17. Kinh Khu Rừng
(Vanapattha Sutta)
Gọi là Kinh Khu Rừng (Vanapattha sutta) vì
khi nói đến trú xứ của một tỳ kheo thì khu rừng được đề cập đầu tiên, tiếp theo
là làng mạc, thị trấn, kinh đô và quốc độ. Tên bài kinh có thể gây ngộ nhận khu
rừng là chủ đề chính kỳ thật chỉ là đứng đầu trong danh sách.
Thuở ấy Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc) trong một pháp thoại
hằng ngày cho chư tỳ kheo Ngài đã đã dạy về sáu trú xứ, bốn trường hợp, và hai
quyết định nên có.
Sáu trú xứ
Sáu trú xứ là: khu rừng, làng mạc, thị trấn,
kinh đô, quốc độ và sống chung với người nào.
Đặc điểm của bài kinh nầy cho thấy ở đâu
không quan trọng mà chính là sự tiến bộ trong tu tập.
Bốn trường hợp
a. Tứ
sự (y phục, chỗ ở, am thất, thuốc trị bệnh) thiếu thốn mà sự tu tập cũng thối
thất.
b. Tứ
sự dồi dào nhưng sự tu tập thối thất.
c. Tứ
sự thiếu thốn nhưng sự tu tập tăng tiến.
d. Tứ
sự dồi dào mà sự tu tập cũng tăng tiến
Hai quyết định nên có
a. Nếu
ở chỗ nào mà sự tu tập thối thất thì “phải từ bỏ ngôi rừng ấy, không được ở
lại, trong trường hợp nhưng nhu yếu thiếu thốn thì nên ra đi lập tức dù ngay
lúc ban ngày hay lúc ban đêm”.
b. Nếu
ở chỗ nào mà sự tu tập tăng tiến thì phải ở lại khu rừng ấy, không được bỏ đi.
Thậm chí nên ở trọn đời nếu tứ sự có được’. Cần đọc trọn chánh kinh để có thể
nắm được ý chính.
090. Sáu trú xứ, bốn
trường hợp, và hai quyết định
Như
vầy tôi nghe.
Một thời, Thế
Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapiṇḍika
(Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". -- "Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: "Chư Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các
Người pháp môn về khu rừng. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ
giảng". --"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Những Tỷ-kheo ấy
vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
-- Chư Tỷ-kheo,
ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng
này, các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa
được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được
hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an
ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt,
và những vật dụng này cần thiết cho đời sống mà một người xuất
gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, y
dược trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ: "Ta sống tại khu rừng
này, Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không
được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh,
các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn
đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt
không được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà
một vị xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một
cách khó khăn". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải từ bỏ ngôi
rừng ấy, không được ở lại, ngay lúc ban ngày hay lúc ban đêm.
Chư Tỷ-kheo, ở
đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng
này, các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa
được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được
hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an
ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt,
và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia
cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược
phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách không khó
khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: "Ta
sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa
được an trú không được an trú... những vật dụng này kiếm được
một cách không khó khăn. Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia,
từ bỏ gia đình sống không gia đình, không phải vì đồ ăn khất
thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị
bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nhưng trong
khi ta ở tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an
trú... vô thượng an ổn khỏi các ách phược không được chứng
đạt". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy chỉ với suy tính này phải từ
bỏ ngôi rừng ấy, không được ở lại.
Chư Tỷ-kheo, ở
đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng
này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm tư chưa được
định tĩnh được định tĩnh; các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn
trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược
chưa được chứng đạt được chứng đạt, nhưng những vật dụng cần
thiết cho đời sống một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục,
đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật này
kiếm được một cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy
nghĩ như sau: "Ta sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng
này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn
khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt... những
vật dụng này kiếm được một cách khó khăn. Nhưng không phải vì y
phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, không phải
vì món ăn khất thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì
dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình. Nhưng trong khi ta ở tại khu rừng này, các niệm chưa được an
trú được an trú... vô thượng an ổn khỏi các ách phược được
chứng đạt". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy chỉ với suy tính này,
phải ở lại khu rừng ấy, không được bỏ đi.
Chư Tỷ-kheo, ở
đây Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng
này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn
khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt. Và những
vật dụng cần thiết... kiếm được một cách không khó khăn. Chư
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: "Ta sống tại khu
rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú
được an trú... vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt
được chứng đạt, và những vật dụng này cần thiết... kiếm được một
cách không khó khăn". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải ở lại khu
rừng cho đến trọn đời, không được rời bỏ.
Chư Tỷ-kheo, ở
đây, Tỷ-kheo sống tại một làng nào... Chư Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo
sống tại một thị trấn nào... Chư Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống tại
một đô thị nào... Chư Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống tại một quốc gia
nào...
Chư Tỷ-kheo, ở
đây Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người này,
các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng
đạt, và những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó
khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: "Ta
sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa
được an trú không được an trú... không được chứng đạt, và những
vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó khăn". Chư
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy ngay trong phần đêm ấy hay ngay trong phần ngày
ấy, không phải xin phép, cần phải bỏ ngay người ấy mà đi, không
cần theo sát người ấy.
Chư Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy, các
niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt.
Nhưng những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách không
khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Ta
sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa
được an trú không được an trú... không được chứng đạt. Nhưng
những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách không khó
khăn. Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình... không phải vì đồ ăn khất thực... không phải
vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Và khi ta sống gần người này,
các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng
đạt". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, chỉ với ước tính này, cần phải
bỏ người ấy mà đi, không có xin phép, không có theo sát.
Chư Tỷ-kheo, ở
đây, Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy,
các niệm chưa được an trú được an trú... được chứng đạt. Những
vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó khăn. Chư
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Ta sống gần người
này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an
trú... được chứng đạt. Những vật dụng này cần thiết... kiếm được
một cách khó khăn. Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình... không phải vì đồ ăn khất
thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị
bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Và khi ta
sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô
thượng an ổn khỏi các ách phược được chứng đạt". Chư
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, chỉ với suy tính này, cần phải theo sát người
ấy, không được bỏ đi.
Chư Tỷ-kheo, ở
đây, Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy,
các niệm chưa được an trú được an trú, tâm không định tĩnh được
định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn
toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được
chứng đạt được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời
sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn
khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị người bệnh, những vật dụng
này kiếm được một cách không khó khăn. Chư Tỷ- kheo, Tỷ-kheo ấy
cần phải suy tư như sau: "Ta sống gần người này. Khi ta sống
gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa
được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn
đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, và vô thượng an ổn, khỏi ách
phược chưa được thành đạt được thành đạt. Và những vật dụng cần
thiết cho đời sống mà một vị xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục,
đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng
này kiếm được một cách dễ dàng". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải
trọn đời theo sát người này, không được bỏ đi, dầu cho có bị xua
đuổi.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Những Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.
.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 17 [tóm tắt]
Kinh Khu Rừng
(Vanapattha Sutta)
(M.i, 104)
Đức Phật dạy một Tỷ-kheo
sống tại một khu rừng nào, tại một làng nào, tại một thị trấn
nào, tại một quốc độ nào, sống gần một người nào:
1/ Nếu các niệm chưa an trú,
không được an trú; nếu tâm tư chưa được định tĩnh, không được
định tĩnh; các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ, không được
đoạn trừ; vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt,
không được chứng đạt; các vật dụng kiếm được một cách khó khăn,
thời Tỷ-kheo ấy phải bỏ ngay người ấy mà đi, bất luận ngày đêm.
2/ Nếu các niệm chưa an trú,
không được an trú; nếu tâm tư chưa được định tĩnh, không được
định tĩnh; nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, không được đoạn
trừ; nếu vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt,
không được chứng đạt; nhưng các vật dụng tìm được không có khó khăn,
thời Tỷ-kheo ấy, với suy tính này, cần phải bỏ người ấy.
3/ Nếu các niệm chưa an trú,
được an trú; nếu tâm tư chưa được định tĩnh, được định tĩnh;
nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, được đoạn trừ; nếu vô
thượng an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt, được chứng đạt;
nhưng các vật dụng tìm được có khó khăn, vị Tỷ- kheo ấy phải
nghĩ rằng vị ấy xuất gia không phải vì mục đích được các vật
dụng, nên với suy tính này cần phải ở lại với người ấy.
4/ Nếu các niệm chưa an trú,
được an trú; nếu tâm tư chưa được định tĩnh, được định tĩnh;
nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, được đoạn trừ; nếu vô
thượng an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt, được chứng đạt;
và nếu các vật dụng tìm được không có khó khăn, thời vị ấy cần
phải trọn đời ở một bên người ấy không được rời bỏ, dù có bị
xua đuổi.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 17 [dàn ý]
Kinh Khu Rừng
(Vanapattha Sutta)
(M.i, 104)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn tuyên bố
sẽ giảng pháp môn về khu rừng cho các Tỷ-kheo và Ngài thuyết giảng.
B. Chánh kinh:
Thế Tôn trình
bày 4 loại khu rừng, và loại nào nên bỏ đi, loại nào nên ở lại.
I. Loại rừng thứ
nhất: Không đưa đến giải thoát, không có đủ 4 loại vật dụng: nên bỏ đi tức khắc.
II. Loại rừng thứ
hai: Không đưa đến giải thoát, nhưng 4 món cúng dường vật dụng đầy đủ: nên từ bỏ
ngôi rừng này.
III. Loại rừng
thứ ba: Đưa đến giải thoát, không đầy đủ 4 món cúng dường: phải ở lại ngôi rừng
này, không được bỏ đi.
IV. Loại rừng thứ
tư: Đủ điều kiện đưa đến giải thoát và 4 sự cúng dường đầy đủ: cần phải ở lại
cho đến trọn đời, không được rời bỏ.
V. Đối với làng,
thị trấn, quốc gia hay một người nào cũng theo đúng 4 tiêu chuẩn trên.
1. Không đưa đến
giải thoát, không được các vật dụng một cách dễ dàng: bỏ ngay.
2. Không đưa đến
giải thoát, tuy vật dụng đầy đủ: cũng phải bỏ đi.
3. Đưa đến giải
thoát, vật dụng không đầy đủ: phải ở lại, không được bỏ đi.
4. Đưa đến giải
thoát, và vật dụng đầy đủ: phải ở lại trọn đời.
C. Kết
luận:
Các Tỷ-kheo hoan
hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 17 [toát yếu]
Kinh Khu Rừng
(Vanapattha Sutta)
(M.i, 104)
I. Toát yếu
Vanapattha Sutta - jungle
thickets.
A discourse on the conditions
under which a meditative monk should remain living in a jungle thicket and the
conditions under which he should go elsewhere.
Khu rừng rậm.
Một bài giảng về những điều
kiện nào một tỳ kheo thiền định nên tiếp tục sống tại một khu
rừng, điều kiện nào nên bỏ đi chỗ khác.
II. Tóm tắt
Chỗ tỳ kheo nên cư trú trọn
đời (dù đấy là khu rừng, làng mạc, thị trấn, quốc gia, hay gần một
người nào) phải hội đủ hai điều kiện, tinh thần và vật chất. Về
tinh thần, phải tăng trưởng niệm, định, tuệ (niệm chưa an trú được
an trú; tâm chưa định tĩnh được định tĩnh; lậu hoặc chưa đoạn trừ
được đoạn trừ khiến tỳ kheo được vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách - tức chứng quả A-la-hán). Về vật chất, dễ kiếm bốn nhu yếu về
ăn mặc ở bệnh. Nếu được cả hai, nên nương ở trọn đời. Nếu chỉ
được điều kiện tinh thần, đời sống vật chất khó khăn, tỳ kheo cũng
nên ở với ý niệm rằng mình xuất gia không phải để mưu cầu vật
chất.
Nếu ở nơi nào (khu rừng,
làng mạc, ... hay gần người nào) mà tinh thần thiếu - không tăng
trưởng niệm định tuệ - mặc dù vật chất đầy đủ, tỳ kheo nên bỏ đi
chỗ khác sau khi nghĩ rằng xuất gia không để mưu cầu vật chất. Nếu
ở
nơi nào thiếu cả hai điều
kiện, tỳ kheo nên bỏ đi ngay lập tức.
III. Chú giải
Có thể tóm gọn bốn trường hợp, hai đi và
hai ở như sau:
Tu không tiến, tứ sự hiếm: –> đi; Tu không
tiến, tứ sự dồi dào: –> đi;
Tu tiến, tứ sự hiếm: –> ở; Tu tiến, tứ
sự dồi dào: –> ở.
IV. Pháp số
Ba pháp cần tăng trưởng là: niệm, định, tuệ (diệt
trừ lậu hoặc).
Bốn vật dụng
V. Kệ tụng
Tỳ
kheo ở nơi nào
Hay gần một người nào
Cần
phải thành tựu được
Những
điều kiện như sau.
Về
tinh thần có ba:
Niệm
phải được an trú
Tâm
phải được định tĩnh
Ô
nhiễm được đoạn trừ,
Về
vật chất có bốn:
Y phục và ẩm thực
Chỗ ở và dược phẩm
Bốn
sự không thiếu thốn.
Nếu
ở một nơi nào
Cả tinh thần vật chất
Điều thiếu thốn mọi đường
Bỏ
ngay không vấn vương.
Nếu
vật chất đầy đủ
Mà
tinh thần không tiến
Hãy
từ bỏ nơi ấy
Đừng vì tham, lưu luyến.
Tỳ
kheo ở nơi nào
Tu tiến, vật chất hiếm
Hãy
ở với tâm niệm
Ta
vì cơm áo sao?
Tỳ
kheo ở một nơi
Tu hành đã dễ tiến
Vật chất không khó kiếm
Hãy
nương ở trọn đời.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
17.
Vanapatthasuttaṃ [Mūla]
190. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca : ''vanapatthapariyāyaṃ vo, bhikkhave, desessāmi, taṃ suṇātha,
sādhukaṃ manasikarotha, bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhanteti kho te bhikkhū bhagavato
paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca :
191. ''Idha, bhikkhave, bhikkhu
aññataraṃ vanapatthaṃ upanissāya viharati. Tassa taṃ vanapatthaṃ upanissāya
viharato anupaṭṭhitā ceva sati na upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ na samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā
na parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ nānupāpuṇāti. Ye
ca kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā
: te kasirena samudāgacchanti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā iti paṭisañcikkhitabbaṃ : 'ahaṃ kho imaṃ vanapatthaṃ upanissāya
viharāmi, tassa me imaṃ vanapatthaṃ upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati
na upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ na samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā na
parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ nānupāpuṇāmi. Ye ca
kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā
samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā
: te kasirena samudāgacchantīti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā rattibhāgaṃ vā
divasabhāgaṃ vā tamhā vanapatthā pakkamitabbaṃ, na vatthabbaṃ.
192. ''Idha pana, bhikkhave,
bhikkhu aññataraṃ vanapatthaṃ upanissāya viharati. Tassa taṃ vanapatthaṃ
upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati na upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ na
samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā na parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca
anuttaraṃ yogakkhemaṃ nānupāpuṇāti. Ye ca kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā
samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā : te
appakasirena samudāgacchanti. Tena , bhikkhave, bhikkhunā iti paṭisañcikkhitabbaṃ
: 'ahaṃ kho imaṃ vanapatthaṃ upanissāya viharāmi. Tassa me imaṃ vanapatthaṃ
upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati na upaṭṭhāti asamāhitañca cittaṃ na
samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā na parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca
anuttaraṃ yogakkhemaṃ nānupāpuṇāmi. Ye ca kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā
samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā : te
appakasirena samudāgacchanti. Na kho panāhaṃ cīvarahetu agārasmā anagāriyaṃ
pabbajito na piṇḍapātahetu - pe - na senāsanahetu - pe - na
gilānappaccayabhesajjaparikkhārahetu agārasmā anagāriyaṃ pabbajito. Atha ca
pana me imaṃ vanapatthaṃ upanissāya
viharato anupaṭṭhitā ceva sati na upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ na
samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā na parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca
anuttaraṃ yogakkhemaṃ nānupāpuṇāmīti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā saṅkhāpi tamhā
vanapatthā pakkamitabbaṃ, na vatthabbaṃ.
193. ''Idha pana, bhikkhave, bhikkhu aññataraṃ vanapatthaṃ
upanissāya viharati. Tassa taṃ vanapatthaṃ upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva
sati upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā
parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ anupāpuṇāti. Ye ca
kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā,
te kasirena samudāgacchanti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā iti paṭisañcikkhitabbaṃ : 'ahaṃ kho imaṃ vanapatthaṃ upanissāya
viharāmi. Tassa me imaṃ vanapatthaṃ upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati
upaṭṭhāti asamāhitañca cittaṃ samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā parikkhayaṃ
gacchanti, ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ anupāpuṇāmi. Ye ca kho ime
pabbajitena jīvitaparikkhārā samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā
: te kasirena samudāgacchanti. Na kho panāhaṃ cīvarahetu agārasmā anagāriyaṃ
pabbajito, na piṇḍapātahetu - pe - na senāsanahetu - pe - na
gilānappaccayabhesajjaparikkhārahetu agārasmā anagāriyaṃ pabbajito . Atha ca
pana me imaṃ vanapatthaṃ upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati upaṭṭhāti,
asamāhitañca cittaṃ samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā parikkhayaṃ gacchanti,
ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ anupāpuṇāmīti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā
saṅkhāpi tasmiṃ vanapatthe vatthabbaṃ, na pakkamitabbaṃ.
194. ''Idha pana, bhikkhave, bhikkhu aññataraṃ vanapatthaṃ
upanissāya viharati. Tassa taṃ vanapatthaṃ upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva
sati upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā
parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ anupāpuṇāti. Ye ca
kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā
: te appakasirena samudāgacchanti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā iti paṭisañcikkhitabbaṃ
: 'ahaṃ kho imaṃ vanapatthaṃ upanissāya viharāmi. Tassa me imaṃ vanapatthaṃ
upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati upaṭṭhāti asamāhitañca cittaṃ
samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca
anuttaraṃ yogakkhemaṃ anupāpuṇāmi. Ye ca kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā
samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā : te
appakasirena samudāgacchantīti . Tena, bhikkhave, bhikkhunā yāvajīvampi tasmiṃ
vanapatthe vatthabbaṃ, na pakkamitabbaṃ.
195. ''Idha, bhikkhave, bhikkhu
aññataraṃ gāmaṃ upanissāya viharati - pe
- aññataraṃ nigamaṃ upanissāya viharati - pe - aññataraṃ nagaraṃ upanissāya
viharati - pe - aññataraṃ janapadaṃ upanissāya viharati - pe - aññataraṃ
puggalaṃ upanissāya viharati. Tassa taṃ puggalaṃ upanissāya viharato anupaṭṭhitā
ceva sati na upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ na samādhiyati, aparikkhīṇā ca
āsavā na parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ nānupāpuṇāti.
Ye ca kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā
: te kasirena samudāgacchanti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā iti paṭisañcikkhitabbaṃ
: 'ahaṃ kho imaṃ puggalaṃ upanissāya viharāmi. Tassa me imaṃ puggalaṃ
upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati na upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ na
samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā na parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca
anuttaraṃ yogakkhemaṃ nānupāpuṇāmi. Ye ca kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā
samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā : te
kasirena samudāgacchantīti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā rattibhāgaṃ vā
divasabhāgaṃ vā so puggalo anāpucchā pakkamitabbaṃ, nānubandhitabbo.
196. ''Idha pana, bhikkhave,
bhikkhu aññataraṃ puggalaṃ upanissāya viharati. Tassa taṃ puggalaṃ upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati na upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ
na samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā na
parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ nānupāpuṇāti. Ye ca
kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā,
te appakasirena samudāgacchanti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā iti paṭisañcikkhitabbaṃ
: 'ahaṃ kho imaṃ puggalaṃ upanissāya viharāmi. Tassa me imaṃ puggalaṃ
upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati na upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ na
samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā na parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca
anuttaraṃ yogakkhemaṃ nānupāpuṇāmi. Ye ca kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā
samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā : te appakasirena samudāgacchanti. Na kho
panāhaṃ cīvarahetu agārasmā anagāriyaṃ pabbajito, na piṇḍapātahetu - pe - na
senāsanahetu - pe - na gilānappaccayabhesajjaparikkhārahetu agārasmā anagāriyaṃ
pabbajito. Atha ca pana me imaṃ puggalaṃ upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva
sati na upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ na samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā na
parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ nānupāpuṇāmīti.
Tena, bhikkhave, bhikkhunā saṅkhāpi so puggalo āpucchā pakkamitabbaṃ,
nānubandhitabbo.
197. ''Idha pana, bhikkhave,
bhikkhu aññataraṃ puggalaṃ upanissāya viharati. Tassa taṃ puggalaṃ upanissāya
viharato anupaṭṭhitā ceva sati upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā
parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ anupāpuṇāti. Ye ca
kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā
: te kasirena samudāgacchanti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā iti paṭisañcikkhitabbaṃ
: 'ahaṃ kho imaṃ puggalaṃ upanissāya viharāmi. Tassa me imaṃ puggalaṃ
upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ
samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca
anuttaraṃ yogakkhemaṃ anupāpuṇāmi. Ye ca kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā
samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā : te
kasirena samudāgacchanti. Na kho panāhaṃ cīvarahetu agārasmā anagāriyaṃ pabbajito,
na piṇḍapātahetu - pe - na senāsanahetu - pe - na
gilānappaccayabhesajjaparikkhārahetu agārasmā
anagāriyaṃ pabbajito. Atha ca pana me imaṃ puggalaṃ upanissāya viharato
anupaṭṭhitā ceva sati upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ samādhiyati, aparikkhīṇā
ca āsavā parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ anupāpuṇāmīti.
Tena, bhikkhave, bhikkhunā saṅkhāpi so puggalo anubandhitabbo, na pakkamitabbaṃ.
198. ''Idha pana, bhikkhave,
bhikkhu aññataraṃ puggalaṃ upanissāya viharati. Tassa taṃ puggalaṃ upanissāya
viharato anupaṭṭhitā ceva sati upaṭṭhāti,
asamāhitañca cittaṃ samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā parikkhayaṃ gacchanti ,
ananuppattañca anuttaraṃ yogakkhemaṃ anupāpuṇāti. Ye ca kho ime pabbajitena
jīvitaparikkhārā samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā
: te appakasirena samudāgacchanti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā iti paṭisañcikkhitabbaṃ
: 'ahaṃ kho imaṃ puggalaṃ upanissāya viharāmi . Tassa me imaṃ puggalaṃ
upanissāya viharato anupaṭṭhitā ceva sati upaṭṭhāti, asamāhitañca cittaṃ
samādhiyati, aparikkhīṇā ca āsavā parikkhayaṃ gacchanti, ananuppattañca
anuttaraṃ yogakkhemaṃ anupāpuṇāmi. Ye ca kho ime pabbajitena jīvitaparikkhārā
samudānetabbā : cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārā : te
appakasirena samudāgacchantīti. Tena, bhikkhave, bhikkhunā yāvajīvampi so
puggalo anubandhitabbo, na pakkamitabbaṃ, api panujjamānenapīti [api paṇujjamānenāti
(?)].
Idamavoca Bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ
abhinandunti.
Vanapatthasuttaṃ niṭṭhitaṃ sattamaṃ.
-ooOoo-
17.
Vanapatthapariyāyasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
190. Evaṃ me sutanti
vanapatthapariyāyaṃ. Tattha vanapatthapariyāyanti vanapatthakāraṇaṃ,
vanapatthadesanaṃ vā.
194. Yāvajīvanti yāva jīvitaṃ
pavattati, tāva vatthabbameva.