅkhāro, saññā ca vedanā ca cittasaṅkhāroti. ''Kasmā panāyye, assāsapassāsā kāyasaṅkhāro, kasmā vitakkavicārā vacīsaṅkhāro, kasmā saññā ca vedanā ca cittasaṅkhāroti? ''assāsapassāsā kho, āvuso  visākha, kāyikā ete dhammā kāyappaṭibaddhā, tasmā assāsapassāsā kāyasaṅkhāro. Pubbe kho, āvuso visākha, vitakketvā vicāretvā pacchā vācaṃ bhindati, tasmā vitakkavicārā vacīsaṅkhāro. Saññā ca vedanā ca cetasikā ete dhammā  cittappaṭibaddhā, tasmā saññā ca vedanā ca cittasaṅkhāroti.

 

464. ''Kathaṃ  panāyye, saññāvedayitanirodhasamāpatti hotīti? ''na kho, āvuso visākha, saññāvedayitanirodhaṃ samāpajjantassa bhikkhuno evaṃ hoti : 'ahaṃ saññāvedayitanirodhaṃ samāpajjissanti vā, 'ahaṃ saññāvedayitanirodhaṃ samāpajjāmīti vā, 'ahaṃ saññāvedayitanirodhaṃ samāpannoti vā. Atha khvāssa pubbeva tathā cittaṃ bhāvitaṃ hoti yaṃ taṃ tathattāya upanetīti. ''Saññāvedayitanirodhaṃ samāpajjantass  panāyye, bhikkhuno katame dhammā paṭhamaṃ nirujjhanti : yadi vā kāyasaṅkhāro, yadi vā vacīsaṅkhāro, yadi vā cittasaṅkhāroti? ''saññāvedayitanirodhaṃ samāpajjantassa kho, āvuso visākha, bhikkhuno paṭhamaṃ nirujjhati vacīsaṅkhāro, tato kāyasaṅkhāro, tato cittasaṅkhāroti. ''Kathaṃ panāyye, saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhānaṃ hotīti? ''na kho, āvuso visākha, saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhahantassa bhikkhuno evaṃ hoti : 'ahaṃ saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhahissanti vā, 'ahaṃ saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhahāmīti vā, 'ahaṃ saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhitoti vā. Atha khvāssa pubbeva tathā cittaṃ bhāvitaṃ hoti yaṃ taṃ tathattāya upanetīti. ''Saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhahantassa panāyye, bhikkhuno katame dhammā paṭhamaṃ uppajjanti : yadi vā kāyasaṅkhāro, yadi vā vacīsaṅkhāro, yadi  vā cittasaṅkhāroti? ''saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhahantassa kho, āvuso visākha, bhikkhuno paṭhamaṃ uppajjati cittasaṅkhāro, tato kāyasaṅkhāro, tato vacīsaṅkhāroti. ''Saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhitaṃ panāyye, bhikkhuṃ kati phassā phusantīti? ''saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhitaṃ kho, āvuso  visākha, bhikkhuṃ tayo phassā phusanti : suññato phasso, animitto phasso, appaṇihito phassoti. ''Saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhitassa panāyye, bhikkhuno kiṃninnaṃ cittaṃ hoti kiṃpoṇaṃ kiṃpabbhāranti? ''saññāvedayitanirodhasamāpattiyā vuṭṭhitassa kho, āvuso visākha, bhikkhuno vivekaninnaṃ cittaṃ hoti, vivekapoṇaṃ vivekapabbhāranti.

 

465. ''Kati  panāyye, vedanāti? ''tisso kho imā, āvuso visākha, vedanā : sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanāti. ''Katamā panāyye, sukhā vedanā, katamā dukkhā vedanā, katamā adukkhamasukhā vedanāti? ''yaṃ kho, āvuso visākha, kāyikaṃ vā cetasikaṃ vā sukhaṃ sātaṃ vedayitaṃ : ayaṃ sukhā vedanā. Yaṃ kho, āvuso visākha, kāyikaṃ vā cetasikaṃ vā dukkhaṃ asātaṃ vedayitaṃ : ayaṃ dukkhā vedanā. Yaṃ kho, āvuso visākha, kāyikaṃ vā cetasikaṃ vā neva sātaṃ nāsātaṃ vedayitaṃ : ayaṃ adukkhamasukhā  vedanāti. ''Sukhā panāyye, vedanā kiṃsukhā kiṃdukkhā, dukkhā vedanā kiṃsukhā kiṃdukkhā, adukkhamasukhā vedanā kiṃsukhā kiṃdukkhāti? ''sukhā kho, āvuso visākha, vedanā ṭhitisukhā vipariṇāmadukkhā dukkhā vedanā ṭhitidukkhā vipariṇāmasukhā  adukkhamasukhā vedanā ñāṇasukhā aññāṇadukkhāti. ''Sukhāya panāyye, vedanāya kiṃ anusayo anuseti, dukkhāya vedanāya kiṃ anusayo anuseti, adukkhamasukhāya vedanāya kiṃ anusayo anusetīti? ''sukhāya kho, āvuso visākha, vedanāya rāgānusayo anuseti, dukkhāya vedanāya paṭighānusayo anuseti, adukkhamasukhāya vedanāya avijjānusayo anusetīti. ''Sabbāya nu kho, ayye, sukhāya vedanāya rāgānusayo anuseti, sabbāya dukkhāya vedanāya paṭighānusayo anuseti, sabbāya adukkhamasukhāya vedanāya avijjānusayo anusetīti? ''na kho, āvuso visākha, sabbāya sukhāya vedanāya rāgānusayo anuseti, na sabbāya dukkhāya vedanāya paṭighānusayo anuseti, na sabbāya adukkhamasukhāya vedanāya avijjānusayo anusetīti. ''Sukhāya  panāyye, vedanāya kiṃ pahātabbaṃ, dukkhāya vedanāya kiṃ pahātabbaṃ, adukkhamasukhāya vedanāya kiṃ pahātabbanti? ''sukhāya kho, āvuso visākha, vedanāya rāgānusayo pahātabbo, dukkhāya vedanāya paṭighānusayo pahātabbo, adukkhamasukhāya vedanāya avijjānusayo pahātabboti. ''Sabbāya  nu kho, ayye, sukhāya vedanāya rāgānusayo pahātabbo, sabbāya dukkhāya vedanāya paṭighānusayo pahātabbo, sabbāya adukkhamasukhāya vedanāya avijjānusayo pahātabboti? ''na kho, āvuso visākha, sabbāya sukhāya vedanāya rāgānusayo pahātabbo, na sabbāya dukkhāya vedanāya paṭighānusayo pahātabbo , na sabbāya adukkhamasukhāya vedanāya avijjānusayo pahātabbo. Idhāvuso visākha, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Rāgaṃ tena pajahati, na tattha rāgānusayo anuseti. Idhāvuso visākha, bhikkhu iti paṭisañcikkhati : 'kudāssu nāmāhaṃ tadāyatanaṃ upasampajja viharissāmi yadariyā etarahi āyatanaṃ upasampajja viharantīti? iti anuttaresu vimokkhesu pihaṃ upaṭṭhāpayato  uppajjati pihāppaccayā domanassaṃ. Paṭighaṃ tena pajahati, na tattha paṭighānusayo anuseti. Idhāvuso visākha, bhikkhu sukhassa ca pahānā, dukkhassa ca pahānā, pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā, adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Avijjaṃ tena pajahati, na tattha avijjānusayo anusetīti.

 

466. ''Sukhāya panāyye, vedanāya kiṃ paṭibhāgoti? ''sukhāya kho, āvuso visākha, vedanāya dukkhā vedanā paṭibhāgoti. ''Dukkhāya pannāyye, vedanāya kiṃ paṭibhāgoti? ''dukkhāya kho, āvuso visākha, vedanāya sukhā vedanā paṭibhāgoti. ''Adukkhamasukhāya panāyye, vedanāya kiṃ paṭibhāgoti? ''adukkhamasukhāya kho, āvuso visākha, vedanāya avijjā paṭibhāgoti. ''Avijjāya panāyye, kiṃ paṭibhāgoti? ''avijjāya kho, āvuso visākha, vijjā paṭibhāgoti. ''Vijjāya panāyye, kiṃ paṭibhāgoti? ''vijjāya kho, āvuso visākha, vimutti paṭibhāgoti. ''Vimuttiyā panāyye , kiṃ paṭibhāgoti? ''vimuttiyā kho, āvuso visākha, nibbānaṃ paṭibhāgoti. ''Nibbānassa panāyye, kiṃ paṭibhāgoti? ''accayāsi, āvuso [accasarāvuso (sī. pī.), accassarāvuso (syā. kaṃ.)] visākha, pañhaṃ, nāsakkhi pañhānaṃ pariyantaṃ gahetuṃ. Nibbānogadhañhi, āvuso visākha, brahmacariyaṃ, nibbānaparāyanaṃ nibbānapariyosānaṃ. Ākaṅkhamāno ca tvaṃ, āvuso visākha, bhagavantaṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ puccheyyāsi, yathā ca te Bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāsīti.

 

467. Atha kho visākho upāsako dhammadinnāya bhikkhuniyā bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā dhammadinnaṃ bhikkhuniṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho visākho upāsako yāvatako ahosi dhammadinnāya bhikkhuniyā saddhiṃ kathāsallāpo taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi. Evaṃ vutte, Bhagavā visākhaṃ upāsakaṃ etadavoca : ''paṇḍitā, visākha, dhammadinnā bhikkhunī, mahāpaññā, visākha, dhammadinnā bhikkhunī. Maṃ cepi tvaṃ, visākha, etamatthaṃ puccheyyāsi, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyaṃ, yathā  taṃ dhammadinnāya bhikkhuniyā byākataṃ. Eso cevetassa [esovetassa (syā. kaṃ.)] attho. Evañca naṃ [evametaṃ (sī. syā. kaṃ.)] dhārehīti. Idamavoca Bhagavā. Attamano visākho upāsako bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.

 

Cūḷavedallasuttaṃ niṭṭhitaṃ catutthaṃ.

 

44. Cūḷavedallasuttavaṇṇanā [Atthakathā]

 

460. Evaṃ me sutanti cūḷavedallasuttaṃ. Tattha visākho upāsakoti visākhoti evaṃnāmako upāsako. Yena dhammadinnāti yena dhammadinnā nāma bhikkhunī tenupasaṅkami. Ko panāyaṃ visākho? Kā dhammadinnā? Kasmā upasaṅkamīti? Visākho nāma dhammadinnāya gihikāle gharasāmiko. So yadā bhagavā sammāsambodhiṃ abhisambujjhitvā pavattavaradhammacakko yasādayo kulaputte vinetvā uruvelaṃ patvā tattha jaṭilasahassaṃ vinetvā purāṇajaṭilehi khīṇāsavabhikkhūhi saddhiṃ rājagahaṃ gantvā buddhadassanatthaṃ dvādasanahutāya parisāya saddhiṃ āgatassa bimbisāramahārājassa dhammaṃ desesi. Tadā raññā saddhiṃ āgatesu dvādasanahutesu ekaṃ nahutaṃ upāsakattaṃ paṭivedesi, ekādasa nahutāni sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu saddhiṃ raññā bimbisārena. Ayaṃ upāsako tesaṃ aññataro, tehi saddhiṃ paṭhamadassaneva sotāpattiphale patiṭṭhāya, puna ekadivasaṃ dhammaṃ sutvā sakadāgāmiphalaṃ patvā, tato aparabhāgepi ekadivasaṃ dhammaṃ sutvā anāgāmiphale patiṭṭhito. So anāgāmī hutvā gehaṃ āgacchanto yathā aññesu divasesu ito cito ca olokento sitaṃ kurumāno āgacchati, evaṃ anāgantvā santindriyo santamānaso hutvā agamāsi.

 

Dhammadinnā sīhapañjaraṃ ugghāṭetvā vīthiṃ olokayamānā tassa āgamanākāraṃ disvā, ‘‘kiṃ nu kho eta’’nti cintetvā tassa paccuggamanaṃ kurumānā sopānasīse ṭhatvā olambanatthaṃ hatthaṃ pasāresi. Upāsako attano hatthaṃ samiñjesi. Sā ‘‘pātarāsabhojanakāle jānissāmī’’ti cintesi. Upāsako pubbe tāya saddhiṃ ekato bhuñjati. Taṃ divasaṃ pana taṃ anapaloketvā yogāvacarabhikkhu viya ekakova bhuñji. Sā, ‘‘sāyanhakāle jānissāmī’’ti cintesi. Upāsako taṃdivasaṃ sirigabbhaṃ na pāvisi, aññaṃ gabbhaṃ paṭijaggāpetvā kappiyamañcakaṃ paññapāpetvā nipajji. Upāsikā, ‘‘kiṃ nu khvassa bahiddhā patthanā atthi, udāhu kenacideva paribhedakena bhinno, udāhu mayheva koci doso atthī’’ti balavadomanassā hutvā, ‘‘ekaṃ dve divase vasitakāle sakkā ñātu’’nti tassa upaṭṭhānaṃ gantvā vanditvā aṭṭhāsi.

 

Upāsako, ‘‘kiṃ dhammadinne akāle āgatāsī’’ti pucchi. Āma ayyaputta, āgatāmhi, na tvaṃ yathā purāṇo, kiṃ nu te bahiddhā patthanā atthīti? Natthi dhammadinneti. Añño koci paribhedako atthīti? Ayampi natthīti. Evaṃ sante mayheva koci doso bhavissatīti. Tuyhampi doso natthīti. Atha kasmā mayā saddhiṃ yathā pakatiyā ālāpasallāpamattampi na karothāti? So cintesi – ‘‘ayaṃ lokuttaradhammo nāma garu bhāriyo na pakāsetatabbo, sace kho panāhaṃ na kathessāmi, ayaṃ hadayaṃ phāletvā ettheva kālaṃ kareyyā’’ti tassānuggahatthāya kathesi – ‘‘dhammadinne ahaṃ satthu dhammadesanaṃ sutvā lokuttaradhammaṃ nāma adhigato, taṃ adhigatassa evarūpā lokiyakiriyā na vaṭṭati. Yadi tvaṃ icchasi, tava cattālīsa koṭiyo mama cattālīsa koṭiyoti asītikoṭidhanaṃ atthi, ettha issarā hutvā mama mātiṭṭhāne vā bhaginiṭṭhāne vā ṭhatvā vasa. Tayā dinnena bhattapiṇḍamattakena ahaṃ yāpessāmi. Athevaṃ na karosi, ime bhoge gahetvā kulagehaṃ gaccha, athāpi te bahiddhā patthanā natthi, ahaṃ taṃ bhaginiṭṭhāne vā dhituṭṭhāne vā ṭhapetvā posessāmī’’ti.

 

Sā cintesi – ‘‘pakatipuriso evaṃ vattā nāma natthi. Addhā etena lokuttaravaradhammo paṭividdho. So pana dhammo kiṃ puriseheva paṭibujjhitabbo, udāhu mātugāmopi paṭivijjhituṃ sakkotī’’ti visākhaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho eso dhammo puriseheva labhitabbo, mātugāmenapi sakkā laddhu’’nti? Kiṃ vadesi dhammadinne, ye paṭipannakā, te etassa dāyādā, yassa yassa upanissayo atthi, so so etaṃ paṭilabhatīti. Evaṃ sante mayhaṃ pabbajjaṃ anujānāthāti. Sādhu bhadde, ahampi taṃ etasmiṃyeva magge yojetukāmo, manaṃ pana te ajānamāno na kathemīti tāvadeva bimbisārassa rañño santikaṃ gantvā vanditvā aṭṭhāsi.

 

Rājā, ‘‘kiṃ, gahapati, akāle āgatosī’’ti pucchi. Dhammadinnā, ‘‘mahārāja, pabbajissāmī’’ti vadatīti. Kiṃ panassa laddhuṃ vaṭṭatīti? Aññaṃ kiñci natthi, sovaṇṇasivikaṃ deva, laddhuṃ vaṭṭati nagarañca paṭijaggāpetunti. Rājā sovaṇṇasivikaṃ datvā nagaraṃ paṭijaggāpesi. Visākho dhammadinnaṃ gandhodakena nahāpetvā sabbālaṅkārehi alaṅkārāpetvā sovaṇṇasivikāya nisīdāpetvā ñātigaṇena parivārāpetvā gandhapupphādīhi pūjayamāno nagaravāsanaṃ karonto viya bhikkhuniupassayaṃ gantvā, ‘‘dhammadinnaṃ pabbājethāyye’’ti āha. Bhikkhuniyo ‘‘ekaṃ vā dve vā dose sahituṃ vaṭṭati gahapatī’’ti āhaṃsu. Natthayye koci doso, saddhāya pabbajatīti. Athekā byattā therī tacapañcakakammaṭṭhānaṃ ācikkhitvā kese ohāretvā pabbājesi. Visākho, ‘‘abhiramayye, svākkhāto dhammo’’ti vanditvā pakkāmi.

 

Tassā pabbajitadivasato paṭṭhāya lābhasakkāro uppajji. Teneva palibuddhā samaṇadhammaṃ kātuṃ okāsaṃ na labhati. Athācariya-upajjhāyatheriyo gahetvā janapadaṃ gantvā aṭṭhatiṃsāya ārammaṇesu cittarucitaṃ kammaṭṭhānaṃ kathāpetvā samaṇadhammaṃ kātuṃ āraddhā, abhinīhārasampannattā pana nāticiraṃ kilamittha.

 

Ito paṭṭhāya hi satasahassakappamatthake padumuttaro nāma satthā loke udapādi. Tadā esā ekasmiṃ kule dāsī hutvā attano kese vikkiṇitvā sujātattherassa nāma aggasāvakassa dānaṃ datvā patthanamakāsi. Sā tāya patthanābhinīhārasampattiyā nāticiraṃ kilamittha, katipāheneva arahattaṃ patvā cintesi – ‘‘ahaṃ yenatthena sāsane pabbajitā, so matthakaṃ patto, kiṃ me janapadavāsena, mayhaṃ ñātakāpi puññāni karissanti, bhikkhunisaṅghopi paccayehi na kilamissati, rājagahaṃ gacchāmī’’ti bhikkhunisaṅghaṃ gahetvā rājagahameva agamāsi. Visākho, ‘‘dhammadinnā kira āgatā’’ti sutvā, ‘‘pabbajitvā nacirasseva janapadaṃ gatā, gantvāpi nacirasseva paccāgatā, kiṃ nu kho bhavissati, gantvā jānissāmī’’ti dutiyagamanena bhikkhuniupassayaṃ agamāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho visākho upāsako yena dhammadinnā bhikkhunī tenupasaṅkamī’’ti.

 

Etadavocāti etaṃ sakkāyotiādivacanaṃ avoca. Kasmā avocāti? Evaṃ kirassa ahosi – ‘‘abhiramasi nābhiramasi, ayye’’ti evaṃ pucchanaṃ nāma na paṇḍitakiccaṃ, pañcupādānakkhandhe upanetvā pañhaṃ pucchissāmi, pañhabyākaraṇena tassā abhiratiṃ vā anabhiratiṃ vā jānissāmīti, tasmā avoca. Taṃ sutvāva dhammadinnā ahaṃ, āvuso visākha, acirapabbajitā sakāyaṃ vā parakāyaṃ vā kuto jānissāmīti vā, aññattheriyo upasaṅkamitvā pucchāti vā avatvā upanikkhittaṃ sampaṭicchamānā viya, ekapāsakagaṇṭhiṃ mocentī viya gahanaṭṭhāne hatthimaggaṃ nīharamānā viya khaggamukhena samuggaṃ vivaramānā viya ca paṭisambhidāvisaye ṭhatvā pañhaṃ vissajjamānā, pañca kho ime, āvuso visākha, upādānakkhandhātiādimāha. Tattha pañcāti gaṇanaparicchedo. Upādānakkhandhāti upādānānaṃ paccayabhūtā khandhāti evamādinā nayenettha upādānakkhandhakathā vitthāretvā kathetabbā. Sā panesā visuddhimagge vitthāritā evāti tattha vittāritanayeneva veditabbā. Sakkāyasamudayādīsupi yaṃ vattabbaṃ, taṃ heṭṭhā tattha tattha vuttameva.

 

Idaṃ pana catusaccabyākaraṇaṃ sutvā visākho theriyā abhiratabhāvaṃ aññāsi. Yo hi buddhasāsane ukkaṇṭhito hoti anabhirato, so evaṃ pucchitapucchitapañhaṃ saṇḍāsena ekekaṃ palitaṃ gaṇhanto viya, sinerupādato vālukaṃ uddharanto viya vissajjetuṃ na sakkoti. Yasmā pana imāni cattāri saccāni loke candimasūriyā viya buddhasāsane pākaṭāni, parisamajjhe gato hi bhagavāpi mahātherāpi saccāneva pakāsenti; bhikkhusaṅghopi pabbajitadivasato paṭṭhāya kulaputte cattāri nāma kiṃ, cattāri ariyasaccānīti pañhaṃ uggaṇhāpeti. Ayañca dhammadinnā upāyakosalle ṭhitā paṇḍitā byattā nayaṃ gahetvā sutenapi kathetuṃ samatthā, tasmā ‘‘na sakkā etissā ettāvatā saccānaṃ paṭividdhabhāvo ñātuṃ, saccavinibbhogapañhabyākaraṇena sakkā ñātu’’nti cintetvā heṭṭhā kathitāni dve saccāni paṭinivattetvā guḷhaṃ katvā gaṇṭhipañhaṃ pucchissāmīti pucchanto taññeva nu kho, ayyetiādimāha.

 

Tassa vissajjane na kho, āvuso visākha, taññeva upādānanti upādānassa saṅkhārakkhandhekadesabhāvato na taṃyeva upādānaṃ te pañcupādānakkhandhā, nāpi aññatra pañcahi upādānakkhandhehi upādānaṃ. Yadi hi taññeva siyā, rūpādisabhāvampi upādānaṃ siyā. Yadi aññatra siyā, parasamaye cittavippayutto anusayo viya paṇṇatti viya nibbānaṃ viya ca khandhavinimuttaṃ vā siyā, chaṭṭho vā khandho paññapetabbo bhaveyya, tasmā evaṃ byākāsi. Tassā byākaraṇaṃ sutvā ‘‘adhigatapatiṭṭhā aya’’nti visākho niṭṭhamagamāsi. Na hi sakkā akhīṇāsavena asambaddhena avitthāyantena padīpasahassaṃ jālentena viya evarūpo guḷho paṭicchanno tilakkhaṇāhato gambhīro pañho vissajjetuṃ. Niṭṭhaṃ gantvā pana, ‘‘ayaṃ dhammadinnā sāsane laddhapatiṭṭhā adhigatapaṭisambhidā vesārajjappattā bhavamatthake ṭhitā mahākhīṇāsavā, samatthā mayhaṃ pucchitapañhaṃ kathetuṃ, idāni pana naṃ ovattikasāraṃ pañhaṃ pucchissāmī’’ti cintetvā taṃ pucchanto, kathaṃ panāyyetiādimāha.

 

461. Tassa vissajjane assutavātiādi mūlapariyāye vitthāritameva. Rūpaṃ attato samanupassatīti, ‘‘idhekacco rūpaṃ attato samanupassati. Yaṃ rūpaṃ so ahaṃ, yo ahaṃ taṃ rūpanti rūpañca attañca advayaṃ samanupassati. Seyyathāpi nāma telappadīpassa jhāyato yā acci so vaṇṇo, yo vaṇṇo sā accīti acciñca vaṇṇañca advayaṃ samanupassati. Evameva idhekacco rūpaṃ attato samanupassati…pe… advayaṃ samanupassatī’’ti (paṭi. ma. 1.131) evaṃ rūpaṃ attāti diṭṭhipassanāya passati. Rūpavantaṃ vā attānanti arūpaṃ attāti gahetvā chāyāvantaṃ rukkhaṃ viya taṃ attānaṃ rūpavantaṃ samanupassati. Attani vā rūpanti arūpameva attāti gahetvā pupphasmiṃ gandhaṃ viya attani rūpaṃ samanupassati. Rūpasmiṃ vā attānanti arūpameva attāti gahetvā karaṇḍāya maṇiṃ viya attānaṃ rūpasmiṃ samanupassati. Vedanaṃ attatotiādīsupi eseva nayo.

 

Tattha, rūpaṃ attato samanupassatīti suddharūpameva attāti kathitaṃ. Rūpavantaṃ vā attānaṃ, attani vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ. Vedanaṃ attato… saññaṃ… saṅkhāre… viññāṇaṃ attato samanupassatīti imesu sattasu ṭhānesu arūpaṃ attāti kathitaṃ. Vedanāvantaṃ vā attānaṃ, attani vā vedanaṃ, vedanāya vā attānanti evaṃ catūsu khandhesu tiṇṇaṃ tiṇṇaṃ vasena dvādasasu ṭhānesu rūpārūpamissako attā kathito. Tattha rūpaṃ attato samanupassati… vedanaṃ… saññaṃ… saṅkhāre… viññāṇaṃ attato samanupassatīti imesu pañcasu ṭhānesu ucchedadiṭṭhi kathitā, avasesesu sassatadiṭṭhīti. Evamettha pannarasa bhavadiṭṭhiyo, pañca vibhavadiṭṭhiyo honti. Na rūpaṃ attatoti ettha rūpaṃ attāti na samanupassati. Aniccaṃ dukkhaṃ anattāti pana samanupassati. Na rūpavantaṃ attānaṃ…pe… na viññāṇasmiṃ attānanti ime pañcakkhandhe kenaci pariyāyena attato na samanupassati, sabbākārena pana aniccā dukkhā anattāti samanupassati.

 

Ettāvatā theriyā, ‘‘evaṃ kho, āvuso visākha, sakkāyadiṭṭhi hotī’’ti evaṃ purimapañhaṃ vissajjentiyā ettakena gamanaṃ hoti, āgamanaṃ hoti, gamanāgamanaṃ hoti, vaṭṭaṃ vattatīti vaṭṭaṃ matthakaṃ pāpetvā dassitaṃ. Evaṃ kho, āvuso visākha, sakkāyadiṭṭhi na hotīti pacchimaṃ pañhaṃ vissajjentiyā ettakena gamanaṃ na hoti, āgamanaṃ na hoti, gamanāgamanaṃ na hoti, vaṭṭaṃ nāma na vattatīti vivaṭṭaṃ matthakaṃ pāpetvā dassitaṃ.

 

462. Katamo panāyye, ariyo aṭṭhaṅgiko maggoti ayaṃ pañho theriyā paṭipucchitvā vissajjetabbo bhaveyya – ‘‘upāsaka, tayā heṭṭhā maggo pucchito, idha kasmā maggameva pucchasī’’ti. Sā pana attano byattatāya paṇḍiccena tassa adhippāyaṃ sallakkhesi – ‘‘iminā upāsakena heṭṭhā paṭipattivasena maggo pucchito bhavissati, idha pana taṃ saṅkhatāsaṅkhatalokiyalokuttarasaṅgahitāsaṅgahitavasena pucchitukāmo bhavissatī’’ti. Tasmā appaṭipucchitvāva yaṃ yaṃ pucchi, taṃ taṃ vissajjesi. Tattha saṅkhatoti cetito kappito pakappito āyūhito kato nibbattito samāpajjantena samāpajjitabbo. Tīhi ca kho, āvuso visākha, khandhehi ariyo aṭṭhaṅgiko maggo saṅgahitoti ettha yasmā maggo sappadeso, tayo khandhā nippadesā, tasmā ayaṃ sappadesattā nagaraṃ viya rajjena nippadesehi tīhi khandhehi saṅgahito. Tattha sammāvācādayo tayo sīlameva, tasmā te sajātito sīlakkhandhena saṅgahitāti. Kiñcāpi hi pāḷiyaṃ sīlakkhandheti bhummena viya niddeso kato, attho pana karaṇavasena veditabbo. Sammāvāyāmādīsu pana tīsu samādhi attano dhammatāya ārammaṇe ekaggabhāvena appetuṃ na sakkoti. Vīriye pana paggahakiccaṃ sādhente satiyā ca apilāpanakiccaṃ sādhentiyā laddhūpakāro hutvā sakkoti.

 

Tatrāyaṃ upamā – yathā hi ‘‘nakkhattaṃ kīḷissāmā’’ti uyyānaṃ paviṭṭhesu tīsu sahāyesu eko supupphitaṃ campakarukkhaṃ disvā hatthaṃ ukkhipitvāpi gahetuṃ na sakkuṇeyya. Athassa dutiyo onamitvā piṭṭhiṃ dadeyya, so tassa piṭṭhiyaṃ ṭhatvāpi kampamāno gahetuṃ na sakkuṇeyya. Athassa itaro aṃsakūṭaṃ upanāmeyya, so ekassa piṭṭhiyaṃ ṭhatvā ekassa aṃsakūṭaṃ olubbha yathāruci pupphāni ocinitvā piḷandhitvā nakkhattaṃ kīḷeyya. Evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ. Ekato uyyānaṃ paviṭṭhā tayo sahāyakā viya hi ekato jātā sammāvāyāmādayo tayo dhammā. Supupphitacampako viya ārammaṇaṃ. Hatthaṃ ukkhipitvāpi gahetuṃ asakkonto viya attano dhammatāya ārammaṇe ekaggabhāvena appetuṃ asakkonto samādhi. Piṭṭhiṃ datvā onatasahāyo viya vāyāmo. Aṃsakūṭaṃ datvā ṭhitasahāyo viya sati. Yathā tesu ekassa piṭṭhiyaṃ ṭhatvā ekassa aṃsakūṭaṃ olubbha itaro yathāruci pupphaṃ gahetuṃ sakkoti, evamevaṃ vīriye paggahakiccaṃ sādhente, satiyā ca apilāpanakiccaṃ sādhentiyā laddhupakāro samādhi sakkoti ārammaṇe ekaggabhāvena appetuṃ. Tasmā samādhiyevettha sajātito samādhikkhandhena saṅgahito. Vāyāmasatiyo pana kiriyato saṅgahitā honti.

 

Sammādiṭṭhisammāsaṅkappesupi paññā attano dhammatāya aniccaṃ dukkhaṃ anattāti ārammaṇaṃ nicchetuṃ na sakkoti, vitakke pana ākoṭetvā ākoṭetvā dente sakkoti. Kathaṃ? Yathā hi heraññiko kahāpaṇaṃ hatthe ṭhapetvā sabbabhāgesu oloketukāmo samānopi na cakkhudaleneva parivattetuṃ sakkoti, aṅgulipabbehi pana parivattetvā ito cito ca oloketuṃ sakkoti. Evameva na paññā attano dhammatāya aniccādivasena ārammaṇaṃ nicchetuṃ sakkoti, abhiniropanalakkhaṇena pana āhananapariyāhananarasena vitakkena ākoṭentena viya parivattentena viya ca ādāyā dinnameva vinicchetuṃ sakkoti. Tasmā idhāpi sammādiṭṭhiyeva sajātito paññākkhandhena saṅgahitā. Sammāsaṅkappo pana kiriyato saṅgahito hoti. Iti imehi tīhi khandhehi maggo saṅgahaṃ gacchati. Tena vuttaṃ – ‘‘tīhi ca kho, āvuso visākha, khandhehi ariyo aṭṭhaṅgiko maggo saṅgahito’’ti.

 

Idāni ekacittakkhaṇikaṃ maggasamādhiṃ sanimittaṃ saparikkhāraṃ pucchanto, katamo panāyyetiādimāha. Tassa vissajjane cattāro satipaṭṭhānā maggakkhaṇe catukiccasādhanavasena uppannā sati, sā samādhissa paccayatthena nimittaṃ. Cattāro sammappadhānā catukiccasādhanavaseneva uppannaṃ vīriyaṃ, taṃ parivāraṭṭhena parikkhāro hoti. Tesaṃyeva dhammānanti tesaṃ maggasampayuttadhammānaṃ. Āsevanātiādīsu ekacittakkhaṇikāyeva āsevanādayo vuttāti.

 

Vitaṇḍavādī pana, ‘‘ekacittakkhaṇiko nāma maggo natthi, ‘evaṃ bhāveyya satta vassānī’ti hi vacanato sattapi vassāni maggabhāvanā hoti, kilesā pana lahu chijjantā sattahi ñāṇehi chijjantī’’ti vadati. So ‘‘suttaṃ āharā’’ti vattabbo. Addhā aññaṃ apassanto, ‘‘yā tesaṃyeva dhammānaṃ āsevanā bhāvanā bahulīkamma’’nti idameva suttaṃ āharitvā, ‘‘aññena cittena āsevati, aññena bhāveti, aññena bahulīkarotī’’ti vakkhati. Tato vattabbo – ‘‘kiṃ panidaṃ, suttaṃ neyyatthaṃ nītattha’’nti. Tato vakkhati – ‘‘nītatthaṃ yathā suttaṃ tatheva attho’’ti. Tassa idaṃ uttaraṃ – evaṃ sante ekaṃ cittaṃ āsevamānaṃ uppannaṃ, aparampi āsevamānaṃ, aparampi āsevamānanti evaṃ divasampi āsevanāva bhavissati, kuto bhāvanā, kuto bahulīkammaṃ? Ekaṃ vā bhāvayamānaṃ uppannaṃ aparampi bhāvayamānaṃ aparampi bhāvayamānanti evaṃ divasampi bhāvanāva bhavissati, kuto āsevanā kuto bahulīkammaṃ? Ekaṃ vā bahulīkarontaṃ uppannaṃ, aparampi bahulīkarontaṃ, aparampi bahulīkarontanti evaṃ divasampi bahulīkammameva bhavissati kuto āsevanā, kuto bhāvanāti.

 

Atha vā evaṃ vadeyya – ‘‘ekena cittena āsevati, dvīhi bhāveti, tīhi bahulīkaroti. Dvīhi vā āsevati, tīhi bhāveti, ekena bahulīkaroti. Tīhi vā āsevati, ekena bhāveti, dvīhi bahulīkarotī’’ti. So vattabbo – ‘‘mā suttaṃ me laddhanti yaṃ vā taṃ vā avaca. Pañhaṃ vissajjentena nāma ācariyassa santike vasitvā buddhavacanaṃ uggaṇhitvā attharasaṃ viditvā vattabbaṃ hoti. Ekacittakkhaṇikāva ayaṃ āsevanā, ekacittakkhaṇikā bhāvanā, ekacittakkhaṇikaṃ bahulīkammaṃ. Khayagāmilokuttaramaggo bahulacittakkhaṇiko nāma natthi, ‘ekacittakkhaṇikoyevā’ti saññāpetabbo. Sace sañjānāti, sañjānātu, no ce sañjānāti, gaccha pātova vihāraṃ pavisitvā yāguṃ pivāhī’’ti uyyojetabbo.

 

463. Kati panāyye saṅkhārāti idha kiṃ pucchati? Ye saṅkhāre nirodhetvā nirodhaṃ samāpajjati, te pucchissāmīti pucchati. Tenevassa adhippāyaṃ ñatvā therī, puññābhisaṅkhārādīsu anekesu saṅkhāresu vijjamānesupi, kāyasaṅkhārādayova ācikkhantī, tayome, āvusotiādimāha. Tattha kāyapaṭibaddhattā kāyena saṅkharīyati karīyati nibbattīyatīti kāyasaṅkhāro. Vācaṃ saṅkharoti karoti nibbattetīti vacīsaṅkhāro. Cittapaṭibaddhattā cittena saṅkharīyati karīyati nibbattīyatīti cittasaṅkhāro. Katamo panāyyeti idha kiṃ pucchati? Ime saṅkhārā aññamaññamissā āluḷitā avibhūtā duddīpanā. Tathā hi, kāyadvāre ādānagahaṇamuñcanacopanāni pāpetvā uppannā aṭṭha kāmāvacarakusalacetanā dvādasa akusalacetanāti evaṃ kusalākusalā vīsati cetanāpi assāsapassāsāpi kāyasaṅkhārātveva vuccanti. Vacīdvāre hanusaṃcopanaṃ vacībhedaṃ pāpetvā uppannā vuttappakārāva vīsati cetanāpi vitakkavicārāpi vacīsaṅkhārotveva vuccanti. Kāyavacīdvāresu copanaṃ apattā raho nisinnassa cintayato uppannā kusalākusalā ekūnatiṃsa cetanāpi saññā ca vedanā cāti ime dve dhammāpi cittasaṅkhārotveva vuccanti. Evaṃ ime saṅkhārā aññamaññamissā āluḷitā avibhūtā duddīpanā. Te pākaṭe vibhūte katvā kathāpessāmīti pucchati.

 

Kasmā panāyyeti idha kāyasaṅkhārādināmassa padatthaṃ pucchati. Tassa vissajjane kāyappaṭibaddhāti kāyanissitā, kāye sati honti, asati na honti. Cittappaṭibaddhāti cittanissitā, citte sati honti, asati na honti.

 

464. Idāni kiṃ nu kho esā saññāvedayitanirodhaṃ valañjeti, na valañjeti. Ciṇṇavasī vā tattha no ciṇṇavasīti jānanatthaṃ pucchanto, kathaṃ panāyye, saññāvedayitanirodhasamāpatti hotītiādimāha. Tassa vissajjane samāpajjissanti vā samāpajjāmīti vā padadvayena nevasaññānāsaññāyatanasamāpattikālo kathito. Samāpannoti padena antonirodho. Tathā purimehi dvīhi padehi sacittakakālo kathito, pacchimena acittakakālo. Pubbeva tathā cittaṃ bhāvitaṃ hotīti nirodhasamāpattito pubbe addhānaparicchedakāleyeva, ettakaṃ kālaṃ acittako bhavissāmīti addhānaparicchedacittaṃ bhāvitaṃ hoti. Yaṃ taṃ tathattāya upanetīti yaṃ evaṃ bhāvitaṃ cittaṃ, taṃ puggalaṃ tathattāya acittakabhāvāya upaneti.

 

Paṭhamaṃ nirujjhati vacīsaṅkhāroti sesasaṅkhārehi paṭhamaṃ dutiyajjhāneyeva nirujjhati. Tato kāyasaṅkhāroti tato paraṃ kāyasaṅkhāro catutthajjhāne nirujjhati. Tato cittasaṅkhāroti tato paraṃ cittasaṅkhāro antonirodhe nirujjhati. Vuṭṭhahissanti vā vuṭṭhahāmīti vā padadvayena antonirodhakālo kathito. Vuṭṭhitoti padena phalasamāpattikālo. Tathā purimehi dvīhi padehi acittakakālo kathito, pacchimena sacittakakālo. Pubbeva tathā cittaṃ bhāvitaṃ hotīti nirodhasamāpattito pubbe addhānaparicchedakāleyeva ettakaṃ kālaṃ acittako hutvā tato paraṃ sacittako bhavissāmīti addhānaparicchedacittaṃ bhāvitaṃ hoti. Yaṃ taṃ tathattāya upanetīti yaṃ evaṃ bhāvitaṃ cittaṃ, taṃ puggalaṃ tathattāya sacittakabhāvāya upaneti. Iti heṭṭhā nirodhasamāpajjanakālo gahito, idha nirodhato vuṭṭhānakālo.

 

Idāni nirodhakathaṃ kathetuṃ vāroti nirodhakathā kathetabbā siyā, sā panesā, ‘‘dvīhi balehi samannāgatattā tayo ca saṅkhārānaṃ paṭippassaddhiyā soḷasahi ñāṇacariyāhi navahi samādhicariyāhi vasībhāvatāpaññā nirodhasamāpattiyā ñāṇa’’nti mātikaṃ ṭhapetvā sabbākārena visuddhimagge kathitā. Tasmā tattha kathitanayeneva gahetabbā. Ko panāyaṃ nirodho nāma? Catunnaṃ khandhānaṃ paṭisaṅkhā appavatti. Atha kimatthametaṃ samāpajjantīti. Saṅkhārānaṃ pavatte ukkaṇṭhitā sattāhaṃ acittakā hutvā sukhaṃ viharissāma, diṭṭhadhammanibbānaṃ nāmetaṃ, yadidaṃ nirodhoti etadatthaṃ samāpajjanti.

 

Paṭhamaṃ uppajjati cittasaṅkhāroti nirodhā vuṭṭhahantassa hi phalasamāpatticittaṃ paṭhamaṃ uppajjati. Taṃsampayuttaṃ saññañca vedanañca sandhāya, ‘‘paṭhamaṃ uppajjati cittasaṅkhāro’’ti āha. Tato kāyasaṅkhāroti tato paraṃ bhavaṅgasamaye kāyasaṅkhāro uppajjati. Kiṃ pana phalasamāpatti assāsapassāse na samuṭṭhāpetīti? Samuṭṭhāpeti. Imassa pana catutthajjhānikā phalasamāpatti, sā na samuṭṭhāpeti. Kiṃ vā etena phalasamāpatti paṭhamajjhānikā vā hotu, dutiyatatiyacatutthajjhānikā vā, santāya samāpattiyā vuṭṭhitassa bhikkhuno assāsapassāsā abbohārikā honti. Tesaṃ abbohārikabhāvo sañjīvattheravatthunā veditabbo. Sañjīvattherassa hi samāpattito vuṭṭhāya kiṃsukapupphasadise vītaccitaṅgāre maddamānassa gacchato cīvare aṃsumattampi na jhāyi, usumākāramattampi nāhosi, samāpattiphalaṃ nāmetanti vadanti. Evamevaṃ santāya samāpattiyā vuṭṭhitassa bhikkhuno assāsapassāsā abbohārikā hontīti bhavaṅgasamayenevetaṃ kathitanti veditabbaṃ.

 

Tato vacīsaṅkhāroti tato paraṃ kiriyamayapavattavaḷañjanakāle vacīsaṅkhāro uppajjati. Kiṃ bhavaṅgaṃ vitakkavicāre na samuṭṭhāpetīti? Samuṭṭhāpeti. Taṃsamuṭṭhānā pana vitakkavicārā vācaṃ abhisaṅkhātuṃ na sakkontīti kiriyamayapavattavaḷañjanakālenevataṃ kathitaṃ. Suññato phassotiādayo saguṇenāpi ārammaṇenāpi kathetabbā. Saguṇena tāva suññatā nāma phalasamāpatti, tāya sahajātaṃ phassaṃ sandhāya suññato phassoti vuttaṃ. Animittāpaṇihitesupieseva nayo. Ārammaṇena pana nibbānaṃ rāgādīhi suññattā suññaṃ nāma, rāganimittādīnaṃ abhāvā animittaṃ, rāgadosamohappaṇidhīnaṃ abhāvā appaṇihitaṃ. Suññataṃ nibbānaṃ ārammaṇaṃ katvā uppannaphalasamāpattiyaṃ phasso suññato nāma. Animittāpaṇihitesupi eseva nayo.

 

Aparā āgamaniyakathā nāma hoti, suññatā, animittā, appaṇihitāti hi vipassanāpi vuccati. Tattha yo bhikkhu saṅkhāre aniccato pariggahetvā aniccato disvā aniccato vuṭṭhāti, tassa vuṭṭhānagāminivipassanā animittā nāma hoti. Yo dukkhato pariggahetvā dukkhato disvā dukkhato vuṭṭhāti, tassa appaṇihitā nāma. Yo anattato pariggahetvā anattato disvā anattato vuṭṭhāti, tassa suññatā nāma. Tattha animittavipassanāya maggo animitto nāma, animittamaggassa phalaṃ animittaṃ nāma. Animittaphalasamāpattisahajāte phasse phusante animitto phasso phusatīti vuccati. Appaṇihitasuññatesupi eseva nayo. Āgamaniyena kathite pana suññato vā phasso animitto vā phasso appaṇihito vā phassoti vikappo āpajjeyya, tasmā saguṇena ceva ārammaṇena ca kathetabbaṃ. Evañhi tayo phassā phusantīti sameti.

 

Vivekaninnantiādīsu nibbānaṃ viveko nāma, tasmiṃ viveke ninnaṃ onatanti vivekaninnaṃ. Aññato āgantvā yena viveko, tena vaṅkaṃ viya hutvā ṭhitanti vivekapoṇaṃ. Yena viveko, tena patamānaṃ viya ṭhitanti vivekapabbhāraṃ.

 

465. Idāni yā vedanā nirodhetvā nirodhasamāpattiṃ samāpajjati, tā pucchissāmīti pucchanto kati panāyye, vedanāti āha. Kāyikaṃ vātiādīsu pañcadvārikaṃ sukhaṃ kāyikaṃ nāma, manodvārikaṃ cetasikaṃ nāmāti veditabbaṃ. Tattha sukhanti sabhāvaniddeso. Sātanti tasseva madhurabhāvadīpakaṃ vevacanaṃ. Vedayitanti vedayitabhāvadīpakaṃ, sabbavedanānaṃ sādhāraṇavacanaṃ. Sesapadesupi eseva nayo. Ṭhitisukhā vipariṇāmadukkhātiādīsu sukhāya vedanāya atthibhāvo sukhaṃ, natthibhāvo dukkhaṃ. Dukkhāya vedanāya atthibhāvo dukkhaṃ, natthibhāvo sukhaṃ. Adukkhamasukhāya vedanāya jānanabhāvo sukhaṃ, ajānanabhāvo dukkhanti attho.

 

Kiṃ anusayo anusetīti katamo anusayo anuseti. Appahīnaṭṭhena sayito viya hotīti anusayapucchaṃ pucchati. Na kho, āvuso visākha, sabbāya sukhāya vedanāya rāgānusayo anusetīti na sabbāya sukhāya vedanāya rāgānusayo anuseti. Na sabbāya sukhāya vedanāya so appahīno, na sabbaṃ sukhaṃ vedanaṃ ārabbha uppajjatīti attho. Esa nayo sabbattha. Kiṃ pahātabbanti ayaṃ pahānapucchā nāma.

 

Rāgaṃ tena pajahatīti ettha ekeneva byākaraṇena dve pucchā vissajjesi. Idha bhikkhu rāgānusayaṃ vikkhambhetvā paṭhamajjhānaṃ samāpajjati, jhānavikkhambhitaṃ rāgānusayaṃ tathā vikkhambhitameva katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā anāgāmimaggena samugghāteti. So anāgāmimaggena pahīnopi tathā vikkhambhitattāva paṭhamajjhāne nānuseti nāma. Tenāha – ‘‘na tattha rāgānusayo anusetī’’ti. Tadāyatananti taṃ āyatanaṃ, paramassāsabhāvena patiṭṭhānabhūtaṃ arahattanti attho. Iti anuttaresūti evaṃ anuttarā vimokkhāti laddhanāme arahatte. Pihaṃ upaṭṭhāpayatoti patthanaṃ paṭṭhapentassa. Uppajjati pihāpaccayā domanassanti patthanāya paṭṭhapanamūlakaṃ domanassaṃ uppajjati. Taṃ panetaṃ na patthanāya paṭṭhapanamūlakaṃ uppajjati, patthetvā alabhantassa pana alābhamūlakaṃ uppajjamānaṃ, ‘‘uppajjati pihāpaccayā’’ti vuttaṃ. Tattha kiñcāpi domanassaṃ nāma ekantena akusalaṃ, idaṃ pana sevitabbaṃ domanassaṃ vaṭṭatīti vadanti. Yogino hi temāsikaṃ chamāsikaṃ vā navamāsikaṃ vā paṭipadaṃ gaṇhanti. Tesu yo taṃ taṃ paṭipadaṃ gahetvā antokālaparicchedeyeva arahattaṃ pāpuṇissāmīti ghaṭento vāyamanto na sakkoti yathāparicchinnakālena pāpuṇituṃ, tassa balavadomanassaṃ uppajjati, āḷindikavāsimahāphussadevattherassa viya assudhārā pavattanti. Thero kira ekūnavīsativassāni gatapaccāgatavattaṃ pūresi. Tassa, ‘‘imasmiṃ vāre arahattaṃ gaṇhissāmi, imasmiṃ vāre visuddhipavāraṇaṃ pavāressāmī’’ti mānasaṃ bandhitvā samaṇadhammaṃ karontasseva ekūnavīsativassāni atikkantāni. Pavāraṇādivase āgate therassa assupātena muttadivaso nāma nāhosi. Vīsatime pana vasse arahattaṃ pāṇuṇi.

 

Paṭighaṃ tena pajahatīti ettha domanasseneva paṭighaṃ pajahati. Na hi paṭigheneva paṭighappahānaṃ, domanassena vā domanassappahānaṃ nāma atthi. Ayaṃ pana bhikkhu temāsikādīsu aññataraṃ paṭipadaṃ gahetvā iti paṭisañcikkhati – ‘‘passa bhikkhu, kiṃ tuyhaṃ sīlena hīnaṭṭhānaṃ atthi, udāhu vīriyena, udāhu paññāya, nanu te sīlaṃ suparisuddhaṃ vīriyaṃ supaggahitaṃ paññā sūrā hutvā vahatī’’ti. So evaṃ paṭisañcikkhitvā, ‘‘na dāni puna imassa domanassassa uppajjituṃ dassāmī’’ti vīriyaṃ daḷhaṃ katvā antotemāse vā antochamāse vā antonavamāse vā anāgāmimaggena taṃ samugghāteti. Iminā pariyāyena paṭigheneva paṭighaṃ, domanasseneva domanassaṃ pajahati nāma.

 

Na tattha paṭighānusayo anusetīti tattha evarūpe domanasse paṭighānusayo nānuseti. Na taṃ ārabbha uppajjati, pahīnova tattha paṭighānusayoti attho. Avijjaṃ tena pajahatīti idha bhikkhu avijjānusayaṃ vikkhambhetvā catutthajjhānaṃ samāpajjati, jhānavikkhambhitaṃ avijjānusayaṃ tathā vikkhambhitameva katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattamaggena samugghāteti. So arahattamaggena pahīnopi tathā vikkhambhitattāva catutthajjhāne nānuseti nāma. Tenāha – ‘‘na tattha avijjānusayo anusetī’’ti.

 

466. Idāni paṭibhāgapucchaṃ pucchanto sukhāya panāyyetiādimāha. Tassa vissajjane yasmā sukhassa dukkhaṃ, dukkhassa ca sukhaṃ paccanīkaṃ, tasmā dvīsu vedanāsu visabhāgapaṭibhāgo kathito. Upekkhā pana andhakārā avibhūtā duddīpanā, avijjāpi tādisāvāti tenettha sabhāgapaṭibhāgo kathito. Yattakesu pana ṭhānesu avijjā tamaṃ karoti, tattakesu vijjā tamaṃ vinodetīti visabhāgapaṭibhāgo kathito. Avijjāya kho, āvusoti ettha ubhopete dhammā anāsavā lokuttarāti sabhāgapaṭibhāgova kathito. Vimuttiyā kho, āvusoti ettha anāsavaṭṭhena lokuttaraṭṭhena abyākataṭṭhena ca sabhāgapaṭibhāgova kathito. Accayāsīti ettha pañhaṃ atikkamitvā gatosīti attho. Nāsakkhi pañhānaṃ pariyantaṃ gahetunti pañhānaṃ paricchedapamāṇaṃ gahetuṃ nāsakkhi, appaṭibhāgadhammassa paṭibhāgaṃ pucchi. Nibbānaṃ nāmetaṃ appaṭibhāgaṃ, na sakkā nīlaṃ vā pītakaṃ vāti kenaci dhammena saddhiṃ paṭibhāgaṃ katvā dassetuṃ. Tañca tvaṃ iminā adhippāyena pucchasīti attho.

 

Ettāvatā cāyaṃ upāsako yathā nāma sattame ghare salākabhattaṃ labhitvā gato bhikkhu satta gharāni atikkamma aṭṭhamassa dvāre ṭhito sabbānipi satta gehāni viraddhova na aññāsi, evamevaṃ appaṭibhāgadhammassa paṭibhāgaṃ pucchanto sabbāsupi sattasu sappaṭibhāgapucchāsu viraddhova hotīti veditabbo. Nibbānogadhanti nibbānabbhantaraṃ nibbānaṃ anupaviṭṭhaṃ. Nibbānaparāyananti nibbānaṃ paraṃ ayanamassa parā gati, na tato paraṃ gacchatīti attho. Nibbānaṃ pariyosānaṃ avasānaṃ assāti nibbānapariyosānaṃ.

 

467. Paṇḍitāti paṇḍiccena samannāgatā, dhātukusalā āyatanakusalā paṭiccasamuppādakusalā ṭhānāṭṭhānakusalāti attho. Mahāpaññāti mahante atthe mahante dhamme mahantā niruttiyo mahantāni paṭibhānāni pariggaṇhanasamatthāya paññāya samannāgatā. Yathā taṃ dhammadinnāyāti yathā dhammadinnāya bhikkhuniyā byākataṃ, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyanti. Ettāvatā ca pana ayaṃ suttanto jinabhāsito nāma jāto, na sāvakabhāsito. Yathā hi rājayuttehi likhitaṃ paṇṇaṃ yāva rājamuddikāya na lañchitaṃ hoti, na tāva rājapaṇṇanti saṅkhyaṃ gacchati; lañchitamattaṃ pana rājapaṇṇaṃ nāma hoti, tathā, ‘‘ahampi taṃ evameva byākareyya’’nti imāya jinavacanamuddikāya lañchitattā ayaṃ suttanto āhaccavacanena jinabhāsito nāma jāto. Sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.

 

Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya

 

Cūḷavedallasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.

 



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

       

     Thảo luận 1

      Thảo luận 2

      Thảo luận 3

     Thảo luận 4.  

    Thảo luận  5. 

    Thảo luận 6. 





 III Trắc Nghiệm

No comments:

Post a Comment