Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng Sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 25/7/2020
13. Ðại Kinh Khổ Uẩn
(Mahādukkhakkhanda Sutta) (tiếp theo)
Khổ uẩn nghĩa là sự khổ đau qua cái nhìn đa dạng, đa chiều, tổng hợp của nhiều thành tố. Gọi là Ðại kinh Khổ uẩn vì có hai bài kinh cùng tên một dài (đại kinh) và một ngắn (tiểu kinh)
Thời ấy Phật Pháp được hoằng hoá rộng lớn khắp miền Trung Ấn. Lúc bấy giờ ngoại đạo thường đưa ra những quan điểm tương đồng với ngụ ý rằng họ cũng có những tinh hoa không khác với lời Phật dạy. Một số tỳ kheo tại Savatthi đi khất thực nghe gặp các tu sĩ ngoại đạo nói rằng: “Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ. Chư Hiền, ở đây có sự đặc thù nào, sự dị biệt nào, sự sai khác nào giữa Sa-môn Gotama và chúng tôi về vấn đề thuyết pháp hay vấn đề giáo huấn?”. Các tỳ kheo trở về bạch lên Đức Thế Tôn. Đức Phật nhân đó dạy về khổ qua ba khía cạnh: vị ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly.
Bài học ngày 25 /6/2020
076. Những gì Đức Phật dạy về sắc dục
Chữ rùpa trong Phật học mang nhiều ý nghĩa. Rùpa có
nghĩa là tất cả những gì thuộc vật chất. Nói chính xác là những gì do tứ đại
tạo thành như được dùng trong từ kép “danh sắc”. Rùpa cũng có nghĩa là những gì
được mắt thấy hay cảnh sắc nghĩa là đối tượng của thị giác như trong từ “cảnh
sắc”. Cảnh sắc thuộc sắc pháp nhưng sắc pháp không hẳn chỉ có cảnh sắc.
Trong ngữ cảnh của bài kinh nầy thì khi nói về “vị
ngọt, nguy hại và sự xuất ly của sắc thì sắc nầy chỉ cho đối tượng của mắt
(cảnh sắc), nhấn mạnh hơn nữa là sắc dục hay nữ sắc.
Thật ra điều nầy đã nằm trong trong phạm trù thứ nhất là các dục nhưng ở
đây được Đức Thế Tôn giảng dạy y cứ lời tuyên bố của ngoại đạo mà chư tỳ kheo
kể lại.
Bản sớ giải cũng ghi là khổ do các dục là hệ luỵ
trong kiếp hiện tại (sandiṭṭhiko dukkhakkhandho), còn cái khổ do sắc là cái khổ
của kiếp lai sinh (samparā yiko dukkhakkhandho).
Vị ngọt các sắc dục
Là nét khả ái cuốn hút của nữ nhân ở thời chín
mọng:
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt
các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, như các thiếu nữ Sát-đế-lị, thiếu
nữ Bà-la-môn hay thiếu nữ Gia chủ, tuổi khoảng độ mười lăm hay
mười sáu tuổi, không quá lớn, không quá thấp, không quá ốm, không
quá mập, không quá đen, không quá trắng, này các Tỷ-kheo, có phải
trong thời ấy, họ đạt đến mỹ diệu tối thượng, sắc đẹp tối
thượng?
-- Bạch Thế Tôn, phải.
-- Này các Tỷ-kheo, y cứ sắc đẹp mỹ diệu
ấy khởi lên lạc thọ và hỷ thọ, như vậy là vị ngọt các sắc pháp.
Sự nguy hiểm của sắc dục
Già nua phủ cái hình hài
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy
hiểm các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, ở đây người ta có thể thấy
bà chị ấy trong một thời khác, khoảng tám mươi tuổi, chín mươi
tuổi hay một trăm tuổi, già yếu, cong như nóc nhà, lưng còm, phải
dựa gậy để chống đỡ, vừa đi vừa run rẩy, đau ốm, tuổi trẻ đã tận,
râu rụng, tóc bạc, hư rụng, sói đầu, da nhăn, tay chân bị khô đét
tái xám. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ
diệu về sắc đẹp xưa kia của người đó nay đã biến mất và sự nguy
hiểm đã hiện ra?
-- Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
Bệnh hoạn khiến thân tiều tụy, bất tịnh
-- Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa này các Tỷ-kheo, người ta có thể thấy bà
chị ấy bị bệnh hoạn đau khổ, trầm bệnh, nằm đắm mình trong phân
tiểu của mình, phải có người nâng dậy, phải có người đỡ nằm.
Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về
sắc đẹp xưa kia của người đó nay đã biến mất và sự nguy hiểm đã
hiện ra?
-- Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
Khi thân thể mỹ miều biến thành xác chết
-- Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy,
thi thể bị quăng vào nghĩa địa, một ngày hay hai ngày hay ba ngày,
thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Này các
Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu sắc đẹp xưa
kia của cô gái đã biến mất và sự nguy hiểm đã hiện ra?
-- Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
Khi hình hài đẹp đẽ trước khi trở thành thức ăn cho
cầm thú hay côn trùng
-- Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy,
thi thể bị quăng vào nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các
loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn,
hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn. Này các
Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp
xưa kia của cô gái nay đã biến mất và sự nguy hiểm đã hiện ra?
-- Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
Khi hình hành xinh đẹp tan rã
-- Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy,
thi thể bị quăng trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết
với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột
lại... với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính
thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột bộ xương,
không còn thịt, không có máu, còn được gân cột lại, chỉ còn có xương
không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia, ở đây là xương
tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương
bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là
xương đầu. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự
mỹ diệu về sắc đẹp xưa kia của cô gái nay đã biến mất, và sự nguy
hiểm đã hiện ra?
-- Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
Khi thân thể mỹ miều trở thành đống xương vô dụng
-- Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy,
thi thể bị quăng vào nghĩa địa, chỉ có toàn xương trắng màu vỏ
ốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn một năm... chỉ còn các
xương thối trở thành bột. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế
nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa kia của cô gái nay đã
biến mất, và sự nguy hiểm hiện ra?
-- Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp.
Sự xuất ly của sắc dục
Sự xuất ly các sắc chính là khả năng điều phục
dục tham, đoạn trừ dục tham với chánh trí hiểu biết:
Này các Tỷ-kheo và thế nào là sự xuất ly
các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, đây là sự điều phục dục tham đối
với các sắc pháp, sự đoạn trừ dục tham, như vậy là sự xuất ly các
sắc pháp.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn
nào không như thật tuệ tri vị ngọt các sắc pháp là vị ngọt như
vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất
ly như vậy, những vị này nhất định sẽ không như thật tuệ tri các
sắc pháp của họ, họ cũng không có thể đặt người khác trong một
địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các sắc pháp, sự kiện
như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào
như thật tuệ tri vị ngọt các sắc pháp là vị ngọt như vậy, sự nguy
hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy,
những vị này nhất định như thật tuệ tri các sắc pháp của họ, họ
cũng có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là
như thật tuệ tri các sắc pháp, sự kiện như vậy có xảy ra.
077. Những gì Đức Phật dạy về cảm
thọ
Cảm thọ - vedanà – là một thuật ngữ Phật học rất dễ
bị hiểu là thái độ vui buồn hay bình thản đối với các cảnh hay những phản ứng
tâm lý. Cảm thọ đơn thuần là cảm giác đối với cảnh như các hệ thống cảm biến
(sensor) hoặc radar chứ không đóng vai trò xử lý như cảm xúc.
Thọ có mặt trong tất cả tâm (thọ là một trong bốn
danh uẩn luôn đi chung: thọ tưởng hành thức)
Thọ có thể là thứ cảm biến sơ khởi khi căn, cảnh,
thức gặp nhau trước khi có thái độ thương, ghét, lãnh đạm đây là trường hợp
“xúc sở sanh thọ”
Thọ có thể là quả của nghiệp quá khứ trong trường
hợp cảm thọ của ngũ song thức: quả thiện hay quả bất thiện được xác định ngay
trong sự nhận biết của ngũ song thức đối với cảnh.
Thọ chi phối thái độ sống của chúng sanh, và từ đó
tác động phiền não, nghiệp, quả như trong ý nghĩa “thọ duyên ái”.
Tất cả người học Phật nghiêm túc đều cần học hiểu
một cách tinh xác về ý nghĩa của thọ - vedanà trong kinh điển.
Vị ngọt các cảm thọ
Cảm thọ trong bài kinh nầy được Đức Phật đề cập là
thứ cảm thọ do tinh luyện, xuất nhập như ý, bền chặt vững chãi không giống như
cảm thọ bị động, vô chừng và đoản như trong cuộc sống hằng ngày. Đức Phật nói
về cảm thọ trong tam muội định:
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt
các cảm thọ? Ở đây các Tỷ-kheo ly các dục, ly các bất thiện pháp
tự chứng và an trú vào Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly
dục sanh, có tầm có tứ. Trong khi ấy, nếu vị ấy không nghĩ đến tự
hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, trong khi
ấy vị ấy cảm giác một cảm thọ vô hại. Này các Tỷ-kheo, tối
thượng vô hại ấy, Ta nói là vị ngọt các cảm thọ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm
và tứ, chứng và trú vào Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm... Tỷ-kheo ly hỷ
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba... Tỷ-kheo
xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền
thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Trong khi ấy nếu
vị ấy không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không
nghĩ đến hại cả hai, trong khi ấy vị ấy cảm giác một cảm thọ vô
hại. Này các Tỷ-kheo, tối thượng vô hại ấy, Ta nói là vị ngọt
các cảm thọ.
Câu Phật ngôn: “Trong khi ấy nếu vị ấy không
nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, trong khi
ấy vị ấy cảm giác một cảm thọ vô hại” chỉ cho trạng thái “mãn ý”. Cảm thọ trong
tam muội định khiến thiền giả không truy cầu và tạo nên hệ luỵ cho tự thân hay
tha nhân. Điều nầy có nghĩa là đối lập với cảm thọ của chúng sanh không có thiền
định.
Sự nguy hiểm của cảm thọ
Dù là cảm thọ trong thiền chứng tất cả đều bị vô
thường chi phối. Không bền vững an ổn. Đó là nỗi lo, nỗi buồn cho ngay cả chúng
sanh đang cảm thọ lạc dù thô hay tế.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy
hiểm các cảm thọ? Này các Tỷ-kheo, các cảm thọ là vô thường,
khổ, biến hoại, như vậy là sự nguy hiểm các cảm thọ.
Sự xuất ly các cảm thọ
Một lần nữa sự xuất ly chính là khả năng điều phục
ái chấp, đoạn trừ dính mắc với chánh trí hiểu biết:
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự xuất ly
các cảm thọ? Này các Tỷ-kheo, sự điều phục dục tham đối với các
cảm thọ, sự đoạn trừ dục tham, như vậy gọi là sự xuất ly các cảm
thọ.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn
nào không như thật tuệ tri vị ngọt các cảm thọ là vị ngọt như
vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất
ly như vậy, những vị này nhất định sẽ không như thật tuệ tri các
cảm thọ của họ, họ cũng không có thể đặt người khác trong một
địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện
như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào
như thật tuệ tri vị ngọt các cảm thọ là vị ngọt như vậy, sự nguy
hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy,
những vị này nhất định như thật tuệ tri các cảm thọ của họ, họ
có thể đặt các người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là
như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện như vậy có xảy ra.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo
ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 13 [tóm tắt]
Đại Kinh Khổ Uẩn
(Mahādukkhakkhandha Sutta)
(M.i, 83)
Các du sĩ ngoại đạo chất
vấn các Tỷ-kheo, nói rằng Sa- môn Gotama nói lên sự liễu tri về các
dục, các sắc và các cảm thọ. Các ngoại đạo cũng đề cập một vấn
đề ấy thời có sự dị biệt nào giữa Sa-môn Gotama và các ngoại đạo,
có sự sai khác nào về vấn đề thuyết pháp hay giáo huấn. Các
Tỷ-kheo tường trình lên đức Phật vấn đề này. Đức Phật trả lời
rằng tuy các ngoại đạo nói lên như vậy, nhưng nếu hỏi chúng về vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly đối với các dục, đối với các
sắc, đối với các cảm thọ thời chúng cũng không thể trả lời. Rồi
Ngài thuyết giảng thế nào là vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly
đối với các dục, các sắc và các cảm thọ.
1.
Đối với các dục (kāma):
a) Vị ngọt: Có năm
dục tăng trưởng (kāmagunā). Y cứ năm dục tăng trưởng này
có lạc hỷ gì khởi lên, như vậy là vị ngọt của dục.
b) Nguy hiểm: Có tám
nguy hiểm do dục làm nhân duyên, dục làm nguồn gốc:
i/ Làm các nghề để nuôi
sống, chống đỡ thời tiết, đói khát xúc chạm ruồi muỗi.
ii/ Tuy nỗ lực như vậy nhưng
tài sản không đến tay, nên than khóc, đau khổ, bất tỉnh.
iii/ Do nỗ lực như vậy nên
tài sản đến tay, lại lo hộ trì các tài sản ấy, sợ vua chúa, sợ
trộm cướp v.v... cướp đoạt. Khi bị cướp đoạt, thời than khóc, đau
khổ, bất tỉnh.
iv/ Loài người anh em, cha
con... tranh đoạt nhau, đánh nhau bằng tay, bằng gậy, bằng kiếm đi đến
đau khổ, tử vong.
v/ Dàn trận đánh nhau, đeo
cung và tên bắn nhau, chặt đầu nhau, đâm nhau, giết nhau, đưa đến đau
khổ, tử vong.
vi/ Chúng công phá thành
quách, quăng đâm nhau bằng gươm, đổ nước sôi vào nhau, đè bẹp nhau
bằng đá, đưa đến tử vong.
vii/ Chúng đột nhập vào cửa,
ăn trộm, ăn cắp, tư thông vợ người. Khi bị bắt chịu nhiều hình
phạt đau đớn đến chết.
viii/ Làm các hạnh về thân,
về lời, về ý, bị đọa vào ác thú, địa ngục.
c) Xuất ly: Nhiếp phục
được ái đối với các dục, đoạn trừ được ái.
Những ai không như thật quán
tri vị ngọt các dục là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là
xuất ly, thời không thể liễu tri các dục của chúng, không thể đặt
các người khác trong địa vị tương tợ, nghĩa là liễu tri các dục.
2.
Liễu tri các sắc:
a) Vị ngọt: Đối với các thiếu nữ xuân sắc, đẹp đẽ, nếu khởi lên lạc hỷ nào, như vậy là vị ngọt của sắc.
b) Nguy hiểm: Có sáu:
i/ Bà chị ấy khi trở thành
già, răng rụng, tóc bạc, sắc đẹp xưa đã biến mất.
ii/ Bà chị ấy bệnh hoạn đau
khổ, nằm trong nước phân, nước tiểu của mình, cần người nâng đỡ.
iii/ Bà chị ấy bị mất, thân
bị quăng vào nghĩa địa, thi thể trương phồng lên, xanh đen, nát
thối.
iv/ Thân bị quăng vào nghĩa
địa, bị quạ, diều hâu, chim kên, côn trùng ăn.
v/ Với các bộ xương còn
liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn các đường gân cột
lại. Các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt, còn
dính máu, còn gân cột lại.
vi/ (Như trên) không dính
máu, chỉ còn xương trắng màu vỏ ốc... chỉ còn một đống xương...
chỉ còn xương thối trở thành bột.
c) Sự xuất ly: Sự điều
phục dục ái đối với các sắc pháp (kết luận như trên dục).
3. Các cảm thọ:
a) Vị ngọt: Trong khi
chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, thời không nghĩ đến
tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, trong
khi ấy vị ấy cảm giác một cảm thọ vô hại. Tối thượng vô hại ấy
là vị ngọt của cảm thọ.
b) Nguy hại: Các cảm
thọ, chuyển biến vô thường.
c) Sự xuất ly: Sự
nhiếp phục dục ái đối với các cảm thọ.
Những vị Sa-môn, Bà-la-môn
nào không như thật quán tri vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của
các cảm thọ, những vị này nhất định không như thật liễu tri các
cảm thọ của chúng, cũng không có thể làm cho các người khác liễu
tri các cảm thọ của chúng. Trái lại những Sa-môn, Bà- la-môn nào
như thật quán tri vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm
thọ, những vị ấy như thật liễu tri các cảm thọ của chúng và có
thể làm cho các người khác như thật liễu tri các cảm thọ của
chúng.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 13[dàn ý]
Đại Kinh Khổ
Uẩn
(Mahādukkhakkhandha
Sutta)
(M.i, 83)
A.
Duyên khởi:
Nghe các du sĩ
ngoại đạo chất vấn sự hiểu biết về dục, về sắc, về cảm thọ của Sa-môn Gotama và
ngoại đạo không có sai khác gì, các Tỷ-kheo về trình lên Đức Phật và Đức Phật
thuyết giảng.
B.
Chánh kinh:
I. Ngoại đạo
không thể trả lời về vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của dục, sắc và các cảm
thọ.
II. Thế Tôn giải
thích về vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của 3 pháp ấy:
1. Vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly của các dục.
2. Vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly của các sắc.
3. Vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly của các thọ.
C. Kết
luận:
Các Tỷ-kheo hoan
hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 13 [toát yếu]
Đại Kinh Khổ
Uẩn
(Mahādukkhakkhandha
Sutta)
(M.i, 83)
I. Toát yếu
Mahādukkhakkhanda Sutta - The
greater discourse on the mass of suffering.
The Buddha explains the full understanding
of sensual pleasures, material form, and feelings; there is a long section on
the dangers in sensual pleasures.
Bản kinh dài nói về đống
khổ.
Phật giải thích sự liễu tri
các khoái lạc giác quan, liễu tri sắc và thọ; có một đoạn rất dài
nói về những nguy hiểm của dục lạc.
II. Tóm tắt
Các tỳ kheo đến thăm các du
sĩ ngoại đạo và bị chất vấn có gì khác nhau giữa thuyết của Phật
với ngoại đạo về ba vấn đề dục, sắc pháp và cảm thọ, vì họ cũng
như Phật, hiểu biết hoàn toàn về ba pháp ấy. Tỳ kheo trở về bạch
Phật, Phật giảng về sự liễu tri ba pháp ấy trong giáo lý
Ngài, ấy là cần phải liễu
tri ba điều: vị ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly khỏi chúng.
A. Trước hết về dục
Vị ngọt là năm pháp tăng
trưởng dục: các sắc, thanh, hương, vị, xúc khả ái do năm giác quan
tiếp nhận. Nguy hiểm là:
1. Vì theo đuổi năm thứ ấy
mà phải vất vả làm lụng đủ thứ nghề nghiệp.
2. Sự đau khổ thất vọng ê
chề nếu sau bao nhiêu nỗ lực theo đuổi mà vẫn không có được điều
mình muốn.
3. Sự mất công gìn giữ, lo
sợ mất mát khi đã có được.
4. Nỗi đau khổ ghê gớm khi
tài sản đã có bị mất trộm, bị tịch thu, bị trôi, bị cháy, bị con
hư phá tán.
5. Vì các dục, mà chiến
tranh xảy ra khắp nơi giữa người với người; ngay cả trong gia đình,
vợ chồng con cái cũng tranh chấp nhau, đưa đến tử vong hoặc đau khổ
gần chết.
6. Do dục mà con người trở
nên hung bạo tán tận lương tâm, đánh nhau chết bỏ.
7. Do dục mà có cướp bóc
giết hại, và có những hình phạt ghê gớm dành cho tội nhân.
8. Do dục mà con người làm
các ác hành về thân, ngữ, ý, chết đọa vào các cõi dữ. Đấy là
những nguy hiểm của dục. Sự xuất ly là điều phục lòng tham đối với
sắc thanh hương vị xúc, cho đến đoạn tận tham dục.
B. Về sắc, ở đây là nữ sắc.
Vị ngọt là vẻ đẹp nơi
thiếu nữ, gợi lên cảm giác hỷ lạc nơi người nhìn. Nguy hiểm là
vẻ già xấu, bệnh hoạn nằm một chỗ, đắm mình trong phân tiểu của
chính mình khi cô ấy đến tuổi thành bà ngoại. Nguy hiểm nữa là vẻ
ghê tởm của xác chết khi bị quăng bỏ nơi nghĩa địa, cho đến khi
chỉ còn là những đốt xương rời rạc, tan thành tro bụi. Đó là nguy
hiểm của sắc. Sự xuất ly khỏi sắc là điều phục dục tham đối với
sắc, cho đến đoạn trừ tham dục.
C. Về cảm thọ.
Phật đưa ra hỷ lạc thiền
định, để hiển thị ngay cả lạc thọ vô hại ấy cũng còn có nguy
hiểm, huống hồ các lạc thọ khác. Vị ngọt là hỷ lạc do ly dục ở
sơ thiền, hỷ lạc do định ở nhị thiền, lạc ở tam thiền, xả niệm
thanh tịnh ở tứ thiền. Đấy là vị ngọt tối thượng của cảm thọ, vì
nó vô hại. Nguy hiểm của cảm thọ này là nó cũng vô thường, biến
hoại, nên là khổ. Sự xuất ly các cảm thọ là điều phục dục tham
đối với các cảm thọ, đoạn trừ dục tham.
Người nào như thật tuệ tri được vị ngọt,
nguy hiểm và xuất ly của các dục, sắc, và thọ, thì mới có khả
năng giúp người khác như thật tuệ tri các pháp ấy.
III. Chú giải
Liễu tri - parinnā đây có nghĩa là vượt qua, samatik- khama hay từ bỏ, pahāna.
Du sĩ ngoại đạo cho chứng sơ thiền là liễu tri dục, chứng các vô
sắc là liễu tri sắc, chứng thiền vô tưởng là liễu tri thọ. Trái
lại, Phật dạy ở Bất hoàn đạo mới liễu tri các dục, ở A-la-hán đạo
mới liễu tri sắc và thọ.
IV. Pháp số
Ba pháp: vị ngọt,
nguy hiểm, sự xuất ly.
Năm dục trưởng dưỡng: sắc, thanh, hương, vị, xúc.
V. Kệ tụng
A. Liễu tri dục
Trong giáo pháp Như Lai
Liên hệ dục, sắc, thọ
Liễu tri cũng đồng nghĩa
"Đoạn tận" và "từ
bỏ"
Trước hết, liễu tri "dục"
Cần biết rõ ba điều
Vị ngọt và nguy hiểm
Vị ngọt và nguy hiểm
Cùng xuất ly khỏi dục.
Đây vị ngọt của dục:
Các sắc đẹp, tiếng hay,
Các sắc đẹp, tiếng hay,
Mùi thơm và vị ngon
Cùng xúc giác êm dịu.
Tất cả những thứ gì
Năm giác quan nhận thức
Năm giác quan nhận thức
Đem lại sự mê ly
Là vị ngọt của dục.
Nguy hiểm của năm dục
Là vị ngọt của dục.
Nguy hiểm của năm dục
Thực khó nói cho cùng
Đây chỉ kể sơ lược
Những nguy khổ nói chung
Đây chỉ kể sơ lược
Những nguy khổ nói chung
Nào mất công theo đuổi
Chịu bao nỗi nhọc nhằn
Làm đủ thứ nghề nghiệp
Vừa lao lực, lao tâm.
Nếu nỗ lực tinh cần
Mà vẫn không có được
Tài sản mình mong ước
Họ đấm ngực khóc than.
Khi được của vào tay
Họ lo lắng đêm ngày
Lo tịch thu, trộm cướp,
Trôi, cháy, con ăn xài.
Của chưa mất đã khổ
Sợ vạ gió tai bay
Khi mất thực càng khổ
Kêu "Trời, tôi trắng tay."
Lại dục là nguyên do
Có xung đột, đôi co
Đánh nhau đến trí mạng
Người thân hóa kẻ thù.
Dục thú đẩy sát sinh
Tà dâm và trộm cắp
Cùng mọi việc gian ác
Đến tán tận nhân tình.
Do dục, bị tra khảo
Bằng đủ thứ nhục hình
Hiện tại phải tù tội
Còn khổ kiếp lai sinh.
Còn khổ kiếp lai sinh.
Dục vui ít khổ nhiều
Nguy hiểm lại nhiều hơn
Điều phục, đoạn tận tham
Ấy là xuất ly dục.
B. Liễu tri Sắc
Vị ngọt của sắc pháp
Là sắc đẹp gái trai
Tuổi chưa quá hai mươi
Là sắc đẹp gái trai
Tuổi chưa quá hai mươi
Mùa xuân của đời người.
Nguy hiểm của sắc pháp
Là lúc đã đến thời
Em gái thành bà ngoại
Còn đâu nhan sắc tươi.
Lưng còng, tóc bạc trắng
Làn da khô nhăn nheo
Già bệnh nằm một chỗ
Còn đâu vẻ mỹ miều.
Vị ngọt đã biến mất
Chỉ còn lại đắng cay
Chỉ còn lại đắng cay
Của mối nguy già, chết
Chờ đợi tấm thân này.
Nguy hiểm của sắc pháp
Là thi thể cô gái
Khi bỏ ngoài nghĩa địa
Loài chim thú rỉa thây.
Nguy hiểm của sắc pháp
Là thi thể cô gái
Khi chỉ còn bộ xương
Và xương thành bột trắng.
Và xương thành bột trắng.
Xuất ly khỏi sắc pháp
Là điều phục dục tham
Là điều phục dục tham
Và đoạn trừ tham dục
Đối với sắc, không ham.
C. Liễu tri thọ
Vị ngọt của cảm thọ
Là hỷ lạc sơ thiền
Do ly dục sinh ra:
Vắng bóng niềm đau khổ.
Là hỷ lạc sơ thiền
Do ly dục sinh ra:
Vắng bóng niềm đau khổ.
Và hỷ lạc nhị thiền
Do tập trung sinh ra
Do tập trung sinh ra
Không còn tầm với tứ:
Một cảm thọ ngọt ngào.
Tam thiền thuần lạc thọ
Và xả thọ thanh tịnh
Ở định chứng tứ thiền
Ở định chứng tứ thiền
Là vị ngọt cảm thọ.
Nguy hiểm của cảm thọ:
Tối thượng vô hại này
Bị vô thường biến hoại
Nên vẫn nằm trong khổ.
Xuất ly các cảm thọ
Là điều phục dục tham
Đoạn trừ hết dục tham
Với tất cả cảm thọ.
Ai như thật tuệ tri
Ai như thật tuệ tri
Vị ngọt là vị ngọt
Nguy hiểm là nguy hiểm
Nguy hiểm là nguy hiểm
Xuất ly là xuất ly
Thì tự mình giải thoát
Thì tự mình giải thoát
Khỏi đau khổ sầu bi
Và có thể đưa người
Tuệ tri các cảm thọ.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
13. Mahādukkhakkhandhasuttaṃ [Mūla]
163. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho sambahulā
bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisiṃsu. Atha kho tesaṃ
bhikkhūnaṃ etadahosi : ''atippago kho tāva sāvatthiyaṃ piṇḍāya carituṃ, yaṃ
nūna mayaṃ yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkameyyāmāti. Atha
kho te bhikkhū yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā
tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ sammodiṃsu sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ
vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinne kho te bhikkhū te
aññatitthiyā paribbājakā etadavocuṃ : ''samaṇo, āvuso, gotamo kāmānaṃ pariññaṃ
paññapeti, mayampi kāmānaṃ pariññaṃ paññapema samaṇo, āvuso, gotamo rūpānaṃ
pariññaṃ paññapeti, mayampi rūpānaṃ pariññaṃ paññapema samaṇo, āvuso, gotamo
vedanānaṃ pariññaṃ paññapeti, mayampi vedanānaṃ pariññaṃ paññapema idha no,
āvuso, ko viseso, ko adhippayāso, kiṃ nānākaraṇaṃ samaṇassa vā gotamassa amhākaṃ
vā : yadidaṃ dhammadesanāya vā dhammadesanaṃ, anusāsaniyā vā anusāsaninti? atha
kho te bhikkhū tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ bhāsitaṃ neva abhinandiṃsu, nappaṭikkosiṃsu anabhinanditvā
appaṭikkositvā uṭṭhāyāsanā pakkamiṃsu : ''bhagavato santike etassa bhāsitassa
atthaṃ ājānissāmāti.
164. Atha kho te bhikkhū
sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena Bhagavā
tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ : ''idha mayaṃ, bhante,
pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisimha. Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ
etadahosi : 'atippago kho tāva sāvatthiyaṃ piṇḍāya carituṃ, yaṃ nūna mayaṃ yena
aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkameyyāmāti. Atha kho mayaṃ,
bhante, yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkamimha upasaṅkamitvā
tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ
sammodimha sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdimha.
Ekamantaṃ nisinne kho amhe, bhante, te aññatitthiyā paribbājakā etadavocuṃ :
'samaṇo, āvuso, gotamo kāmānaṃ pariññaṃ paññapeti, mayampi kāmānaṃ pariññaṃ
paññapema . Samaṇo, āvuso, gotamo rūpānaṃ pariññaṃ paññapeti, mayampi rūpānaṃ
pariññaṃ paññapema. Samaṇo, āvuso, gotamo vedanānaṃ pariññaṃ paññapeti, mayampi
vedanānaṃ pariññaṃ paññapema. Idha no, āvuso, ko viseso, ko adhippayāso, kiṃ
nānākaraṇaṃ samaṇassa vā gotamassa
amhākaṃ vā, yadidaṃ dhammadesanāya vā dhammadesanaṃ anusāsaniyā vā
anusāsaninti. Atha kho mayaṃ, bhante, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ
bhāsitaṃ neva abhinandimha, nappaṭikkosimha anabhinanditvā appaṭikkositvā uṭṭhāyāsanā
pakkamimha : 'bhagavato santike etassa bhāsitassa atthaṃ ājānissāmāti.
165. ''Evaṃvādino, bhikkhave,
aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā : 'ko panāvuso, kāmānaṃ assādo, ko
ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? ko rūpānaṃ assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? ko
vedanānaṃ assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇanti? evaṃ puṭṭhā, bhikkhave,
aññatitthiyā paribbājakā na ceva sampāyissanti, uttariñca vighātaṃ
āpajjissanti. Taṃ kissa hetu? yathā taṃ, bhikkhave, avisayasmiṃ. Nāhaṃ taṃ,
bhikkhave, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya
sadevamanussāya yo imesaṃ pañhānaṃ veyyākaraṇena cittaṃ ārādheyya, aññatra
tathāgatena vā tathāgatasāvakena vā, ito vā pana sutvā.
166. ''Ko ca, bhikkhave, kāmānaṃ
assādo? pañcime, bhikkhave, kāmaguṇā. Katame pañca? cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā
kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, sotaviññeyyā saddā - pe -
ghānaviññeyyā gandhā ... jivhāviññeyyā rasā... kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā iṭṭhā kantā
manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā : ime
kho, bhikkhave, pañca kāmaguṇā. Yaṃ kho, bhikkhave, ime pañca kāmaguṇe
paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ : ayaṃ kāmānaṃ assādo.
167. ''Ko ca, bhikkhave, kāmānaṃ
ādīnavo? idha, bhikkhave, kulaputto yena sippaṭṭhānena jīvikaṃ kappeti : yadi muddāya yadi gaṇanāya
yadi saṅkhānena [saṅkhāya (ka.)] yadi kasiyā yadi vaṇijjāya yadi gorakkhena
yadi issatthena yadi rājaporisena yadi sippaññatarena : sītassa purakkhato uṇhassa
purakkhato ḍaṃsamakasavātātapasarīṃsapasamphassehi rissamāno [īrayamāno (ka.),
samphassamāno (cūḷani0 khaggavisāṇasutta 136)] khuppipāsāya mīyamāno ayampi,
bhikkhave, kāmānaṃ ādīnavo sandiṭṭhiko, dukkhakkhandho kāmahetu kāmanidānaṃ
kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu. ''Tassa
ce, bhikkhave, kulaputtassa evaṃ uṭṭhahato ghaṭato vāyamato te bhogā
nābhinipphajjanti. So socati kilamati paridevati urattāḷiṃ kandati, sammohaṃ
āpajjati : 'moghaṃ vata me uṭṭhānaṃ, aphalo vata me vāyāmoti. Ayampi,
bhikkhave, kāmānaṃ ādīnavo sandiṭṭhiko dukkhakkhandho kāmahetu kāmanidānaṃ
kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu. ''Tassa ce, bhikkhave, kulaputtassa evaṃ uṭṭhahato
ghaṭato vāyamato te bhogā abhinipphajjanti. So tesaṃ bhogānaṃ ārakkhādhikaraṇaṃ
dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti : 'kinti me bhoge neva rājāno hareyyuṃ, na corā
hareyyuṃ, na aggi daheyya, na udakaṃ vaheyya [vāheyya (ka.)], na appiyā dāyādā
hareyyunti. Tassa evaṃ ārakkhato
gopayato te bhoge rājāno vā haranti, corā vā haranti, aggi vā dahati, udakaṃ vā
vahati, appiyā vā dāyādā haranti. So socati kilamati paridevati urattāḷiṃ
kandati, sammohaṃ āpajjati : 'yampi me ahosi tampi no natthīti. Ayampi,
bhikkhave, kāmānaṃ ādīnavo sandiṭṭhiko, dukkhakkhandho kāmahetu kāmanidānaṃ
kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu.
168. ''Puna caparaṃ, bhikkhave,
kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu rājānopi rājūhi vivadanti,
khattiyāpi khattiyehi vivadanti , brāhmaṇāpi brāhmaṇehi vivadanti, gahapatīpi
gahapatīhi vivadanti, mātāpi puttena vivadati, puttopi mātarā vivadati, pitāpi
puttena vivadati, puttopi pitarā vivadati, bhātāpi bhātarā vivadati, bhātāpi
bhaginiyā vivadati, bhaginīpi bhātarā vivadati, sahāyopi sahāyena vivadati. Te
tattha kalahaviggahavivādāpannā aññamaññaṃ pāṇīhipi upakkamanti, leḍḍūhipi
upakkamanti, daṇḍehipi upakkamanti, satthehipi upakkamanti. Te tattha maraṇampi
nigacchanti, maraṇamattampi dukkhaṃ . Ayampi, bhikkhave, kāmānaṃ ādīnavo sandiṭṭhiko,
dukkhakkhandho kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu. ''Puna
caparaṃ, bhikkhave, kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu
asicammaṃ gahetvā, dhanukalāpaṃ sannayhitvā, ubhatobyūḷhaṃ saṅgāmaṃ
pakkhandanti usūsupi khippamānesu , sattīsupi khippamānāsu, asīsupi
vijjotalantesu. Te tattha usūhipi vijjhanti, sattiyāpi vijjhanti, asināpi sīsaṃ
chindanti. Te tattha maraṇampi nigacchanti, maraṇamattampi dukkhaṃ. Ayampi,
bhikkhave, kāmānaṃ ādīnavo sandiṭṭhiko, dukkhakkhandho kāmahetu kāmanidānaṃ
kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva
hetu asicammaṃ gahetvā, dhanukalāpaṃ sannayhitvā, addāvalepanā [aṭṭāvalepanā
(syā. ka.)] upakāriyo pakkhandanti usūsupi khippamānesu, sattīsupi khippamānāsu
, asīsupi vijjotalantesu. Te tattha usūhipi vijjhanti, sattiyāpi vijjhanti,
chakaṇakāyapi [pakaṭṭhiyāpi (sī.)] osiñcanti, abhivaggenapi omaddanti, asināpi
sīsaṃ chindanti. Te tattha maraṇampi nigacchanti, maraṇamattampi dukkhaṃ.
Ayampi, bhikkhave, kāmānaṃ ādīnavo sandiṭṭhiko, dukkhakkhandho kāmahetu
kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu.
169. ''Puna caparaṃ, bhikkhave,
kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu sandhimpi chindanti,
nillopampi haranti, ekāgārikampi karonti, paripanthepi tiṭṭhanti, paradārampi
gacchanti. Tamenaṃ rājāno gahetvā vividhā kammakāraṇā kārenti : kasāhipi tāḷenti,
vettehipi tāḷenti, aḍḍhadaṇḍakehipi tāḷenti hatthampi chindanti, pādampi
chindanti, hatthapādampi chindanti, kaṇṇampi
chindanti, nāsampi chindanti, kaṇṇanāsampi chindanti bilaṅgathālikampi karonti
, saṅkhamuṇḍikampi karonti, rāhumukhampi karonti, jotimālikampi karonti,
hatthapajjotikampi karonti, erakavattikampi karonti, cīrakavāsikampi karonti, eṇeyyakampi
karonti, baḷisamaṃsikampi karonti, kahāpaṇikampi karonti, khārāpatacchikampi
karonti, palighaparivattikampi karonti, palālapīṭhakampi karonti, tattenapi
telena osiñcanti, sunakhehipi khādāpenti, jīvantampi sūle uttāsenti, asināpi
sīsaṃ chindanti . Te tattha maraṇampi nigacchanti, maraṇamattampi dukkhaṃ.
Ayampi, bhikkhave, kāmānaṃ ādīnavo sandiṭṭhiko, dukkhakkhandho kāmahetu
kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, kāmahetu
kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ kāmānameva hetu kāyena duccaritaṃ caranti, vācāya
duccaritaṃ caranti, manasā duccaritaṃ caranti. Te kāyena duccaritaṃ caritvā,
vācāya duccaritaṃ caritvā, manasā duccaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjanti. Ayampi, bhikkhave, kāmānaṃ
ādīnavo samparāyiko, dukkhakkhandho kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ
kāmānameva hetu.
170. ''Kiñca, bhikkhave, kāmānaṃ
nissaraṇaṃ? yo kho, bhikkhave, kāmesu chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ : idaṃ
kāmānaṃ nissaraṇaṃ. ''Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā evaṃ kāmānaṃ assādañca assādato ādīnavañca
ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nappajānanti te vata sāmaṃ vā
kāme parijānissanti, paraṃ vā tathattāya samādapessanti yathā paṭipanno kāme
parijānissatīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Ye ca kho keci, bhikkhave, samaṇā vā
brāhmaṇā vā evaṃ kāmānaṃ assādañca
assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ pajānanti,
te vata sāmaṃ vā kāme parijānissanti paraṃ vā tathattāya samādapessantntti
yathā paṭipanno kāme parijānissatīti : ṭhānametaṃ vijjati.
171. ''Ko ca, bhikkhave, rūpānaṃ
assādo? seyyathāpi, bhikkhave, khattiyakaññā vā brāhmaṇakaññā vā gahapatikaññā
vā pannarasavassuddesikā vā soḷasavassuddesikā vā, nātidīghā nātirassā nātikisā
nātithūlā nātikāḷī nāccodātā paramā sā, bhikkhave, tasmiṃ samaye subhā vaṇṇanibhāti? 'evaṃ, bhante. Yaṃ kho,
bhikkhave, subhaṃ vaṇṇanibhaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ : ayaṃ rūpānaṃ
assādo. ''Ko ca, bhikkhave, rūpānaṃ ādīnavo? idha, bhikkhave, tameva bhaginiṃ
passeyya aparena samayena āsītikaṃ vā nāvutikaṃ vā vassasatikaṃ vā jātiyā, jiṇṇaṃ
gopānasivaṅkaṃ bhoggaṃ daṇḍaparāyanaṃ
pavedhamānaṃ gacchantiṃ āturaṃ gatayobbanaṃ khaṇḍadantaṃ [khaṇḍadantiṃ (sī.
pī.)] palitakesaṃ [palitakesiṃ], vilūnaṃ khalitasiraṃ valinaṃ tilakāhatagattaṃ
[tilakāhatagattiṃ (bahūsu) aṭṭhakathā ṭīkā oloketabbā]. Taṃ kiṃ maññatha,
bhikkhave, yā purimā subhā vaṇṇanibhā sā
antarahitā, ādīnavo pātubhūtoti? 'evaṃ, bhante. Ayampi, bhikkhave, rūpānaṃ
ādīnavo. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, tameva bhaginiṃ passeyya ābādhikaṃ dukkhitaṃ
bāḷhagilānaṃ, sake muttakarīse palipannaṃ semānaṃ [seyyamānaṃ (ka.)], aññehi vuṭṭhāpiyamānaṃ,
aññehi saṃvesiyamānaṃ. Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, yā purimā subhā vaṇṇanibhā
sā antarahitā, ādīnavo pātubhūtoti? 'evaṃ, bhante. Ayampi, bhikkhave, rūpānaṃ
ādīnavo.
172. ''Puna caparaṃ, bhikkhave,
tameva bhaginiṃ passeyya sarīraṃ sivathikāya chaḍḍitaṃ : ekāhamataṃ vā
dvīhamataṃ vā tīhamataṃ vā, uddhumātakaṃ vinīlakaṃ vipubbakajātaṃ. Taṃ kiṃ
maññatha, bhikkhave, yā purimā subhā vaṇṇanibhā sā antarahitā, ādīnavo
pātubhūtoti? 'evaṃ, bhante. Ayampi, bhikkhave, rūpānaṃ ādīnavo. ''Puna caparaṃ,
bhikkhave, tameva bhaginiṃ passeyya sarīraṃ sivathikāya chaḍḍitaṃ : kākehi vā
khajjamānaṃ, kulalehi vā khajjamānaṃ, gijjhehi vā khajjamānaṃ, kaṅkehi vā
khajjamānaṃ, sunakhehi vā khajjamānaṃ, byagghehi vā khajjamānaṃ, dīpīhi vā
khajjamānaṃ, siṅgālehi vā khajjamānaṃ, vividhehi vā pāṇakajātehi khajjamānaṃ.
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave , yā purimā subhā vaṇṇanibhā sā antarahitā, ādīnavo
pātubhūtoti? 'evaṃ, bhante. Ayampi, bhikkhave, rūpānaṃ ādīnavo. ''Puna caparaṃ,
bhikkhave, tameva bhaginiṃ passeyya sarīraṃ sivathikāya chaḍḍitaṃ : aṭṭhikasaṅkhalikaṃ
samaṃsalohitaṃ nhārusambandhaṃ, aṭṭhikasaṅkhalikaṃ nimaṃsalohitamakkhitaṃ nhārusambandhaṃ, aṭṭhikasaṅkhalikaṃ apagatamaṃsalohitaṃ
nhārusambandhaṃ, aṭṭhikāni apagatasambandhāni disāvidisāvikkhittāni : aññena
hatthaṭṭhikaṃ, aññena pādaṭṭhikaṃ, aññena gopphakaṭṭhikaṃ, aññena jaṅghaṭṭhikaṃ,
aññena ūruṭṭhikaṃ, aññena kaṭiṭṭhikaṃ, aññena phāsukaṭṭhikaṃ, aññena piṭṭhiṭṭhikaṃ,
aññena khandhaṭṭhikaṃ, aññena gīvaṭṭhikaṃ, aññena hanukaṭṭhikaṃ, aññena dantaṭṭhikaṃ,
aññena sīsakaṭāhaṃ. Taṃ kiṃ maññatha,
bhikkhave, yā purimā subhā vaṇṇanibhā sā antarahitā, ādīnavo pātubhūtoti? 'evaṃ,
bhante. Ayampi, bhikkhave, rūpānaṃ ādīnavo.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, tameva bhaginiṃ passeyya sarīraṃ sivathikāya
chaḍḍitaṃ : aṭṭhikāni setāni saṅkhavaṇṇapaṭibhāgāni, aṭṭhikāni puñjakitāni
terovassikāni, aṭṭhikāni pūtīni cuṇṇakajātāni. Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, yā
purimā subhā vaṇṇanibhā sā antarahitā, ādīnavo pātubhūtoti? 'evaṃ, bhante.
Ayampi, bhikkhave, rūpānaṃ ādīnavo. ''Kiñca, bhikkhave, rūpānaṃ nissaraṇaṃ? yo,
bhikkhave, rūpesu chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ : idaṃ rūpānaṃ nissaraṇaṃ.
''Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā evaṃ rūpānaṃ assādañca assādato
ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nappajānanti te vata
sāmaṃ vā rūpe parijānissanti, paraṃ vā tathattāya samādapessanti yathā paṭipanno
rūpe parijānissatīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Ye ca kho keci, bhikkhave, samaṇā
vā brāhmaṇā vā evaṃ rūpānaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca
nissaraṇato yathābhūtaṃ pajānanti te vata sāmaṃ vā rūpe parijānissanti paraṃ vā
tathattāya samādapessanti yathā paṭipanno rūpe parijānissatīti : ṭhānametaṃ vijjati.
173. ''Ko ca, bhikkhave, vedanānaṃ
assādo? idha, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi
savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi
savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati,
neva tasmiṃ samaye attabyābādhāyapi ceteti, na parabyābādhāyapi ceteti, na
ubhayabyābādhāyapi ceteti abyābajjhaṃyeva tasmiṃ samaye vedanaṃ vedeti.
Abyābajjhaparamāhaṃ, bhikkhave, vedanānaṃ assādaṃ vadāmi.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ
sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ
avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati - pe - yasmiṃ
samaye, bhikkhave, bhikkhu pītiyā ca virāgā, upekkhako ca viharati, sato ca
sampajāno sukhañca kāyena paṭisaṃvedeti yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti : 'upekkhako satimā sukhavihārīti
tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati - pe - yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu
sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā
adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati,
neva tasmiṃ samaye attabyābādhāyapi ceteti, na parabyābādhāyapi ceteti, na
ubhayabyābādhāyapi ceteti abyābajjhaṃyeva tasmiṃ samaye vedanaṃ vedeti. Abyābajjhaparamāhaṃ,
bhikkhave, vedanānaṃ assādaṃ vadāmi.
174. ''Ko ca, bhikkhave, vedanānaṃ
ādīnavo? yaṃ, bhikkhave, vedanā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammā : ayaṃ vedanānaṃ
ādīnavo. ''Kiñca, bhikkhave, vedanānaṃ nissaraṇaṃ? yo, bhikkhave, vedanāsu
chandarāgavinayo, chandarāgappahānaṃ : idaṃ vedanānaṃ nissaraṇaṃ. ''Ye hi keci,
bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā evaṃ vedanānaṃ assādañca assādato ādīnavañca
ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nappajānanti, te vata sāmaṃ vā
vedanaṃ parijānissanti, paraṃ vā tathattāya samādapessanti yathā paṭipanno
vedanaṃ parijānissatīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Ye ca kho keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā evaṃ
vedanānaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato
yathābhūtaṃ pajānanti te vata sāmaṃ vā vedanaṃ parijānissanti, paraṃ vā
tathattāya samādapessanti yathā paṭipanno vedanaṃ parijānissatīti : ṭhānametaṃ
vijjatīti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ
abhinandunti.
Mahādukkhakkhandhasuttaṃ niṭṭhitaṃ tatiyaṃ.
-ooOoo-
13.
Mahādukkhakkhandhasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
163. Evaṃ me sutanti
mahādukkhakkhandhasuttaṃ. Tattha vinayapariyāyena tayo janā sambahulāti
vuccanti, tato paraṃ saṅgho. Suttantapariyāyena tayo tayo eva, tato uddhaṃ
sambahulāti vuccanti. Idha suttantapariyāyena sambahulāti veditabbā. Piṇḍāya
pāvisiṃsūti paviṭṭhā, te pana na tāva paviṭṭhā, pavisissāmāti nikkhantattā pana
pavisiṃsūti vuttā. Yathā gāmaṃ gamissāmīti nikkhantapuriso taṃ gāmaṃ appattopi
‘‘kuhiṃ itthannāmo’’ti vutte ‘‘gāmaṃ gato’’ti vuccati, evaṃ. Paribbājakānaṃ
ārāmoti jetavanato avidūre aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo atthi, taṃ
sandhāya evamāhaṃsu. Samaṇo, āvusoti, āvuso, tumhākaṃ satthā samaṇo gotamo.
Kāmānaṃ pariññanti kāmānaṃ pahānaṃ samatikkamaṃ paññapeti. Rūpavedanāsupi eseva
nayo.
Tattha titthiyā sakasamayaṃ jānantā kāmānaṃ pariññaṃ paññapeyyuṃ paṭhamajjhānaṃ
vadamānā, rūpānaṃ pariññaṃ paññapeyyuṃ arūpabhavaṃ vadamānā, vedanānaṃ pariññaṃ
paññapeyyuṃ asaññabhavaṃ vadamānā. Te pana ‘‘idaṃ nāma paṭhamajjhānaṃ ayaṃ
rūpabhavo ayaṃ arūpabhavo’’tipi na jānanti. Te paññapetuṃ asakkontāpi kevalaṃ
‘‘paññapema paññapemā’’ti vadanti. Tathāgato kāmānaṃ pariññaṃ anāgāmimaggena
paññapeti, rūpavedanānaṃ arahattamaggena. Te evaṃ mahante visese vijjamānepi
idha no, āvuso, ko vivesotiādimāhaṃsu.
Tattha idhāti imasmiṃ paññāpane. Dhammadesanāya vā dhammadesananti
yadidaṃ samaṇassa vā gotamassa dhammadesanāya saddhiṃ amhākaṃ dhammadesanaṃ,
amhākaṃ vā dhammadesanāya saddhiṃ samaṇassa gotamassa dhammadesanaṃ ārabbha
nānākaraṇaṃ vuccetha, taṃ kinnāmāti vadanti. Dutiyapadepi eseva nayo. Iti
vemajjhe bhinnasuvaṇṇaṃ viya sāsanena saddhiṃ attano laddhivacanamattena
samadhuraṃ ṭhapayiṃsu. Neva abhinandiṃsūti evametanti na sampaṭicchiṃsu. Nappaṭikkosiṃsūti
nayidaṃ evanti nappaṭisedhesuṃ. Kasmā? Te kira titthiyā nāma andhasadisā,
jānitvā vā ajānitvā vā katheyyunti nābhinandiṃsu, pariññanti vacanena īsakaṃ
sāsanagandho atthīti nappaṭikkosiṃsu. Janapadavāsino vā te
sakasamayaparasamayesu na suṭṭhu kusalātipi ubhayaṃ nākaṃsu.
165. Na ceva sampāyissantīti
sampādetvā kathetuṃ na sakkhissanti. Uttariñca vighātanti asampāyanato
uttarimpi dukkhaṃ āpajjissanti. Sampādetvā kathetuṃ asakkontānaṃ nāma hi dukkhaṃ
uppajjati. Yathā taṃ, bhikkhave, avisayasminti ettha yathāti kāraṇavacanaṃ,
tanti nipātamattaṃ. Yasmā avisaye pañho pucchito hotīti attho. Sadevaketi saha
devehi sadevake. Samārakādīsupi eseva nayo. Evaṃ tīṇi ṭhānāni loke pakkhipitvā
dve pajāyāti pañcahipi sattalokameva pariyādiyitvā etasmiṃ sadevakādibhede loke
taṃ devaṃ vā manussaṃ vā na passāmīti dīpeti. Ito vā pana sutvāti ito vā pana
mama sāsanato sutvā atathāgatopi atathāgatasāvakopi ārādheyya paritoseyya.
Aññathā ārādhanaṃ nāma natthīti dasseti.
166. Idāni attano tesaṃ pañhānaṃ
veyyākaraṇena cittārādhanaṃ dassento ko ca, bhikkhavetiādimāha. Kāmaguṇāti
kāmayitabbaṭṭhena kāmā. Bandhanaṭṭhena guṇā. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ahatānaṃ
vatthānaṃ dviguṇaṃ saṅghāṭi’’nti (mahāva. 348) ettha hi paṭalaṭṭho guṇaṭṭho.
‘‘Accenti kālā tarayanti rattiyo, vayoguṇā anupubbaṃ jahantī’’ti (saṃ. ni. 1.4)
ettha rāsaṭṭho guṇaṭṭho. ‘‘Sataguṇā dakkhiṇā pāṭikaṅkhitabbā’’ti (ma. ni.
3.379) ettha ānisaṃsaṭṭho guṇaṭṭho. ‘‘Antaṃ antaguṇaṃ (khu. pā. 3 dvattiṃsākāre;
dī. ni. 2.377) kayirā mālāguṇe bahū’’ti (dha. pa. 53) ettha bandhanaṭṭho guṇaṭṭho.
Idhāpi eseva adhippeto, tena vuttaṃ ‘‘bandhanaṭṭhena guṇā’’ti. Cakkhuviññeyyāti
cakkhuviññāṇena passitabbā. Etenupāyena sotaviññeyyādīsupi attho veditabbo. Iṭṭhāti
pariyiṭṭhā vā hontu mā vā, iṭṭhārammaṇabhūtāti attho. Kantāti kamanīyā.
Manāpāti manavaḍḍhanakā. Piyarūpāti piyajātikā. Kāmūpasaṃhitāti ārammaṇaṃ katvā
uppajjamānena kāmena upasaṃhitā. Rajanīyāti rajjaniyā, rāguppattikāraṇabhūtāti
attho.
167. Yadi muddāyātiādīsu muddāti aṅgulipabbesu
saññaṃ ṭhapetvā hatthamuddā. Gaṇanāti acchiddagaṇanā. Saṅkhānanti piṇḍagaṇanā.
Yāya khettaṃ oloketvā idha ettakā vīhī bhavissanti, rukkhaṃ oloketvā idha
ettakāni phalāni bhavissanti, ākāsaṃ oloketvā ime ākāse sakuṇā ettakā nāma
bhavissantīti jānanti.
Kasīti kasikammaṃ. Vaṇijjāti jaṅghavaṇijjathalavaṇijjādivaṇippatho.
Gorakkhanti attano vā paresaṃ vā gāvo rakkhitvā pañcagorasavikkayena
jīvanakammaṃ. Issattho vuccati āvudhaṃ gahetvā upaṭṭhānakammaṃ. Rājaporisanti
āvudhena rājakammaṃ katvā upaṭṭhānaṃ. Sippaññataranti gahitāvasesaṃ
hatthiassasippādi. Sītassa purakkhatoti lakkhaṃ viya sarassa sītassa purato,
sītena bādhīyamānoti attho. Uṇhepi eseva nayo. Ḍaṃsādīsu ḍaṃsāti piṅgalamakkhikā.
Makasāti sabbamakkhikā, sarīsapāti ye keci saritvā gacchanti. Rissamānoti
ruppamāno, ghaṭṭiyamāno. Mīyamānoti maramāno. Ayaṃ, bhikkhaveti, bhikkhave, ayaṃ
muddādīhi jīvikakappanaṃ āgamma sītādipaccayo ābādho. Kāmānaṃ ādīnavoti kāmesu
upaddavo, upassaggoti attho. Sandiṭṭhikoti paccakkho sāmaṃ passitabbo.
Dukkhakkhandhoti dukkharāsi. Kāmahetūtiādīsu paccayaṭṭhena kāmā assa hetūti
kāmahetu. Mūlaṭṭhena kāmā nidānamassāti kāmanidāno. Liṅgavipallāsena pana
kāmanidānanti vutto. Kāraṇaṭṭhena kāmā adhikaraṇaṃ assāti kāmādhikaraṇo. Liṅgavipallāseneva
pana kāmādhikaraṇanti vutto. Kāmānameva hetūti idaṃ niyamavacanaṃ, kāmapaccayā
uppajjatiyevāti attho.
Uṭṭhahatoti ājīvasamuṭṭhāpakavīriyena uṭṭhahantassa. Ghaṭatoti taṃ
vīriyaṃ pubbenāparaṃ ghaṭentassa. Vāyamatoti vāyāmaṃ parakkamaṃ payogaṃ
karontassa. Nābhinipphajjantīti na nipphajjanti, hatthaṃ nābhiruhanti. Socatīti
citte uppannabalavasokena socati. Kilamatīti kāye uppannadukkhena kilamati.
Paridevatīti vācāya paridevati. Urattāḷinti uraṃ tāḷetvā. Kandatīti rodati.
Sammohaṃ āpajjatīti visaññī viya sammūḷho hoti. Moghanti tucchaṃ. Aphaloti
nipphalo. Ārakkhādhikaraṇanti ārakkhakāraṇā. Kintīti kena nu kho upāyena. Yampi
meti yampi mayhaṃ kasikammādīni katvā uppāditaṃ dhanaṃ ahosi. Tampi no natthīti
tampi amhākaṃ idāni natthi.
168. Puna caparaṃ, bhikkhave,
kāmahetūtiādināpi kāraṇaṃ dassetvāva ādīnavaṃ dīpeti. Tattha kāmahetūti
kāmapaccayā rājānopi rājūhi vivadanti. Kāmanidānanti bhāvanapuṃsakaṃ, kāme
nidānaṃ katvā vivadantīti attho. Kāmādhikaraṇantipi bhāvanapuṃsakameva, kāme
adhikaraṇaṃ katvā vivadantīti attho. Kāmānameva hetūti gāmanigamanagarasenāpatipurohitaṭṭhānantarādīnaṃ
kāmānameva hetu vivadantīti attho. Upakkamantīti paharanti. Asicammanti
asiñceva kheṭakaphalakādīni ca. Dhanukalāpaṃ sannayhitvāti dhanuṃ gahetvā
sarakalāpaṃ sannayhitvā. Ubhatobyūḷanti ubhato rāsibhūtaṃ. Pakkhandantīti pavisanti.
Usūsūti kaṇḍesu. Vijjotalantesūti viparivattantesu. Te tatthāti te tasmiṃ saṅgāme.
Addāvalepanā upakāriyoti cettha manussā pākārapādaṃ assakhurasaṇṭhānena
iṭṭhakāhi cinitvā upari sudhāya limpanti. Evaṃ katā pākārapādā upakāriyoti vuccanti.
Tā tintena kalalena sittā addāvalepanā nāma honti. Pakkhandantīti tāsaṃ heṭṭhā
tikhiṇaayasūlādīhi vijjhīyamānāpi pākārassa picchilabhāvena ārohituṃ
asakkontāpi upadhāvantiyeva. Chakaṇakāyāti kuthitagomayena. Abhivaggenāti
satadantena. Taṃ aṭṭhadantākārena katvā ‘‘nagaradvāraṃ bhinditvā
pavisissāmā’’ti āgate uparidvāre ṭhitā tassa bandhanayottāni chinditvā tena
abhivaggena omaddanti.
169. Sandhimpi chindantīti
gharasandhimpi chindanti. Nillopanti gāme paharitvā mahāvilopaṃ karonti.
Ekāgārikanti paṇṇāsamattāpi saṭṭhimattāpi parivāretvā jīvaggāhaṃ gahetvā
āharāpenti. Paripanthepi tiṭṭhantīti panthadūhanakammaṃ karonti. Aḍḍhadaṇḍakehīti
muggarehi pahārasādhanatthaṃ vā catuhatthadaṇḍaṃ dvedhā chetvā gahitadaṇḍakehi.
Bilaṅgathālikanti kañjiyaukkhalikammakāraṇaṃ, taṃ karontā sīsakapālaṃ uppāṭetvā
tattaṃ ayoguḷaṃ saṇḍāsena gahetvā tattha pakkhipanti, tena matthaluṅgaṃ
pakkuthitvā upari uttarati. Saṅkhamuṇḍikanti saṅkhamuṇḍakammakāraṇaṃ, taṃ
karontā uttaroṭṭhaubhatokaṇṇacūḷikagaḷavāṭaparicchedena cammaṃ chinditvā
sabbakese ekato gaṇṭhiṃ katvā daṇḍakena vallitvā uppāṭenti, saha kesehi cammaṃ
uṭṭhahati. Tato sīsakaṭāhaṃ thūlasakkharāhi ghaṃsitvā dhovantā saṅkhavaṇṇaṃ
karonti.
Rāhumukhanti rāhumukhakammakāraṇaṃ, taṃ karontā saṅkunā mukhaṃ vivaritvā
antomukhe dīpaṃ jālenti. Kaṇṇacūḷikāhi vā paṭṭhāya mukhaṃ nikhādanena khaṇanti.
Lohitaṃ paggharitvā mukhaṃ pūreti. Jotimālikanti sakalasarīraṃ telapilotikāya
veṭhetvā ālimpanti. Hatthapajjotikanti hatthe telapilotikāya veṭhetvā dīpaṃ
viya jālenti. Erakavattikanti erakavattakammakāraṇaṃ, taṃ karontā gīvato paṭṭhāya
cammabaddhe kantitvā gopphake ṭhapenti. Atha naṃ yottehi bandhitvā kaḍḍhanti.
So attano cammabaddhe akkamitvā akkamitvā patati. Cīrakavāsikanti
cīrakavāsikakammakāraṇaṃ, taṃ karontā tatheva cammabaddhe kantitvā kaṭiyaṃ ṭhapenti.
Kaṭito paṭṭhāya kantitvā gopphakesu ṭhapenti. Uparimehi heṭṭhimasarīraṃ
cīrakanivāsananivatthaṃ viya hoti. Eṇeyyakanti eṇeyyakakammakāraṇaṃ. Taṃ
karontā ubhosu kapparesu ca jāṇūsu ca ayavalayāni datvā ayasūlāni koṭṭenti. So
catūhi ayasūlehi bhūmiyaṃ patiṭṭhahati. Atha naṃ parivāretvā aggiṃ karonti. ‘‘Eṇeyyako
jotipariggaho yathā’’ti āgataṭṭhānepi idameva vuttaṃ. Taṃ kālena kālaṃ sūlāni
apanetvā catūhi aṭṭhikoṭīhiyeva ṭhapenti. Evarūpā kāraṇā nāma natthi.
Baḷisamaṃsikanti ubhatomukhehi baḷisehi paharitvā cammamaṃsanhārūni uppāṭenti.
Kahāpaṇikanti sakalasarīraṃ tiṇhāhi vāsīhi koṭito paṭṭhāya kahāpaṇamattaṃ
kahāpaṇamattaṃ pātentā koṭṭenti. Khārāpatacchikanti sarīraṃ tattha tattha
āvudhehi paharitvā kocchehi khāraṃ ghaṃsanti. Cammasaṃsanhārūni paggharitvā
savanti. Aṭṭhikasaṅkhalikāva tiṭṭhati. Palighaparivattikanti ekena passena
nipajjāpetvā kaṇṇacchidde ayasūlaṃ koṭṭetvā pathaviyā ekābaddhaṃ karonti. Atha
naṃ pāde gahetvā āvijjhanti. Palālapīṭhakanti cheko kāraṇiko chavicammaṃ
acchinditvā nisadapotehi aṭṭhīni bhinditvā kesesu gahetvā ukkhipanti. Maṃsarāsiyeva
hoti, atha naṃ keseheva pariyonandhitvā gaṇhanti. Palālavaṭṭiṃ viya katvā pana
veṭhenti. Sunakhehipīti katipayāni divasāni āhāraṃ adatvā chātakehi sunakhehi
khādāpenti. Te muhuttena aṭṭhisaṅkhalikameva karonti. Samparāyikoti samparāye
dutiyattabhāve vipākoti attho.
170. Chandarāgavinayo
chandarāgappahānanti nibbānaṃ. Nibbānañhi āgamma kāmesu chandarāgo vinīyati
ceva pahīyati ca, tasmā nibbānaṃ chandarāgavinayo chandarāgappahānanti ca vuttaṃ.
Sāmaṃ vā kāme parijānissantīti sayaṃ vā te kāme tīhi pariññāhi parijānissanti.
Tathattāyāti tathabhāvāya. Yathāpaṭipannoti yāya paṭipadāya paṭipanno.
171. Khattiyakaññā vātiādi
aparittena vipulena kusalena gahitapaṭisandhikaṃ vatthālaṅkārādīni labhanaṭṭhāne
nibbattaṃ dassetuṃ vuttaṃ. Pannarasavassuddesikāti pannarasavassavayā.
Dutiyapadepi eseva nayo. Vayapadesaṃ kasmā gaṇhāti? Vaṇṇasampattidassanatthaṃ.
Mātugāmassa hi duggatakule nibbattassāpi etasmiṃ kāle thokaṃ thokaṃ vaṇṇāyatanaṃ
pasīdati. Purisānaṃ pana vīsativassakāle pañcavīsativassakāle pasannaṃ hoti.
Nātidīghātiādīhi chadosavirahitaṃ sarīrasampattiṃ dīpeti. Vaṇṇanibhāti vaṇṇoyeva.
Jiṇṇanti jarājiṇṇaṃ. Gopānasivaṅkanti gopānasī viya vaṅkaṃ. Bhogganti
bhaggaṃ, imināpissa vaṅkabhāvameva dīpeti. Daṇḍaparāyaṇanti daṇḍapaṭisaraṇaṃ daṇḍadutiyaṃ.
Pavedhamānanti kampamānaṃ. Āturanti jarāturaṃ. Khaṇḍadantanti jiṇṇabhāvena khaṇḍitadantaṃ.
Palitakesanti paṇḍarakesaṃ. Vilūnanti luñcitvā gahitakesaṃ viya khallāṭaṃ.
Khalitasiranti mahākhallāṭasīsaṃ. Valinanti sañjātavaliṃ. Tilakāhatagattanti
setakāḷatilakehi vikiṇṇasarīraṃ. Ābādhikanti byādhikaṃ. Dukkhitanti dukkhapattaṃ.
Bāḷhagilānanti adhimattagilānaṃ. Sivathikāya chaḍḍitanti āmakasusāne
pātitaṃ. Sesamettha satipaṭṭhāne vuttameva. Idhāpi nibbānaṃyeva chandarāgavinayo.
173. Neva tasmiṃ samaye
attabyābādhāyāti tasmiṃ samaye attanopi dukkhatthāya na ceteti. Abyābajjhaṃyevāti
niddukkhameva.
174. Yaṃ, bhikkhave, vedanā
aniccāti, bhikkhave, yasmā vedanā aniccā, tasmā ayaṃ aniccādiākārova vedanāya
ādīnavoti attho, nissaraṇaṃ vuttappakāramevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahādukkhakkhandhasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Nếu nhìn cuộc sống chỉ qua vị ngọt mà không biết về hiểm hoạ thì có vấn đề. Nếu ngược lại chỉ nghĩ tới hiểm hoạ và không biết về vị ngọt thì có vấn đề gì chăng? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Trong tâm trạng "khổ thì biết khổ, mê thì vẫn mê" phải chăng là sự hiểu biết về vị ngọt, nguy hiểm nhưng không biết về sự xuất ly? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 3. Ba khía cạnh của cuộc sống được Đức Phật dạy là vị ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly cho chúng ta hiểu gì về nhân sinh quan theo Phật Pháp? - ĐĐ Nguyên Thông
Thảo luận 2. Trong tâm trạng "khổ thì biết khổ, mê thì vẫn mê" phải chăng là sự hiểu biết về vị ngọt, nguy hiểm nhưng không biết về sự xuất ly? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 3. Ba khía cạnh của cuộc sống được Đức Phật dạy là vị ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly cho chúng ta hiểu gì về nhân sinh quan theo Phật Pháp? - ĐĐ Nguyên Thông
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment