Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng Sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 15/7/2020
11. Tiểu Kinh Sư Tử Hống
(Cūḷasīhanāda Sutta)
Sư tử hống (sìhanàda)
có nghĩa đen là tiếng rống con sư tử chỉ cho lời tuyên bố không biết
khiếp sợ hay e ngại hay dám khẳng định. Gọi là Tiểu Kinh Sư
Tử Hống vì có hai bài kinh cùng tên một ngắn (tiểu kinh) và một dài (đại kinh)
Ý nghĩa của bài kinh xoay chung lời khẳng định dứt khoát,
không e dè: Chỉ có trong giáo pháp của Đức Phật mới có bốn bậc sa môn thành tựu
thánh trí.Lời tuyên bố đó có cơ sở không phải chủ quan hay thậm xưng. Để trình
bày cơ sở vững chắc cho lời tuyên bố đó một số câu hỏi được nêu ra. Nếu trả lời
một cách chân chánh thì không thể nói khác hơn được. Chỉ có trong Giáo Pháp của
Phật mới có những yếu tố tất yếu chuyển hoá chúng sanh từ phàm sang thánh.
062. Bốn
bậc thánh trí
Như vầy tôi nghe
Một thời Thế
Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong vườn ông Anāthapiṇḍika
(Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo." --"Bạch Thế Tôn," những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn thuyết như sau:
-- Này các
Tỷ-kheo, chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở
đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác
không có Sa-môn. Này các Tỷ-kheo, các Ông hãy chân chánh rống tiếng rống
sư tử như vậy.
Bốn thánh
quả với sở chứng giác ngộ, giải thoát:
a. Đệ nhất sa môn là bậc đoạn tận thân kiến,
hoài nghi, giới cấm thủ.
b. Đệ nhị sa môn là bậc giảm thiểu dục ái và
sân.
c. Đệ tam sa môn là bậc đoạn tận dục ái và
sân
d. Đệ tứ sa môn là bậc đoạn tận ái sắc, ái
vô sắc, ngã mạn, phóng dật và vô minh.
Để chứng đắc
bốn thánh quả phải có bốn yếu tố:
a. Lòng tin bậc Ðạo Sư
b. Lòng tin Giáo Pháp
c. Thành tựu viên mãn các giới luật
d. Sự quý kính chân thành đối với các bạn
đồng tu thuộc cả hai giới xuất gia và tại gia
063. Chín
điểm không thể trả lời khác hơn?
Đây là những
câu hỏi khi được nêu ra NẾU TRẢ LỜI MỘT CÁCH CHÂN CHÁNH thì những người có trí
chỉ có một câu trả lời chứ không có câu thứ hai. Chín câu hỏi nầy là cơ sở để
khẳng định tại sao ngoài Phật Pháp không có bốn bậc sa môn:
Này các
Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra, khi ở đây, những Du sĩ ngoại đạo có thể
nói: "Chư Hiền, chúng tôi cũng có lòng tin bậc Ðạo Sư, vị ấy là
Ðạo Sư của chúng tôi. Chúng tôi có lòng tin Pháp, Pháp ấy là Pháp của
chúng tôi, chúng tôi thành tựu viên mãn các Giới luật, những Giới luật
ấy là Giới luật của chúng tôi. Và những pháp hữu của chúng tôi, những
người cư sĩ và cả những người xuất gia, được chúng tôi thương,
được chúng tôi mến. Chư Hiền, như vậy có sự sai biệt gì, có sự đặc
thù gì, có sự khác biệt gì giữa quý vị và chúng tôi?".
Chư Tỷ-kheo,
nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như
sau: "Chư Hiền, cứu cánh là một hay cứu cánh là đa diện?" Nếu
trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời: "Chư Hiền,
cứu cánh là một, cứu cánh không phải đa diện". --"Chư Hiền,
cứu cánh ấy cho người có tham, hay cho người không tham?" Nếu trả
lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời: "Chư Hiền, cứu
cánh ấy cho người không tham, không phải cho người có tham".
--"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có sân, hay cho người không
sân?" Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không sân, không phải cho người
có sân". --"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có si hay cho
người không si? Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: "Chư
Hiền, cứu cánh ấy cho người không si, không phải cho người có si".
--"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có ái, hay cho người không
ái?" Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: "Chư Hiền, cứu
cánh ấy cho người không ái, không phải cho người có ái". -- "Chư
Hiền, cứu cánh ấy cho người có chấp thủ, hay cho người không chấp
thủ?" Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: "Chư Hiền,
cứu cánh ấy cho người không chấp thủ, không phải cho người chấp
thủ". --"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có trí, hay cho người
không có trí?" Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: "Cứu
cánh ấy cho người có trí, không phải cho người không có trí".
--"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người thuận ứng, nghịch ứng hay cho
người không thuận ứng, không nghịch ứng?" Nếu trả lời đứng
đắn... phải trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không
thuận ứng, không nghịch ứng, không phải cho người thuận ứng, nghịch
ứng".
--"Chư
Hiền, cứu cánh ấy cho người ưa hý luận, thích hý luận hay cho người
không ưa hý luận, không thích hý luận?" Nếu trả lời đứng đắn, các
Du sĩ ngoại đạo cần phải trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho
người không ưa hý luận, không thích hý luận, không phải cho người ưa
hý luận, thích hý luận".
Câu hỏi 1.
Cứu cánh là một hay có nhiều? Câu trả lời là chỉ có một. Đã là cứu cánh hay mục
đích rốt ráo tối hậu thì không thể có hai hoặc nhiều hơn.
Câu hỏi 2.
Cứu cánh ấy cho người có tham hay cho người không tham? Câu trả lời là cho người
không tham. Một bậc giải thoát hoàn toàn không thể bị cột trói bởi tham luyến.
Câu hỏi 3.
Cứu cánh ấy cho người có sân hay cho người không sân? Câu trả lời là cho người
không sân. Một bậc giải thoát hoàn toàn không thể bị cột trói bởi nhiệt não khó
chịu.
Câu hỏi 4.
Cứu cánh ấy cho người có si hay cho người không si? Câu trả lời là cho người
không si. Một bậc giải thoát hoàn toàn không thể bị cột trói bởi mê mờ si ám.
Câu hỏi 5.
Cứu cánh ấy cho người có ái, hay cho người không ái? Câu trả lời là cho người
không ái. Một bậc giải thoát hoàn toàn không thể bị cột trói bởi khao khát truy
cầu.
Câu hỏi 6.
Cứu cánh ấy cho người có chấp thủ, hay cho người không chấp thủ? Câu trả lời là
cho người không chấp thủ. Một bậc giải thoát hoàn toàn không thể bị cột trói
bởi cố chấp.
Câu hỏi 7.
Cứu cánh ấy cho người có trí hay cho người không có trí? Câu trả lời là cho
người có trí. Một bậc giải thoát hoàn toàn không thể bị cột trói bởi thiếu trí.
Câu hỏi 8.
Cứu cánh ấy cho người thuận ứng, nghịch ứng hay cho người không thuận ứng,
không nghịch ứng? Câu trả lời là cho người không thuận ứng, không nghịch ứng.
Một bậc giải thoát hoàn toàn không thể bị cột trói và giằng co giữa cái thích
và cái không thích.
Câu hỏi 9. Cứu
cánh ấy cho người ưa hý luận, thích hý luận hay cho người không ưa hý luận,
không thích hý luận? Câu trả lời là cho người không hý luận. Một bậc giải thoát
hoàn toàn không thể bị cột trói bởi tâm thái phóng đại lan man.
Chữ papañca ở
đây dịch là hý luận có thể bị hiểu lầm là thích luận đàm vô bổ. Thật ra từ nầy
chỉ cho sự khuyếch tán miên man của nội tâm đối lập với niệm và định.
064. Hai
chấp kiến và bốn chấp thủ
Gọi là chấp vì
chọn điều nầy thì nghịch với điều kia.
Chư Tỷ-kheo,
có hai loại tri kiến này: hữu kiến và phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những
Sa-môn hay Bà- la-môn nào chấp trước hữu kiến, thân thiết hữu kiến, cố
chấp hữu kiến; những vị ấy bị chướng ngại đối với phi hữu kiến. Chư
Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước phi hữu kiến, thân
thiết phi hữu kiến, cố chấp phi hữu kiến; những vị ấy bị chướng
ngại bởi hữu kiến.
Chư Tỷ-kheo,
những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri sự tập khởi và sự
đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly
của chúng, những vị này là những vị có tham, có sân, có si, có ái, có
chấp thủ, không có trí, có thuận ứng, có nghịch ứng, có ưa hý luận, có thích
hý luận; những vị ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não. Ta nói những vị ấy không giải thoát khỏi đau khổ.
Chư Tỷ-kheo,
những Sa-môn hay Bà-la-môn nào như thật tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn
diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm, và sự xuất ly của
chúng; những vị này là những vị không tham, không sân, không si, không ái,
không chấp thủ, có trí, không có thuận ứng, không có nghịch ứng, không
ưa hý luận, thích hý luận; những vị ấy giải thoát khỏi sanh, già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói những vị ấy giải thoát khỏi đau
khổ.
Chư Tỷ-kheo,
có bốn chấp thủ. Thế nào là bốn? Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ,
ngã luận thủ.
Chư Tỷ-kheo,
có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không
chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ; họ hiển thị sự liễu tri
về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới
cấm thủ, về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy không như thật tuệ tri ba sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh
hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục
thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm
thủ, về ngã luận thủ.
Chư Tỷ-kheo,
có những Sa-môn hay Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng
không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự
liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ nhưng không hiển thị
sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao
vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la- môn ấy không như thật tuệ tri hai
sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri
tất cả thủ, nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ.
Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ;
nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về
ngã luận thủ.
Chư Tỷ-kheo,
có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không
chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu
tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm
thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao vậy?
Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la- môn ấy không như thật tuệ tri một sự. Do
vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả
thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển
thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri
về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ.
Chư Tỷ-kheo,
trong Pháp và Luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với Ðạo Sư, tịnh tín
ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín
ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật,
sự thành tựu ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có sự thương mến
đối với những pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là không hoàn
toàn. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự tình là như vậy, trong một pháp luật
không khéo thuyết giảng, không khéo hiển thị, không có hướng thượng,
không dẫn đến tịch tịnh, không được bậc Chánh Ðẳng Giác hiển thị.
Và Như
Tỷ-kheo, bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tự xưng liễu tri tất
cả thủ, chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Như Lai hiển
thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri
về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ.
Chư Tỷ-kheo,
trong Pháp và Luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với bậc Ðạo Sư, tịnh
tín ấy được xem là hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín
ấy được xem là hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự
thành tựu ấy được xem là hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối với các
pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là hoàn toàn. Vì sao vậy? Chư
Tỷ-kheo, sự tình là như vậy, trong một pháp luật khéo thuyết giảng,
khéo hiển thị, có hướng thượng, dẫn đến tịch tịnh, được bậc Chánh
Ðẳng Giác hiển thị.
Chư Tỷ-kheo,
bốn loại chấp thủ này, lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì
làm chủng, lấy gì làm nhân? Bốn loại chấp thủ này lấy ái làm duyên, lấy
ái làm tập khởi, lấy ái làm chủng, lấy ái làm nhân. Chư Tỷ-kheo, ái này
lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm
nhân? Chư Tỷ- kheo, ái này lấy thọ làm duyên, lấy thọ làm tập khởi,
lấy thọ làm chủng, lấy thọ làm nhân. Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy gì làm
duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân ? Chư
Tỷ-kheo, thọ này lấy xúc làm duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm
chủng, lấy xúc làm nhân. Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy gì làm duyên... lấy gì
làm nhân? Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy sáu nhập làm duyên... lấy sáu nhập làm
nhân. Chư Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư
Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy danh sắc làm duyên... lấy danh sắc làm nhân.
Chư Tỷ-kheo, danh sắc này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư
Tỷ-kheo, danh sắc này lấy thức làm duyên... lấy thức làm nhân. Chư
Tỷ-kheo, thức này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, thức
này lấy hành làm duyên... lấy hành làm nhân. Chư Tỷ-kheo, hành này lấy gì
làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, hành này lấy vô minh làm
duyên... lấy vô minh làm nhân.
Và Chư
Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo đã đoạn trừ vô minh, đã làm minh sanh khởi, vị
ấy do vô minh được đoạn trừ, do minh sanh khởi, nên không chấp thủ dục
thủ, không chấp thủ kiến thủ, không chấp thủ giới cấm thủ, không
chấp thủ ngã luận thủ. Nhờ không chấp thủ nên không tháo động, nhờ
không tháo động, nên tự thân chứng được Niết-bàn; vị ấy tuệ tri:
"Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở
lui trạng thái này nữa".
Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của
Thế Tôn.
Hai sở chấp
cần vượt thoát là chấp có và chấp không.
Chấp có là
sự bám víu vào quan niệm hằng hữu hay thường kiến về thế giới nầy: phải có cái
gì đó tồn tại bất biến với thời gian.
Chấp không
là sự phủ nhận tất cả hay đoạn kiến: tất cả đều là không.
Phật pháp
dạy cuộc sống là sự hiện hữu của dòng sinh diệt tiếp nối theo định lý duyên
khởi. Cả hai quan niệm chấp hữu và chấp vô đều là cực đoan phiến diện mang tính
đối đãi. Hơn thế nữa như chánh kinh nói về hệ quả trước mắt của hai sở chấp
là: “những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp
trước hữu kiến, thân thiết hữu kiến, cố chấp hữu kiến; những vị ấy bị chướng
ngại đối với phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp
trước phi hữu kiến, thân thiết phi hữu kiến, cố chấp phi hữu kiến; những vị ấy
bị chướng ngại bởi hữu kiến”.
Bốn thủ cần
tháo gỡ là bốn câu chấp khiến chúng sanh bị kẹt trong sanh tử, không giải thoát
được.
Dục thủ là
sự chấp chặt vào dục lạc như sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm..
Kiến thủ là
sự chấp chặr vào quan niệm, định kiến, cái nhìn cố hữu.
Giới cấm thủ
là sự chấp chặt vào những hành trì mang tánh tín ngưỡng dân gian vốn vô ích lại
làm hỏng niềm tin nhân quả, tin ở sự hợp lý trong nếp sống nội tâm.
Ngã luận thủ
là sự chấp chặt vào ý nghĩa về của ta,về ta, và tự ngã của ta.
Ba trọng
điểm được đề cập là: chín điều không thể khác hơn, hai sở chấp cần vượt thoát,
bốn thủ cần tháo gỡ nói lên cơ sở để thành tựu bốn sa môn quả. Những thánh quả không phải là địa
vị ban phong mà là sự giác ngộ chân tướng các pháp và giải thoát trói buộc. Ba
phạm trù được Đức Phật dạy trong bài kinh nầy khẳng định tu tập là một hành
trình bao gồm cả tâm giải thoát và tuệ giải thoát với phương thức mà không một
ngoại giáo nào có được. Và tuyên bố đó là khẳng định của chánh pháp vô uý. Là
tiếng rống của Sư vương giữa muôn thú.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân
đoạn & chú thích: Tỳ Kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 1 [tóm
tắt]
Tiểu Kinh Sư Tử Hống
(Cūḷasīhanāda Sutta)
(M.i, 63)
Đức Phật tuyên bố chỉ trong Pháp và Luật của
Ngài mới có đệ nhất Sa-môn, đệ nhị Sa- môn, đệ tam Sa-môn, đệ tứ
Sa-môn, tức là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán, còn các
ngoại đạo không có bốn hạng Sa-môn này. Tuyên bố như vậy là rống
tiếng rống con sư tử. Nếu gặp du sĩ ngoại đạo chất vấn về lời
tuyên bố này, đức Phật dạy các Tỷ- kheo cần phải trả lời là “Bậc
Đạo sư có thuyết bốn pháp và những pháp ấy chúng tôi được thấy
trên chúng tôi. Tức là lòng tín thành (pasāda) đối với bậc
Đạo sư, lòng tín thành đối với Pháp, sự thành tựu viên mãn trong
các giới luật, và chúng tôi có những pháp hữu khả ái, khả ý, tại
gia và xuất gia mà chúng tôi kính mến”.
Khi tuyên bố như vậy và có gặp du sĩ ngoại
đạo cật vấn họ cũng có bốn pháp kể trên thời cần phải tuần tự
đề cập những vấn đề như sau:
1/ Cứu cánh là một hay đa diện.
2/ Cứu cánh đã là một thời dành cho vị không
tham, không sân, không si, không có ái, không chấp thủ, cho người
có trí, cho người không chịu áp lực, không chịu chi phối bởi tham
ái, cho người không có hỷ chướng, lạc chướng (papancarāmārati)
tham dục, tà kiến, kiêu mạn.
3/ Có hai chấp thủ: Hữu kiến và vô hữu kiến.
Những ai chấp trước hữu kiến thời có chướng ngại đối với vô hữu
kiến. Những ai chấp trước vô hữu kiến thời có chướng ngại đối
với hữu kiến. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào không như thật quán tri
sự tập khởi, sự hoại diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của
hai tà kiến này, những vị ấy là những người có tham, có sân...,
có hỷ chướng, lạc chướng, không giải thoát khỏi khổ ưu, sanh lão
bệnh tử. Các Sa-môn, Bà-la-môn như thật quán tri (như trên)...
những vị này giải thoát khỏi khổ ưu, sanh lão bệnh tử.
Có bốn chấp thủ: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm
thủ, ngã luận thủ. Có những Sa-môn, Bà- la-môn không liễu tri các
thủ này, hoặc chỉ liễu tri một thủ, hai thủ, ba thủ, không liễu tri
các thủ còn lại. Trong Pháp Luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với
Đạo sư, nếu có sự thương mến đối với các pháp hữu, thời tịnh
tín ấy, sự thương mến ấy không được hoàn toàn. Vì rằng sự tình
là như vậy trong một Pháp Luật không khéo thuyết giảng, không khéo
hiển thị, không có hướng thượng, không dẫn đến tịch tịnh, không
được bậc Chánh giác hiển thị. Còn Như Lai hiển thị sự liễu tri
tất cả thủ. Trong một Pháp Luật như vậy, nếu có sự tịnh tín đối
với bậc Đạo sư, đối với Pháp, đối với chúng Tăng, có sự thành
tựu viên mãn các giới luật, có sự thương mến đối với các pháp
hữu, tịnh tín ấy, thành tựu ấy, thương mến ấy được hoàn toàn.
Cuối cùng đức Phật giải thích bốn chấp thủ
lấy ái làm duyên, ái lấy thọ làm duyên, thọ lấy xúc làm duyên,
xúc lấy sáu nhập làm duyên, sáu nhập lấy danh sắc làm duyên, danh
sắc lấy thức làm duyên, thức lấy hành làm duyên, hành lấy vô minh
làm duyên. Tỷ-kheo do đoạn trừ vô minh, làm minh sanh khởi, nên không
chấp trước các thủ, nhờ không chấp thủ nên không hối quá tháo
động, tự thân chứng được Niết-bàn, chứng quả A-la-hán.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 1 [dàn
ý]
Tiểu Kinh Sư Tử Hống
(Cūḷasīhanāda Sutta)
(M.i, 63)
A. Duyên
khởi:
Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo và thuyết giảng kinh này.
B. Chánh
kinh:
I. Thế Tôn
dạy các Tỷ-kheo, hãy rống tiếng rống con sư tử, chỉ trong giáo pháp của
Thế Tôn mới
có 4 hạng Sa-môn. Ngoài ra không thể có Sa-môn.
II. Thế Tôn
dạy cách trả lời các câu cật vấn của ngoại đạo và đưa đến kết luận là một người
phải thành tựu 8 pháp, mới có thể đạt được cứu cánh giải thoát.
III. Thế Tôn
dạy những Sa-môn, Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn
diệt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly của hai loại tà kiến: hữu và phi hữu,
vị ấy sẽ không có được 8 pháp đưa đến cứu cánh giảithoát. Trái lại, vị nào như
thật tuệ tri hai loại tà kiến ấy, vị ấy có được 8 pháp đưa đến cứu cánh giải
thoát.
IV. Vị
Sa-môn, Bà-la-môn nào chưa liễu tri 4 loại chấp thủ, thời trong giáo pháp của
vị này, không có thành tựu viên mãn tịnh tín đối với bậc đạo sư, đối với pháp,
đối với giới luật, và sự ái kính đối với các pháp hữu. Như Lai là bậc liễu tri
4 loại chấp thủ, nên trong giáo pháp của Như Lai có sự thành tựu viên mãn 4
pháp trên.
V. Bốn loại
chấp thủ này cơ bản lấy vô minh làm duyên. Và đoạn trừ vô minh là đoạn trừ được
4 chấp thủ, tự thân chứng được Niết-bàn.
C. Kết
luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 1 [toát
yếu]
Tiểu Kinh Sư Tử Hống
(Cūḷasīhanāda Sutta)
(M.i, 63)
I. Toát yếu
Cūlasīhanāda Sutta - The shorter discourse on the
Lion's roar.
The Buddha declares that only in his Dispensation can
the four grades of noble individuals be found, explaining how his teaching can
be distinguished from other creeds through its unique rejection of all
doctrines of self.
Bài kinh ngắn nói về tiếng rống sư tử.
Phật tuyên bố, chỉ trong Giáo pháp Ngài mới
có thể tìm thấy bốn cấp bực thánh chúng, và giải thích giáo lý
Ngài khác với các tôn giáo khác ở chỗ độc đáo phủ nhận tất cả
kiến chấp về bản ngã như thế nào.
II. Tóm tắt
Phật bày cho các đệ tử đối đáp với ngoại đạo
khi bị chất vấn lý do lời tuyên bố "chỉ có trong đạo Phật mới
có bốn thánh quả sa môn, tức bốn đôi tám vị". Trả lời:
"Vì chúng tôi có bốn pháp là: tin đấng Đạo sư, tin Pháp, viên
mãn Giới luật và có những pháp hữu tại gia xuất gia mà chúng tôi
thương mến."
Nếu ngoại đạo vặn lại, tôn giáo nào cũng có
bốn pháp ấy, đạo Phật có gì khác? Nên hỏi lại họ: - "Cứu
cánh là một hay nhiều?" Nếu trả lời chân chính, họ phải nói
chỉ có một.
- "Cứu cánh ấy dành cho người có tham hay
không tham?" Họ cũng phải đáp là cho người vô tham.
Hỏi tiếp như trên về sân, si, ái, chấp thủ,
vô trí, có phản ứng thuận nghịch, ưa hý luận, thì họ đều buộc
phải trả lời chân chính rằng "cứu cánh ấy là cho người không
tham, không sân, không si, không ái nhiễm, không chấp thủ, có trí,
không có phản ứng thuận nghịch, không ưa hý luận."
Có hai loại tri kiến hay quan điểm: hữu kiến và
phi hữu kiến. Người cố chấp hữu kiến thì bị chướng ngại bởi phi
hữu kiến, và ngược lại. Người nào không như thật tuệ tri sự tập
khởi và đoạn diệt của hai loại kiến ấy, vị ngọt, nguy hiểm và sự
xuất ly khỏi chúng, chính là người có tham, sân, si, ái, chấp thủ,
vô trí, có phản ứng thuận nghịch, ưa hý luận, do vậy không thoát
khỏi sinh, già chết, khổ đau. Ai như thật tuệ tri những điều trên,
là người không còn tham sân si ái, không chấp thủ, có trí, hết
phản ứng thuận nghịch, hết ưa hý luận. Người ấy giải thoát khỏi
sinh, già, chết, khổ sầu.
Có bốn chấp thủ là dục thủ, kiến thủ, giới
cấm thủ, ngã luận thủ. Có những sa môn bà-la-môn tuy tự xưng liễu
tri tất cả thủ, song chỉ hiển thị hoặc một thủ, hoặc hai hoặc ba
thủ, trừ ngã luận thủ; nên tri kiến họ còn thiếu sót. Trong
giáo pháp thiếu sót như vậy, dù có lòng tin bậc đạo sư, tin giáo
pháp, thành tựu các giới luật, thương mến các bạn đạo, lòng tin
ấy, sự thành tựu ấy, lòng thương mến ấyđược xem là không hoàn
toàn. Vì giáo pháp ấy không được khéo thuyết giảng, không hướng
thượng, không đưa đến tịch tịnh Niết-bàn. Ngược lại, khi Phật tự
xưng liễu tri tất cả thủ, Ngài chân chính hiển thị sự liễu tri dục
thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Trong một giáo pháp như
vậy, nếu có tịnh tín đối với bậc Đạo sư, với Pháp và Tăng, thành
tựu viên mãn Giới, thương mến bạn đạo, thì sự tịnh tín ấy, sự
thành tựu và thương mến ấy được xem là hoàn toàn. Vì giáo pháp
ấy dẫn đến tịch tịnh Niết-bàn, được bậc Chánh Đẳng giác hiển
thị.
Kế đến Phật
phân tích nguồn gốc phát sinh 4 loại chấp thủ theo 12 chi duyên khởi,
bắt nguồn từ vô minh. Tỳ kheo đã đoạn trừ vô minh thì không chấp
thủ, nhờ không chấp thủ nên không tháo động, tự thân chứng
Niết-bàn.
III. Chú giải
Phản ứng thuận
nghịch:
Thuận là bị tham chi phối; nghịch là bị sân chi phối. Hý luận là
tâm hành còn bị điều động bởi ái và kiến.
Hữu kiến, bhavaditthi là
thường luận, hay "chấp thường", tin bản ngã là trường
cửu. Phi hữu kiến, vibhavaditthi là đoạn diệt luận hay "chấp
đoạn" nghĩa là cho con người chết rồi là hết, không có tái
sinh để chịu quả báo các hành vi thiện ác. Sự cố chấp hữu kiến
kéo theo sự phản đối phi hữu kiến, điều này liên quan đến câu nói
ở trước "cứu cánh (Niết-bàn) là dành cho người nào không có
phản ứng thuận nghịch."
Về "sự
tập khởi" - samudaya - của hai loại kiến chấp, Sớ giải kể
ra tám yếu tố làm nhân duyên: năm uẩn, vô minh, xúc, tưởng, tư,
phi như lý tác ý, bạn xấu, và tiếng nói của một người khác. Sự
biến mất hai loại ấy - attangama - là Dự lưu đạo, ở đấy tất cả quan
điểm đều bị nhổ bật gốc. Vị ngọt của chúng - assàda - là sự thỏa
mãn nhu cầu tâm lý mà chúng đem lại; nguy hiểm - àdìnava - sự trói
buộc liên tục mà chúng gây ra; sự xuất ly khỏi chúng là Niết-bàn.
Trong bốn thủ, dục thủ - bao
gồm tất cả ham muốn vi tế nhất - chỉ đoạn tận ở A-la-hán đạo; ba
thủ còn lại ở Dự lưu đạo đã trừ được. "Tuệ tri" đây có
nghĩa là vượt qua, thắng lướt được nhờ hiểu rõ. Đoạn này cho
thấy yếu tố cao điểm phân biệt lời Phật dạy khác với tất cả tôn
giáo triết học khác, đó là Phật "liễu tri sự chấp thủ vào chủ
trương có ngã" hay ngã luận thủ. Điều này cũng có nghĩa, duy
chỉ Phật mới có thể chỉ dạy cách vượt qua tất cả kiến chấp về
ngã, bằng cách thâm nhập chân lý vô ngã. Các bậc thầy khác thiếu
tuệ tri này về vô ngã, cho nên lời tuyên bố của họ tự cho đã liễu
tri ba thủ kia cũng khả nghi.
IV. Pháp số
Hai loại tri kiến: Hữu
kiến, phi hữu kiến.
Ba điều cần biết về các
pháp: Vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly.
Bốn quả sa môn
Bốn pháp quyết định: tin
Phật, tin Pháp, tin Tăng, và tin Giới.
Bốn thủ
Mười hai nhân duyên.
V.
Kệ
tụng
Chỉ trong giáo pháp này
Có bốn quả sa môn
Dự lưu và Nhất lai
Dự lưu và Nhất lai
Bất hoàn, A-la-hán.
Vì đức tin đặt đúng
Vào bốn chỗ đáng tin:
Vì đức tin đặt đúng
Vào bốn chỗ đáng tin:
Phật, Pháp, Tăng và Giới
Được lợi lạc vô biên.
Có hai loại tri kiến
Chấp hữu và chấp vô
Cả hai đều chướng ngại
Chấp hữu và chấp vô
Cả hai đều chướng ngại
Không thoát khỏi sầu ưu.
Ai tuệ tri vị ngọt
Nguy hiểm và xuất ly
Của hai loại kiến chấp
Liền giải thoát khổ sầu.
Có bốn sự vướng mắc
Hoặc vướng vào sắc dục
Hoặc vướng vào sắc dục
Hoặc vướng vào quan điểm
Hoặc vướng vào lễ tục
Hoặc vướng các ngã luận
- lý thuyết chấp có
"tôi" –
Riêng ngã luận thủ này
Chỉ Như Lai từ bỏ.
Các ngoại đạo sư khác
Thuyết giảng ba thủ kia
Trừ ngã luận thủ này
Họ chưa từng đề cập.
Ba thủ họ "tuệ
tri"
Kể cũng thực khả nghi:
Kể cũng thực khả nghi:
Giáo pháp ấy bất toàn
Vì còn có chấp ngã.
Trong pháp luật bất toàn
Dù có tin đạo sư
Tin pháp đạo sư dạy,
Dù có viên mãn giới
Tin pháp đạo sư dạy,
Dù có viên mãn giới
Thương yêu đồng đạo
mình
Thì lòng tin kính ấy
Chỉ luống công nhọc xác
Vì đức tin sai chỗ.
Bậc đạo sư tối thượng
Lìa tất cả kiến chấp
Tuệ tri cả bốn thủ
Theo nguyên lý duyên sinh
Lìa tất cả kiến chấp
Tuệ tri cả bốn thủ
Theo nguyên lý duyên sinh
Từ Ái, có chấp Thủ
Đưa đến Hữu và Sinh
Già chết sầu bi khổ
Nguồn gốc từ Vô minh.
Trong giáo pháp toàn hảo
Ai có được niềm tin
Đức tin ấy toàn vẹn
Vì Đạo sư toàn giác
Đức tin ấy toàn vẹn
Vì Đạo sư toàn giác
Vì Pháp được khéo giảng
Giới luật đáng viên mãn
Và có các bạn lành
Bốn pháp ấy toàn hảo.
Bốn pháp ấy toàn hảo.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm
tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
11. Cūḷasīhanādasuttaṃ
139. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca :
''Idheva,
bhikkhave, samaṇo, idha dutiyo samaṇo, idha tatiyo samaṇo, idha catuttho samaṇo
suññā parappavādā samaṇebhi aññehīti [samaṇehi
aññeti (sī. pī. ka.) ettha aññehīti sakāya paṭiññāya saccābhiññehīti attho
veditabbo]. Evametaṃ [evameva (syā. ka.)], bhikkhave, sammā sīhanādaṃ nadatha.
140. ''Ṭhānaṃ
kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ aññatitthiyā paribbājakā evaṃ vadeyyuṃ :
'ko panāyasmantānaṃ assāso, kiṃ balaṃ, yena tumhe āyasmanto evaṃ vadetha :
idheva samaṇo, idha dutiyo samaṇo, idha tatiyo samaṇo, idha catuttho samaṇo
suññā parappavādā samaṇebhi aññehīti? evaṃvādino, bhikkhave, aññatitthiyā
paribbājakā evamassu vacanīyā : 'atthi kho no, āvuso, tena bhagavatā jānatā
passatā arahatā sammāsambuddhena cattāro dhammā akkhātā ye mayaṃ attani
sampassamānā evaṃ vadema : idheva samaṇo, idha dutiyo samaṇo, idha tatiyo samaṇo,
idha catuttho samaṇo suññā parappavādā samaṇebhi
aññehīti. Katame cattāro? atthi kho no, āvuso, satthari pasādo, atthi dhamme
pasādo, atthi sīlesu paripūrakāritā sahadhammikā kho pana piyā manāpā : gahaṭṭhā
ceva pabbajitā ca. Ime kho no, āvuso, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā
sammāsambuddhena cattāro dhammā akkhātā ye mayaṃ attani sampassamānā evaṃ
vadema : idheva samaṇo, idha dutiyo samaṇo, idha tatiyo samaṇo, idha catuttho
samaṇo suññā parappavādā samaṇebhi aññehīti.
141. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ
aññatitthiyā paribbājakā evaṃ vadeyyuṃ : 'amhākampi kho, āvuso, atthi satthari
pasādo yo amhākaṃ satthā, amhākampi atthi dhamme pasādo yo amhākaṃ dhammo,
mayampi sīlesu paripūrakārino yāni amhākaṃ sīlāni, amhākampi sahadhammikā piyā
manāpā : gahaṭṭhā ceva pabbajitā ca. Idha no, āvuso, ko viseso ko adhippayāso
[adhippāyo (ka. sī. syā. pī.), adhippayogo (ka.)] kiṃ nānākaraṇaṃ yadidaṃ
tumhākañceva amhākañcāti? ''evaṃvādino, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā
evamassu vacanīyā : 'kiṃ panāvuso, ekā niṭṭhā, udāhu puthu niṭṭhāti? sammā
byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ : 'ekāvuso,
niṭṭhā, na puthu niṭṭhāti.
'''Sā
panāvuso, niṭṭhā sarāgassa udāhu vītarāgassāti? sammā byākaramānā, bhikkhave,
aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ :
'vītarāgassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā sarāgassāti. '''Sā panāvuso, niṭṭhā
sadosassa udāhu vītadosassāti? sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā
paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ : 'vītadosassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā
sadosassāti. '''Sā panāvuso, niṭṭhā samohassa udāhu vītamohassāti? sammā
byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ :
'vītamohassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā samohassāti. '''Sā panāvuso, niṭṭhā
sataṇhassa udāhu vītataṇhassāti? sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā
paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ : 'vītataṇhassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā sataṇhassāti.
'''Sā panāvuso, niṭṭhā saupādānassa udāhu anupādānassāti? sammā byākaramānā,
bhikkhave , aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ :
'anupādānassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā saupādānassāti. '''Sā panāvuso, niṭṭhā viddasuno udāhu aviddasunoti?
sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ :
'viddasuno, āvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā aviddasunoti. '''Sā panāvuso, niṭṭhā
anuruddhappaṭiviruddhassa udāhu ananuruddhaappaṭiviruddhassāti? sammā
byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ :
'ananuruddhaappaṭiviruddhassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā anuruddhappaṭiviruddhassāti.
'''Sā panāvuso, niṭṭhā papañcārāmassa papañcaratino
udāhu nippapañcārāmassa nippapañcaratinoti? sammā byākaramānā, bhikkhave,
aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ : 'nippapañcārāmassāvuso, sā niṭṭhā
nippapañcaratino, na sā niṭṭhā papañcārāmassa papañcaratinoti.
142. ''Dvemā,
bhikkhave, diṭṭhiyo : bhavadiṭṭhi ca vibhavadiṭṭhi ca. Ye hi keci, bhikkhave,
samaṇā vā brāhmaṇā vā bhavadiṭṭhiṃ allīnā bhavadiṭṭhiṃ upagatā bhavadiṭṭhiṃ
ajjhositā, vibhavadiṭṭhiyā te paṭiviruddhā. Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā
brāhmaṇā vā vibhavadiṭṭhiṃ allīnā vibhavadiṭṭhiṃ upagatā vibhavadiṭṭhiṃ
ajjhositā, bhavadiṭṭhiyā te paṭiviruddhā. Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā
brāhmaṇā vā imāsaṃ dvinnaṃ diṭṭhīnaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca
ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ nappajānanti, 'te sarāgā te sadosā te
samohā te sataṇhā te saupādānā te aviddasuno te anuruddhappaṭiviruddhā te
papañcārāmā papañcaratino te na parimuccanti jātiyā jarāya maraṇena sokehi
paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi na parimuccanti dukkhasmāti vadāmi.
Ye ca kho keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā imāsaṃ dvinnaṃ diṭṭhīnaṃ
samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ
pajānanti, 'te vītarāgā te vītadosā te vītamohā te vītataṇhā te anupādānā te viddasuno te ananuruddhaappaṭiviruddhā
te nippapañcārāmā nippapañcaratino te parimuccanti jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi
domanassehi upāyāsehi parimuccanti dukkhasmāti vadāmi.
143.
''Cattārimāni ,
bhikkhave, upādānāni. Katamāni cattāri? kāmupādānaṃ, diṭṭhupādānaṃ,
sīlabbatupādānaṃ, attavādupādānaṃ. Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā
sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānā. Te na sammā sabbupādānapariññaṃ paññapenti
: kāmupādānassa pariññaṃ paññapenti, na diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti, na
sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa pariññaṃ
paññapenti. Taṃ kissa hetu? imāni hi te bhonto samaṇabrāhmaṇā tīṇi ṭhānāni
yathābhūtaṃ nappajānanti. Tasmā te bhonto samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā
paṭijānamānā te na sammā sabbupādānapariññaṃ paññapenti : kāmupādānassa pariññaṃ
paññapenti, na diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti, na sīlabbatupādānassa
pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti.
''Santi,
bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānā. Te na sammā
sabbupādānapariññaṃ paññapenti : kāmupādānassa pariññaṃ paññapenti, diṭṭhupādānassa
pariññaṃ paññapenti, na sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa
pariññaṃ paññapenti. Taṃ kissa hetu? imāni hi te bhonto samaṇabrāhmaṇā dve ṭhānāni
yathābhūtaṃ nappajānanti. Tasmā te bhonto samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā
paṭijānamānā te na sammā [paṭijānamānā na sammā (?)] sabbupādānapariññaṃ
paññapenti : kāmupādānassa pariññaṃ paññapenti, diṭṭhupādānassa pariññaṃ
paññapenti, na sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa
pariññaṃ paññapenti. ''Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā
paṭijānamānā. Te na sammā sabbupādānapariññaṃ paññapenti : kāmupādānassa
pariññaṃ paññapenti, diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti, sīlabbatupādānassa
pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti. Taṃ kissa hetu?
imañhi te bhonto samaṇabrāhmaṇā ekaṃ ṭhānaṃ yathābhūtaṃ nappajānanti. Tasmā te
bhonto samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānā te na sammā [paṭijānamānā
na sammā (?)] sabbupādānapariññaṃ paññapenti : kāmupādānassa pariññaṃ
paññapenti, diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti, sīlabbatupādānassa pariññaṃ
paññapenti, na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti. ''Evarūpe kho, bhikkhave, dhammavinaye yo satthari
pasādo so na sammaggato akkhāyati yo dhamme pasādo so na sammaggato akkhāyati yā
sīlesu paripūrakāritā sā na sammaggatā akkhāyati yā sahadhammikesu piyamanāpatā
sā na sammaggatā akkhāyati. Taṃ kissa hetu? evañhetaṃ, bhikkhave, hoti yathā taṃ
durakkhāte dhammavinaye
duppavedite aniyyānike anupasamasaṃvattanike asammāsambuddhappavedite.
144.
''Tathāgato ca kho, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho sabbupādānapariññāvādo paṭijānamāno
sammā sabbupādānapariññaṃ paññapeti : kāmupādānassa pariññaṃ paññapeti, diṭṭhupādānassa
pariññaṃ paññapeti, sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapeti, attavādupādānassa
pariññaṃ paññapeti. Evarūpe kho, bhikkhave, dhammavinaye yo satthari pasādo so
sammaggato akkhāyati yo dhamme pasādo so sammaggato akkhāyati yā sīlesu
paripūrakāritā sā sammaggatā akkhāyati yā sahadhammikesu piyamanāpatā sā
sammaggatā akkhāyati. Taṃ kissa hetu? evañhetaṃ, bhikkhave, hoti yathā taṃ
svākkhāte dhammavinaye suppavedite niyyānike upasamasaṃvattanike
sammāsambuddhappavedite.
145. ''Ime ca,
bhikkhave, cattāro upādānā. Kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā? ime
cattāro upādānā taṇhānidānā taṇhāsamudayā taṇhājātikā taṇhāpabhavā. Taṇhā cāyaṃ,
bhikkhave, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā? taṇhā vedanānidānā
vedanāsamudayā vedanājātikā vedanāpabhavā. Vedanā cāyaṃ, bhikkhave, kiṃnidānā
kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā? vedanā phassanidānā phassasamudayā
phassajātikā phassapabhavā. Phasso cāyaṃ, bhikkhave, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko
kiṃpabhavo? phasso saḷāyatananidāno saḷāyatanasamudayo saḷāyatanajātiko saḷāyatanapabhavo.
Saḷāyatanañcidaṃ, bhikkhave, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ? saḷāyatanaṃ
nāmarūpanidānaṃ nāmarūpasamudayaṃ nāmarūpajātikaṃ nāmarūpapabhavaṃ.
Nāmarūpañcidaṃ, bhikkhave, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ?
nāmarūpaṃ viññāṇanidānaṃ viññāṇasamudayaṃ viññāṇajātikaṃ viññāṇapabhavaṃ. Viññāṇañcidaṃ,
bhikkhave , kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ? viññāṇaṃ saṅkhāranidānaṃ saṅkhārasamudayaṃ
saṅkhārajātikaṃ saṅkhārapabhavaṃ. Saṅkhārā cime, bhikkhave, kiṃnidānā kiṃsamudayā
kiṃjātikā kiṃpabhavā? saṅkhārā avijjānidānā avijjāsamudayā avijjājātikā
avijjāpabhavā. ''Yato ca kho, bhikkhave, bhikkhuno avijjā pahīnā hoti vijjā
uppannā, so avijjāvirāgā vijjuppādā neva kāmupādānaṃ upādiyati, na diṭṭhupādānaṃ
upādiyati, na sīlabbatupādānaṃ upādiyati, na attavādupādānaṃ upādiyati.
Anupādiyaṃ na paritassati, aparitassaṃ paccattaññeva parinibbāyati. 'Khīṇā
jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ
karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānātīti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato
bhāsitaṃ abhinandunti.
Cūḷasīhanādasuttaṃ
niṭṭhitaṃ paṭhamaṃ.
11. Cūḷasīhanādasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
139. Evaṃ
me sutanti
cūḷasīhanādasuttaṃ. Yasmā panassa atthuppattiko nikkhepo, tasmā taṃ dassetvā
cassa anupubbapadavaṇṇanaṃ karissāma. Katarāya panidaṃ atthuppattiyā
nikkhittanti? Lābhasakkārapaccayā titthiyaparidevite. Bhagavato kira
dhammadāyādasutte vuttanayena mahālābhasakkāro uppajji. Catuppamāṇiko hi ayaṃ
lokasannivāso, rūpappamāṇo rūpappasanno, ghosappamāṇo ghosappasanno,
lūkhappamāṇo lūkhappasanno, dhammappamāṇo dhammappasannoti imesaṃ puggalānaṃ
vasena catudhā ṭhito.
Tesaṃ idaṃ nānākaraṇaṃ – katamo ca puggalo rūpappamāṇo
rūpappasanno? Idhekacco puggalo ārohaṃ vā passitvā pariṇāhaṃ vā passitvā
saṇṭhānaṃ vā passitvā pāripūriṃ vā passitvā tattha pamāṇaṃ gahetvā pasādaṃ
janeti, ayaṃ vuccati puggalo rūpappamāṇo rūpappasanno.
Katamo ca puggalo ghosappamāṇo ghosappasanno?
Idhekacco puggalo paravaṇṇanāya parathomanāya parapasaṃsanāya paravaṇṇahārikāya,
tattha pamāṇaṃ gahetvā pasādaṃ janeti, ayaṃ vuccati puggalo ghosappamāṇo
ghosappasanno.
Katamo ca puggalo lūkhappamāṇo lūkhappasanno?
Idhekacco puggalo cīvaralūkhaṃ vā passitvā pattalūkhaṃ vā passitvā,
senāsanalūkhaṃ vā passitvā vividhaṃ vā dukkarakārikaṃ passitvā tattha
pamāṇaṃ gahetvā pasādaṃ janeti, ayaṃ vuccati puggalo
lūkhappamāṇo lūkhappasanno.
Katamo ca puggalo dhammappamāṇo dhammappasanno?
Idhekacco puggalo sīlaṃ vā passitvā samādhiṃ vā passitvā paññaṃ vā passitvā
tattha pamāṇaṃ gahetvā pasādaṃ janeti, ayaṃ vuccati puggalo dhammappamāṇo
dhammappasannoti.
Imesu catūsu puggalesu
rūpappamāṇopi bhagavato ārohapariṇāhasaṇṭhānapāripūrivaṇṇapokkharataṃ,
asītianubyañjanappaṭimaṇḍitattā nānāratanavicittamiva suvaṇṇamahāpaṭaṃ,
dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇasamākiṇṇatāya tārāgaṇasamujjalaṃ viya gaganatalaṃ
sabbaphāliphullaṃ viya ca yojanasatubbedhaṃ pāricchattakaṃ
aṭṭhārasaratanubbedhaṃ byāmappabhāparikkhepaṃ sassirikaṃ anopamasarīraṃ disvā
sammāsambuddheyeva pasīdati.
Ghosappamāṇopi, bhagavatā kappasatasahassādhikāni
cattāri asaṅkhyeyyāni dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa paramatthapāramiyo
pūritā aṅgapariccāgo puttadārapariccāgo, rajjapariccāgo attapariccāgo
nayanapariccāgo ca katotiādinā nayena pavattaṃ ghosaṃ sutvā sammāsambuddheyeva
pasīdati.
Lūkhappamāṇopi bhagavato cīvaralūkhaṃ disvā ‘‘sace
bhagavā agāraṃ ajjhāvasissa, kāsikavatthameva adhārayissa. Pabbajitvā panānena
sāṇapaṃsukūlacīvarena santussamānena bhāriyaṃ kata’’nti sammāsambuddheyeva
pasīdati. Pattalūkhampi disvā – ‘‘iminā agāraṃ ajjhāvasantena
rattavarasuvaṇṇabhājanesu cakkavattibhojanārahaṃ sugandhasālibhojanaṃ
paribhuttaṃ, pabbajitvā pana pāsāṇamayaṃ pattaṃ ādāya uccanīcakuladvāresu
sapadānaṃ piṇḍāya caritvā laddhapiṇḍiyālopena santussamāno bhāriyaṃ karotī’’ti
sammāsambuddheyeva pasīdati. Senāsanalūkhaṃ disvāpi – ‘‘ayaṃ agāraṃ
ajjhāvasanto tiṇṇaṃ utūnaṃ anucchavikesu tīsu pāsādesu tividhanāṭakaparivāro
dibbasampattiṃ viya rajjasiriṃ anubhavitvā idāni pabbajjūpagato
rukkhamūlasenāsanādīsu dāruphalakasilāpaṭṭapīṭhamañcakādīhi santussamāno
bhāriyaṃ karotī’’ti sammāsambuddheyeva pasīdati.
Dukkarakārikamassa disvāpi – ‘‘chabbassāni nāma
muggayūsakulatthayūsahareṇuyūsādīnaṃ pasaṭamattena yāpessati, appāṇakaṃ jhānaṃ jhāyissati, sarīre ca jīvite ca anapekkho viharissati,
aho dukkarakārako bhagavā’’ti sammāsambuddheyeva pasīdati.
Dhammappamāṇopi bhagavato
sīlaguṇaṃ samādhiguṇaṃ paññāguṇaṃ jhānavimokkhasamādhisamāpattisampadaṃ
abhiññāpāripūriṃ yamakapāṭihāriyaṃ devorohaṇaṃ pāthikaputtadamanādīni ca
anekāni acchariyāni disvā sammāsambuddheyeva pasīdati, te evaṃ pasannā
bhagavato mahantaṃ lābhasakkāraṃ abhiharanti. Titthiyānaṃ pana bāverujātake
kākassa viya lābhasakkāro parihāyittha. Yathāha –
‘‘Adassanena morassa, sikhino mañjubhāṇino;
Kākaṃ tattha apūjesuṃ, maṃsena ca phalena ca.
Yadā ca sarasampanno, moro bāverumāgamā;
Atha lābho ca sakkāro, vāyasassa ahāyatha.
Yāva nuppajjati buddho, dhammarājā pabhaṅkaro;
Tāva aññe apūjesuṃ, puthū samaṇabrāhmaṇe.
Yadā ca sarasampanno, buddho dhammamadesayi;
Atha lābho ca sakkāro, titthiyānaṃ ahāyathā’’ti. (jā.
1.4.153-156);
Te evaṃ pahīnalābhasakkārā rattiṃ ekadvaṅgulamattaṃ
obhāsetvāpi sūriyuggamane khajjopanakā viya hatappabhā ahesuṃ.
Nidassayanti obhāsaṃ, etesaṃ visayo hi so.
Yadā ca rasmisampanno, abbhudeti pabhaṅkaro;
Atha khajjupasaṅghānaṃ, pabhā antaradhāyati.
Evaṃ khajjupasadisā, titthiyāpi puthū idha;
Kāḷapakkhūpame loke, dīpayanti sakaṃ guṇaṃ.
Yadā ca buddho lokasmiṃ, udeti amitappabho;
Nippabhā titthiyā honti, sūriye khajjupakā yathāti.
Te evaṃ nippabhā hutvā kacchupiḷakādīhi kiṇṇasarīrā
paramapārijuññapattā yena buddho yena dhammo yena saṅgho yena ca mahājanassa
sannipāto, tena tena gantvā antaravīthiyampi siṅghāṭakepi catukkepi sabhāyampi ṭhatvā paridevanti –
‘‘Kiṃ bho samaṇoyeva gotamo samaṇo, mayaṃ assamaṇā;
samaṇasseva gotamassa sāvakā samaṇā, amhākaṃ sāvakā assamaṇā? Samaṇasseva
gotamassa sāvakānañcassa dinnaṃ mahapphalaṃ, na amhākaṃ, sāvakānañca no dinnaṃ
mahapphalaṃ? Nanu samaṇopi gotamo samaṇo, mayampi samaṇā. Samaṇassapi gotamassa
sāvakā samaṇā, amhākampi sāvakā samaṇā. Samaṇassapi gotamassa sāvakānañcassa
dinnaṃ mahapphalaṃ, amhākampi sāvakānañca no dinnaṃ mahapphalañceva?
Samaṇassapi gotamassa sāvakānañcassa detha karotha, amhākampi sāvakānañca no
detha sakkarotha? Nanu samaṇo gotamo purimāni divasāni uppanno, mayaṃ pana loke
uppajjamāneyeva uppannā’’ti.
Evaṃ nānappakāraṃ viravanti. Atha bhikkhū bhikkhuniyo
upāsakā upāsikāyoti catasso parisā tesaṃ saddaṃ sutvā bhagavato ārocesuṃ
‘‘titthiyā bhante idañcidañca kathentī’’ti. Taṃ sutvā
bhagavā – ‘‘mā tumhe, bhikkhave, titthiyānaṃ vacanena ‘aññatra samaṇo atthī’ti
saññino ahuvatthā’’ti vatvā aññatitthiyesu samaṇabhāvaṃ paṭisedhento idheva ca
anujānanto imissā atthuppattiyā idheva, bhikkhave, samaṇoti idaṃ suttaṃ
abhāsi.
Tattha idhevāti imasmiṃyeva sāsane. Ayaṃ pana
niyamo sesapadesupi veditabbo. Dutiyādayopi hi samaṇā idheva, na aññattha. Samaṇoti
sotāpanno. Tenevāha – ‘‘katamo ca, bhikkhave, paṭhamo samaṇo? Idha, bhikkhave,
bhikkhu tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā sotāpanno hoti avinipātadhammo niyato
sambodhiparāyaṇo, ayaṃ, bhikkhave, paṭhamo samaṇo’’ti (a. ni. 4.241).
Dutiyoti
sakadāgāmī. Tenevāha – ‘‘katamo ca? Bhikkhave, dutiyo samaṇo. Idha, bhikkhave,
bhikkhu tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā rāgadosamohānaṃ tanuttā
sakadāgāmī hoti, sakideva imaṃ lokaṃ āgantvā dukkhassantaṃ karoti. Ayaṃ,
bhikkhave, dutiyo samaṇo’’ti.
Tatiyoti
anāgāmī. Tenevāha – ‘‘katamo ca, bhikkhave, tatiyo samaṇo? Idha, bhikkhave,
bhikkhu pañcannaṃ orambhāgiyānaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā opapātiko hoti tattha
parinibbāyī anāvattidhammo tasmā lokā. Ayaṃ, bhikkhave,
tatiyo samaṇo’’ti.
Catutthoti
arahā. Tenevāha – ‘‘katamo ca, bhikkhave, catuttho samaṇo? Idha, bhikkhave,
bhikkhu āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme
sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati. Ayaṃ, bhikkhave, catuttho
samaṇo’’ti (a. ni. 4.241). Iti imasmiṃ ṭhāne cattāro phalaṭṭhakasamaṇāva
adhippetā.
Suññāti
rittā tucchā. Parappavādāti cattāro sassatavādā, cattāro
ekaccasassatikā, cattāro antānantikā, cattāro amarāvikkhepikā, dve
adhiccasamuppannikā, soḷasa saññīvādā, aṭṭha asaññīvādā, aṭṭha
nevasaññīnāsaññīvādā, satta ucchedavādā, pañca diṭṭhadhammanibbānavādāti ime
sabbepi brahmajāle āgatā dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo. Ito bāhirānaṃ paresaṃ vādā parappavādā nāma. Te sabbepi imehi catūhi
phalaṭṭhakasamaṇehi suññā, na hi te ettha santi. Na kevalañca eteheva suññā,
catūhi pana maggaṭṭhakasamaṇehipi catunnaṃ maggānaṃ atthāya
āraddhavipassakehipīti dvādasahipi samaṇehi suññā eva. Imameva atthaṃ sandhāya
bhagavatā mahāparinibbāne vuttaṃ –
‘‘Ekūnatiṃso vayasā subhadda,
Yaṃ pabbajiṃ kiṃ kusalānuesī;
Vassāni paññāsa samādhikāni,
Yato ahaṃ pabbajito subhadda;
Ñāyassa dhammassa padesavattī,
Ito bahiddhā samaṇopi natthi.
‘‘Dutiyopi samaṇo natthi, tatiyopi samaṇo natthi, catutthopi
samaṇo natthi. Suññā parappavādā samaṇebhi aññehī’’ti (dī. ni. 2.214).
Ettha hi padesavattīti
āraddhavipassako adhippeto. Tasmā sotāpattimaggassa āraddhavipassakaṃ
maggaṭṭhaṃ phalaṭṭhanti tayopi ekato katvā samaṇopi natthīti āha.
Sakadāgāmimaggassa āraddhavipassakaṃ maggaṭṭhaṃ phalaṭṭhanti tayopi ekato katvā
dutiyopi samaṇo natthīti āha. Itaresupi dvīsu eseva nayo.
Kasmā panete aññattha natthīti? Akhettatāya. Yathā hi
na āragge sāsapo tiṭṭhati, na udakapiṭṭhe aggi jalati, na piṭṭhipāsāṇe bījāni
ruhanti, evameva bāhiresu titthāyatanesu na ime samaṇā
uppajjanti, imasmiṃyeva pana sāsane uppajjanti. Kasmā? Khettatāya. Tesaṃ
akhettatā ca khettatā ca ariyamaggassa abhāvato ca bhāvato ca veditabbā. Tenāha
bhagavā –
‘‘Yasmiṃ kho, subhadda, dhammavinaye ariyo aṭṭhaṅgiko
maggo na upalabbhati, samaṇopi tattha na upalabbhati,
dutiyopi tattha samaṇo na upalabbhati, tatiyopi tattha samaṇo na upalabbhati,
catutthopi tattha samaṇo na upalabbhati. Yasmiñca kho, subhadda, dhammavinaye
ariyo aṭṭhaṅgiko maggo upalabbhati, samaṇopi tattha upalabbhati, dutiyopi
tattha…pe…. Catutthopi tattha samaṇo upalabbhati. Imasmiṃ kho, subhadda,
dhammavinaye ariyo aṭṭhaṅgiko maggo upalabbhati, idheva, subhadda, samaṇo, idha
dutiyo samaṇo, idha tatiyo samaṇo, idha catuttho samaṇo, suññā parappavādā
samaṇebhi aññehī’’ti (dī. ni. 2.214).
Evaṃ yasmā titthāyatanaṃ akhettaṃ, sāsanaṃ khettaṃ,
tasmā yathā surattahatthapādo sūrakesarako sīho migarājā na susāne vā
saṅkārakūṭe vā paṭivasati, tiyojanasahassavitthataṃ pana himavantaṃ ajjhogāhetvā
maṇiguhāyaṃyeva paṭivasati. Yathā ca chaddanto nāgarājā na
gocariyahatthikulādīsu navasu nāgakulesu uppajjati, chaddantakuleyeva
uppajjati. Yathā ca valāhako assarājā na gadrabhakule vā ghoṭakakule vā
uppajjati, sindhuyā tīre pana sindhavakuleyeva uppajjati. Yathā ca
sabbakāmadadaṃ manoharaṃ maṇiratanaṃ na saṅkārakūṭe vā
paṃsupabbatādīsu vā uppajjati, vepullapabbatabbhantareyeva uppajjati. Yathā ca
timirapiṅgalo maccharājā na khuddakapokkharaṇīsu uppajjati,
caturāsītiyojanasahassagambhīre mahāsamuddeyeva uppajjati. Yathā ca
diyaḍḍhayojanasatiko supaṇṇarājā na gāmadvāre eraṇḍavanādīsu paṭivasati,
mahāsamuddaṃ pana ajjhogāhetvā simbalidahavaneyeva paṭivasati. Yathā ca
dhataraṭṭho suvaṇṇahaṃso na gāmadvāre āvāṭakādīsu paṭivasati,
navutihaṃsasahassaparivāro hutvā cittakūṭapabbateyeva paṭivasati. Yathā ca
catuddīpissaro cakkavattirājā na nīcakule uppajjati,
asambhinnajātikhattiyakuleyeva pana uppajjati. Evameva imesu samaṇesu
ekasamaṇopi na aññatitthāyatane uppajjati, ariyamaggaparikkhitte pana
buddhasāsaneyeva uppajjati. Tenāha bhagavā ‘‘idheva, bhikkhave, samaṇo…pe…
suññā parappavādā samaṇehi samaṇebhi aññehī’’ti.
Sammā sīhanādaṃ nadathāti ettha sammāti hetunā nayena kāraṇena. Sīhanādanti
seṭṭhanādaṃ abhītanādaṃ appaṭinādaṃ. Imesañhi catunnaṃ samaṇānaṃ idheva atthitāya
ayaṃ nādo seṭṭhanādo nāma hoti uttamanādo. ‘‘Ime samaṇā idheva atthī’’ti
vadantassa aññato bhayaṃ vā āsaṅkā vā natthīti abhītanādo
nāma hoti. ‘‘Amhākampi sāsane ime samaṇā atthī’’ti pūraṇādīsu ekassāpi
uṭṭhahitvā vattuṃ asamatthatāya ayaṃ nādo appaṭinādo nāma hoti. Tena vuttaṃ
‘‘sīhanādanti seṭṭhanādaṃ abhītanādaṃ appaṭināda’’nti.
140. Ṭhānaṃ
kho panetaṃ vijjatīti idaṃ kho pana kāraṇaṃ vijjati. Yaṃ aññatitthiyāti
yena kāraṇena aññatitthiyā. Ettha ca titthaṃ jānitabbaṃ, titthakaro jānitabbo
titthiyā jānitabbā, titthiyasāvakā jānitabbā. Titthaṃnāma dvāsaṭṭhi
diṭṭhiyo. Ettha hi sattā taranti uppalavanti ummujjanimujjaṃ karonti, tasmā
titthanti vuccanti. Tāsaṃ diṭṭhīnaṃ uppādetā titthakaro nāma. Tassa
laddhiṃ gahetvā pabbajitā titthiyā nāma. Tesaṃ paccayadāyakā titthiyasāvakāti
veditabbā. Paribbājakāti gihibandhanaṃ pahāya pabbajjūpagatā. Assāsoti
avassayo patiṭṭhā upatthambho. Balanti thāmo. Yena tumheti yena
assāsena vā balena vā evaṃ vadetha.
Atthi kho no, āvuso, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā
sammāsambuddhenāti ettha ayaṃ saṅkhepattho – yo so bhagavā samatiṃsa
pāramiyo pūretvā sabbakilese bhañjitvā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho,
tena bhagavatā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ āsayānusayaṃ jānatā, hatthatale
ṭhapitaṃ āmalakaṃ viya sabbaṃ ñeyyadhammaṃ passatā. Apica
pubbenivāsādīhi jānatā, dibbena cakkhunā passatā. Tīhi vijjāhi chahi
vā pana abhiññāhi jānatā, sabbattha appaṭihatena samantacakkhunā passatā.
Sabbadhammajānanasamatthāya paññāya jānatā, sabbasattānaṃ cakkhuvisayātītāni
tirokuṭṭādigatāni vāpi rūpāni ativisuddhena maṃsacakkhunā passatā.
Attahitasādhikāya samādhipadaṭṭhānāya paṭivedhapaññāya jānatā,
parahitasādhikāya karuṇāpadaṭṭhānāya desanāpaññāya passatā. Arīnaṃ hatattā
paccayādīnaṃ arahattā ca arahatā, sammā sāmañca saccānaṃ buddhattā sammāsambuddhena.
Antarāyikadhamme vā jānatā, niyyānikadhamme passatā. Kilesārīnaṃ hatattā
arahatā, sammā sāmaṃ sabbadhammānaṃ buddhattā sammāsambuddhenāti, evaṃ
catuvesārajjavasena catūhi ākārehi thomitena cattāro dhammā akkhātā, ye mayaṃ
attani sampassamānā evaṃ vadema, na rājarājamahāmattādīnaṃ upatthambhaṃ
kāyabalanti.
Satthari pasādoti ‘‘itipi so bhagavā’’tiādinā nayena buddhaguṇe
anussarantānaṃ uppannappasādo. Dhamme pasādoti ‘‘svākkhāto bhagavatā
dhammo’’tiādinā nayena dhammaguṇe anussarantānaṃ uppannappasādo. Sīlesu
paripūrakāritāti ariyakantesu sīlesu paripūrakāritā. Ariyakantasīlāni nāma pañcasīlāni.
Tāni hi bhavantaragatopi ariyasāvako attano ariyasāvakabhāvaṃ ajānantopi na
vītikkamati. Sacepi hi naṃ koci vadeyya – ‘‘imaṃ sakalaṃ cakkavattirajjaṃ
sampaṭicchitvā khuddakamakkhikaṃ jīvitā voropehī’’ti, aṭṭhānametaṃ, yaṃ so
tassa vacanaṃ kareyya. Evaṃ ariyānaṃ sīlāni kantāni piyāni manāpāni. Tāni
sandhāya vuttaṃ ‘‘sīlesu paripūrakāritā’’ti.
Sahadhammikā kho panāti bhikkhu bhikkhunī sikkhamānā sāmaṇero sāmaṇerī
upāsako upāsikāti ete satta sahadhammacārino. Etesu hi bhikkhu bhikkhūhi
saddhiṃ sahadhammaṃ carati samānasikkhatāya. Tathā bhikkhunī
bhikkhunīhi…pe… upāsikā upāsikāhi, sotāpanno sotāpannehi, sakadāgāmī…pe…
anāgāmīhi sahadhammaṃ carati. Tasmā sabbepete sahadhammikāti vuccanti.
Apicettha ariyasāvakāyeva adhippetā. Tesañhi bhavantarepi
maggadassanamhi vivādo natthi, tasmā te accantaṃ ekadhammacāritāya
sahadhammikā. Iminā, ‘‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho’’tiādinā nayena
saṅghaṃ anussarantānaṃ uppannappasādo kathito. Ettāvatā cattāri sotāpannassa
aṅgāni kathitāni honti.
Ime kho no, āvusoti, āvuso, ime cattāro dhammā tena bhagavatā amhākaṃ assāso ceva
balañcāti akkhātā, ye mayaṃ attani sampassamānā evaṃ vadema.
141. Yo
amhākaṃ satthāti iminā pūraṇakassapādike cha satthāro apadissanti. Yathā
pana idāni sāsane ācariyupajjhāyādīsu ‘‘amhākaṃ ācariyo, amhākaṃ upajjhāyo’’ti
gehasitapemaṃ hoti. Evarūpaṃ pemaṃ sandhāya ‘‘satthari pasādo’’ti vadanti.
Thero panāha – ‘‘yasmā satthā nāma na ekassa, na dvinnaṃ hoti, sadevakassa
lokassa ekova satthā, tasmā titthiyā ‘amhākaṃ satthā’ ti ekapadeneva satthāraṃ
visuṃ katvā imināva padena viruddhā parājitā’’ti. Dhamme pasādoti idaṃ
pana yathā idāni sāsane ‘‘amhākaṃ dīghanikāyo amhākaṃ majjhimanikāyo’’ti
mamāyanti, evaṃ attano attano pariyattidhamme gehasitapemaṃ sandhāya vadanti. Sīlesūti
ajasīlagosīlameṇḍakasīlakukkurasīlādīsu. Idha no āvusoti ettha idhāti
pasādaṃ sandhāya vadanti. Ko adhippayāsoti ko adhikappayogo. Yadidanti
yamidaṃ tumhākañceva amhākañca nānākaraṇaṃ vadeyyātha. Taṃ kiṃ nāma? Tumhākampi
hi catūsu ṭhānesu pasādo, amhākampi. Nanu etasmiṃ pasāde tumhe ca amhe ca
dvedhā bhinnasuvaṇṇaṃ viya ekasadisāti vācāya samadhurā hutvā aṭṭhaṃsu.
Atha nesaṃ taṃ samadhurataṃ bhindanto bhagavā evaṃ
vādinotiādimāha. Tattha ekā niṭṭhāti yā tassa pasādassa
pariyosānabhūtā niṭṭhā, kiṃ sā ekā, udāhu puthūti evaṃ
pucchathāti vadati. Yasmā pana tasmiṃ tasmiṃ samaye niṭṭhaṃ apaññapento nāma
natthi, brāhmaṇānañhi brahmaloko niṭṭhā, mahātāpasānaṃ ābhassarā,
paribbājakānaṃ subhakiṇhā, ājīvakānaṃ ‘‘anantamānaso’’ti evaṃ parikappito
asaññībhavo. Imasmiṃ sāsane pana arahattaṃ niṭṭhā. Sabbeva
cete arahattameva niṭṭhāti vadanti. Diṭṭhivasena pana brahmalokādīni
paññapenti. Tasmā attano attano laddhivasena ekameva niṭṭhaṃ paññapenti, taṃ
dassetuṃ bhagavā sammā byākaramānātiādimāha.
Idāni bhikkhūnampi ekā niṭṭhā, titthiyānampi ekā
niṭṭhāti dvīsu aṭṭakārakesu viya ṭhitesu bhagavā anuyogavattaṃ dassento sā
panāvuso, niṭṭhā sarāgassa, udāhu vītarāgassātiādimāha. Tattha yasmā
rāgarattādīnaṃ niṭṭhā nāma natthi. Yadi siyā, soṇasiṅgālādīnampi siyāti imaṃ
dosaṃ passantānaṃ titthiyānaṃ ‘‘vītarāgassa āvuso sā niṭṭhā’’tiādinā nayena
byākaraṇaṃ dassitaṃ.
Tattha viddasunoti paṇḍitassa. Anuruddhapaṭiviruddhassāti
rāgena anuruddhassa kodhena paṭiviruddhassa. Papañcārāmassa papañcaratinoti
ettha āramanti etthāti ārāmo. Papañco ārāmo assāti papañcārāmo. Papañce
rati assāti papañcarati. Papañcoti ca mattapamattākārabhāvena pavattānaṃ
taṇhādiṭṭhimānānametaṃ adhivacanaṃ. Idha pana taṇhādiṭṭhiyova adhippetā. Sarāgassātiādīsu
pañcasu ṭhānesu ekova kileso āgato. Tassa ākārato nānattaṃ veditabbaṃ.
Sarāgassāti hi vuttaṭṭhāne pañcakāmaguṇikarāgavasena gahito. Sataṇhassāti
bhavataṇhāvasena. Saupādānassāti gahaṇavasena. Anuruddhapaṭiviruddhassāti
yugaḷavasena. Papañcārāmassāti papañcuppattidassanavasena. Sarāgassāti
vā ettha akusalamūlavasena gahito. Sataṇhassāti ettha taṇhāpaccayā
upādānadassanavasena. Sesaṃ purimasadisameva. Thero panāha ‘‘kasmā evaṃ
viddhaṃsetha? Ekoyeva hi ayaṃ lobho rajjanavasena rāgoti vutto.
Taṇhākaraṇavasena taṇhā. Gahaṇaṭṭhena upādānaṃ. Yugaḷavasena anurodhapaṭivirodho.
Papañcuppattidassanaṭṭhena papañco’’ti.
Tattha bhavadiṭṭhīti sassatadiṭṭhi. Vibhavadiṭṭhīti
ucchedadiṭṭhi. Bhavadiṭṭhiṃ allīnāti taṇhādiṭṭhivasena sassatadiṭṭhiṃ
allīnā. Upagatāti taṇhādiṭṭhivaseneva upagatā. Ajjhositāti
taṇhādiṭṭhivaseneva anupaviṭṭhā. Vibhavadiṭṭhiyā te paṭiviruddhāti te
sabbe ucchedavādīhi saddhiṃ – ‘‘tumhe andhabālā na jānātha, sassato ayaṃ loko,
nāyaṃ loko ucchijjatī’’ti paṭiviruddhā niccaṃ kalahabhaṇḍanapasutā viharanti.
Dutiyavārepi eseva nayo.
Samudayañcātiādīsu
dve diṭṭhīnaṃ samudayā khaṇikasamudayo paccayasamudayo ca. Khaṇikasamudayo
diṭṭhīnaṃ nibbatti. Paccayasamudayo aṭṭha ṭhānāni. Seyyathidaṃ,
khandhāpi diṭṭhiṭṭhānaṃ, avijjāpi, phassopi, saññāpi, vitakkopi,
ayonisomanasikāropi, pāpamittopi, paratoghosopi diṭṭhiṭṭhānaṃ. ‘‘Khandhā hetu
khandhā paccayo diṭṭhīnaṃ upādāya samuṭṭhānaṭṭhena. Evaṃ khandhāpi
diṭṭhiṭṭhānaṃ. Avijjā… phasso… saññā… vitakko… ayonisomanasikāro… pāpamitto…
paratoghoso hetu, paratoghoso paccayo diṭṭhīnaṃ upādāya samuṭṭhānaṭṭhena. Evaṃ
paratoghosopi diṭṭhiṭṭhānaṃ’’ (paṭi. ma. 1.124). Atthaṅgamāpi dveyeva
khaṇikatthaṅgamo paccayatthaṅgamo ca. Khaṇikatthaṅgamo nāma khayo vayo
bhedo paribhedo aniccatā antaradhānaṃ. Paccayatthaṅgamo nāma
sotāpattimaggo. Sotāpattimaggo hi diṭṭhiṭṭhānasamugghātoti vutto.
Assādanti diṭṭhimūlakaṃ ānisaṃsaṃ. Yaṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘yaṃdiṭṭhiko
satthā hoti, taṃdiṭṭhikā sāvakā honti. Yaṃdiṭṭhikā satthāraṃ sāvakā sakkaronti,
garuṃ karonti, mānenti, pūjenti, labhanti tatonidānaṃ
cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ. Ayaṃ, bhikkhave,
diṭṭhiyā diṭṭhadhammiko ānisaṃso’’ti. Ādīnavanti diṭṭhiggahaṇamūlakaṃ
upaddavaṃ. So vaggulivataṃ ukkuṭikappadhānaṃ kaṇṭakāpassayatā pañcātapatappanaṃ
sānupapātapatanaṃ kesamassuluñcanaṃ appoṇakaṃ jhānantiādīnaṃ vasenaṃ veditabbo.
Nissaraṇanti diṭṭhīnaṃ nissaraṇaṃ nāma nibbānaṃ. Yathābhūtaṃ nappajānantīti ye etaṃ sabbaṃ yathāsabhāvaṃ na jānanti.
Na parimuccanti dukkhasmāti sakalavaṭṭadukkhato na
parimuccanti. Iminā etesaṃ niṭṭhā nāma natthīti dasseti. Parimuccanti
dukkhasmāti sakalavaṭṭadukkhato parimuccanti. Iminā etesaṃ niṭṭhā nāma
atthīti dvinnaṃ aṭṭakārakānaṃ aṭṭaṃ chindanto viya sāsanasmiṃyeva niṭṭhāya
atthitaṃ patiṭṭhapeti.
143. Idāni
diṭṭhicchedanaṃ dassento cattārimāni, bhikkhave, upādānānītiādimāha.
Tesaṃ vitthārakathā visuddhimagge vuttāyeva.
Sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānāti mayaṃ sabbesaṃ upādānānaṃ pariññaṃ samatikkamaṃ
vadāmāti evaṃ paṭijānamānā. Na sammā sabbupādānapariññanti sabbesaṃ
upādānānaṃ samatikkamaṃ sammā na paññapenti. Keci kāmupādānamattassa pariññaṃ
paññapenti. Keci diṭṭhupādānamattassa paññapenti, keci sīlabbatupādānassāpi.
Attavādupādānassa pana pariññaṃ paññapento nāma natthi. Tesaṃ pana bhedaṃ
dassento kāmupādānassa pariññaṃ paññapentītiādimāha. Tattha sabbepi
kāmupādānassa pariññaṃ paññapentiyeva, channavuti pāsaṇḍāpi hi ‘‘kāmā kho
pabbajitena na sevitabbā’’ti vatthupaṭisevanaṃ kāmaṃ kappatīti na paññapenti,
akappiyameva katvā paññapenti. Ye pana sevanti, te theyyena sevanti. Tena vuttaṃ
‘‘kāmupādānassa pariññaṃ paññapentī’’ti.
Yasmā ‘‘natthi dinna’’ntiādīni gahetvā caranti.
‘‘Sīlena suddhi vatena suddhi, bhāvanāya suddhī’’ti gaṇhanti, attupaladdhiṃ na
pajahanti, tasmā na diṭṭhupādānassa, na sīlabbatupādānassa,
na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti. Taṃ kissa hetūti taṃ
apaññāpanaṃ etesaṃ kissa hetu, kiṃ kāraṇā? Imāni hi te bhontoti yasmā te
bhonto imāni tīṇi kāraṇāni yathāsabhāvato na jānantīti attho. Ye panettha
dvinnaṃ pariññānaṃ paññāpanakāraṇaṃ diṭṭhiñceva sīlabbatañca ‘‘etaṃ pahātabba’’nti
yathāsabhāvato jānanti. Te sandhāya parato dve vārā vuttā. Tattha ye ‘‘atthi
dinna’’ntiādīni gaṇhanti, te diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti. Ye pana ‘‘na
sīlena suddhi, na vatena suddhi, na bhāvanāya suddhī’’ti
gaṇhanti, te sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti. Attavādupādānassa pariññaṃ
pana ekopi paññapetuṃ na sakkoti. Aṭṭhasamāpattilābhinopi hi candimasūriye
pāṇinā parimajjitvā caramānāpi ca titthiyā tisso pariññā
paññapenti. Attavādaṃ muñcituṃ na sakkonti. Tasmā punappunaṃ vaṭṭasmiṃyeva
patanti. Pathavijigucchanasasako viya hi ete.
Tatthāyaṃ atthasallāpikā upamā – pathavī kira sasakaṃ
āha – ‘‘bho sasakā’’ti. Sasako āha – ‘‘ko eso’’ti. ‘‘Kasmā mameva upari
sabbairiyāpathe kappento uccārapassāvaṃ karonto maṃ na jānāsī’’ti. ‘‘Suṭṭhu
tayā ahaṃ diṭṭho, mayā akkantaṭṭhānampi aṅgulaggehi phuṭṭhaṭṭhānaṃ viya hoti,
vissaṭṭhaudakaṃ appamattakaṃ, karīsaṃ katakaphalamattaṃ. Hatthiassādīhi pana
akkantaṭṭhānampi mahantaṃ, passāvopi nesaṃ ghaṭamatto hoti, uccāropi
pacchimatto hoti, alaṃ mayhaṃ tayā’’ti uppatitvā aññasmiṃ ṭhāne patito. Tato
naṃ pathavī āha – ‘‘are dūraṃ gatopi nanu mayhaṃ upariyeva patitosī’’ti. So
puna taṃ jigucchanto uppatitvā aññattha patito, evaṃ vassasahassampi uppatitvā
patamāno sasako pathaviṃ muñcituṃ na sakkoti. Evamevaṃ titthiyā
sabbūpādānapariññaṃ paññapentopi kāmupādānādīnaṃ tiṇṇaṃyeva samatikkamaṃ
paññapenti. Attavādaṃ pana muñcituṃ na sakkonti, asakkontā punappunaṃ
vaṭṭasmiṃyeva patantīti.
Evaṃ yaṃ titthiyā samatikkamituṃ na sakkonti, tassa
vasena diṭṭhicchedavādaṃ vatvā idāni pasādapacchedavādaṃ dassento evarūpe
kho, bhikkhave, dhammavinayetiādimāha. Tattha dhammavinayeti dhamme
ceva vinaye ca, ubhayenapi aniyyānikasāsanaṃ dasseti. ‘‘Yo satthari pasādo so na sammaggato’’ti aniyyānikasāsanamhi hi satthā kālaṃ katvā
sīhopi hoti, byagghopi hoti, dīpipi acchopi taracchopi. Sāvakā panassa migāpi
sūkarāpi pasadāpi honti, so ‘‘ime mayhaṃ pubbe upaṭṭhākā paccayadāyakā’’ti
khantiṃ vā mettaṃ vā anuddayaṃ vā akatvā tesaṃ upari patitvā lohitaṃ pivati,
thūlathūlamaṃsānipi khādati. Satthā vā pana biḷāro hoti, sāvakā kukkuṭā vā mūsikā vā. Atha ne vuttanayeneva anukampaṃ akatvā
khādati. Atha vā satthā nirayapālo hoti, sāvakā nerayikasattā. So ‘‘ime mayhaṃ
pubbe upaṭṭhākā paccayadāyakā’’ti anukampaṃ akatvā vividhā kammakāraṇā karoti,
ādittepi rathe yojeti, aṅgārapabbatampi āropeti, lohakumbhiyampi khipati, anekehipi dukkhadhammehi sampayojeti. Sāvakā vā pana kālaṃ
katvā sīhādayo honti, satthā migādīsu aññataro. Te ‘‘imaṃ mayaṃ pubbe catūhi
paccayehi upaṭṭhahimhā, satthā no aya’’nti tasmiṃ khantiṃ vā mettaṃ vā
anuddayaṃ vā akatvā vuttanayeneva anayabyasanaṃ pāpenti. Evaṃ aniyyānikasāsane
yo satthari pasādo, so na sammaggato hoti, kañci kālaṃ gantvāpi pacchā vinassatiyeva.
Yo dhamme pasādoti aniyyānikasāsanasmiñhi dhamme pasādo nāma, uggahitapariyāpuṭa –
dhāritavācittamattake tantidhamme pasādo hoti, vaṭṭamokkho panettha natthi.
Tasmā yo ettha pasādo, so punappunaṃ vaṭṭameva gambhīraṃ karotīti sāsanasmiṃ
asammaggato asabhāvato akkhāyati.
Yā sīlesu paripūrakāritāti yāpi ca aniyyānikasāsane ajasīlādīnaṃ vasena
paripūrakāritā, sāpi yasmā vaṭṭamokkhaṃ bhavanissaraṇaṃ na sampāpeti,
sampajjamānā pana tiracchānayoniṃ āvahati, vipaccamānā nirayaṃ, tasmā sā na
sammaggatā akkhāyati. Yā sahadhammikesūti aniyyānikasāsanasmiñhi ye
sahadhammikā, tesu yasmā ekacce kālaṃ katvā sīhādayopi honti, ekacce migādayo,
tattha sīhādibhūtā ‘‘ime amhākaṃ sahadhammikā ahesu’’nti migādibhūtesu
khantiādīni akatvā pubbe vuttanayeneva nesaṃ mahādukkhaṃ uppādenti. Tasmā ettha
sahadhammikesu piyamanāpatāpi asammaggatā akkhāyati.
Idaṃ pana sabbampi kāraṇabhedaṃ ekato katvā dassento
bhagavā taṃ kissa hetu? Evañhetaṃ, bhikkhave,
hotītiādimāha. Tatrāyaṃ saṃkhepattho – evañhetaṃ, bhikkhave, hoti, yaṃ mayā
vuttaṃ ‘‘yo satthari pasādo so na sammaggato akkhāyatī’’tiādi, taṃ evameva
hoti. Kasmā? Yasmā te pasādādayo durakkhāte dhammavinaye …pe…
asammāsambuddhappavediteti, ettha hi yathā tanti kāraṇatthe nipāto.
Tattha durakkhāteti dukkathite, dukkhathitattāyeva duppavedite.
So panesa yasmā maggaphalatthāya na niyyāti, tasmā aniyyāniko. Rāgādīnaṃ
upasamāya asaṃvattanato anupasamasaṃvattaniko. Na sammāsambuddhena
sabbaññunā paveditoti asammāsambuddhappavedito.
Tasmiṃ aniyyānike anupasamasaṃvattanike asammāsambuddhappavedite.
Ettāvatā bhagavā titthiyesu pasādo surāpītasiṅgāle pasādo viya niratthakoti
dasseti.
Eko kira kāḷasiṅgālo rattiṃ nagaraṃ paviṭṭho
surājallikaṃ khāditvā punnāgavane nipajjitvā niddāyanto sūriyuggamane
pabujjhitvā cintesi ‘‘imasmiṃ kāle na sakkā gantuṃ, bahū amhākaṃ verino, ekaṃ
vañcetuṃ vaṭṭatī’’ti. So ekaṃ brāhmaṇaṃ gacchantaṃ disvā imaṃ vañcessāmīti
‘‘ayya brāhmaṇā’’ti āha. Ko eso brāhmaṇaṃ pakkosatīti. ‘‘Ahaṃ, sāmī, ito tāva
ehīti. Kiṃ bhoti? Maṃ bahigāmaṃ nehi, ahaṃ te dve kahāpaṇasatāni dassāmīti.
Sopi nayissāmīti taṃ pādesu gaṇhi. Are bāla brāhmaṇa, na mayhaṃ kahāpaṇā
chaḍḍitakā atthi, dullabhā kahāpaṇā, sādhukaṃ maṃ gaṇhāhīti. Kathaṃ bho
gaṇhāmīti? Uttarāsaṅgena gaṇṭhikaṃ katvā aṃse laggetvā gaṇhāhīti. Brāhmaṇo taṃ
tathā gahetvā dakkhiṇadvārasamīpaṭṭhānaṃ gantvā ettha otāremīti pucchi.
Kataraṭṭhānaṃ nāma etanti? Mahādvāraṃ etanti. Are bāla, brāhmaṇa, kiṃ tava
ñātakā antaradvāre kahāpaṇaṃ ṭhapenti, parato maṃ harā’’ti. So punappunaṃ
thokaṃ thokaṃ gantvā ‘‘ettha otāremi ettha otāremī’’ti pucchitvā tena tajjito
khemaṭṭhānaṃ gantvā tattha otārehīti vutto otāretvā sāṭakaṃ gaṇhi. Kāḷasiṅgālo āha
‘‘ahaṃ te dve kahāpaṇasatāni dassāmīti avocaṃ. Mayhaṃ pana kahāpaṇā bahū, na
dve kahāpaṇasatāneva, yāva ahaṃ kahāpaṇe āharāmi, tāva tvaṃ sūriyaṃ olokento
tiṭṭhā’’ti vatvā thokaṃ gantvā nivattetvā puna brāhmaṇaṃ āha ‘‘ayya brāhmaṇa mā
ito olokehi, sūriyameva olokento tiṭṭhā’’ti. Evañca pana vatvā ketakavanaṃ
pavisitvā yathāruciṃ pakkanto. Brāhmaṇassapi sūriyaṃ olokentasseva
nalāṭato ceva kacchehi ca sedā mucciṃsu. Atha naṃ rukkhadevatā āha –
Sippikānaṃ sataṃ natthi, kuto kaṃsasatā duve’’ti. (jā.
1.1.113);
Evaṃ yathā kāḷasiṅgāle pasādo niratthako, evaṃ
titthiyesupīti.
144.
Aniyyānikasāsane pasādassa niratthakabhāvaṃ dassetvā
niyyānikasāsane tassa sātthakataṃ dassetuṃ tathāgato ca kho, bhikkhavetiādimāha.
Tattha kāmupādānassa pariññaṃ paññapetīti arahattamaggena kāmupādānassa
pahānapariññaṃ samatikkamaṃ paññapeti, itaresaṃ tiṇṇaṃ upādānānaṃ
sotāpattimaggena pariññaṃ paññapeti. Evarūpe kho, bhikkhave, dhammavinayeti,
bhikkhave, evarūpe dhamme ca vinaye ca. Ubhayenapi niyyānikasāsanaṃ dasseti. Satthari
pasādoti evarūpe sāsane yo satthari pasādo, so sammaggato akkhāyati,
bhavadukkhanissaraṇāya saṃvattati.
Tatrimāni vatthūni – bhagavā kira vediyakapabbate
indasālaguhāyaṃ paṭivasati. Atheko ulūkasakuṇo bhagavati gāmaṃ piṇḍāya
pavisante upaḍḍhamaggaṃ anugacchati, nikkhamante upaḍḍhamaggaṃ paccuggamanaṃ
karoti. So ekadivasaṃ sammāsambuddhaṃ sāyanhasamaye bhikkhusaṅghaparivutaṃ
nisinnaṃ pabbatā oruyha vanditvā pakkhe paṇāmetvā añjaliṃ paggayha sīsaṃ heṭṭhā
katvā dasabalaṃ namassamāno aṭṭhāsi. Bhagavā taṃ oloketvā sitaṃ pātvākāsi.
Ānandatthero ‘‘ko nu kho, bhante, hetu ko paccayo sitassa pātukammāyā’’ti
pucchi. ‘‘Passānanda, imaṃ ulūkasakuṇaṃ, ayaṃ mayi ca bhikkhusaṅghe ca cittaṃ
pasādetvā satasahassakappe devesu ca manussesu ca saṃsaritvā somanasso nāma
paccekabuddho bhavissatī’’ti āha –
Ulūkamaṇḍalakkhika, vediyake ciradīghavāsika;
Sukhitosi tvaṃ ayya kosiya, kāluṭṭhitaṃ passasi
buddhavaraṃ.
Kappānaṃ satasahassāni, duggateso na gacchati.
Devalokā cavitvāna, kusalamūlena codito;
Bhavissati anantañāṇo, somanassoti vissutoti.
Aññānipi cettha rājagahanagare sumanamālākāravatthu
mahābherivādakavatthu morajikavatthu vīṇāvādakavatthu saṅkhadhamakavatthūti
evamādīni vatthūni vitthāretabbāni. Evaṃ niyyānikasāsane
satthari pasādo sammaggato hoti.
Dhamme pasādoti
niyyānikasāsanamhi dhamme pasādo sammaggato hoti. Saramatte nimittaṃ gahetvā
suṇantānaṃ tiracchānagatānampi sampattidāyako hoti, paramatthe kiṃ pana
vattabbaṃ. Ayamattho maṇḍūkadevaputtādīnaṃ vatthuvasena veditabbo.
Sīlesu paripūrakāritāti niyyānikasāsanamhi sīlesu paripūrakāritāpi
sammaggatā hoti, saggamokkhasampattiṃ āvahati. Tattha
chattamāṇavakavatthusāmaṇeravatthuādīni dīpetabbāni.
Sahadhammikesūti
niyyānikasāsane sahadhammikesu piyamanāpatāpi sammaggatā hoti, mahāsampattiṃ
āvahati. Ayamattho vimānapetavatthūhi dīpetabbo. Vuttañhetaṃ –
‘‘Khīrodanamahamadāsiṃ, bhikkhuno piṇḍāya
carantassa…pe…
Phāṇitaṃ…pe… ucchukhaṇḍikaṃ… timbarusakaṃ… kakkārikaṃ…
Eḷālukaṃ… vallipakkaṃ… phārusakaṃ… hatthapatākaṃ…
Ambikañjikaṃ… doṇinimmajjaniṃ… kāyabandhanaṃ…
Aṃsabaddhakaṃ… āyogapaṭṭaṃ… vidhūpanaṃ… tālavaṇṭaṃ…
Morahatthaṃ… chattaṃ… upāhanaṃ… pūvaṃ modakaṃ…
Tassā me passa vimānaṃ, accharā kāmavaṇṇinīhamasmī’’ti
(vi. va. 406).
Taṃ kissa hetūtiādi
vuttanayānusāreneva yojetvā veditabbaṃ.
145. Idāni yesaṃ upādānānaṃ titthiyā na sammā pariññaṃ paññapenti,
tathāgato paññapeti, tesaṃ paccayaṃ dassetuṃ ime ca, bhikkhavetiādimāha.
Tattha kiṃnidānātiādīsu nidānādīni sabbāneva kāraṇavevacanāni. Kāraṇañhi
yasmā phalaṃ nideti handa, naṃ gaṇhathāti appeti viya, tasmā nidānanti
vuccati. Yasmā taṃ tato jāyati samudeti pabhavati, tasmā samudayo, jāti,
pabhavoti vuccati. Ayaṃ panettha padattho – kiṃ nidānaṃ etesanti kiṃnidānā.
Ko samudayo etesanti kiṃsamudayā. Kā jāti etesanti kiṃjātikā. Ko
pabhavo etesanti kiṃpabhavā. Yasmā pana tesaṃ taṇhā yathāvuttena atthena
nidānañceva samudayo ca jāti ca pabhavo ca, tasmā ‘‘taṇhānidānā’’tiādimāha.
Evaṃ sabbapadesu attho veditabbo. Yasmā pana bhagavā na kevalaṃ upādānasseva
paccayaṃ jānāti, upādānassa paccayabhūtāya taṇhāyapi, taṇhādipaccayānaṃ
vedanādīnampi paccayaṃ jānātiyeva, tasmā taṇhā cāyaṃ, bhikkhavetiādimāha.
Yato ca khoti yasmiṃ kāle. Avijjā pahīnā hotīti
vaṭṭamūlikā avijjā anuppādanirodhena pahīnā hoti. Vijjā uppannāti
arahattamaggavijjā uppannā. So avijjāvirāgā vijjuppādāti. So bhikkhu
avijjāya ca pahīnattā vijjāya ca uppannattā. Neva kāmupādānaṃ upādiyatīti
neva kāmupādānaṃ gaṇhāti na upeti, na sesāni upādānāni. Anupādiyaṃ na
paritassatīti evaṃ kiñci upādānaṃ aggaṇhanto taṇhāparitassanāya na
paritassati. Aparitassanti aparitassanto taṇhaṃ anuppādento. Paccattaṃyeva
parinibbāyatīti sayameva kilesaparinibbānena parinibbāyati. Evamassa
āsavakkhayaṃ dassetvā idāni khīṇāsavassa bhikkhuno paccavekkhaṇaṃ dassento khīṇā
jātītiādimāha. Taṃ vuttatthamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Cūḷasīhanādasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Bốn bậc sa môn (đệ nhất sa môn, đệ nhi sa môn, đệ tam sa môn, đệ tứ sa môn) có ý nghĩa quan trọng thế nào trong Phật Pháp? Phải chăng Đức Phật và tất cả thánh đệ tử đều thuộc một trong bốn bậc sa môn nầy? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 2. Tại sao bốn yếu tố cần có để chứng thánh quả ở đây nhấn mạnh về niềm tin mà không nói về thiền định? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. Tại sao 9 câu hỏi được đưa ra nếu trả lời một cách chân chánh thì chỉ co một câu trả lời không thể khác hơn? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 4. Tại sao "sự quý kính chân thành đối với các bạn đồng tu thuộc cả hai giới xuất gia và tại gia" có ý nghĩa khẳng định về giá trị của giáo pháp? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 5. Phải chăng vì bất kỳ lý do gì mà cuộc sống chìm ngập trong tham, sân, si thì đều đi ngược lại lời Phật dạy? - TT Pháp Tân
Thảo luận 6. Những lời Phật dạy ở đây để trả lời cho ngoại đạo nhưng giữa những người con Phật thì học được những gì? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 7. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
Thảo luận 1. Bốn bậc sa môn (đệ nhất sa môn, đệ nhi sa môn, đệ tam sa môn, đệ tứ sa môn) có ý nghĩa quan trọng thế nào trong Phật Pháp? Phải chăng Đức Phật và tất cả thánh đệ tử đều thuộc một trong bốn bậc sa môn nầy? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 2. Tại sao bốn yếu tố cần có để chứng thánh quả ở đây nhấn mạnh về niềm tin mà không nói về thiền định? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. Tại sao 9 câu hỏi được đưa ra nếu trả lời một cách chân chánh thì chỉ co một câu trả lời không thể khác hơn? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 4. Tại sao "sự quý kính chân thành đối với các bạn đồng tu thuộc cả hai giới xuất gia và tại gia" có ý nghĩa khẳng định về giá trị của giáo pháp? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 5. Phải chăng vì bất kỳ lý do gì mà cuộc sống chìm ngập trong tham, sân, si thì đều đi ngược lại lời Phật dạy? - TT Pháp Tân
Thảo luận 6. Những lời Phật dạy ở đây để trả lời cho ngoại đạo nhưng giữa những người con Phật thì học được những gì? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 7. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment