Trường Bộ Kinh - Dìgha Nikàya
Giảng Sư TT Pháp Tân
GIÁO TRÌNH TRƯỜNG BỘ KINH
HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 18/8/2018
6. Kinh Ma-ha-li (Mahàli Sutta) và 7. Kinh Cha Li Da (Jàliya
sutta)
Một số bà la môn quan chức đến diện kiến Đức Phật nêu lên câu
hỏi về trường hợp một người dòng Licchavi từng xuất gia theo Phật nhưng chỉ đắc
thiên nhãn thông mà không đắc được thiên nhĩ thông. Đức Phật cho biết đó là trường
hợp một người tu tập định lực nhất biên. Khi được hỏi có thể chăng để một người
tu tập chứng cả hai khả năng thấy và nghe một cách thù diệu đối với cả hai sắc
tướng và âm thanh Đức Phật đã trả lời là có thể. Các vị đó lại hỏi nếu muốn tu
tập để chứng đắc (cả thiên nhãn và thiên nhĩ) thì có phải sống phạm hạnh theo
giáo pháp của Đức Phật? Rồi Đấng Thiện Thệ trả lời đó không phải là những điều
cao quý mà đời sống phạm hạnh hướng tới. Rồi Ngài dạy về bát chánh đạo để đoạn
tận mười kiết sử.
Nhân đó Ngài cũng kể lại giai thoại hai du sĩ ngoại đạo là Mandissa
và Jàliya đến gặp Ngài ở Ghositàràma để hỏi một câu mang tính xác lập lưỡng
biên: Sự sống và thân xác là một hay hai. Đức Phật trả lời câu hỏi đó bằng pháp
thoại về con đường giới, định, tuệ (như trong Kinh Sa Môn Quả). Ngài cũng khẳng
định: vị Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề:
"Sự sống và thân thể là một hay là khác". Tuy Ta cũng biết như vậy, thấy như vậy, nhưng
Ta không nói "Sự sống và thân
thể là một hay là khác".
Giai thoại hai du sĩ
ngoại đạo là Mandissa và Jàliya gặp Đức Phật được ghi lại thành bài kinh riêng
biệt là kinh số 7 trong Trường Bộ có tên là Kinh Jàliya. Do vậy giảng chung với
kinh số 6.
Những điểm quan trọng:
1 1. Người đời thường nhìn vấn đề qua hai khía cạnh có
và không nhưng sự thật không đơn giản như vậy.
2 2. Có những sự việc quan trọng với người thế gian
nhưng không quan trọng trong Phật Pháp.
3 3. Không phải tất cả vấn đề đều được trả lời với sự
xác lập mà còn tùy trình độ và góc nhìn.
4 4. Mười vấn đề Đức Phật không trả lời (hai câu về
thời gian: thế giới hằng cữu hay không hằng cữu; hai câu về không gian: vũ trụ
là hữu biên hay vô biên; hai câu về chủ thể khách thể: sự sống và thân xác là một
hay hai; bốn câu về Như lai còn hay mất sau khi chết) đều được xem là siêu hình
phù phiếm, nằm trong đối đãi nhị biên, xác lập điều mang tính bất định.
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
6. Kinh Mahàli
(Mahàli sutta)
1. Như vậy tôi nghe. Một thời đức Thế Tôn trú tại Vesali (Tỳ-xá-ly) ở giảng đường Trùng Các, rừng Ðại Lâm. Lúc bấy giờ, một số đông sứ giả Bà-la-môn nước Kosala (Câu-tất-la) và nước Magadha (Ma-kiệt-đà), đang ở tại Vesali vì một vài công việc. Những vị sứ giả ấy được nghe như sau: "Này các Tôn giả, Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca hiện nay đang trú tại Vesali, ở giảng đường Trùng Các, rừng Ðại Lâm. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn Gotama: "Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài đã tự chứng ngộ thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, tự chứng ngộ rồi hiển thị cho mọi loài được biết. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh". Nếu được yết kiến một vị A-la-hán như vậy thì rất quý".
2. Những vị sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và ở Magadha ấy đi đến giảng đường tại rừng Ðại Lâm. Lúc bấy giờ, đại đức Nàgita là thị giả đức Thế Tôn. Những vị sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và ở Magadha ấy đi đến chỗ đại đức Nàgita ở và thưa:
- Tôn giả Nàgita, hiện nay Tôn giả Gotama ở tại đâu, chúng tôi muốn yết kiến Tôn giả Gotama.
- Các Hiền giả, nay không phải thời yết kiến đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn đang chỉ tịnh. Những sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha liền ngồi xuống tại một bên và nói: "Sau khi được yết kiến Tôn giả Gotama, chúng tôi mới đi".
3. Otthadda (Môi thỏ) người Licchavi cùng với một số đông dân chúng Licchavi cũng đi đến Trùng Các giảng đường, rừng Ðại Lâm gặp đại đức Nàgita, đảnh lễ vị này rồi đứng một bên. Otthadda người Licchavi thưa với đại đức Nàgita:
- Hiện nay đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở tại đâu, chúng con muốn yết kiến đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
- Màhàli, nay không phải thời yết kiến đức Thế Tôn, Ðức Thế Tôn đang chỉ tịnh.
Otthadda người Licchavi liền ngồi xuống một bên tại chỗ ấy và nói:
- Sau khi được yết kiến đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác con mới đi.
4. Khi ấy Sa-di Sìha đến đại đức Nàgita, đảnh lễ đại đức và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Sa-di Sìha nói với đại đức Nàgita:
- Bạch Ðại đức Kassapa (Ca-diếp) một số đông sứ giả Bà-La-môn ở Kosala và Magadha đã đến đây để yết kiến đức Thế Tôn; Otthada người Licchavi cũng đến đây với số đông dân chúng Licchavi để yết kiến đức Thế Tôn. Ðại đức Kassapa, lành thay, nếu những vị này được yết kiến đức Thế Tôn.
- Vậy Sìha hãy thưa với đức Thế Tôn.
- Thưa vâng, bạch Ðại đức!
Sa-di Sìha vâng theo lời dạy của đại đức Nàgita, đến tại chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài rồi đứng một bên. Sa-di Sìha sau khi đứng một bên liền bạch đức Thế Tôn:
- Bạch đức Thế Tôn, một số đông sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha đến đây để yết kiến đức Thế Tôn. Otthadda, người Licchavi cùng một số đông dân chúng Licchavi đã đến đây để yết kiến đức Thế Tôn. Lành thay nếu những vị này được yết kiến đức Thế Tôn!
- Nay Sìha, hãy dọn chỗ ngồi trong bóng mát, trước mặt ngôi tịnh xá.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Sa-di Sìha vâng theo lời dạy đức Thế Tôn, sắp đặt một chỗ ngồi trong bóng mát trước mặt ngôi tịnh xá, và đức Thế Tôn đi ra khỏi tịnh xá và ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn trong bóng mát, trước mặt ngôi tịnh xá.
5. Rồi các sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha đến tại chỗ đức Phật, nói lên những lời chúc tụng thân hữu và xã giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Otthadda người Licchavi cùng với một số lớn dân Licchavi cũng đến tại chỗ đức Phật, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Otthadda người Licchavi thưa với Thế Tôn:
- Bạch Ðại đức, hai ba ngày về trước, Sunakkhatta, dòng họ Licchavi đến chỗ con ở và nói với con: "Này Mahàli, từ khi tôi sống gần đức Phật, không lâu quá ba năm, tôi được thấy những thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không được nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi". Bạch Thế Tôn, những thiên âm mà Sunakkhatta dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, không hiểu những thiên âm ấy có thật hay không có thật?
- Này Mahàli những thiên âm mà Sunakkhatta dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, những thiên âm ấy có thật, không phải không có.
6. - Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, những thiên âm mà Sunakkhatta, dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, những thiên âm ấy có thật, không phải là không có.
- Này Mahàli, có Tỷ-kheo tu định nhất hướng, hướng về phía Ðông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía Ðông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này thấy được về phía Ðông các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Ðông, chỉ với mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.
7. Lại nữa, này Mahàli, có vị Tỷ-kheo tu định nhứt hướng, hướng về phía Nam... về phía Tây... về phía Bắc... phía Trên, Dưới, Ngang, với mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang, với mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này thấy được về phía Trên, Dưới, Ngang, các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang, chỉ với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.
8. Này Mahàli, có vị Tỷ-kheo tu định nhất hướng, hướng về phía Ðông với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhất hướng, hướng về phía Ðông với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này nghe được về phía Ðông các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì vị Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Ðông, chỉ với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.
9. Lại nữa, này Mahàli, có Tỷ-kheo tu định nhứt hướng, hướng về phía Nam... hướng về phía Tây... hướng về phía Bắc... phía Trên, Dưới, Ngang với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú phấn khởi. Vì vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này nghe được, phía Trên, Dưới, Ngang, các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không thấy được các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang chỉ với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.
10. Này Mahàli, có Tỷ-kheo tu định nhị hướng, hướng về phía Ðông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì vị tu định nhị hướng, hướng về phía Ðông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nên vị này hướng về phía Ðông thấy được các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và nghe được các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhị hướng, hướng về phía Ðông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.
11. Này Mahàli, có vị Tỷ-kheo tu định nhị hướng, hướng về phía Nam... hướng Tây... hướng về phía Bắc... về phía Trên, Dưới, Ngang, với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhị hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nên vị này hướng về phía Trên, Dưới, Ngang, thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì cớ sao? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhị hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, và với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Này Mahàli, do nhân này, do duyên này, những thiên âm ấy có thật, không phải là không có.
12. - Bạch Thế Tôn, như vậy có phải muốn chứng được các pháp định thiền định ấy mà các Tỷ-kheo sống đời phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
- Này Mahàli, không phải muốn chứng được các pháp thiền định ấy mà các Tỷ-kheo sống đời phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Ta. Này Mahàli, có những pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn. Vì muốn chứng được những pháp ấy, các vị Tỷ-kheo sống đời phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Ta.
13. - Bạch Thế Tôn, những pháp ấy, cao thượng hơn, thù thắng hơn là gì mà các vị Tỷ-kheo vì muốn chứng được những pháp ấy sống đời phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
- Này Mahàli, ở đây Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử, thành bậc Dự lưu, không đọa ác thú, chắc chắn đạt quả Bồ-đề. Này Mahàli, pháp này cao thượng và thù thắng hơn, vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ta.
Lại nữa, này Mahàli, Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc Nhứt lai, còn phải sanh lại trong đời này một lần nữa trước khi diệt hẳn khổ đau. Này Mahàli, pháp này cao thượng hơn và thù thắng hơn. Vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Ta.
Lại nữa, này Mahàli, vị Tỷ-kheo đã đoạn dứt năm hạ phần kiết sử, thành vị hóa sanh, nhập Niết-bàn tại đây, không còn phải trở lại thế giới này nữa. Này Mahàli, pháp này cao thượng và thù thắng hơn. Vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ta.
Này Mahàli, những pháp cao thượng và thù thắng này, vì muốn chứng được pháp ấy, các Tỷ-kheo sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ta.
14. - Bạch Thế Tôn, có con đường nào, có đạo lộ nào đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy?
- Này Mahàli, có con đường, có đạo lộ đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy.
- Bạch Thế Tôn, có con đường nào, có đạo lộ nào đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy?
- Ðó là con đường Thánh có tám ngành: Chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này Mahàli, con đường này, đạo lộ này đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy.
15. Này Mahàli, một thời Ta ở Kosambi vườn Ghositàràma. Lúc bấy giờ có hai người xuất gia. Mandissa một vị du sĩ và Jàliya đệ tử của Dàrupattika, đến tại chỗ Ta ở, nói lên những lời chúc tụng thân hữu và xã giao với Ta rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, hai vị xuất gia nói với Ta như sau:
- Này Hiền giả, mạng căn và thân thể là một hay là khác?
- Này Hiền giả, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
- Vâng, Hiền giả!
Hai vị xuất gia trả lời Ta như thế và Ta nói như sau:
16. - Này Hiền giả, ở đây Như Lai sanh ra đời, vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ... (tương tự như kinh "Sa-môn quả", đoạn kinh 41-82) ... Này Hiền giả, như vậy vị Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh... chứng và an trú Sơ thiền. Này Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay khác" không?
Này Hiền giả, Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, nhưng Ta không nói: "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
17. Chứng và an trú đệ nhị thiền... đệ tam thiền... đệ tứ thiền. Này Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay khác" không?
Này Hiền giả, Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
18. Vị Tỷ-kheo ấy hướng tâm, dẫn tâm đến tri kiến. Này Hiền giả, khi vị Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến vấn đề: "Mạng căn và thân thể là một hay là khác" không?
Này Hiền giả, vị Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề: "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
19. Vị ấy biết: "Sau đời này sẽ không có đời khác nữa". Này Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay là khác" không?
Này Hiền giả, vị Tỷ-kheo biết như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay là khác". Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Ðức Thế Tôn thuyết như vậy. Otthadda người Licchavi hoan hỷ tín họ lời Thế Tôn dạy.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
ÌI Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
III Trắc Nghiệm
Trắc nghiệm 1. Có dụ ngôn người cha dạy con khi con còn nhỏ
con có thể nói con hơn cha; ở tuổi trung niên con sẽ thấy con bằng cha; khi về
già với sự trưởng thành đầy đủ con sẽ thấy thua cha. Vậy thì điều nào sau đây có
thể được xem là đúng?
A. Con hơn cha /
B. Con bằng cha /
C. Con thua cha/
D. Ba
câu khẳng định A, B, C đều sai vì vấn đề vốn bất định (tuỳ mỗi trường hợp)
TT Tuệ Siêu cho đáp án trắc nghiệm 1: D
TT Tuệ Siêu cho đáp án trắc nghiệm 1: D
Trắc nghiệm 2. Trong Tương Ưng Bộ Kinh tập IV kinh số 374
ghi lại giai thoại sau đây:
6) Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến Tỷ-kheo-ni Khemà; sau
khi đến, đảnh lễ vị ấy rồi ngồi xuống một bên.
7) Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala thưa với Tỷ-kheo-ni
Khemà:
-- Thưa Nữ Tôn giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không?
-- Tâu Ðại vương, Thế Tôn không trả lời: "Như Lai có tồn
tại sau khi chết".
8) -- Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như Lai không tồn tại sau khi
chết?
-- Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: "Như Lai
không có tồn tại sau khi chết".
9) -- Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như Lai có tồn tại và không tồn
tại sau khi chết?
-- Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: "Như Lai
có tồn tại và không tồn tại sau khi chết".
10) -- Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết?
-- Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: "Như Lai
không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
11) -- Ðược hỏi: "Thưa Nữ Tôn giả, Như Lai có tồn tại
sau khi chết không?", Nữ Tôn giả trả lời: "Tâu Ðại vương, Thế Tôn
không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết"". Ðược hỏi: "Thế
là, thưa Nữ Tôn giả, có phải Như Lai không tồn tại sau khi chết không?", Nữ
Tôn giả trả lời: "Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai
không có tồn tại sau khi chết"". Ðược hỏi: "Thế là, thưa Nữ Tôn
giả, có phải Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?", Nữ Tôn giả
trả lời: "Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại
và không tồn tại sau khi chết"". Ðược hỏi: "Thế là, thưa Nữ Tôn
giả, có phải Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?",
Nữ Tôn giả trả lời: "Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai
không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết"". Thưa Nữ Tôn giả,
do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn lại không trả lời?
12)-- Vậy thưa Ðại vương, ở đây, tôi sẽ hỏi Ðại vương. Ðại
vương kham nhẫn như thế nào, hãy trả lời như vậy.
13) Ðại vương nghĩ thế nào, thưa Ðại vương, Ðại vương có người
kế toán nào, chưởng ấn nào (muddiko), toán số nào có thể đếm được cát sông Hằng
có số hột cát như vậy, có số trăm hột cát như vậy, có số ngàn hột cát như vậy,
có số trăm ngàn hột cát như vậy?
-- Thưa không, thưa Nữ Tôn giả.
14) -- Ðại vương có người kế toán nào, có người chưởng ấn
nào, có người toán số nào có thể đong lường được nước của biển lớn có số đấu nước
như vậy, có số trăm đấu nước như vậy, có số ngàn đấu nước như vậy, có số trăm
ngàn đấu nước như vậy?
-- Thưa không, thưa Nữ Tôn giả.
-- Vì sao?
-- Thưa Nữ Tôn giả, vì rằng biển lớn thâm sâu, vô lường, khó
dò đến đáy.
15) -- Cũng vậy, thưa Ðại vương, nếu có người muốn định
nghĩa Như Lai ngang qua sắc thân (rupena), nhưng sắc thân ấy, Như Lai đã đoạn tận,
cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, làm
cho không thể sanh khởi trong tương lai; được giải thoát khỏi sự ước lượng của
sắc thân. Thưa Ðại vương, Như Lai là thâm sâu, vô lường, không thể đến tận đáy,
như biển lớn. Nói rằng: "Như Lai có tồn tại sau khi chết", không thể chấp
nhận. Nói rằng: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết", cũng không
thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết",
cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai không tồn tại và không không
tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận.
16) Nếu có người muốn định nghĩa Như Lai ngang qua cảm thọ,
nhưng cảm thọ ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây
ta-la, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai;
được giải thoát khỏi sự ước lượng của cảm thọ. Thưa Ðại vương, Như Lai là thâm
sâu, vô lường, không thể đến tận đáy, như biển lớn. Nói rằng: "Như Lai có
tồn tại sau khi chết", không thể chấp nhận... Nói rằng: "Như Lai
không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận.
17-19) Nếu có người muốn định nghĩa Như Lai qua các tưởng...
qua các hành... qua các thức; nhưng thức ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt tận gốc
rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể
sanh khởi trong tương lai; được giải thoát khỏi sự ước lượng của thức. Thưa Ðại
vương, Như Lai là thâm sâu, vô lường, không thể đến tận đáy, như biển lớn. Nói
rằng: "Như Lai có tồn tại sau khi chết", không thể chấp nhận. Nói rằng:
"Như Lai không có tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận.
Nói rằng: "Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết", cũng
không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại
sau khi chết", cũng không thể chấp nhận.
Câu hỏi: Bốn câu hỏi về Như lai tồn tại hay không tồn tại
sau khi chết không được Đức Phật và các thánh đệ tử trả lời vì lý do nào sau đây?
A. Vì chính các Ngài cũng không biết như trường hợp Khổng tử không giải thích được
vì sao mặt trời buổi sáng gần (nhìn lớn) lại mát, buổi trưa xa (nhìn nhỏ hơn) lại
nóng /
B. Vì vấn đề vượt tầm nhận thức của chúng sanh (vì chúng sanh nghĩ tới
hiện hữu và không hiện hữu đều qua năm uẩn)/
C. Không lợi ích gì cho sự giác ngộ
giải thoát; nếu một người không thấu hiểu và thực hành lời Phật dạy thì câu hỏi
bây giờ Phật ở đâu? trong trạng thái nào có ích lợi gì? /
D. Câu B và C đúng
TT Pháp Đăng cho đáp án trắc nghiệm 2: B
TT Pháp Đăng cho đáp án trắc nghiệm 2: B
Trắc nghiệm 3. Duy vật biện chứng thì vật chất là cái có trước,
vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức
và là cái quyết định ý thức; là cái tác động lại vật chất. Theo Phật học thì điều
nào sau đây là đúng?
A. Vô Minh duyên hành, ái duyên thủ, thủ duyên hữu là chủ
quan /
B. thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc,
sanh duyên lão tử là khách quan /
C. Nói theo tam luân thì phiền não duyên cho
nghiệp là chủ quan, nghiệp tạo nên quả là khách quan (tự nhiên), quả sanh phiền
não có cả hai chủ quan, khách quan /
D. ba câu trên đều đúng (vì thế nói là tồn
tại khách quan hay không phải đều là phiến diện như nói sự sống và thân xác là
một hay hai)
ĐĐ Pháp Tín cho đáp án trắc nghiệm 3: D
ĐĐ Pháp Tín cho đáp án trắc nghiệm 3: D
Trắc nghiệm 4. Bàn về biên kiến (cái nhìn đối đãi) thử đưa
ra câu chuyện: Một người khen em bé hát hay. Những người khác nghe lời khen có
phản ứng. Thái độ nào sau đây được xem là hợp lý?
A. Khen như vậy là sai vì em
bé không thể có thanh sắc vẹn toàn, kinh nghiệm diễn xuất và kiến thức nhạc lý.
/
B. Nếu người nghe thích thú thì nhất định là hay/
C. Nếu so ở tuổi còn nhỏ mà
khi hát khiến người nghe thích thú như vậy có điểm hay nhưng không phải là hay
theo tiêu chuẩn ca sĩ chuyên nghiệp vì thế không thể nói phê bình phiến diện /
D. Khen hay chê đều sai chỉ có im lặng là đúng.
TT Pháp Đăng giảng giải trắc nghiệm 4
TT Pháp Đăng giảng giải trắc nghiệm 4
No comments:
Post a Comment