Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng Sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 22/7/2020
12. Ðại Kinh Sư Tử Hống
(Mahāsīhanāda Sutta)
Sư tử hống (sìhanàda) là lời tuyên bố không khiếp sợ của bậc Sư Vương. Trong bài kinh nầy ghi lại về lời Đức Phật nói về sự ưu việt vô thượng của Ngài, và có thể nói chung chư vị Chánh đẳng chánh giác, đối với cả ba phương diện tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Gọi là Đại Kinh Sư Tử Hống vì là bài kinh dài (đại kinh) so với kinh ngắn hơn (tiểu kinh) trước đây.
Tôn giả Sàriputta khi đi khất thực nghe lời chỉ trích của Sunakkhatta: "Sa môn Gotama không có tri kiến thù thắng, thuyết pháp do mình tạo ra sau khi suy luận, trắc nghiệm. Pháp ấy nhắm đến một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có thể dẫn người thực hành đến chỗ đoạn tận khổ đau." . Tôn giả về thuật lại với Đức Phật. Đức Thế Tôn dạy rằng mặc dù đó là lời chỉ trích nhưng vô tình là tán thán Phật, mặc dù vậy một người thiểu trí như Sunakkhatta không thể nào hiểu được sở chứng và cảnh giới cao rộng của bậc Toàn giác. Rồi Đức Phật đi vào chi tiết những sở đắc, sở chứng, năng lực hiển hoá và cảnh giới cao rộng của chư Phật. Những tuyên bố nầy khiến tỳ kheo Nagasamala đang đứng quạt hầu phía sau chấn động tâm tư. Có lẽ vì thế gọi là Đại kinh Sư Tử Hống.
Bài học ngày 22 .7.2020
070. Bốn sanh loại
Đức Thế Tôn không phải chỉ biết về chúng
sanh qua sự thấy của mắt mà còn qua Phật nhãn Ngài thấy biết rõ về các loài hoá
sanh:
Này Sāriputta, có bốn loại sanh. Thế
nào là bốn? Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh.
Này Sāriputta, thế nào là noãn sanh?
Này Sariputta, những loại chúng sanh nào phá vỏ trứng, mà sanh, này Sāriputta
như vậy gọi là noãn sanh. Và này Sāriputta, thế nào là thai sanh?
Này Sāriputta, những loại chúng sanh nào phá màn da mỏng che chỗ kín
mà sanh, này Sāriputta, như vậy gọi là thai sanh. Và này Sāriputta,
thế nào là thấp sanh? Này Sāriputta, những loại chúng sanh nào sanh ra
từ cá thúi, từ xác chết thúi, từ cháo cơm thúi, hay trong hồ nước
dơ hay trong ao nước nhớp. Này Sāriputta, như vậy gọi là thấp sanh.
Và này Sāriputta, thế nào là hóa sanh? Chư Thiên, các chúng sanh ở
địa ngục, một số thuộc loài người và một số thuộc đọa xứ. Này Sāriputta,
như vậy gọi là hóa sanh.
Này Sāriputta, nếu ai biết Ta như
vậy, thấy Ta như vậy mà còn nói: "Sa-môn Gotama không có pháp
Thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh.
Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận tác
thành, tùy thuận trắc nghiệm, thuyết pháp cho một mục tiêu đặc
biệt, có khả năng hướng thượng, có thể hướng dẫn người thực
hành diệt tận khổ đau". Này Sariputta, nếu người ấy không từ
bỏ lời nói ấy; không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy;
người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ
một bên. Này Sāriputta, như Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành tựu
Thiền định, thành tựu trí tuệ có thể chứng được chánh trí ngay
trong hiện tại. Này Sāriputta, Ta nói như vậy là sự thành tựu như
vậy. Nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy không từ bỏ tâm ấy,
không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như
một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
Có những loại chúng sanh có cả hai hình
thức sanh nở như loài rắn có cả thai sanh và noãn sanh.
Loài người bình thường ít có khả năng
biết về loài hoá sanh. Đây là sanh loại bao gồm nhiều chúng sanh nhất. Những vị
có thiên nhãn có thể thấy biết tuỳ theo định lực riêng.
071. Lục đạo
Không phải chỉ
biết về các chúng sanh Đức Phật còn hiểu rõ về đường đi và điểm đến của muôn loài
trong đó kể cả hành trình sanh tử và hành trình giải thoát:
Này Sāriputta, có năm loại sanh thú
này. Thế nào là năm? Ðịa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, loài Người,
chư Thiên.
(1) Này Sāriputta, Ta tuệ tri địa
ngục, con đường đưa đến địa ngục và hành lộ đưa đến địa ngục.
Tùy theo hạnh nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, sự việc này ta cũng tuệ tri.
(2) Và này Sāriputta, Ta tuệ tri bàng
sanh, con đường đưa đến bàng sanh và hành lộ đưa đến bàng sanh. Tùy
theo hạnh nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào bàng
sanh, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
(3) Và này Sāriputta, Ta tuệ tri ngạ
quỷ, con đường đưa đến ngạ quỷ và hành lộ đưa đến ngạ quỷ. Tùy
theo hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào ngạ quỷ,
sự việc này Ta cũng tuệ tri.
(4) Và này Sāriputta, Ta cũng tuệ tri
loài Người, con đường đưa đến thế giới loài Người và hành lộ
đưa đến thế giới loài Người. Tùy theo hành nghiệp, sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào loài Người, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
(5) Và này Sāriputta, Ta cũng tuệ tri
chư Thiên, con đường đưa đến Thiên giới và hành lộ đưa đến Thiên
giới. Tùy theo hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào
thiện thú, Thiên giới, thế giới này, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
Và này Sāriputta, Ta cũng tuệ tri
Niết-bàn, con đường đưa đến Niết-bàn và hành lộ đưa đến
Niết-bàn. Tùy theo hành nghiệp, do đoạn trừ các lậu hoặc, sau khi tự
mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện
tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, sự việc này, Ta cũng
tuệ tri.
(1) Này Sāriputta, ở đây, với tâm
của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người. Do hành nghiệp của người
này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi
thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục
như vậy. Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, Ta
thấy người ấy, sau khi thân hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống
khổ, khốc liệt. Này Sariputta, cũng như có một hố than sâu hơn thân
người, đầy vun than hừng, không có lửa ngọn, không có khói, và một
người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi
khô cổ, đắng họng, khát nước, và đi thẳng đến hố than ấy chỉ bằng
một con đường. Một người có mắt thấy người ấy, có thể nói:
"Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước
vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến hố than kia". Sau một thời gian,
người ấy sẽ thấy người kia rơi vào hố than ấy và phải cảm thọ
những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sariputta, cũng
vậy, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người:
"Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước
vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục như vậy". Sau một thời gian, với
thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy người ấy sau khi thân hoại
mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, phải cảm
thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
(2) Này Sāriputta, ở đây với tâm
của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của
người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau
khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào bàng sanh". Sau một thời
gian, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào bàng sanh, phải cảm thọ những cảm giác cực
khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sāriputta, cũng như có một hố phân,
sâu hơn thân người, đầy những phẩn uế, và một người đi đến, bị
nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng
họng, khát nước và đi thẳng đến hố phân ấy chỉ bằng một con
đường. Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy và bước vào đạo lộ
như vậy, sẽ đi đến hố phân ấy". Sau một thời gian, người ấy
sẽ thấy người kia rơi vào hố phân ấy và phải cảm thọ những cảm
giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sāriputta, cũng vậy, ở đây
với tâm của Ta... (như trên)... thống khổ, khốc liệt.
(3) Này Sāriputta, ở đây với tâm
của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người "Hành nghiệp của
người này như vậy, cử chỉ như vậy... sau khi thân hoại mạng chung
sẽ sanh vào ngạ quỷ, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống
khổ, khốc liệt". Này Sāriputta, cũng như có một cây sống trên
miếng đất không bằng phẳng, với lá thưa thớt, với bóng che từng
đám lưa thưa. Và một người đi đến bị nóng bức áp đảo, bị nóng
bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng
đến cây ấy chỉ bằng một con đường. Một người có mắt thấy người
ấy có thể nói: "Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ
như vậy và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến cây ấy". Sau
một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia ngồi hay nằm dưới bóng
cây ấy và phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc
liệt. Này Sāriputta, cũng vậy ở đây với tâm của Ta... (như trên)...
thống khổ, khốc liệt.
(4) Này Sāriputta, ở đây với tâm
của Ta, Ta biết tâm của một số người: "Hành nghiệp của người
này như vậy, cử chỉ như vậy... sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh
vào loài người". Sau một thời gian... Ta thấy người ấy sanh vào
loài người, và cảm thọ được nhiều cảm giác lạc thọ. Này Sāriputta,
cũng như có một cây sống trên miếng đất bằng phẳng với lá sum sê,
với bóng cây rậm rạp. Và một người đi đến, bị nóng bức áp đảo,
bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và đi
thẳng đến cây ấy chỉ bằng một con đường. Một người có mắt thấy
người ấy có thể nói: "Hành nghiệp của người này như vậy, cử
chỉ của người này như vậy và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi
đến cây ấy". Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia,
ngồi hay nằm dưới bóng cây ấy và cảm thọ được nhiều cảm giác
lạc thọ. Này Sāriputta, cũng vậy, ở đây, với tâm của Ta... được
nhiều cảm giác lạc thọ.
(5) Này Sāriputta, ở đây với tâm
của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của
người này như vậy, cử chỉ như vậy... sau khi thân hoại mạng chung
sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Sau một thời
gian... Ta thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời
này và cảm thọ những cảm giác cực lạc. Này Sāriputta, giống như
một ngôi lầu, có gác nhọn, có tô vôi cả trong lẫn ngoài, được che
gió, có then chốt đóng lại và có các cửa sổ khép kín. Tại đây có
một sàng tọa, trải nệm lông dài, trải nệm màu trắng, trải nệm
bông có thêu hoa, trải nệm bằng da sơn dương gọi là kadali, có nệm
với khuôn màu treo phía trên, có gối dài màu đỏ cả hai đầu. Và
một người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt
mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng đến ngôi lầu ấy.
Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: "Hành nghiệp của
người này như vậy, cử chỉ như vậy, và bước vào đạo lộ như vậy,
sẽ đi đến ngôi lầu ấy". Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy
người kia ngồi hay nằm trong ngôi lầu ấy, trong gác nhọn ấy, trên
sàng tọa ấy và cảm thọ được nhiều cảm thọ cực lạc. Này Sāriputta,
cũng vậy, ở đây với tâm của Ta... được nhiều cảm giác lạc thọ.
(6) Này Sāriputta, ở đây với tâm
của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của
người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sẽ
đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt
và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát
như vậy". Sau một thời gian, Ta thấy vị ấy đoạn trừ các lậu
hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, cảm thọ những cảm
giác cực lạc. Này Sāriputta, giống như một hồ sen có nước trong, có
nước ngọt, có nước mát, có nước trong sáng, có bờ hồ khéo sắp
đặt, đẹp đẽ, và không xa hồ ấy có khu rừng rậm rạp. Một người đi
đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ,
đắng họng, khát nước và đi thẳng đến hồ sen ấy. Một người có mắt
thấy người ấy có thể nói: "Hành nghiệp của người này như
vậy, cử chỉ như vậy, và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến hồ
sen ấy". Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia, sau khi
tẩm mình vào hồ sen ấy, sau khi tắm rửa, uống nước và làm cho dịu
bớt mọi ưu tư, mệt mỏi, phiền não, sau khi ra khỏi hồ liền qua ngồi
hay nằm trong rừng cây rậm rạp ấy và cảm thọ những cảm giác cực
lạc. Cũng vậy, này Sariputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm
của một số người: "Hành nghiệp của người này như vậy, cử
chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đoạn trừ các lậu hoặc,
tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát như vậy". Sau
một thời gian, Ta thấy vị ấy đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với
thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát, cảm thọ những cảm giác cực lạc.
Này Sāriputta, năm loại này là năm
sanh thú. Này Sāriputta, có ai biết Ta như vậy, thấy Ta như vậy, và
nói: "Sa-môn Gotama không có pháp Thượng nhân, không có tri
kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp
ấy tự mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuộc trắc
nghiệm". Này Sāriputta, nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy,
không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy, thì người ấy sẽ
bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên. Này Sāriputta,
Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành tựu thiền định, thành tựu trí
tuệ, có thể chứng được chánh trí ngay trong hiện tại. Này Sāriputta,
Ta nói như vậy là sự thành tựu như vậy. Nếu người ấy không từ
bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy,
thì người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng
bỏ một bên.
Có hai điểm cần lưu ý ở đây: Thông thường
khi nó đến khổ cảnh thì có đề cập đến a tu la (asura). Phật học có đề cập đến
hạng chúng sanh nầy. Tuy nhiên ở đây không nhắc tới vì tánh cách bất định vì có
thể sống ở cõi trời hay ngạ quỹ, địa ngục. Có khi biến đổi lúc vui lúc khổ.
Hàng a tu la thường được ghi nhận là hung dữ, hiếu chiến, tự thiêu đốt bằng sân
tâm.
Lục đạo trong hệ Phật học Hán ngữ thường
kể gồm sáu đường sanh tử: Địa ngục, ngạ quỹ, a tu la, bàng sanh, loài người, và
chư thiên. Ở đây lục đạo gồm năm đường sanh tử (không kể a tu la) và đường giác
ngộ giải thoát.
72. Bản thân Đức Thế Tôn từng trãi nghiệm
tất cả những phương pháp tu tập
Khi dạy về sự tu tập Đức Thế Tôn không phải
suy diễn bằng lý thuyết mà tự thân Ngài trãi qua thật sự:
Này Sāriputta, Ta thắng tri phạm
hạnh, đầy đủ bốn hạnh: về khổ hạnh, Ta khổ hạnh đệ nhất; về bần
uế, Ta bần uế đệ nhất; về yểm ly, Ta yểm ly đệ nhất; về độc cư, Ta
độc cư đệ nhất.
Này Sāriputta, ở đây, khổ hạnh của
Ta như sau: Ta sống lõa thể, phóng túng, không theo khuôn phép, liếm
tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, không nhận đồ ăn
mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi
ăn, không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo, không nhận đồ ăn tại
ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận
đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo, không nhận đồ ăn từ hai người
đang ăn, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ
ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ người
đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận đồ ăn
tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ có ruồi bu, không
ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men. Ta chỉ nhận đồ ăn
tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay chỉ nhận ăn tại hai nhà,
chỉ nhận ăn hai miếng, hay chỉ nhận ăn tại bảy nhà, chỉ nhận ăn
bảy miếng. Ta nuôi sống chỉ với một chén, nuôi sống chỉ với hai
chén, nuôi sống chỉ với bảy chén. Ta chỉ ăn một ngày một bữa, hai
ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy Ta sống theo hạnh tiết chế
ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần. Ta chỉ ăn cỏ lúa để
sống, lúa tắc, gạo lức, ăn hột cải nivara, ăn da vụn, ăn trấu,
uống nước bột gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây,
ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Ta mặc vải gai
thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm rồi
quăng đi, mặc áo phấn tảo y, mặc vỏ cây tititaka làm áo, mặc da con
sơn dương đen, mặc áo bện từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo
bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc
áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại,
mặc áo bằng lông cú. Ta sống nhổ râu tóc, Ta theo tập tục sống nhổ
râu tóc, Ta theo hạnh thường đứng không dùng chỗ ngồi, Ta là người
ngồi chỏ hỏ, sống tinh tấn theo hạnh ngồi chỏ hỏ. Ta dùng gai làm
giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống dùng ván gỗ làm
giường, sống nằm trên đất trần, thường nằm ngủ một bên hông,
sống để bụi và nhớp che dính thân mình, sống và ngủ ngoài trời,
theo hạnh bạ đâu nằm đấy, sống ăn các uế vật, sống không uống
nước lạnh, theo hạnh không uống nước lạnh, sống một đêm tắm ba
lần, theo hạnh xuống nước tắm. Như vậy Ta sống theo hạnh hành hạ,
dày vò thân thể theo nhiều cách. Này Sariputta, như vậy là khổ hạnh
của Ta.
Này Sāriputta, ở đây hạnh bần uế
của Ta như sau: Trên thân Ta, bụi bặm chất đầy trải nhiều năm
tháng, đóng thành tấm, thành miếng. Như gốc cây tinduka bụi bặm
chất đầy trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng; cũng
vậy, này Sariputta, trên thân Ta bụi bặm chất đầy trải nhiều năm
tháng, đóng thành tấm, thành miếng. Này Sāriputta, Ta không nghĩ
rằng: "Với tay của Ta, Ta hãy phủi sạch bụi bặm này đi, hay
những người khác với tay của họ hãy phủi sạch bụi bặm này đi cho
Ta". Này Sāriputta, Ta không có nghĩ như vậy. Này Sāriputta, như
vậy là sự bần uế của Ta.
Này Sāriputta, như thế này là sự
yểm ly của Ta. Này Sāriputta, tỉnh giác, Ta đi tới; tỉnh giác Ta đi
lui, Ta an trú lòng từ cho đến trong một giọt nước với tâm tư:
"Mong rằng Ta không làm hại một chúng sanh nhỏ nào trong những
ác đạo của họ!" Này Sāriputta, như vậy là sự yểm ly của Ta.
Này Sāriputta, như thế này là sự
độc cư của Ta. Này Sāriputta, Ta đi sâu vào một khu rừng và an trú
tại chỗ ấy. Khi Ta thấy người chăn bò, người mục súc, người cắt
cỏ, người đốn củi hay người thợ rừng, Ta liền chạy từ rừng này
qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này
qua thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác. Vì sao vậy? Ta
nghĩ rằng: "Mong họ đừng thấy Ta, và mong Ta đừng thấy họ!"
Này Sāriputta, giống như một con thú rừng thấy người liền chạy từ
rừng này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung
lũng này qua thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác. Cũng
vậy, này Sāriputta, khi Ta thấy người chăn bò, người mục súc,
người cắt cỏ, người đốn củi, hay người tiều phu, Ta liền chạy từ
rừng này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung
lũng này qua thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác. Vì sao
vậy? Ta nghĩ rằng: "Mong họ đừng thấy Ta, và mong Ta đừng thấy
họ!" Này Sāriputta, như vậy là hạnh độc cư của Ta.
Này Sāriputta, rồi Ta bò bốn chân
đến các chuồng bò, khi các con bò cái đã bỏ đi, khi các người chăn
bò không có mặt, rồi Ta ăn phân các con bò con, các con bò còn
trẻ, các con bò còn bú. Khi nước tiểu và phân của Ta còn tồn tại,
Ta tự nuôi sống với các loại ấy. Này Sāriputta, như vậy là hạnh
đại bất tịnh thực của Ta.
Này Sāriputta, Ta đi sâu vào một khu
rừng rậm rạp kinh hoàng và an trú tại chỗ ấy. Này Sāriputta, tại khu
rừng rậm rạp kinh hoàng này, những ai còn tham ái đi vào khu rừng
rậm rạp ấy, thời lông tóc người ấy dựng ngược. Này Sāriputta, rồi
Ta trong những đêm đông lạnh lẽo, giữa những ngày mồng tám, khi có
tuyết rơi, trong những đêm như vậy, Ta sống giữa trời, và ban ngày
sống trong khu rừng rậm rạp. Ta sống trong những ngày cuối tháng hè,
ban ngày thì sống giữa trời, còn ban đêm trong khu rừng rậm rạp. Rồi
này Sāriputta, những bài kệ kỳ diệu từ trước chưa từng được nghe sau
đây được khởi lên:
Nay bị thiêu đốt, bị buốt
lạnh, Cô độc sống trong rừng kinh hoàng, Trần truồng, Ta ngồi không
lửa ấm, Ẩn sĩ, trong lý tưởng đăm chiêu.
Này Sāriputta, Ta nằm ngủ trong bãi
tha ma, dựa trên một bộ xương. Này Sāriputta, những đứa mục đồng
đến gần Ta, khạc nhổ trên Ta, tiểu tiện trên Ta, rắc bụi trên Ta và
lấy que đâm vào lỗ tai. Này Sāriputta, và Ta biết Ta không khởi ác
tâm đối với chúng. Này Sāriputta, như vậy là hạnh trú xả của Ta.
Này Sāriputta, lại có một số
Sa-môn, Bà-la-môn có những thuyết như sau, có những kiến giải như
sau: "Sự thanh tịnh đạt được nhờ món ăn". Họ nói:
"Chúng ta sống nhờ trái táo", và họ ăn trái táo, họ ăn
bột táo, họ uống nước trái táo dưới nhiều hình thức. Này Sāriputta,
Ta tự xưng Ta sống chỉ ăn một trái táo. Này Sāriputta, có thể các
Người nghĩ như sau: "Trái táo thời ấy to lớn". Này
Sariputta, chớ có hiểu như vậy. Vì trái táo thời ấy giống với trái
táo hiện tại. Này Sāriputta, trong khi Ta sống chỉ ăn một trái táo,
thân thể của Ta trở thành hết sức ốm yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay
chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo.
Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc
đà. Vì Ta ăn quá ít, các xương sống phô bày của Ta giống như một
chuỗi banh. Vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống
như rui cột nhà sàn hư nát. Vì ta ăn quá ít, nên con ngươi của Ta
long lanh nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh
nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn quá ít, da
đầu Ta trở thành nhăn nheo khô cằn như trái bí trắng và đắng bị
cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn. Này
Sāriputta, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy sờ da bụng" chính xương sống
bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy sờ xương sống", thì
chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Sariputta, da
bụng của Ta bám chặt xương sống. Này Sariputta, nếu Ta nghĩ: "Ta
đi đại tiện hay đi tiểu tiện", thì Ta ngã quỵ úp mặt xuống đất,
vì Ta ăn quá ít. Này Sariputta, nếu Ta muốn thoa dịu thân Ta, lấy tay
xoa bóp chân tay, thì này Sāriputta, trong khi Ta lấy tay xoa bóp chân
tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít.
Này Sāriputta, lại có một số
Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải
như sau: "Sự thanh tịnh đạt được nhờ món ăn". Họ nói:
"Chúng ta sống nhờ đậu xanh... (như trên)... chúng ta sống nhờ
vừng mè... (như trên)... chúng ta sống nhờ hột gạo", và họ ăn
hột gạo, họ ăn hột gạo nghiền thành bột, họ uống nước gạo, và
họ ăn hột gạo dưới nhiều hình thức. Này Sariputta, Ta tự xưng Ta
sống chỉ ăn một hột gạo. Này Sāriputta, có thể các Người nghĩ như
sau: "Hột gạo thời ấy to lớn". Này Sāriputta, chớ có hiểu
như vậy. Vì hột gạo thời ấy giống với hột gạo hiện tại. Này Sāriputta,
trong khi Ta chỉ sống ăn một hột gạo, thân thể của Ta trở thành hết
sức ốm yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng
cỏ hay những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta
trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, xương sống
phô bày của Ta giống như một chuỗi banh. Vì Ta ăn quá ít các
xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột của một nhà sàn hư
nát. Vì Ta ăn quá ít, con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong
lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một
giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn
nheo, khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị
cơn gió nóng làm cho nhăn nheo, khô cằn. Này Sāriputta, nếu Ta nghĩ:
"Ta hãy sờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy.
Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị
Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Sāriputta, da bụng của Ta bám
chặt xương sống. Này Sāriputta, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện hay
đi tiểu tiện", thì Ta ngã qu? úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá
ít. Này Sāriputta, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân
tay, thời này Sāriputta, trong khi Ta lấy tay xoa bóp chân tay, các lông
tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít.
Này Sāriputta, dầu Ta có theo cử chỉ
như vậy, theo hành lộ như vậy, theo khổ hạnh như vậy, Ta cũng không
chứng được các pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng
đáng bậc Thánh. Vì sao vậy? Vì với những phương tiện ấy, không
chứng được pháp thượng nhân với Thánh trí tuệ. Chính Thánh trí
tuệ này chứng được thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng
thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau.
Này Sāriputta, lại có một số
Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải
như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ luân hồi". Này
Sāriputta, thật không dễ gì tìm được sự luân hồi mà xưa kia Ta
không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị Tịnh
cư thiên (Suddhavasa). Này Sāriputta, nếu Ta luân hồi tại Tịnh cư
thiên thì Ta đã không trở lại đời này nữa.
Này Sāriputta, lại có một số
Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải
như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ sanh khởi". Này
Sāriputta, thật không dễ gì tìm được sự sanh khởi mà xưa kia Ta
không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị Tịnh
cư thiên. Này Sāriputta, nếu Ta sanh khởi tại Tịnh cư thiên, thì Ta đã
không trở lại đời này nữa.
Này Sāriputta, lại có một số
Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải
như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ an trú". Này
Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự an trú mà xưa kia Ta không
trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị Tịnh cư
thiên. Này Sāriputta, nếu Ta an trú tại Tịnh cư thiên, thì Ta đã
không trở lại đời này nữa.
Này Sāriputta, lại có một số
Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải
như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ tế tự". Này Sāriputta,
thật không dễ gì tìm được sự tế tự mà xưa kia Ta không làm trong
một thời gian khá dài khi ta-là vị vua Sát-đế-lị có làm lễ quán
đảnh hay làm vị Bà-la-môn giàu có.
Này Sāriputta, lại có một số
Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải
như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ thờ lửa". Này Sāriputta,
thật không dễ gì tìm được sự thờ lửa mà xưa kia Ta không làm
trong một thời gian khá dài, khi Ta là vị vua Sát-đế-lỵ có làm lễ quán đảnh, hay làm vị Bà-la-môn
giàu có.
Khổ hạnh là sự khắc kỷ đến mức tận cùng. Trên lý thuyết, và quan niệm phổ
cập của quần chúng, đó là sự tu tập cao cả nhất. Trước khi thành đạo Đức Phật đã
trắc nghiệm tất cả pháp khổ hạnh ở mức độ cao nhất. Cuối cùng Ngài nhận thấy sự
vô ích đã chọn con đường trung đạo.
Chủ trương luân hồi tịnh hoá và tế tự cũng là hai quan điểm chấp trì lớn
trong tín ngưỡng. Đức Thế Tôn khẳng định Ngài không những hiểu rõ mà còn tự thân
trãi nghiệm trong thời gian dài với sự chuyên tâm,
073. Quảng đời dài đã trãi qua, tuệ giác
vẫn vậy
Tuệ giác của Như Lai vốn bất động, bất
thối, bất suy giảm theo thời gian cho dù đến những ngày tháng cuối đời:
Này Sāriputta, lại có một số
Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải
như sau: "Khi một thiếu niên còn trẻ tuổi, tóc đen nhánh, huyết
khí sung mãn, trong tuổi thanh xuân, người ấy thành tựu trí tuệ
biện tài tối thượng. Nhưng khi người ấy già cả, niên cao, lạp
lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi đến đoạn cuối cuộc đời, khi
đã tám mươi, chín mươi hay một trăm tuổi, khi ấy trí tuệ biện
tài tối thượng ấy bị đoạn trừ". Này Sāriputta, chớ có quan
niệm như vậy. Này Sāriputta, nay Ta đã già, niên cao, lạp lớn, đã
đến tuổi trưởng thượng, đã đi dến đoạn cuối cuộc đời, tuổi Ta nay
đã đến tám mươi. Này Sāriputta, ở đây Ta có bốn vị đệ tử, tuổi
thọ đến một trăm, đã sống một trăm tuổi, thành tựu chánh niệm đệ
nhất, thành tựu chuyên tâm đệ nhất, thành tựu tinh cần đệ nhất và
đầy đủ trí tuệ biện tài tối thượng. Này Sāriputta, ví như một
người bắn cung thiện xảo, có huấn luyện, khéo tay, thuần thục, với
một mũi tên nhẹ, có thể dễ dàng bắn ngang qua bóng một cây ta-la.
Cũng vậy, những vị này với chánh niệm đệ nhất như vậy, được
thành tựu trí tuệ biện tài tối thượng như vậy, nếu những vị này
hỏi Ta nhiều lần một câu hỏi về Bốn Niệm xứ, và nếu Ta, được hỏi
nhiều lần như vậy, phải giải thích cho họ hiểu và nếu họ được Ta
giải thích như vậy, có thể hiểu như đã giải thích, và nếu họ
không hỏi Ta về những vấn đề phụ thuộc và các vấn đề khác, trừ
khi ăn, uống, nhai, nếm, trừ khi đi đại tiện, tiểu tiện, trừ khi ngủ
để lấy lại sức. Này Sāriputta, dầu vậy, sự thuyết pháp của Như Lai
cũng chưa hoàn tất, sự giải thích cú pháp của Như Lai cũng chưa
hoàn tất, sự trả lời các câu hỏi của Như Lai cũng chưa hoàn tất,
khi mà bốn đệ tử của Ta, tuổi thọ đến một trăm tuổi, đã sống một
trăm tuổi, đã từ trần sau một trăm tuổi. Này Sāriputta, nếu Ông có
gánh Ta trên giường đi chỗ này chỗ kia, thật sự trí tuệ biện tài
của Như Lai không có gì thay đổi.
Này Sāriputta, những ai nói một cách
chân chánh sẽ nói như sau: "Một vị hữu tình không bị si chi
phối, đã sanh ra ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc
cho chư Thiên và loài Người". Vị ấy sẽ nói về Ta một cách
chân chánh như sau: "Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã
sanh ra ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng
thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư
Thiên và loài Người".
Lúc bấy giờ Tôn giả Nāgasamāla đứng
sau lưng Thế Tôn và quạt cho Ngài! Tôn giả Nāgasamāla bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!
Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Sau khi nghe pháp môn này, lông tóc
con dựng ngược. Bạch Thế Tôn, pháp môn này tên gọi là gì?
-- Này Nāgasamāla, do vậy pháp môn
này gọi là "Pháp môn Lông tóc dựng ngược". Ông hãy như
vậy thọ trì.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn
giả Nāgasamāla hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.
Dịch
giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân
đoạn & chú thích: Tỳ Kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 12 [tóm tắt]
Đại Kinh Sư Tử Hống
(Mahāsīhanāda Sutta)
(M.i, 68)
Sunakkhatta mới từ bỏ Pháp và Luật này, phê
bình đức Phật như sau: “Sa-môn Gotama không có pháp thượng nhân,
không có tri kiến thù thắng, xứng bậc Thánh, thuyết pháp ấy tự
mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm, thuyết cho
một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có thể dẫn
người thực hành diệt tận khổ đau”. Sāriputta thuật lại cho Thế Tôn
về lời chỉ trích này, Thế Tôn nói rằng Sunakkhatta là kẻ phẫn nộ
ngu si, nói lời tán thán chớ không phải chỉ trích khi nói rằng
Sa-môn Gotama thuyết pháp cho một mục đích đặc biệt, có khả năng
hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau.
Thế Tôn nói Sunakkhatta không biết được bốn
tùy pháp, mười Như Lai lực, bốn không sợ hãi của Như Lai, tám học
chúng, bốn loại sanh, năm loại thú, bốn hạnh đệ nhất của đức Phật:
Khổ hạnh, bần uế, yểm ly, độc cư. Cuối cùng đức Phật nói đến một
số kiến giải sai lầm của các ngoại đạo và thái độ đức Phật đối
với các kiến giải.
1/ Tùy pháp: Thế Tôn
nói Sunakkhatta không biết được bốn tùy pháp của Như Lai (dhammanvaya)
a) Như Lai với mười danh hiệu.
b) Như Lai chứng Thần túc thông.
c) Như Lai chứng Thiên nhĩ thông.
d) Như Lai chứng Tha tâm thông.
2/ Mười Lực:
a) Như thật quán tri xứ là xứ, phi xứ là phi
xứ;
b) Như thật quán tri quả báo các nghiệp trong
ba đời;
c) Như thật quán tri con đường đưa đến tất cả
cảnh giới;
d) Như thật quán tri thế giới (loka) với nhiều
giới (dhātu) sai khác nhau;
e) Như thật quán tri chí hướng sai biệt các
loài chúng sanh;
f) Như thật quán tri những căn thượng hạ các
loài chúng sanh, các loài người;
g) Như thật quán tri sự nhiễm ô, sự thanh tịnh,
sự xuất khỏi các thiền chứng về thiền, giải thoát, định;
h) Nhớ đến các đời quá khứ;
i) Chứng được Thiên nhãn thông;
k) Lậu tận thông.
3/ Bốn không sợ hãi: Không một ai có thể chỉ trích Như Lai đúng
pháp rằng:
a) Các pháp
Như Lai chưa được chứng ngộ hoàn toàn lại tự mình xưng là đã
chứng ngộ hoàn toàn;
b) Các lậu
hoặc chưa được đoạn trừ mà Như Lai cho là đã đoạn trừ;
c) Các pháp
Như Lai gọi là chướng pháp, thật sự không phải là chướng ngại
pháp;
d) Pháp Như
Lai thuyết giảng không đưa đến mục tiêu đặc biệt, không thể dẫn
người thực hành đoạn tận khổ đau.
Vì Như Lai thấy không ai có lý do gì để chỉ
trích Ngài như vậy, nên Ngài không có sợ hãi.
4/ Tám hội chúng:
a) Hội chúng Sát-đế-lỵ;
b) Hội chúng Bà-la-môn;
c) Gia chủ;
d) Sa-môn;
e) Bốn Thiên vương;
f) Tam thập tam thiên;
g) Māra;
h) Phạm thiên.
Do Như Lai thành tựu bốn vô sở úy nên dù cho đến hội chúng nào, Như Lai cũng
không có sợ hãi, đạt được an ổn.
5/ Bốn loại sanh xứ (yoni):
a)
Noãn sanh xứ;
b)
Thai sanh xứ;
c) Thấp sanh xứ;
d) Hóa sanh xứ.
Noãn sanh xứ là những loài hữu tình phá vỏ
trứng mà sanh. Thai sanh là những hữu tình phá màn da mỏng che chỗ
kín mà sanh. Thấp sanh là các loài hữu tình sanh ra từ cá thúi, xác
chết thúi, cháo cơm thúi, hồ nước nhớp. Hóa sanh là chư Thiên,
các chúng sanh ở địa ngục, một số loài người và một số thuộc đọa
xứ.
6/ Năm loại sanh thú: Địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, loài người,
chư Thiên.
a) Thế Tôn biết năm sanh thú này và con đường
đưa đến năm loài sanh thú này;
b) Như Lai thấy một hạng người do hạnh nghiệp
như vậy, phải đọa vào ác thú, địa ngục, phải chịu khổ như vậy;
c) Như Lai biết và thấy một hạng người, do
hạnh nghiệp như vậy, sau khi chết, sanh vào bàng sanh;
d) Như Lai biết và thấy một hạng người, do
hạnh nghiệp như vậy, sau khi chết, sanh vào ngạ quỷ;
e) Như Lai biết và thấy một số người do hạnh
nghiệp như vậy, sẽ sanh vào loài người, cảm giác lạc thọ;
f) Như Lai biết và thấy một hạng người do
hạnh nghiệp như vậy, sẽ vào thiên giới, cảm giác cực lạc.
g) Như Lai biết và thấy một hạng người đoạn
trừ các lậu hoặc, được tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chứng quả
A-la- hán.
7/ Bốn hạnh: Như Lai đầy đủ bốn hạnh là khổ hạnh đệ
nhất, bần uế đệ nhất, yểm ly đệ nhất, độc cư đệ nhất.
8/ Như Lai sống theo chủ
thuyết của một số Sa- môn, Bà-la-môn cho rằng thanh tịnh đạt được
nhờ:
a) Món ăn;
b) Nhờ luân hồi;
c) Nhờ Sa-môn, Bà-la-môn cho rằng chỉ có khi
tuổi trẻ, trong tuổi thanh xuân mới thành tựu trí tuệ, hiện tại tối
thượng, còn người già, đã đến cuối cuộc đời thời trí tuệ hiện
tại ấy diệt.
Như Lai chứng tỏ dù Ngài đã 80 tuổi, có bốn
đệ tử tuổi thọ đến 100, chánh niệm đệ nhất, trí tuệ hiện tại đệ
nhất. Như Lai luôn luôn trả lời các câu hỏi cho các vị này không
biết mệt mỏi. Và dù Như Lai có bị đặt trên giường và khiêng đi,
trí tuệ hiện tại của Như Lai không thay đổi. Rồi đức Phật kết luận
những ai nói về đức Phật, nếu nói chân chánh sẽ nói như sau, một
vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ở đời vì hạnh phúc
của chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người.
Tôn giả Nāgasamāla hỏi Thế Tôn kinh này gọi
là gì, Thế Tôn đáp pháp môn này là lông tóc dựng ngược.
Biên
soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 12 [dàn ý]
Đại Kinh Sư Tử Hống
(Mahāsīhanāda Sutta)
(M.i, 68)
A. Duyên khởi:
Sunakkhatta chỉ trích Sa-môn Gotama không có pháp thượng
nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Tôn giả Sriputta tường
thuật lên Thế Tôn rõ lời chỉ trích này, nên Thế Tôn thuyết giảng kinh này.
B. Chánh kinh:
I. Thế Tôn phê bình Sunakkhatta là ngu si, nghĩ rằng nói xấu
Đức Phật nhưng chính là nói lời tán thán Thế Tôn và không biết 4 tùy pháp về Đức
Phật.
II. 10 lực của Như Lai.
III. 4 vô sở uý.
IV. Thế Tôn đi đến 8 hội chúng không có sợ hãi.
V. Thế Tôn đối với:
1.
Bốn loại sanh.
2.
Năm loại sanh thú.
VI. Thế
Tôn khổ hạnh, bần uế, yểm ly, độc cư đệ nhất, đại bất tịnh thực, khổ hạnh đối
với
thời tiết, hạnh xả ly.
VII. Như
Lai đối với 7 tà kiến, giới cấm thủ của ngoại đạo, và nói về trí tuệ của Như
Lai lúc 80 tuổi.
VIII. Như
Lai đặt tên cho kinh này.
C. Kết luận:
Tôn giả Nāgasamāla hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên
soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 12 [toát yếu]
Đại Kinh Sư Tử Hống
(Mahāsīhanāda Sutta)
(M.i, 68)
I. Toát yếu
Mahāsīhanāda Sutta - The greater discourse on the
lion's roar.
The Buddha expounds the ten
powers of a Tathàgata, his four kinds of intrepidity, and other superior
qualities which entitle Him to "roar his lion's roar in the
assemblies".
Bài kinh dài nói về tiếng rống sư tử.
Phật giảng về Mười lực
của một đức Như Lai, Bốn vô úy và những đức thù thắng khác; nhờ
đó Ngài đủ tư cách "rống tiếng rống sư tử" trong các hội
chúng.
II. Tóm tắt
Tôn giả
Xá-lợi-phất đi khất thực, về bạch lại với Phật lời rêu rao của
Sunakkhatta vừa mới bỏ tu: "Sa môn Gotama không có tri kiến thù
thắng, thuyết pháp do mình tạo ra sau khi suy luận, trắc nghiệm. Pháp
ấy nhắm đến một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có
thể dẫn người thực hành đến chỗ đoạn tận khổ đau." Phật mỉm
cười dạy: "Kẻ ngu ấy vì phẫn nộ muốn chỉ trích mà lại hóa ra
ca tụng Như Lai." Phần còn lại của Kinh này cho thấy sự chỉ
trích của Sunakkhatta là sai lạc. Những ai có lòng tin tuyệt đối sẽ
thấy ngược lại, Phật là đấng có mười lực, bốn vô úy và nhiều
năng lực khác.
A. Tùy pháp về Như Lai:
1. Phật đủ mười hiệu là Như Lai, Ứng
cúng, Chánh đẳng giác, vân vân.
2. Ngài đã chứng
các thần thông như biến
hóa, thiên nhĩ thông, tha tâm thông...
3. Nhờ đã thành
tựu mười lực và bốn vô úy, mà Như Lai tự nhận địa vị Ngưu
vương, rống tiếng rống sư tử giữa các hội chúng và chuyển bánh xe
Pháp.
B. Những pháp Ngài đã tuệ tri:
như bốn sinh, năm thú và con đường đưa đến đấy; Niết-bàn và
đường đưa đến Niết-bàn.
C. Phật kể lại những khổ hạnh Ngài đã tu tập: như hành hạ thân xác, hạnh bần uế, hạnh yểm ly,
hạnh độc cư; trong cả 4 hạnh ấy không ai sánh được với Ngài, nhưng
cuối cùng Ngài từ bỏ vì chúng không đưa đến chứng đắc trí tuệ.
D. Cuối cùng, Ngài bác bỏ những chủ trương sai lầm của ngoại
đạo: như chủ trương chúng sinh đạt
thanh tịnh nhờ luân hồi, nhờ tái sinh, nhờ an trú (trong một loại
tái sinh nào đó), nhờ tế tự, nhờ thờ lửa. Phật cho biết không có
cõi luân hồi nào ở đấy Ngài đã không trải qua một thời gian khá
dài, không có cõi nào Ngài chưa từng tái sinh, an trú, chỉ trừ cõi
trời Tịnh cư. Nếu Ngài tái sinh vào cõi Tịnh cư thì Ngài đã không
trở lại thế gian này. Ngài cũng đã làm tất cả những việc tế tự,
thờ lửa trong một thời gian dài lúc còn làm vua dòng Sát đế lợi,
hay làm Bà-la-môn giàu có [nhưng không ích lợi gì].
Ngoại đạo cho rằng
khi còn trẻ tuổi, người ta có trí tuệ, biện tài, nhưng về già thì
lú lẫn. Ở trong giáo pháp của Phật thì không thế, Ngài có bốn đệ
tử đã trên trăm tuổi mà vẫn đầy đủ trí tuệ biện tài. Và bản
thân Ngài cũng thế, dù tuổi đã tám mươi, Ngài vẫn thừa sức giảng
dạy cho những vị trí tuệ biện tài bậc nhất, và trí tuệ Ngài không
sút giảm dù có phải bị gánh trên giường đi chỗ này chỗ kia (khi
đã quá già yếu). Ai nói về đức Như Lai một cách chân chính sẽ nói
rằng: "Ngài là vị hữu tình không còn si ám, sinh ra đời vì lợi
ích, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chư thiên và loài
người." Một điểm lý thú là kết luận kinh này. Tôn giả
Nagasamala lúc ấy đang đứng sau lưng Phật mà quạt cho Ngài. Sau khi
nghe Phật kể về thời gian tu khổ hạnh, về những gì Phật đã thành
tựu, tôn giả cả cảm khái đến rởn ốc, và bạch Phật: "Thật vi
diệu thay, bạch Thế Tôn. Sau khi nghe kinh này, lông tóc con dựng
ngược. Bạch Thế Tôn, kinh này tên gì?" Phật dạy, "Thế thì
hãy gọi là kinh Lông tóc dựng ngược."
III. Chú
giải
Sunakkhata, Phật giảng dạy vị
này trong Kinh Sunakkhata, Trung bộ kinh 105, có lẽ trước khi ông gia
nhập tăng đoàn. Việc thối thất của ông được nói trong Kinh Pàtika
thuộc trường bộ 24. Ông bất mãn bỏ về vì Phật không biểu diễn thần
thông cho ông xem, cũng không giải đáp cho ông về khởi nguyên các
pháp. Cốt lõi lời chỉ trích của Sunakkhata là Phật đắc đạo nhờ tư
duy chứ không phải nhờ trí tuệ siêu việt; và theo ông ta, mục đích
diệt tận đau khổ không bằng có được các loại thần thông.
Tạp nhiễm,
sankilesa -
là dự phần vào thối giảm, "thanh tịnh" vodàna, là dự phần
vào tăng tiến; "xuất khởi" - vutthàna - vừa có nghĩa tịnh
hóa vừa có nghĩa ra khỏi một thiền chứng.
Mười danh
hiệu Phật:
Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế
gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật
Thế Tôn.
Mười lực là:
1. Trí biết thị
xứ phi xứ [do thấy rõ tương quan nhân quả, nên biết được cái gì
có thể xảy đến, không thể xảy đến.]
2. Trí biết nghiệp
báo trong cả ba thời quá, hiện, vị lai.
3. Biết con đường đưa đến các
cảnh giới.
4. Biết tất cả
yếu tố tạo thành thế gian [nói rõ trong kinh Trung bộ 115.]
5. Biết chí hướng
sai biệt của các loại hữu tình; biết các hạng chúng sinh thượng,
trung, hạ, chúng thu hút lẫn nhau do luật đồng thanh đồng khí.
6. Biết căn mạnh
hay yếu nơi chúng sinh - tức 5 căn tín tấn niệm định tuệ.
7. Tuệ tri sự tạp
nhiễm, thanh tịnh, sự xuất khởi các thiền chứng về thiền, giải
thoát, định.
8. Trí biết tất
cả kiếp trước của bản thân gọi là túc mạng trí.
9. Trí biết sự
sống chết của chúng sinh tùy theo nghiệp hay sinh tử trí.
10. Lậu tận trí,
sạch hết tất cả nhiễm ô. [Hán văn: 1. Tri thị xứ phi xứ lực; 2. Tri
tam thế nghiệp báo lực; 3. Tri nhất thiến đạo trí lực; 4. Tri thế
gian chủng chủng tính lực; 5. Tri tha chúng sinh chủng chủng dục lực;
6. Tri tha chúng sinh chư căn thượng hạ lực; 7. Tri chư thiền tam
muội lực; 8. Túc mạng trí; 9. Sinh tử trí; 10. Lậu tận trí.]
Bốn vô úy:
1. Phật không lo
sợ bất cứ ai trên đời chỉ trích Ngài chưa chứng mà mạo nhận.
2. Không sợ ai chỉ
trích Ngài chưa đoạn trừ lậu hoặc mà tự cho đã đoạn trừ.
3. Những gì Ngài
dạy chướng ngại đạo chắc chắn là chướng ngại, không sợ ai nói
ngược lại.
4. Pháp Ngài dạy
chắc chắn dẫn đến đoạn tận đau khổ, không ai có thể bảo là không.
Nagasamala là thị giả Phật
trong 20 năm đầu sau khi Ngài ra giáo hoá.
IV. Pháp số
Bốn khổ hạnh: khổ hạnh, bần
uế, viễn ly, độc cư.
Bốn vô úy
Bốn sinh: noãn, thai, thấp,
hóa.
Năm thú: năm chỗ mà sự
tái sinh hướng đến, là trời (gồm a tu la), người, địa ngục, ngạ
quỷ, bàng sinh.
Sáu thông
Tám giải thoát được kể trong các
kinh Trung bộ 77 và 137.
Tám hội chúng: Sát lợi,
bà-la-môn, gia chủ, sa môn, tứ thiên vương, ma vương và phạm
thiên, tam thập tam thiên.
Chín định là 4 thiền, 4
không và diệt thọ tưởng.
Mười danh hiệu Phật
Mười lực
Mười hai nhân duyên
V. Kệ tụng
A.
Nguyên
nhân thuyết kinh này
Một người từ bỏ Pháp
Tên Su-na-khat-ta
Rêu rao: "Gô-ta-ma
Không có thượng nhân pháp
Tên Su-na-khat-ta
Rêu rao: "Gô-ta-ma
Không có thượng nhân pháp
Ngài chỉ có giảng dạy
Một con đường diệt khổ
Chính Ngài đã tỏ ngộ
Khiến tận diệt khổ đau.
" Xá-lợi-phất thuật lại
Phật nghe, chỉ mỉm cười:
Phật nghe, chỉ mỉm cười:
"Kẻ ngu muốn chê bai
Trở thành khen Như Lai."
B. Mười lực Phật
Đối với kẻ ngu si
Sẽ không có tùy pháp:
Sẽ không có tùy pháp:
"Ngài là đức Như Lai
Đầy đủ mười tôn hiệu:
Là bậc A-la-hán
Là đấng Chánh đẳng giác
Là đấng Chánh đẳng giác
Là đấng Minh hạnh túc
Thiện thệ, Thế gian giải
Là đấng Vô thượng sĩ
Là đấng Vô thượng sĩ
Đấng Điều ngự trượng phu
Đấng Thiên nhân sư, Phật
Thế Tôn, quý nhất đời.
Đối với kẻ ngu si
Sẽ không có tùy pháp
Sẽ không có tùy pháp
Về mười Như Lai lực
Phật như thật chứng tri:
Ngài có thần túc thông
Biến hình nhiều thể loại
Ngài đắc thiên nhĩ thông
Nghe đủ tiếng các loài.
Ngài có tha tâm thông
Tự tâm biết tâm khác
Đi sâu vào tâm niệm
Của vô số sinh loài
Với mười Như Lai lực
Phật rống tiếng Sư tử
Của vô số sinh loài
Với mười Như Lai lực
Phật rống tiếng Sư tử
Chuyển xe Pháp thanh tịnh
Thành địa vị Ngưu vương.
"Thị xứ phi xứ lực"
Việc có, không xảy ra
Phật đều biết tỏ tường
Nhờ liễu tri nhân quả.
"Biết nghiệp báo ba đời"
Phật đều biết tỏ tường
Nhờ liễu tri nhân quả.
"Biết nghiệp báo ba đời"
"đường đến các cảnh
giới"
"Các căn tính chúng sinh"
Cùng "khuynh hướng mọi loài."
"Các căn tính chúng sinh"
Cùng "khuynh hướng mọi loài."
"Biết căn tu mạnh, yếu"
- tinh tấn niệm định tuệ -
"Biết các thiền, giải
thoát"
- chư thiền tam muội lực.
Ngài đắc "túc mệnh trí"
biết các đời trước mình
Và đắc "sinh tử trí"
Biết sống chết chúng sinh
Cuối cùng "lậu tận trí"
Là trí sạch ô nhiễm
Như Lai đã thân chứng
Là trí sạch ô nhiễm
Như Lai đã thân chứng
Thành Vô thượng bồ đề.
Ngài rống tiếng sư tử
Chuyển xe Pháp thanh tịnh
Ở giữa tám hội chúng:
Sát lợi, Bà-la-môn
Gia chủ và sa môn
Hội chúng Tứ thiên vương
Gia chủ và sa môn
Hội chúng Tứ thiên vương
Ma vương và Phạm thiên
Cùng Tam thập tam thiên.
Giữa tám hội chúng ấy
Ngài thuyết pháp vô ngại
Nhờ đắc mười tự tại
Và bốn Không sợ hãi:
C. Bốn vô úy
Không sợ ai chỉ trích
"Chưa chứng nói đã chứng"
Vì Như Lai hoàn toàn
Thâm nhập pháp sở chứng.
"Chưa chứng nói đã chứng"
Vì Như Lai hoàn toàn
Thâm nhập pháp sở chứng.
Không sợ ai chỉ trích
"Chưa đoạn nói đã đoạn"
Vì Như Lai thực sự
Đã trừ sạch nhiễm ô.
Không sợ ai bác bỏ
"Chướng đạo, chướng gì đâu?"
"Chưa đoạn nói đã đoạn"
Vì Như Lai thực sự
Đã trừ sạch nhiễm ô.
Không sợ ai bác bỏ
"Chướng đạo, chướng gì đâu?"
Vì Như Lai biết rõ
Có dục, không giải thoát.
Có dục, không giải thoát.
Không sợ ai phản bác
"Pháp Ngài không giải
thoát"
Vì Pháp Như Lai dạy
Thực tận diệt khổ đau.
Thực tận diệt khổ đau.
D. Bốn sinh, Năm thú
"Trứng sinh" và "thai
sinh",
"Thấp sinh" và "hóa
sinh"
- Hóa sinh ở nhiều cõi -
Ấy là bốn sinh loài.
- Hóa sinh ở nhiều cõi -
Ấy là bốn sinh loài.
Năm cõi là địa ngục,
Bàng sinh và ngạ quỷ
Loài người và chư thiên,
Đây năm cõi tái sinh.
Như Lai biết thấy rõ
Cõi nào đợi nghiệp nào
Ngài cũng tuệ tri được
Niết-bàn và hành lộ.
E. Bốn khổ hạnh: khổ, bần
uế, độc cư, yểm ly
Không một khổ hạnh nào
Phật không từng tu tập
Như ngoại đạo đang hành
Và vượt xa hơn chúng.
Không hạnh ở dơ nào
Phật chưa từng sống qua
Như ngoại đạo đang sống
Ngài vượt họ rất xa.
Ngài đã từng độc cư
Nơi tuyệt dấu người ta S
ống yểm ly, tỉnh giác
Trải tâm từ lan xa.
Ở trong bãi tha ma
Ở trong bãi tha ma
Đêm nằm gối xương ngủ
Mục đồng đến khạc nhổ
Trú xả, không kêu ca.
Vì Ngài ăn quá ít
Vì Ngài ăn quá ít
Thân chỉ còn xương, da
Dù khổ hạnh tối đa
Không chứng thượng nhân pháp.
Dù khổ hạnh tối đa
Không chứng thượng nhân pháp.
Bởi thế, đây toàn là
Sai lầm của ngoại đạo
Mà Phật đã trải qua
Các đời kiếp lâu xa:
Sai lầm của ngoại đạo
Mà Phật đã trải qua
Các đời kiếp lâu xa:
Tái sinh vô số lần,
Tế tự và thờ lửa
Tái sinh cõi này kia
Với hy vọng giải thoát.
Tế tự và thờ lửa
Tái sinh cõi này kia
Với hy vọng giải thoát.
Phật chứng lý Trung đạo
Từ bỏ các cực đoan
Hưởng lạc và ép xác
Trường tồn và đoạn diệt
Đạt hoàn toàn giải thoát
Và trí tuệ biện tài
Không tranh chấp cùng ai
Không tranh chấp cùng ai
Vì không còn thủ trước.
"Không bị si chi phối
Ngài đã sinh ra đời
Vì hạnh phúc an lạc
Cho tất cả muôn loài
Vì lòng thương tưởng đời
Cho tất cả muôn loài
Vì lòng thương tưởng đời
Cả chư thiên, loài người."
Một hữu tình như vậy
Dịch
giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích
Nữ Trí Hải
-ooOoo-
12. Mahāsīhanādasuttaṃ [Mūla]
146. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā vesāliyaṃ
viharati bahinagare aparapure vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena sunakkhatto
licchaviputto acirapakkanto hoti imasmā dhammavinayā. So vesāliyaṃ parisati
[parisatiṃ (sī. pī.)] evaṃ [etaṃ (pī. ka.)] vācaṃ bhāsati : ''natthi samaṇassa
gotamassa uttari [uttariṃ (pī.)] manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso.
Takkapariyāhataṃ samaṇo gotamo dhammaṃ deseti vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānaṃ.
Yassa ca khvāssa atthāya dhammo desito so niyyāti takkarassa sammā
dukkhakkhayāyāti. Atha kho āyasmā sāriputto pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā
pattacīvaramādāya vesāliṃ piṇḍāya pāvisi. Assosi kho āyasmā sāriputto
sunakkhattassa licchaviputtassa vesāliyaṃ parisati evaṃ vācaṃ bhāsamānassa :
''natthi samaṇassa gotamassa uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso.
Takkapariyāhataṃ samaṇo gotamo dhammaṃ deseti vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānaṃ.
Yassa ca khvāssa atthāya dhammo desito so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyāti.
Atha
kho āyasmā sāriputto vesāliyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto
yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā
sāriputto bhagavantaṃ etadavoca : ''sunakkhatto, bhante, licchaviputto
acirapakkanto imasmā dhammavinayā. So vesāliyaṃ parisati evaṃ vācaṃ bhāsati :
'natthi samaṇassa gotamassa uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso.
Takkapariyāhataṃ samaṇo gotamo dhammaṃ deseti vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānaṃ.
Yassa ca khvāssa atthāya dhammo desito so niyyāti takkarassa sammā
dukkhakkhayāyāti.
147. ''Kodhano heso,
sāriputta, sunakkhatto moghapuriso. Kodhā ca panassa esā vācā bhāsitā. 'Avaṇṇaṃ
bhāsissāmīti kho, sāriputta, sunakkhatto moghapuriso vaṇṇaṃyeva tathāgatassa bhāsati . Vaṇṇo heso, sāriputta, tathāgatassa yo evaṃ vadeyya :
'yassa ca khvāssa atthāya dhammo desito so niyyāti takkarassa sammā
dukkhakkhayāyāti. ''Ayampi hi nāma, sāriputta, sunakkhattassa moghapurisassa
mayi dhammanvayo na bhavissati : 'itipi so Bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū
anuttaro purisadammasārathi, satthā devamanussānaṃ, buddho Bhagavāti. ''Ayampi hi nāma,
sāriputta, sunakkhattassa moghapurisassa mayi dhammanvayo na
bhavissati : 'itipi so Bhagavā
anekavihitaṃ iddhividhaṃ paccanubhoti : ekopi hutvā bahudhā hoti, bahudhāpi
hutvā eko hoti āvibhāvaṃ, tirobhāvaṃ tirokuṭṭaṃ tiropākāraṃ tiropabbataṃ
asajjamāno gacchati, seyyathāpi ākāse pathaviyāpi ummujjanimujjaṃ karoti,
seyyathāpi udake udakepi abhijjamāno gacchati, seyyathāpi pathaviyaṃ ākāsepi
pallaṅkena kamati, seyyathāpi pakkhī sakuṇo imepi candimasūriye evaṃmahiddhike
evaṃmahānubhāve pāṇinā parimasati parimajjati yāva brahmalokāpi kāyena vasaṃ
vattetīti. ''Ayampi hi nāma, sāriputta, sunakkhattassa
moghapurisassa mayi dhammanvayo na bhavissati : 'itipi so Bhagavā dibbāya sotadhātuyā visuddhāya
atikkantamānusikāya ubho sadde suṇāti : dibbe ca mānuse ca, ye dūre santike
cāti. ''Ayampi hi nāma, sāriputta, sunakkhattassa moghapurisassa mayi
dhammanvayo na bhavissati : 'itipi so Bhagavā
parasattānaṃ parapuggalānaṃ cetasā ceto paricca pajānāti : sarāgaṃ vā cittaṃ
sarāgaṃ cittanti pajānāti, vītarāgaṃ vā cittaṃ vītarāgaṃ cittanti pajānāti
sadosaṃ vā cittaṃ sadosaṃ cittanti pajānāti, vītadosaṃ vā cittaṃ vītadosaṃ
cittanti pajānāti samohaṃ vā cittaṃ samohaṃ cittanti pajānāti, vītamohaṃ vā
cittaṃ vītamohaṃ cittanti pajānāti saṃkhittaṃ vā cittaṃ saṃkhittaṃ cittanti
pajānāti , vikkhittaṃ vā cittaṃ vikkhittaṃ cittanti pajānāti
mahaggataṃ vā cittaṃ mahaggataṃ cittanti pajānāti, amahaggataṃ vā cittaṃ
amahaggataṃ cittanti pajānāti sauttaraṃ vā cittaṃ sauttaraṃ cittanti pajānāti,
anuttaraṃ vā cittaṃ anuttaraṃ cittanti pajānāti samāhitaṃ vā cittaṃ samāhitaṃ
cittanti pajānāti, asamāhitaṃ
vā cittaṃ asamāhitaṃ cittanti pajānāti vimuttaṃ vā cittaṃ vimuttaṃ cittanti
pajānāti, avimuttaṃ vā cittaṃ avimuttaṃ cittanti pajānātīti.
148. ''Dasa kho
panimāni, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalāni yehi balehi samannāgato
tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ
pavatteti. Katamāni dasa? ''idha, sāriputta, tathāgato ṭhānañca ṭhānato aṭṭhānañca
aṭṭhānato yathābhūtaṃ pajānāti. Yampi, sāriputta, tathāgato ṭhānañca ṭhānato aṭṭhānañca
aṭṭhānato yathābhūtaṃ pajānāti, idampi, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalaṃ hoti
yaṃ balaṃ āgamma tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ
nadati, brahmacakkaṃ pavatteti. ''Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato
atītānāgatapaccuppannānaṃ kammasamādānānaṃ ṭhānaso hetuso vipākaṃ yathābhūtaṃ
pajānāti. Yampi, sāriputta, tathāgato atītānāgatapaccuppannānaṃ kammasamādānānaṃ
ṭhānaso hetuso vipākaṃ yathābhūtaṃ pajānāti, idampi, sāriputta, tathāgatassa
tathāgatabalaṃ hoti yaṃ balaṃ āgamma tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti,
parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti. ''Puna caparaṃ, sāriputta,
tathāgato sabbatthagāminiṃ paṭipadaṃ yathābhūtaṃ pajānāti. Yampi , sāriputta, tathāgato sabbatthagāminiṃ paṭipadaṃ yathābhūtaṃ
pajānāti, idampi, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalaṃ hoti yaṃ balaṃ āgamma
tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ
pavatteti. ''Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato anekadhātunānādhātulokaṃ
yathābhūtaṃ pajānāti. Yampi, sāriputta, tathāgato anekadhātunānādhātulokaṃ
yathābhūtaṃ pajānāti, idampi, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalaṃ hoti yaṃ
balaṃ āgamma tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati,
brahmacakkaṃ pavatteti. ''Puna caparaṃ, sāriputta,
tathāgato sattānaṃ nānādhimuttikataṃ yathābhūtaṃ pajānāti. Yampi, sāriputta,
tathāgato sattānaṃ nānādhimuttikataṃ yathābhūtaṃ pajānāti, idampi, sāriputta,
tathāgatassa tathāgatabalaṃ hoti yaṃ balaṃ āgamma tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti,
parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti. ''Puna caparaṃ, sāriputta,
tathāgato parasattānaṃ parapuggalānaṃ indriyaparopariyattaṃ yathābhūtaṃ
pajānāti. Yampi, sāriputta, tathāgato parasattānaṃ parapuggalānaṃ
indriyaparopariyattaṃ yathābhūtaṃ pajānāti, idampi, sāriputta, tathāgatassa
tathāgatabalaṃ hoti yaṃ balaṃ āgamma tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti,
parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti.
''Puna
caparaṃ, sāriputta, tathāgato jhānavimokkhasamādhisamāpattīnaṃ saṃkilesaṃ
vodānaṃ vuṭṭhānaṃ yathābhūtaṃ pajānāti. Yampi, sāriputta, tathāgato
jhānavimokkhasamādhisamāpattīnaṃ saṃkilesaṃ vodānaṃ vuṭṭhānaṃ
yathābhūtaṃ pajānāti, idampi, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalaṃ hoti yaṃ
balaṃ āgamma tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati,
brahmacakkaṃ pavatteti. ''Puna caparaṃ, sāriputta,
tathāgato anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati, seyyathidaṃ : ekampi jātiṃ
dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi jātiyo dasapi jātiyo
vīsampi jātiyo tiṃsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo paññāsampi jātiyo
jātisatampi jātisahassampi jātisatasahassampi anekepi saṃvaṭṭakappe anekepi
vivaṭṭakappe anekepi saṃvaṭṭavivaṭṭakappe : 'amutrāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto evaṃvaṇṇo
evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto, so tato cuto amutra udapādiṃ
tatrāpāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī
evamāyupariyanto, so tato cuto idhūpapannoti. Iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ
pubbenivāsaṃ anussarati. Yampi, sāriputta, tathāgato anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ
anussarati, seyyathidaṃ : ekampi jātiṃ dvepi jātiyo - pe - iti sākāraṃ sauddesaṃ
anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati, idampi, sāriputta, tathāgatassa
tathāgatabalaṃ hoti yaṃ balaṃ āgamma tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti,
parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti. ''Puna caparaṃ, sāriputta,
tathāgato dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati
cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage
satte pajānāti : 'ime
vata bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā
manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā,
te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ
upapannā. Ime vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena
samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ anupavādakā sammādiṭṭhikā
sammādiṭṭhikammasamādānā, te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapannāti. Iti dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati
cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate
yathākammūpage satte pajānāti. Yampi, sāriputta, tathāgato dibbena cakkhunā
visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte
suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti : 'ime vata
bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā
manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā,
te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā. Ime
vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā
manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā,
te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannāti. Iti dibbena
cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne
hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti.
Idampi, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalaṃ hoti yaṃ balaṃ āgamma tathāgato
āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti.
''Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ
paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati.
Yampi, sāriputta, tathāgato āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ
diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati, idampi,
sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalaṃ hoti yaṃ balaṃ āgamma tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ
paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti. ''Imāni kho,
sāriputta, dasa tathāgatassa tathāgatabalāni yehi balehi samannāgato tathāgato
āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti.
149. ''Yo kho maṃ, sāriputta,
evaṃ jānantaṃ evaṃ passantaṃ evaṃ vadeyya : 'natthi samaṇassa gotamassa
uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso takkapariyāhataṃ samaṇo gotamo dhammaṃ
deseti vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānanti, taṃ, sāriputta, vācaṃ appahāya taṃ
cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā yathābhataṃ nikkhitto evaṃ
niraye. Seyyathāpi, sāriputta, bhikkhu sīlasampanno samādhisampanno
paññāsampanno diṭṭheva dhamme aññaṃ ārādheyya, evaṃ sampadamidaṃ, sāriputta,
vadāmi. Taṃ vācaṃ appahāya, taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā
yathābhataṃ nikkhitto evaṃ niraye.
150. ''Cattārimāni,
sāriputta, tathāgatassa vesārajjāni yehi vesārajjehi samannāgato tathāgato
āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti.
Katamāni cattāri? '''sammāsambuddhassa te paṭijānato ime dhammā
anabhisambuddhāti. Tatra vata maṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā devo vā māro vā brahmā
vā koci vā lokasmiṃ sahadhammena paṭicodessatīti
nimittametaṃ, sāriputta, na samanupassāmi. Etamahaṃ [etampahaṃ (sī. pī.)], sāriputta,
nimittaṃ asamanupassanto khemappatto abhayappatto vesārajjappatto viharāmi.
'''Khīṇāsavassa te paṭijānato ime āsavā aparikkhīṇāti. Tatra vata maṃ samaṇo vā
brāhmaṇo vā devo vā māro vā brahmā vā koci vā lokasmiṃ sahadhammena paṭicodessatīti
nimittametaṃ, sāriputta, na samanupassāmi. Etamahaṃ, sāriputta, nimittaṃ
asamanupassanto khemappatto abhayappatto vesārajjappatto
viharāmi. '''Ye kho pana te antarāyikā dhammā vuttā, te paṭisevato nālaṃ
antarāyāyāti. Tatra vata maṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā devo vā māro vā brahmā vā
koci vā lokasmiṃ sahadhammena paṭicodessatīti nimittametaṃ, sāriputta, na
samanupassāmi. Etamahaṃ, sāriputta, nimittaṃ asamanupassanto khemappatto
abhayappatto vesārajjappatto viharāmi. '''Yassa kho pana te atthāya dhammo
desito, so na niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyāti . Tatra vata maṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā devo vā māro vā
brahmā vā koci vā lokasmiṃ sahadhammena paṭicodessatīti nimittametaṃ,
sāriputta, na samanupassāmi. Etamahaṃ, sāriputta, nimittaṃ asamanupassanto
khemappatto abhayappatto vesārajjappatto viharāmi. ''Imāni kho, sāriputta,
cattāri tathāgatassa vesārajjāni yehi vesārajjehi samannāgato tathāgato āsabhaṃ
ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti. ''Yo kho
maṃ, sāriputta, evaṃ jānantaṃ evaṃ passantaṃ evaṃ vadeyya : 'natthi samaṇassa
gotamassa uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso, takkapariyāhataṃ samaṇo
gotamo dhammaṃ deseti vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānanti, taṃ, sāriputta, vācaṃ
appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā yathābhataṃ
nikkhitto evaṃ niraye. Seyyathāpi, sāriputta, bhikkhu sīlasampanno
samādhisampanno paññāsampanno diṭṭheva dhamme aññaṃ ārādheyya, evaṃ
sampadamidaṃ, sāriputta, vadāmi. Taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ
appaṭinissajjitvā yathābhataṃ nikkhitto evaṃ niraye.
151. ''Aṭṭha kho imā,
sāriputta, parisā. Katamā aṭṭha? khattiyaparisā, brāhmaṇaparisā,
gahapatiparisā, samaṇaparisā, cātumahārājikaparisā [cātummahārājikā (sī. syā.
pī.)], tāvatiṃsaparisā, māraparisā, brahmaparisā : imā kho, sāriputta, aṭṭha
parisā. Imehi kho, sāriputta, catūhi vesārajjehi samannāgato tathāgato imā aṭṭha
parisā upasaṅkamati ajjhogāhati. Abhijānāmi kho panāhaṃ, sāriputta, anekasataṃ
khattiyaparisaṃ upasaṅkamitā. Tatrapi mayā sannisinnapubbañceva,
sallapitapubbañca, sākacchā ca samāpajjitapubbā. Tatra vata maṃ bhayaṃ vā
sārajjaṃ vā okkamissatīti nimittametaṃ, sāriputta, na samanupassāmi. Etamahaṃ,
sāriputta, nimittaṃ asamanupassanto khemappatto abhayappatto vesārajjappatto
viharāmi. ''Abhijānāmi kho panāhaṃ, sāriputta, anekasataṃ brāhmaṇaparisaṃ - pe
- gahapatiparisaṃ... samaṇaparisaṃ... cātumahārājikaparisaṃ... tāvatiṃsaparisaṃ...
māraparisaṃ... brahmaparisaṃ upasaṅkamitā. Tatrapi mayā sannisinnapubbañceva,
sallapitapubbañca, sākacchā ca samāpajjitapubbā. Tatra vata maṃ bhayaṃ vā
sārajjaṃ vā okkamissatīti nimittametaṃ, sāriputta , na samanupassāmi. Etamahaṃ, sāriputta, nimittaṃ
asamanupassanto khemappatto abhayappatto vesārajjappatto viharāmi. ''Yo kho maṃ, sāriputta,
evaṃ jānantaṃ evaṃ passantaṃ evaṃ vadeyya : 'natthi samaṇassa gotamassa
uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso, takkapariyāhataṃ
samaṇo gotamo dhammaṃ deseti vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānanti, taṃ,
sāriputta, vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā
yathābhataṃ nikkhitto evaṃ niraye. Seyyathāpi, sāriputta, bhikkhu sīlasampanno
samādhisampanno paññāsampanno diṭṭheva dhamme aññaṃ ārādheyya, evaṃ sampadamidaṃ,
sāriputta, vadāmi. Taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā
yathābhataṃ nikkhitto evaṃ niraye.
152. ''Catasso kho imā,
sāriputta, yoniyo. Katamā catasso? aṇḍajā yoni, jalābujā yoni, saṃsedajā yoni,
opapātikā yoni. Katamā ca, sāriputta, aṇḍajā yoni? ye kho te, sāriputta, sattā
aṇḍakosaṃ abhinibbhijja jāyanti : ayaṃ vuccati, sāriputta, aṇḍajā yoni. Katamā
ca, sāriputta, jalābujā yoni? ye kho te, sāriputta, sattā vatthikosaṃ
abhinibbhijja jāyanti : ayaṃ vuccati, sāriputta, jalābujā yoni. Katamā ca,
sāriputta, saṃsedajā yoni? ye kho te, sāriputta, sattā pūtimacche vā jāyanti
pūtikuṇape vā pūtikummāse vā candanikāye vā oḷigalle vā jāyanti : ayaṃ vuccati,
sāriputta, saṃsedajā yoni. Katamā ca, sāriputta, opapātikā yoni? devā,
nerayikā, ekacce ca manussā, ekacce ca vinipātikā : ayaṃ vuccati, sāriputta,
opapātikā yoni. Imā kho, sāriputta, catasso yoniyo. ''Yo kho maṃ, sāriputta,
evaṃ jānantaṃ evaṃ passantaṃ evaṃ vadeyya : 'natthi samaṇassa gotamassa
uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso, takkapariyāhataṃ samaṇo gotamo
dhammaṃ deseti vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānanti, taṃ, sāriputta, vācaṃ
appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā yathābhataṃ
nikkhitto evaṃ niraye. Seyyathāpi, sāriputta, bhikkhu sīlasampanno
samādhisampanno paññāsampanno diṭṭheva dhamme aññaṃ ārādheyya, evaṃ sampadamidaṃ,
sāriputta, vadāmi. Taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā
yathābhataṃ nikkhitto evaṃ niraye.
153. ''Pañca kho imā, sāriputta,
gatiyo. Katamā pañca? nirayo, tiracchānayoni, pettivisayo, manussā, devā.
Nirayañcāhaṃ, sāriputta, pajānāmi, nirayagāmiñca maggaṃ, nirayagāminiñca paṭipadaṃ
yathā paṭipanno ca kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ
upapajjati tañca pajānāmi. Tiracchānayoniñcāhaṃ, sāriputta, pajānāmi,
tiracchānayonigāmiñca maggaṃ, tiracchānayonigāminiñca paṭipadaṃ yathā paṭipanno
ca kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tiracchānayoniṃ upapajjati tañca pajānāmi.
Pettivisayaṃ cāhaṃ, sāriputta, pajānāmi, pettivisayagāmiñca maggaṃ,
pettivisayagāminiñca paṭipadaṃ yathā paṭipanno ca kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
pettivisayaṃ upapajjati tañca pajānāmi. Manusse cāhaṃ, sāriputta, pajānāmi,
manussalokagāmiñca maggaṃ ,
manussalokagāminiñca paṭipadaṃ yathā paṭipanno ca kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
manussesu upapajjati tañca pajānāmi. Deve cāhaṃ, sāriputta, pajānāmi,
devalokagāmiñca maggaṃ, devalokagāminiñca paṭipadaṃ yathā paṭipanno ca kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati tañca pajānāmi. Nibbānañcāhaṃ,
sāriputta, pajānāmi, nibbānagāmiñca maggaṃ, nibbānagāminiñc paṭipadaṃ yathā paṭipanno
ca āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ
abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati tañca pajānāmi.
154. ''Idhāhaṃ,
sāriputta, ekaccaṃ puggalaṃ evaṃ cetasā ceto paricca pajānāmi : tathāyaṃ puggalo
paṭipanno tathā ca iriyati tañca maggaṃ samārūḷho, yathā kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjissatīti. Tamenaṃ passāmi
aparena samayena dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannaṃ, ekantadukkhā tibbā kaṭukā
vedanā vedayamānaṃ. Seyyathāpi, sāriputta, aṅgārakāsu sādhikaporisā pūrā aṅgārānaṃ
vītaccikānaṃ vītadhūmānaṃ. Atha puriso āgaccheyya ghammābhitatto ghammapareto
kilanto tasito pipāsito ekāyanena maggena tameva aṅgārakāsuṃ paṇidhāya. Tamenaṃ
cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya : 'tathāyaṃ bhavaṃ puriso paṭipanno tathā ca
iriyati tañca maggaṃ
samārūḷho, yathā imaṃyeva aṅgārakāsuṃ āgamissatīti . Tamenaṃ passeyya aparena samayena tassā aṅgārakāsuyā patitaṃ, ekantadukkhā
tibbā kaṭukā vedanā vedayamānaṃ. Evameva kho ahaṃ, sāriputta, idhekaccaṃ
puggalaṃ evaṃ cetasā ceto paricca pajānāmi : tathāyaṃ puggalo paṭipanno tathā
ca iriyati tañca maggaṃ samārūḷho yathā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ
duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjissatīti. Tamenaṃ passāmi aparena samayena
dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannaṃ, ekantadukkhā tibbā kaṭukā vedanā
vedayamānaṃ. ''Idha panāhaṃ, sāriputta, ekaccaṃ puggalaṃ evaṃ cetasā ceto paricca
pajānāmi : tathāyaṃ puggalo paṭipanno tathā ca iriyati tañca maggaṃ samārūḷho,
yathā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tiracchānayoniṃ upapajjissatīti. Tamenaṃ
passāmi aparena samayena dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tiracchānayoniṃ upapannaṃ, dukkhā tibbā kaṭukā
vedanā vedayamānaṃ. Seyyathāpi, sāriputta, gūthakūpo sādhikaporiso, pūro
gūthassa. Atha puriso āgaccheyya ghammābhitatto ghammapareto kilanto tasito
pipāsito ekāyanena maggena tameva gūthakūpaṃ paṇidhāya. Tamenaṃ cakkhumā puriso
disvā evaṃ vadeyya : 'tathāyaṃ bhavaṃ puriso paṭipanno tathā ca iriyati tañca
maggaṃ samārūḷho yathā imaṃyeva gūthakūpaṃ āgamissatīti. Tamenaṃ passeyya
aparena samayena tasmiṃ gūthakūpe patitaṃ, dukkhā tibbā kaṭukā vedanā
vedayamānaṃ. Evameva kho ahaṃ, sāriputta, idhekaccaṃ puggalaṃ evaṃ cetasā ceto
paricca pajānāmi : tathāyaṃ puggalo paṭipanno tathā ca iriyati tañca maggaṃ
samārūḷho, yathā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tiracchānayoniṃ upapajjissatīti.
Tamenaṃ passāmi aparena samayena dibbena cakkhunā visuddhena
atikkantamānusakena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tiracchānayoniṃ upapannaṃ,
dukkhā tibbā kaṭukā vedanā vedayamānaṃ. ''Idha panāhaṃ, sāriputta, ekaccaṃ
puggalaṃ evaṃ cetasā ceto paricca pajānāmi : tathāyaṃ puggalo paṭipanno tathā
ca iriyati tañca maggaṃ samārūḷho, yathā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pettivisayaṃ
upapajjissatīti. Tamenaṃ passāmi aparena samayena dibbena cakkhunā
visuddhena atikkantamānusakena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pettivisayaṃ upapannaṃ,
dukkhabahulā vedanā vedayamānaṃ. Seyyathāpi, sāriputta, rukkho visame
bhūmibhāge jāto tanupattapalāso kabaracchāyo . Atha puriso āgaccheyya ghammābhitatto ghammapareto kilanto
tasito pipāsito ekāyanena maggena tameva rukkhaṃ paṇidhāya. Tamenaṃ cakkhumā
puriso disvā evaṃ vadeyya : 'tathāyaṃ bhavaṃ puriso paṭipanno tathā ca iriyati
tañca maggaṃ samārūḷho, yathā imaṃyeva rukkhaṃ āgamissatīti. Tamenaṃ passeyya, aparena samayena tassa rukkhassa chāyāya nisinnaṃ vā
nipannaṃ vā dukkhabahulā vedanā vedayamānaṃ. Evameva kho ahaṃ, sāriputta,
idhekaccaṃ puggalaṃ evaṃ cetasā ceto paricca pajānāmi : tathāyaṃ puggalo paṭipanno
tathā ca iriyati tañca maggaṃ samārūḷho, yathā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
pettivisayaṃ upapajjissatīti. Tamenaṃ passāmi aparena samayena dibbena cakkhunā
visuddhena atikkantamānusakena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pettivisayaṃ upapannaṃ,
dukkhabahulā vedanā vedayamānaṃ. ''Idha panāhaṃ, sāriputta, ekaccaṃ puggalaṃ
evaṃ cetasā ceto paricca pajānāmi : tathāyaṃ puggalo paṭipanno tathā ca iriyati
tañca maggaṃ samārūḷho yathā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā manussesu
upapajjissatīti. Tamenaṃ passāmi aparena samayena dibbena cakkhunā visuddhena
atikkantamānusakena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā manussesu upapannaṃ, sukhabahulā
vedanā vedayamānaṃ. Seyyathāpi, sāriputta, rukkho same bhūmibhāge jāto
bahalapattapalāso sandacchāyo [saṇḍacchāyo (syā.), santacchāyo (ka.)]. Atha
puriso āgaccheyya ghammābhitatto ghammapareto kilanto tasito pipāsito ekāyanena
maggena tameva rukkhaṃ paṇidhāya. Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya :
'tathāyaṃ bhavaṃ puriso paṭipanno tathā ca iriyati tañca maggaṃ samārūḷho,
yathā imameva rukkhaṃ āgamissatīti. Tamenaṃ passeyya aparena samayena tassa
rukkhassa chāyāya nisinnaṃ vā nipannaṃ vā sukhabahulā vedanā vedayamānaṃ.
Evameva kho ahaṃ, sāriputta, idhekaccaṃ puggalaṃ evaṃ cetasā
ceto paricca pajānāmi : tathāyaṃ puggalo paṭipanno tathā ca iriyati tañca maggaṃ
samārūḷho yathā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā manussesu
upapajjissatīti. Tamenaṃ passāmi aparena samayena dibbena cakkhunā visuddhena
atikkantamānusakena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā manussesu upapannaṃ, sukhabahulā
vedanā vedayamānaṃ. ''Idha panāhaṃ, sāriputta, ekaccaṃ puggalaṃ evaṃ
cetasā ceto paricca pajānāmi : tathāyaṃ puggalo paṭipanno tathā ca iriyati
tañca maggaṃ samārūḷho, yathā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapajjissatīti. Tamenaṃ passāmi aparena samayena dibbena cakkhunā visuddhena
atikkantamānusakena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannaṃ,
ekantasukhā vedanā vedayamānaṃ. Seyyathāpi, sāriputta, pāsādo, tatrāssa kūṭāgāraṃ
ullittāvalittaṃ nivātaṃ phusitaggaḷaṃ pihitavātapānaṃ. Tatrāssa pallaṅko
gonakatthato paṭikatthato paṭalikatthato kadalimigapavarapaccattharaṇo
sauttaracchado ubhatolohitakūpadhāno. Atha puriso āgaccheyya ghammābhitatto
ghammapareto kilanto tasito pipāsito ekāyanena maggena tameva pāsādaṃ paṇidhāya.
Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya : 'tathāyaṃ bhavaṃ puriso paṭipanno
tathā ca iriyati tañca maggaṃ samārūḷho, yathā imaṃyeva pāsādaṃ āgamissatīti.
Tamenaṃ passeyya aparena samayena tasmiṃ pāsāde tasmiṃ kūṭāgāre tasmiṃ pallaṅke
nisinnaṃ vā nipannaṃ vā ekantasukhā vedanā vedayamānaṃ. Evameva kho ahaṃ,
sāriputta, idhekaccaṃ puggalaṃ evaṃ cetasā ceto paricca pajānāmi : tathāyaṃ puggalo paṭipanno
tathā ca iriyati tañca maggaṃ samārūḷho yathā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ
saggaṃ lokaṃ upapajjissatīti. Tamenaṃ passāmi aparena samayena dibbena cakkhunā
visuddhena atikkantamānusakena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapannaṃ, ekantasukhā vedanā vedayamānaṃ.
''Idha
panāhaṃ, sāriputta, ekaccaṃ puggalaṃ cetasā ceto paricca pajānāmi : tathāyaṃ
puggalo paṭipanno tathā ca iriyati tañca maggaṃ samārūḷho, yathā āsavānaṃ khayā
anāsaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja viharissatīti. Tamenaṃ passāmi aparena samayena āsavānaṃ khayā
anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja viharantaṃ, ekantasukhā vedanā vedayamānaṃ. Seyyathāpi, sāriputta,
pokkharaṇī acchodakā sātodakā sītodakā setakā supatitthā ramaṇīyā.
Avidūre cassā tibbo vanasaṇḍo. Atha puriso āgaccheyya ghammābhitatto
ghammapareto kilanto tasito pipāsito ekāyanena maggena tameva pokkharaṇiṃ paṇidhāya.
Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya : 'tathā bhavaṃ puriso paṭipanno
tathā ca iriyati tañca maggaṃ samārūḷho, yathā imaṃyeva pokkharaṇiṃ
āgamissatīti. Tamenaṃ passeyya aparena samayena taṃ pokkharaṇiṃ ogāhetvā
nhāyitvā ca pivitvā ca sabbadarathakilamathapariḷāhaṃ paṭippassambhetvā paccuttaritvā tasmiṃ
vanasaṇḍe nisinnaṃ vā nipannaṃ vā, ekantasukhā
vedanā vedayamānaṃ. Evameva kho ahaṃ, sāriputta, idhekaccaṃ puggalaṃ evaṃ
cetasā ceto paricca pajānāmi : tathāyaṃ puggalo paṭipanno tathā ca iriyati
tañca maggaṃ samārūḷho, yathā āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ
diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissatīti.
Tamenaṃ passāmi aparena samayena āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ
paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharantaṃ,
ekantasukhā vedanā vedayamānaṃ. Imā kho, sāriputta, pañca gatiyo. ''Yo kho maṃ,
sāriputta, evaṃ jānantaṃ evaṃ passantaṃ evaṃ vadeyya : 'natthi samaṇassa
gotamassa uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso takkapariyāhataṃ samaṇo
gotamo dhammaṃ deseti vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānanti taṃ, sāriputta, vācaṃ
appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā yathābhataṃ
nikkhitto evaṃ niraye. Seyyathāpi, sāriputta, bhikkhu sīlasampanno
samādhisampanno paññāsampanno diṭṭheva dhamme aññaṃ ārādheyya, evaṃ sampadamidaṃ,
sāriputta, vadāmi 'taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā
yathābhataṃ nikkhitto evaṃ niraye.
155. ''Abhijānāmi kho
panāhaṃ, sāriputta, caturaṅgasamannāgataṃ brahmacariyaṃ caritā [caritvā
(ka.)] : tapassī sudaṃ homi paramatapassī, lūkho sudaṃ [lūkhassudaṃ (sī. pī.)]
homi paramalūkho, jegucchī sudaṃ homi paramajegucchī, pavivitto sudaṃ
[pavivittassudaṃ (sī. pī.)] homi paramapavivitto . Tatrāssu me idaṃ, sāriputta, tapassitāya hoti : acelako
homi muttācāro hatthāpalekhano [hatthāvalekhano (syā.)], na ehibhaddantiko na
tiṭṭhabhaddantiko nābhihaṭaṃ na uddissakataṃ na nimantanaṃ sādiyāmi. So na
kumbhimukhā paṭiggaṇhāmi, na kaḷopimukhā paṭiggaṇhāmi, na eḷakamantaraṃ, na daṇḍamantaraṃ,
na musalamantaraṃ, na dvinnaṃ bhuñjamānānaṃ, na gabbhiniyā, na pāyamānāya
[pāyantiyā (ka.)], na purisantaragatāya, na saṅkittīsu, na yattha sā upaṭṭhito
hoti, na yattha makkhikā saṇḍasaṇḍacārinī na macchaṃ na maṃsaṃ na suraṃ na
merayaṃ na thusodakaṃ pivāmi so ekāgāriko vā homi ekālopiko, dvāgāriko vā homi dvālopiko -
pe - sattāgāriko vā homi sattālopiko ekissāpi dattiyā yāpemi, dvīhipi dattīhi
yāpemi - pe - sattahipi dattīhi yāpemi ekāhikampi āhāraṃ āhāremi, dvīhikampi
āhāraṃ āhāremi - pe - sattāhikampi āhāraṃ āhāremi iti evarūpaṃ addhamāsikampi
pariyāyabhattabhojanānuyogamanuyutto viharāmi. ''So sākabhakkho vā homi,
sāmākabhakkho vā homi, nīvārabhakkho vā homi, daddulabhakkho vā homi, haṭabhakkho
vā homi, kaṇabhakkho vā homi, ācāmabhakkho vā homi , piññākabhakkho vā homi, tiṇabhakkho vā homi, gomayabhakkho
vā homi, vanamūlaphalāhāro yāpemi pavattaphalabhojī. ''So sāṇānipi dhāremi,
masāṇānipi dhāremi, chavadussānipi dhāremi, paṃsukūlānipi dhāremi, tirīṭānipi
dhāremi, ajinampi dhāremi, ajinakkhipampi dhāremi, kusacīrampi dhāremi,
vākacīrampi dhāremi, phalakacīrampi dhāremi, kesakambalampi dhāremi, vāḷakambalampi
dhāremi, ulūkapakkhampi dhāremi kesamassulocakopi homi
kesamassulocanānuyogamanuyutto ubbhaṭṭhakopi homi āsanapaṭikkhitto ukkuṭikopi
homi ukkuṭikappadhānamanuyutto kaṇṭakāpassayikopi homi kaṇṭakāpassaye seyyaṃ
kappemi [imassānantare aññopi koci pāṭhapadeso aññesu ājīvakavatadīpakasuttesu
dissati] sāyatatiyakampi udakorohanānuyogamanuyutto viharāmi : iti evarūpaṃ
anekavihitaṃ kāyassa ātāpanaparitāpanānuyogamanuyutto viharāmi. Idaṃsu
me, sāriputta, tapassitāya hoti.
156. ''Tatrāssu me idaṃ,
sāriputta, lūkhasmiṃ hoti : nekavassagaṇikaṃ rajojallaṃ kāye sannicitaṃ hoti
papaṭikajātaṃ. Seyyathāpi, sāriputta, tindukakhāṇu nekavassagaṇiko sannicito
hoti papaṭikajāto, evamevāssu me, sāriputta, nekavassagaṇikaṃ rajojallaṃ kāye
sannicitaṃ hoti papaṭikajātaṃ. Tassa mayhaṃ, sāriputta, na evaṃ hoti : 'aho
vatāhaṃ imaṃ rajojallaṃ pāṇinā parimajjeyyaṃ, aññe vā pana me imaṃ rajojallaṃ
pāṇinā parimajjeyyunti. Evampi me, sāriputta , na hoti. Idaṃsu me, sāriputta, lūkhasmiṃ hoti.
''Tatrāssu
me idaṃ, sāriputta, jegucchismiṃ hoti : so kho ahaṃ, sāriputta, satova
abhikkamāmi, satova paṭikkamāmi, yāva udakabindumhipi me dayā paccupaṭṭhitā
hoti : 'māhaṃ khuddake pāṇe visamagate saṅghātaṃ āpādesinti. Idaṃsu me,
sāriputta, jegucchismiṃ hoti. ''Tatrāssu me idaṃ, sāriputta, pavivittasmiṃ hoti
: so kho ahaṃ, sāriputta,
aññataraṃ araññāyatanaṃ ajjhogāhetvā viharāmi. Yadā passāmi gopālakaṃ vā
pasupālakaṃ vā tiṇahārakaṃ vā kaṭṭhahārakaṃ vā vanakammikaṃ vā, vanena vanaṃ
gahanena gahanaṃ ninnena ninnaṃ thalena thalaṃ saṃpatāmi [papatāmi (sī. syā.
pī.)]. Taṃ kissa hetu? mā maṃ te addasaṃsu ahañca mā te addasanti. Seyyathāpi,
sāriputta, āraññako mago manusse disvā vanena vanaṃ gahanena gahanaṃ ninnena
ninnaṃ thalena thalaṃ saṃpatati,
evameva kho ahaṃ, sāriputta, yadā passāmi gopālakaṃ vā pasupālakaṃ vā tiṇahārakaṃ
vā kaṭṭhahārakaṃ vā vanakammikaṃ vā vanena vanaṃ gahanena gahanaṃ ninnena ninnaṃ
thalena thalaṃ saṃpatāmi. Taṃ kissa hetu? mā maṃ te addasaṃsu ahañca mā te
addasanti. Idaṃsu me, sāriputta, pavivittasmiṃ hoti. ''So kho ahaṃ, sāriputta,
ye te goṭṭhā paṭṭhitagāvo apagatagopālakā, tattha catukkuṇḍiko upasaṅkamitvā
yāni tāni vacchakānaṃ taruṇakānaṃ dhenupakānaṃ gomayāni tāni sudaṃ
āhāremi. Yāvakīvañca me , sāriputta, sakaṃ
muttakarīsaṃ apariyādinnaṃ hoti, sakaṃyeva sudaṃ muttakarīsaṃ āhāremi. Idaṃsu
me, sāriputta, mahāvikaṭabhojanasmiṃ hoti.
157. ''So kho ahaṃ,
sāriputta, aññataraṃ bhiṃsanakaṃ vanasaṇḍaṃ ajjhogāhetvā viharāmi. Tatrāssudaṃ,
sāriputta, bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ hoti : yo koci avītarāgo
taṃ vanasaṇḍaṃ pavisati, yebhuyyena lomāni haṃsanti. So kho ahaṃ, sāriputta, yā
tā rattiyo sītā hemantikā antaraṭṭhakā himapātasamayā [antaraṭṭhake
himapātasamaye (sī. pī.)] tathārūpāsu rattīsu rattiṃ abbhokāse viharāmi, divā
vanasaṇḍe gimhānaṃ pacchime māse divā abbhokāse viharāmi, rattiṃ vanasaṇḍe.
Apissu maṃ, sāriputta, ayaṃ anacchariyagāthā paṭibhāsi pubbe assutapubbā :
''Sotatto
sosinno [sosīno (sī. pī. ka.), sosino (syā.), sosindo (saddanīti)] ceva, eko
bhiṃsanake vane.
Naggo
na caggimāsīno, esanāpasuto munīti.. ''So kho ahaṃ, sāriputta, susāne seyyaṃ
kappemi chavaṭṭhikāni upadhāya. Apissu maṃ, sāriputta, gāmaṇḍalā [gomaṇḍalā
(bahūsu) cariyāpiṭakaaṭṭhakathā oloketabbā] upasaṅkamitvā oṭṭhubhantipi,
omuttentipi, paṃsukenapi okiranti, kaṇṇasotesupi salākaṃ pavesenti. Na kho
panāhaṃ, sāriputta, abhijānāmi tesu pāpakaṃ cittaṃ uppādetā. Idaṃsu me,
sāriputta, upekkhāvihārasmiṃ hoti.
158. ''Santi kho pana, sāriputta,
eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino : 'āhārena suddhīti. Te evamāhaṃsu
: 'kolehi yāpemāti. Te kolampi khādanti, kolacuṇṇampi khādanti, kolodakampi
pivanti : anekavihitampi kolavikatiṃ paribhuñjanti. Abhijānāmi kho panāhaṃ,
sāriputta, ekaṃyeva kolaṃ āhāraṃ āhāritā. Siyā kho pana te, sāriputta, evamassa
: 'mahā nūna tena samayena kolo ahosīti. Na kho panetaṃ, sāriputta, evaṃ daṭṭhabbaṃ.
Tadāpi etaparamoyeva kolo ahosi seyyathāpi etarahi. Tassa mayhaṃ, sāriputta,
ekaṃyeva kolaṃ āhāraṃ āhārayato adhimattakasimānaṃ
patto kāyo hoti. Seyyathāpi nāma āsītikapabbāni vā kāḷapabbāni vā, evamevassu
me aṅgapaccaṅgāni bhavanti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma oṭṭhapadaṃ,
evamevassu me ānisadaṃ hoti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma vaṭṭanāvaḷī,
evamevassu me piṭṭhikaṇṭako unnatāvanato hoti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi
nāma jarasālāya gopānasiyo oluggaviluggā bhavanti, evamevassu me phāsuḷiyo
oluggaviluggā bhavanti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma gambhīre udapāne
udakatārakā gambhīragatā okkhāyikā dissanti, evamevassu me akkhikūpesu akkhitārakā
gambhīragatā okkhāyikā dissanti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma
tittakālābuāmakacchinno vātātapena saṃphuṭito [samphusito (syā.), saṃpuṭito
(pī. ka.) ettha saṃphuṭitoti saṅkucitoti attho] hoti sammilāto, evamevassu me sīsacchavi saṃphuṭitā
hoti sammilātā tāyevappāhāratāya. So kho ahaṃ, sāriputta, 'udaracchaviṃ
parimasissāmīti piṭṭhikaṇṭakaṃyeva pariggaṇhāmi, 'piṭṭhikaṇṭakaṃ
parimasissāmīti udaracchaviṃyeva pariggaṇhāmi, yāvassu me, sāriputta,
udaracchavi piṭṭhikaṇṭakaṃ allīnā hoti tāyevappāhāratāya. So kho ahaṃ,
sāriputta, 'vaccaṃ vā muttaṃ vā karissāmīti tattheva avakujjo papatāmi
tāyevappāhāratāya. So kho ahaṃ, sāriputta, tameva kāyaṃ assāsento pāṇinā
gattāni anomajjāmi. Tassa mayhaṃ, sāriputta, pāṇinā gattāni anomajjato
pūtimūlāni lomāni kāyasmā patanti tāyevappāhāratāya.
159. ''Santi kho pana,
sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino : 'āhārena suddhīti. Te
evamāhaṃsu : 'muggehi yāpema - pe - tilehi yāpema - pe - taṇḍulehi yāpemāti. Te
taṇḍulampi khādanti, taṇḍulacuṇṇampi khādanti, taṇḍulodakampi pivanti :
anekavihitampi taṇḍulavikatiṃ paribhuñjanti. Abhijānāmi kho panāhaṃ, sāriputta,
ekaṃyeva taṇḍulaṃ āhāraṃ āhāritā. Siyā kho pana te, sāriputta, evamassa : 'mahā
nūna tena samayena taṇḍulo ahosīti. Na kho panetaṃ, sāriputta, evaṃ daṭṭhabbaṃ.
Tadāpi etaparamoyeva taṇḍulo ahosi , seyyathāpi etarahi. Tassa mayhaṃ,
sāriputta, ekaṃyeva taṇḍulaṃ āhāraṃ āhārayato adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti.
Seyyathāpi nāma āsītikapabbāni vā kāḷapabbāni vā, evamevassu me aṅgapaccaṅgāni
bhavanti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma oṭṭhapadaṃ, evamevassu me ānisadaṃ
hoti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma vaṭṭanāvaḷī, evamevassu me piṭṭhikaṇṭako
unnatāvanato hoti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma jarasālāya gopānasiyo
oluggaviluggā bhavanti, evamevassu me phāsuḷiyo oluggaviluggā bhavanti
tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma gambhīre udapāne udakatārakā gambhīragatā
okkhāyikā dissanti, evamevassu me akkhikūpesu akkhitārakā gambhīragatā
okkhāyikā dissanti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma tittakālābu āmakacchinno
vātātapena saṃphuṭito hoti sammilāto, evamevassu me sīsacchavi saṃphuṭitā hoti
sammilātā tāyevappāhāratāya. So kho ahaṃ, sāriputta, 'udaracchaviṃ
parimasissāmīti piṭṭhikaṇṭakaṃyeva pariggaṇhāmi, 'piṭṭhikaṇṭakaṃ
parimasissāmīti udaracchaviṃyeva pariggaṇhāmi. Yāvassu me, sāriputta,
udaracchavi piṭṭhikaṇṭakaṃ allīnā hoti tāyevappāhāratāya. So kho ahaṃ,
sāriputta, 'vaccaṃ vā muttaṃ vā karissāmīti tattheva avakujjo papatāmi
tāyevappāhāratāya. So kho ahaṃ, sāriputta, tameva kāyaṃ assāsento pāṇinā
gattāni anomajjāmi. Tassa mayhaṃ, sāriputta, pāṇinā gattāni anomajjato
pūtimūlāni lomāni kāyasmā patanti tāyevappāhāratāya. ''Tāyapi kho ahaṃ,
sāriputta, iriyāya tāya paṭipadāya tāya dukkarakārikāya nājjhagamaṃ uttariṃ
manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ. Taṃ kissa hetu? imissāyeva ariyāya
paññāya anadhigamā, yāyaṃ ariyā paññā adhigatā ariyā niyyānikā, niyyāti
takkarassa sammā dukkhakkhayāya.
160. ''Santi kho pana,
sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino : 'saṃsārena suddhīti. Na
kho pana so [na kho paneso (sī. syā.)], sāriputta, saṃsāro sulabharūpo yo mayā asaṃsaritapubbo
iminā dīghena
addhunā, aññatra suddhāvāsehi devehi. Suddhāvāse cāhaṃ, sāriputta, deve saṃsareyyaṃ,
nayimaṃ lokaṃ punarāgaccheyyaṃ. ''Santi kho pana, sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā
evaṃvādino evaṃdiṭṭhino : 'upapattiyā suddhīti. Na kho pana
sā, sāriputta , upapatti
sulabharūpā yā mayā anupapannapubbā iminā dīghena addhunā, aññatra suddhāvāsehi
devehi. Suddhāvāse cāhaṃ, sāriputta, deve upapajjeyyaṃ, nayimaṃ lokaṃ
punarāgaccheyyaṃ. ''Santi kho pana, sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino
evaṃdiṭṭhino : 'āvāsena suddhīti. Na kho pana so, sāriputta, āvāso sulabharūpo
yo mayā anāvuṭṭhapubbo [anāvutthapubbo (sī. pī.)] iminā dīghena addhunā,
aññatra suddhāvāsehi devehi. Suddhāvāse cāhaṃ, sāriputta, deve āvaseyyaṃ,
nayimaṃ lokaṃ punarāgaccheyyaṃ.
''Santi
kho pana, sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino : 'yaññena
suddhīti. Na kho pana so, sāriputta, yañño sulabharūpo yo mayā ayiṭṭhapubbo
iminā dīghena addhunā, tañca kho raññā vā satā khattiyena muddhāvasittena
brāhmaṇena vā mahāsālena. ''Santi kho pana, sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino
evaṃdiṭṭhino : 'aggiparicariyāya suddhīti. Na kho pana so, sāriputta, aggi
sulabharūpo yo mayā apariciṇṇapubbo iminā dīghena addhunā, tañca kho raññā vā satā
khattiyena muddhāvasittena brāhmaṇena vā mahāsālena.
161. ''Santi kho pana,
sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino : 'yāvadevāyaṃ bhavaṃ
puriso daharo hoti yuvā susukāḷakeso bhadrena yobbanena samannāgato paṭhamena
vayasā tāvadeva paramena paññāveyyattiyena samannāgato hoti. Yato ca kho ayaṃ
bhavaṃ puriso jiṇṇo hoti vuddho mahallako addhagato vayoanuppatto, āsītiko vā
nāvutiko vā vassasatiko vā jātiyā, atha tamhā paññāveyyattiyā, parihāyatīti. Na
kho panetaṃ, sāriputta , evaṃ daṭṭhabbaṃ.
Ahaṃ kho pana, sāriputta, etarahi jiṇṇo vuddho mahallako addhagato
vayoanuppatto, āsītiko me vayo vattati. Idha me assu, sāriputta, cattāro sāvakā
vassasatāyukā vassasatajīvino, paramāya satiyā ca gatiyā ca dhitiyā ca
samannāgatā paramena ca paññāveyyattiyena. Seyyathāpi, sāriputta, daḷhadhammā
[daḷhadhammo (bahūsu) ṭīkā ca moggallānabyākaraṇaṃ ca oloketabbaṃ] dhanuggaho
sikkhito katahattho katūpāsano lahukena asanena appakasireneva tiriyaṃ
tālacchāyaṃ atipāteyya, evaṃ adhimattasatimanto evaṃ
adhimattagatimanto evaṃ adhimattadhitimanto evaṃ paramena
paññāveyyattiyena samannāgatā. Te maṃ catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ upādāyupādāya
pañhaṃ puccheyyuṃ, puṭṭho puṭṭho cāhaṃ tesaṃ byākareyyaṃ, byākatañca me
byākatato dhāreyyuṃ, na ca maṃ dutiyakaṃ uttari paṭipuccheyyuṃ. Aññatra
asitapītakhāyitasāyitā aññatra uccārapassāvakammā, aññatra niddākilamathapaṭivinodanā
apariyādinnāyevassa, sāriputta, tathāgatassa dhammadesanā, apariyādinnaṃyevassa
tathāgatassa dhammapadabyañjanaṃ, apariyādinnaṃyevassa tathāgatassa pañhapaṭibhānaṃ
. Atha me te cattāro sāvakā vassasatāyukā vassasatajīvino
vassasatassa accayena kālaṃ kareyyuṃ. Mañcakena cepi maṃ, sāriputta,
pariharissatha, nevatthi tathāgatassa paññāveyyattiyassa aññathattaṃ. Yaṃ kho
taṃ [yaṃ kho panetaṃ (sī.)], sāriputta, sammā vadamāno vadeyya :
'asammohadhammo satto loke uppanno bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya
atthāya hitāya sukhāya devamanussānanti, mameva taṃ sammā vadamāno vadeyya
'asammohadhammo satto loke uppanno bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya
atthāya hitāya sukhāya devamanussānanti.
162. Tena kho pana
samayena āyasmā nāgasamālo bhagavato piṭṭhito ṭhito hoti bhagavantaṃ
bījayamāno. Atha kho āyasmā nāgasamālo bhagavantaṃ etadavoca : ''acchariyaṃ,
bhante, abbhutaṃ, bhante! api hi me, bhante, imaṃ dhammapariyāyaṃ sutvā lomāni
haṭṭhāni. Konāmo ayaṃ, bhante, dhammapariyāyoti? ''tasmātiha tvaṃ, nāgasamāla,
imaṃ dhammapariyāyaṃ lomahaṃsanapariyāyo tveva naṃ dhārehīti. Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā nāgasamālo
bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.
Mahāsīhanādasuttaṃ
niṭṭhitaṃ dutiyaṃ.
Vesālinagaravaṇṇanā
146. Evaṃ me sutanti mahāsīhanādasuttaṃ. Tattha vesāliyanti evaṃnāmake nagare. Taṃ
kira aparāparaṃ visālībhūtatāya ‘‘vesālī’’ti saṅkhaṃ gataṃ. Tatrāyaṃ
anupubbakathā – bārāṇasirañño kira aggamahesiyā kucchimhi gabbho saṇṭhāsi. Sā
ñatvā rañño nivedesi. Rājā gabbhaparihāraṃ adāsi. Sā sammā pariharīyamānā
gabbhaparipākakāle vijāyanagharaṃ pāvisi. Puññavantīnaṃ paccūsasamaye
gabbhavuṭṭhānaṃ hoti, sā ca tāsaṃ aññatarā, tena paccūsasamaye
alattakapaṭalabandhujīvakapupphasadisaṃ maṃsapesiṃ vijāyi. Tato ‘‘aññā deviyo
suvaṇṇabimbasadise putte vijāyanti, aggamahesī maṃsapesinti rañño purato mama
avaṇṇo uppajjeyyā’’ti cintetvā tena avaṇṇabhayena taṃ maṃsapesiṃ ekasmiṃ
bhājane pakkhipitvā paṭikujjitvā rājamuddikāya lañchetvā gaṅgāya sote
pakkhipāpesi. Manussehi chaḍḍitamatte devatā ārakkhaṃ saṃvidahiṃsu.
Suvaṇṇapaṭṭakañcettha jātihiṅgulakena ‘‘bārāṇasirañño aggamahesiyā pajā’’ti
likhitvā bandhiṃsu. Tato taṃ bhājanaṃ ūmibhayādīhi anupaddutaṃ gaṅgāsotena
pāyāsi.
Tena
ca samayena aññataro tāpaso gopālakakulaṃ nissāya gaṅgātīre viharati. So pātova
gaṅgaṃ otiṇṇo taṃ bhājanaṃ āgacchantaṃ disvā paṃsukūlasaññāya aggahesi.
Athettha taṃ akkharapaṭṭikaṃ rājamuddikālañchanaṃ ca disvā muñcitvā taṃ
maṃsapesiṃ addasa, disvānassa etadahosi ‘‘siyā gabbho, tathā hissa
duggandhapūtikabhāvo natthī’’ti. Assamaṃ netvā suddhe okāse ṭhapesi. Atha aḍḍhamāsaccayena
dve maṃsapesiyo ahesuṃ. Tāpaso disvā sādhutaraṃ ṭhapesi. Tato puna
aḍḍhamāsaccayena ekamekissā maṃsapesiyā hatthapādasīsānamatthāya pañca pañca
piḷakā uṭṭhahiṃsu. Atha tato aḍḍhamāsaccayena ekā maṃsapesi suvaṇṇabimbasadiso
dārako, ekā dārikā ahosi.
Tesu
tāpasassa puttasineho uppajji, aṅguṭṭhakato cassa khīraṃ
nibbatti. Tato pabhuti ca khīrabhattaṃ alabhittha, so
bhattaṃ bhuñjitvā khīraṃ dārakānaṃ mukhe āsiñcati. Tesaṃ
udaraṃ yaṃ yaṃ pavisati, taṃ taṃ sabbaṃ maṇibhājanagataṃ viya dissati, evaṃ
nicchavī ahesuṃ. Apare āhu ‘‘sibbetvā ṭhapitā viya nesaṃ aññamaññaṃ līnā chavi
ahosī’’ti. Evaṃ te nicchavitāya vā līnacchavitāya vā licchavīti paññāyiṃsu.
Tāpaso
dārake posento ussūre gāmaṃ sikkhāya pavisati, atidivā paṭikkamati. Tassa taṃ
byāpāraṃ ñatvā gopālakā āhaṃsu – ‘‘bhante, pabbajitānaṃ dārakaposanaṃ
palibodho, amhākaṃ dārake detha, mayaṃ posessāma, tumhe attano kammaṃ
karothā’’ti. Tāpaso sādhūti paṭissuṇi. Gopālakā dutiyadivase maggaṃ samaṃ katvā
pupphehi okiritvā dhajapaṭākā ussāpetvā tūriyehi vajjamānehi assamaṃ āgatā.
Tāpaso – ‘‘mahāpuññā dārakā appamādena vaḍḍhetha, vaḍḍhetvā ca aññamaññaṃ
āvāhavivāhaṃ karotha, pañcagorasena rājānaṃ tosetvā bhūmibhāgaṃ gahetvā nagaraṃ
māpetha, tattha kumāraṃ abhisiñcathā’’ti vatvā dārake adāsi. Te sādhūti paṭissuṇitvā
dārake netvā posesuṃ.
Dārakā
vuddhimanvāya kīḷantā vivādaṭṭhānesu aññe gopālakadārake hatthenapi pādenapi
paharanti. Te rodanti. ‘‘Kissa rodathā’’ti ca mātāpitūhi vuttā ‘‘ime
nimmātāpitikā tāpasapositā amhe atipaharantī’’ti vadanti. Tato tesaṃ mātāpitaro
‘‘ime dārakā aññe dārake vināsenti dukkhāpenti, na ime saṅgahetabbā, vajjetabbā
ime’’ti āhaṃsu. Tato pabhuti kira so padeso vajjīti vuccati yojanasatiko parimāṇena. Atha taṃ padesaṃ gopālakā
rājānaṃ tosetvā aggahesuṃ. Tattha ca nagaraṃ māpetvā soḷasavassuddesikaṃ
kumāraṃ abhisiñcitvā rājānaṃ akaṃsu. Tāya cassa dārikāya saddhiṃ vivāhaṃ katvā
katikaṃ akaṃsu ‘‘bāhirakadārikā na ānetabbā, ito dārikā na kassaci dātabbā’’ti.
Tesaṃ paṭhamasaṃvāsena dve dārakā jātā dhītā ca putto ca. Evaṃ soḷasakkhattuṃ dve
dve jātā. Tato tesaṃ dārakānaṃ yathākkamaṃ vaḍḍhantānaṃ
ārāmuyyānanivāsaṭṭhānaparivārasampattiṃ gahetuṃ appahontā nagaraṃ tikkhattuṃ
gāvutantarena gāvutantarena parikkhipiṃsu.
Tassa punappunaṃ visālīkatattā vesālītveva nāmaṃ jātaṃ. Tena vuttaṃ ‘‘vesāliyanti
evaṃ nāmake nagare’’ti.
01 Bahinagareti nagarassa
bahi, na ambapālivanaṃ viya antonagarasmiṃ. Ayaṃ pana jīvakambavanaṃ viya
nagarassa bahiddhā vanasaṇḍo. Tena vuttaṃ ‘‘bahinagare’’ti. Aparapureti purassa apare,
pacchimadisāyanti attho. Vanasaṇḍeti
so kira vanasaṇḍo nagarassa pacchimadisāyaṃ gāvutamatte ṭhāne. Tattha manussā
bhagavato gandhakuṭiṃ katvā taṃ parivāretvā bhikkhūnaṃ
rattiṭṭhānadivāṭṭhānacaṅkamaleṇakuṭimaṇḍapādīni patiṭṭhapesuṃ, bhagavā tattha
viharati. Tena vuttaṃ ‘‘aparapure vanasaṇḍe’’ti. Sunakkhattoti tassa nāmaṃ. Licchavīnaṃ pana puttattā licchaviputtoti vutto. Acirapakkantoti vibbhamitvā
gihibhāvūpagamanena adhunāpakkanto. Parisatīti
parisamajjhe. Uttarimanussadhammāti
ettha manussadhammā nāma
dasakusalakammapathā. Te paṭisedhetuṃ na sakkoti. Kasmā? Upārambhabhayā.
Vesāliyañhi bahū manussā ratanattaye pasannā buddhamāmakā dhammamāmakā
saṅghamāmakā. Te dasakusalakammapathamattampi natthi samaṇassa gotamassāti
vutte tvaṃ kattha bhagavantaṃ pāṇaṃ hanantaṃ addasa, kattha adinnaṃ ādiyantantiādīni
vatvā attano pamāṇaṃ na jānāsi? Kiṃ dantā me atthīti pāsāṇasakkharā khādasi,
ahinaṅguṭṭhe gaṇhituṃ vāyamasi, kakacadantesu pupphāvaḷikaṃ kīḷituṃ icchasi?
Mukhato te dante pātessāmāti vadeyyuṃ. So tesaṃ upārambhabhayā evaṃ vattuṃ na
sakkoti.
Uttarimanussadhammādivaṇṇanā
Tato
uttariṃ pana visesādhigamaṃ paṭisedhento uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesoti āha.
Tattha
alamariyaṃ ñātunti alamariyo,
ariyabhāvāya samatthoti vuttaṃ hoti. Ñāṇadassanameva ñāṇadassanaviseso. Alamariyo ca so ñāṇadassanaviseso cāti alamariyañāṇadassanaviseso.
Ñāṇadassananti dibbacakkhupi vipassanāpi maggopi phalampi paccavekkhaṇañāṇampi sabbaññutaññāṇampi vuccati. ‘‘Appamatto samāno ñāṇadassanaṃ
ārādhetī’’ti (ma. ni. 1.311) hi ettha dibbacakkhu ñāṇadassanaṃ nāma.
‘‘Ñāṇadassanāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmetī’’ti
(dī. ni. 1.235) ettha vipassanāñāṇaṃ. ‘‘Abhabbā te ñāṇadassanāya anuttarāya
sambodhāyā’’ti (a. ni. 4.196) ettha maggo. ‘‘Ayamañño uttari manussadhammā
alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsu vihāro’’ti (ma. ni. 1.328) ettha
phalaṃ. ‘‘Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi, akuppā me cetovimutti, ayamantimā
jāti, natthi dāni punabbhavo’’ti (mahāva. 16) ettha paccavekkhaṇañāṇaṃ.
‘‘Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi sattāhakālaṅkato āḷāro kāḷāmo’’ti (ma. ni.
2.340) ettha sabbaññutaññāṇaṃ. Idha pana lokuttaramaggo adhippeto. Tañhi so
bhagavato paṭisedheti.
Takkapariyāhatanti
iminā ācariyaṃ paṭibāhati. Evaṃ kirassa ahosi – samaṇena gotamena ācariye
upasaṅkamitvā sukhumaṃ dhammantaraṃ gahitaṃ nāma natthi, takkapariyāhataṃ pana
takketvā evaṃ bhavissati evaṃ bhavissatīti takkapariyāhataṃ dhammaṃ desetīti. Vīmaṃsānucaritanti iminā cassa
lokiyapaññaṃ anujānāti. Samaṇo gotamo paññavā, so taṃ paññāsaṅkhātaṃ
indavajirūpamaṃ vīmaṃsaṃ evaṃ vaṭṭissati, evaṃ vaṭṭissatīti ito cito ca
anucarāpetvā vīmaṃsāya anucaritaṃ dhammaṃ deseti. Sayaṃpaṭibhānanti imināssa dhammesu paccakkhabhāvaṃ paṭibāhati.
Evaṃ hissa ahosi – samaṇassa gotamassa sukhumaṃ dhammantaraṃ vipassanā vā maggo
vā phalaṃ vā paccavekkhaṇā vā natthi, ayaṃ pana laddhapariso, rājānaṃ
cakkavattiṃ viya naṃ cattāro vaṇṇā parivārenti, suphusitaṃ panassa
dantāvaraṇaṃ, mudukā jivhā, madhuro saro, anelagaḷā vācā, so yaṃ yadevassa
upaṭṭhāti, taṃ taṃ gahetvā sayaṃpaṭibhānaṃ kathento mahājanaṃ rañjetīti.
Yassa ca khvāssa atthāya dhammo desitoti yassa ca kho atthāya assa dhammo desito. Seyyathidaṃ,
rāgapaṭighātatthāya asubhakammaṭṭhānaṃ, dosappaṭighātatthāya mettābhāvanā,
mohapaṭighātatthāya pañca dhammā, vitakkūpacchedāya ānāpānassati.
So niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyāti so dhammo yo taṃ yathādesitaṃ karoti, tassa takkarassa
sammā hetunā nayena kāraṇena vaṭṭadukkhakkhayāya niyyāti gacchati tamatthaṃ
sādhetīti dīpeti. Idaṃ panesa na attano
ajjhāsayena vadati. Buddhānañhi dhammo aniyyānikoti evamevaṃ pavedeyya, na pana
sakkoti vattuṃ. Kasmā? Upārambhabhayā. Vesāliyañhi bahū
sotāpanna-sakadāgāmi-anāgāmiupāsakā. Te evaṃ vadeyyuṃ ‘‘sunakkhatta tvaṃ
bhagavatā desitadhammo aniyyānikoti vadasi, yadi ayaṃ dhammo aniyyāniko,
imasmiṃ nagare ime kasmā ettakā sotāpannā jātā, ettakā sakadāgāmī, ettakā
anāgāmīti pubbe vuttanayena upārambhaṃ kareyyu’’nti. So iminā upārambhabhayena
aniyyānikoti vattuṃ asakkonto ajjunena vissaṭṭhakaṇḍaṃ viya assa dhammo amogho
niyyāti, abbhantare panassa kiñci natthīti vadati.
Assosi khoti
vesāliyaṃ brāhmaṇakulaseṭṭhikulādīsu tattha tattha parisamajjhe evaṃ
bhāsamānassa taṃ vacanaṃ suṇi, na pana paṭisedhesi. Kasmā? Kāruññatāya. Evaṃ
kirassa ahosi ayaṃ kuddho jhāyamānaṃ veḷuvanaṃ viya pakkhittaloṇaṃ uddhanaṃ
viya ca kodhavasena paṭapaṭāyati, mayā paṭibāhito pana mayipi āghātaṃ
bandhissati, evamassa tathāgate ca mayi cāti dvīsu janesu āghāto atibhāriyo
bhavissatīti kāruññatāya na paṭisedhesi. Api cassa evaṃ ahosi, buddhānaṃ
avaṇṇakathanaṃ nāma puṇṇacande dosāropanasadisaṃ, ko imassa kathaṃ gaṇhissati?
Sayameva kheḷe pacchinne mukhe sukkhe oramissatīti iminā kāraṇena na
paṭisedhesi. Piṇḍapātapaṭikkantoti
piṇḍapātapariyesanato apagato.
147. Kodhanoti
caṇḍo pharuso. Moghapurisoti
tucchapuriso. Yassa hi tasmiṃ attabhāve maggaphalānaṃ upanissayo natthi, taṃ
buddhā ‘‘moghapuriso’’ti vadanti. Upanissaye satipi tasmiṃ khaṇe magge vā phale
vā asati ‘‘moghapuriso’’ti vadantiyeva. Imassa pana tasmiṃ attabhāve
maggaphalānaṃ upanissayo samucchinnoyeva, tena taṃ
‘‘moghapuriso’’ti āha. Kodhā ca panassa
esā vācā bhāsitāti esā ca panassa vācā kodhena bhāsitā.
Kasmā
panesa bhagavato kuddhoti? Ayañhi pubbe bhagavantaṃ
upasaṅkamitvā dibbacakkhuparikammaṃ pucchi. Athassa bhagavā kathesi. So
dibbacakkhuṃ nibbattetvā ālokaṃ vaḍḍhetvā devaloke olokento
nandanavanacittalatāvanaphārusakavanamissakavanesu dibbasampattiṃ anubhavamāne devaputte ca devadhītaro ca disvā etesaṃ evarūpāya
attabhāvasampattiyā ṭhitānaṃ kīvamadhuro nu kho saddo bhavissatīti saddaṃ
sotukāmo hutvā dasabalaṃ upasaṅkamitvā dibbasotadhātuparikammaṃ pucchi. Bhagavā
panassa dibbasotadhātuyā upanissayo natthīti ñatvā parikammaṃ na kathesi. Na hi
buddhā upanissayavirahita tassa parikammaṃ kathenti. So bhagavati āghātaṃ
bandhitvā cintesi ‘‘ahaṃ samaṇaṃ gotamaṃ paṭhamaṃ dibbacakkhuparikammaṃ
pucchiṃ, so ‘mayhaṃ taṃ sampajjatu vā mā vā sampajjatū’ti kathesi. Ahaṃ pana
paccattapurisakārena taṃ nibbattetvā dibbasotadhātuparikammaṃ pucchiṃ, taṃ me
na kathesi. Addhāssa evaṃ hoti ‘ayaṃ rājapabbajito dibbacakkhuñāṇaṃ nibbattetvā
dibbasotadhātuñāṇaṃ nibbattetvā cetopariyañāṇaṃ nibbattetvā āsavānaṃ khayañāṇaṃ
nibbattetvā mayā samasamo bhavissatī’ti issāmacchariyavasena mayhaṃ na
kathetī’’ti. Bhiyyoso āghātaṃ bandhitvā kāsāyāni chaḍḍetvā gihibhāvaṃ patvāpi
na tuṇhībhūto vicarati. Dasabalaṃ pana asatā tucchena abbhācikkhanto vicarati.
Tenāha bhagavā ‘‘kodhā ca panassa esā vācā bhāsitā’’ti.
Vaṇṇo heso, sāriputtāti,
sāriputta, tathāgatena satasahassakappādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni pāramiyo
pūrentena etadatthameva vāyāmo kato ‘‘desanādhammo me niyyāniko bhavissatī’’ti.
Tasmā yo evaṃ vadeyya, so vaṇṇaṃyeva tathāgatassa bhāsati. Vaṇṇo heso,
sāriputta, tathāgatassa guṇo eso tathāgatassa, na aguṇoti dasseti.
Ayampi
hi nāma sāriputtātiādinā
kiṃ dasseti? Sunakkhattena paṭisiddhassa uttarimanussadhammassa attani atthitaṃ
dasseti. Bhagavā kira ayaṃ, sāriputta, sunakkhatto moghapuriso natthi
tathāgatassa uttarimanussadhammoti vadati. Mayhañca sabbaññutaññāṇaṃ nāma
atthi, iddhividhañāṇaṃ nāma atthi, dibbasotadhātuñāṇaṃ nāma atthi,
cetopariyañāṇaṃ nāma atthi, dasabalañāṇaṃ nāma atthi,
catuvesārajjañāṇaṃ nāma atthi, aṭṭhasu parisāsu akampanañāṇaṃ nāma atthi,
catuyoniparicchedakañāṇaṃ nāma atthi, pañcagatiparicchedakañāṇaṃ nāma atthi,
sabbepi cete uttarimanussadhammāyeva. Evarūpesu uttarimanussadhammesu ekassāpi
vijānanasamatthaṃ dhammanvayamattampi nāma etassa moghapurisassa na
bhavissatīti etamatthaṃ dassetuṃ ayampi
hi nāma sāriputtātiādinā nayena imaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha anvetīti anvayo, jānāti,
anubujjhatīti attho. Dhammassa anvayo dhammanvayo,
taṃ taṃ sabbaññutaññāṇādidhammaṃ jānanapaññāyetaṃ adhivacanaṃ. ‘‘Itipi so
bhagavā’’tiādīhi evarūpampi nāma mayhaṃ sabbaññutaññāṇasaṅkhātaṃ
uttarimanussadhammaṃ vijjamānameva atthīti jānituṃ tassa moghapurisassa
dhammanvayopi na bhavissatīti dasseti. Iddhividhañāṇādīsupi evaṃ yojanā
veditabbā.
Uttarimanussadhammādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Dasabalañāṇādivaṇṇanā
148. Ettha ca kiñcāpi cetopariyañāṇānantaraṃ tisso vijjā
vattabbā siyuṃ, yasmā pana tāsu vuttāsu upari dasabalañāṇaṃ na paripūrati,
tasmā tā avatvā tathāgatassa dasabalañāṇaṃ paripūraṃ katvā dassento dasa kho panimāni sāriputtātiādimāha.
Tattha tathāgatabalānīti aññehi
asādhāraṇāni tathāgatasseva balāni. Yathā vā pubbabuddhānaṃ balāni
puññussayasampattiyā āgatāni, tathā āgatabalānītipi attho. Tattha duvidhaṃ
tathāgatabalaṃ kāyabalañca ñāṇabalañca. Tesu kāyabalaṃ hatthikulānusārena
veditabbaṃ. Vuttañhetaṃ porāṇehi –
‘‘Kālāvakañca
gaṅgeyyaṃ, paṇḍaraṃ tambapiṅgalaṃ;
Gandhamaṅgalahemañca,
uposathachaddantime dasā’’ti.
Imāni
hi dasa hatthikulāni. Tattha kālāvakanti pakatihatthikulaṃ
daṭṭhabbaṃ. Yaṃ dasannaṃ purisānaṃ kāyabalaṃ, taṃ ekassa kālāvakahatthino. Yaṃ
dasannaṃ kālāvakānaṃ balaṃ, taṃ ekassa gaṅgeyyassa. Yaṃ dasannaṃ gaṅgeyyānaṃ,
taṃ ekassa paṇḍarassa. Yaṃ dasannaṃ paṇḍarānaṃ, taṃ ekassa tambassa. Yaṃ
dasannaṃ tambānaṃ, taṃ ekassa piṅgalassa. Yaṃ dasannaṃ piṅgalānaṃ, taṃ ekassa
gandhahatthino. Yaṃ dasannaṃ gandhahatthīnaṃ, taṃ ekassa maṅgalassa. Yaṃ
dasannaṃ maṅgalānaṃ, taṃ ekassa hemavatassa. Yaṃ dasannaṃ hemavatānaṃ, taṃ
ekassa uposathassa. Yaṃ dasannaṃ uposathānaṃ, taṃ ekassa
chaddantassa. Yaṃ dasannaṃ chaddantānaṃ taṃ ekassa tathāgatassa.
Nārāyanasaṅghātabalantipi idameva vuccati. Tadetaṃ
pakatihatthigaṇanāya hatthīnaṃ koṭisahassānaṃ purisagaṇanāya dasannaṃ
purisakoṭisahassānaṃ balaṃ hoti. Idaṃ tāva tathāgatassa kāyabalaṃ.
Ñāṇabalaṃ
pana pāḷiyaṃ tāva āgatameva. Dasabalañāṇaṃ, catuvesārajjañāṇaṃ, aṭṭhasu parisāsu
akampanañāṇaṃ, catuyoniparicchedakañāṇaṃ, pañcagatiparicchedakañāṇaṃ.
Saṃyuttake (saṃ. ni. 2.34) āgatāni tesattati ñāṇāni sattasattati ñāṇānīti evaṃ
aññānipi anekāni ñāṇasahassāni, etaṃ ñāṇabalaṃ
nāma. Idhāpi ñāṇabalameva adhippetaṃ. Ñāṇañhi akampiyaṭṭhena
upatthambhanaṭṭhena ca balanti
vuttaṃ.
Yehi balehi samannāgatoti yehi dasahi ñāṇabalehi upeto samupeto. Āsabhaṃ ṭhānanti seṭṭhaṭṭhānaṃ
uttamaṭṭhānaṃ. Āsabhā vā pubbabuddhā, tesaṃ ṭhānanti attho. Apica
gavasatajeṭṭhako usabho, gavasahassajeṭṭhako vasabho. Vajasatajeṭṭhako vā
usabho, vajasahassajeṭṭhako vasabho. Sabbagavaseṭṭho sabbaparissayasaho seto
pāsādiko mahābhāravaho asanisatasaddehipi akampaniyo nisabho, so idha usabhoti
adhippeto. Idampi hi tassa pariyāyavacanaṃ. Usabhassa idanti āsabhaṃ. Ṭhānanti catūhi pādehi
pathaviṃ uppīḷetvā acalaṭṭhānaṃ. Idaṃ pana āsabhaṃ viyāti āsabhaṃ. Yatheva hi
nisabhasaṅkhāto usabho usabhabalena samannāgato catūhi pādehi pathaviṃ
uppīḷetvā acalaṭṭhānena tiṭṭhati, evaṃ tathāgatopi dasahi
tathāgatabalehi samannāgato catūhi vesārajjapādehi aṭṭhaparisapathaviṃ
uppīḷetvā sadevake loke kenaci paccatthikena paccāmittena akampiyo
acalaṭṭhānena tiṭṭhati. Evaṃ tiṭṭhamānova taṃ āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti,
upagacchati na paccakkhāti attani āropeti. Tena vuttaṃ ‘‘āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānātī’’ti.
Parisāsūti
aṭṭhasu parisāsu. Sīhanādaṃ nadatīti
seṭṭhanādaṃ abhītanādaṃ nadati, sīhanādasadisaṃ vā nādaṃ nadati. Ayamattho
sīhanādasuttena dīpetabbo. Yathā vā sīho sahanato hananato
ca sīhoti vuccati, evaṃ tathāgato lokadhammānaṃ sahanato parappavādānañca
hananato sīhoti vuccati. Evaṃ vuttassa sīhassa nādaṃ sīhanādaṃ. Tattha yathā
sīho sīhabalena samannāgato sabbattha visārado vigatalomahaṃso sīhanādaṃ
nadati, evaṃ tathāgatasīhopi tathāgatabalehi samannāgato aṭṭhasu parisāsu visārado vigatalomahaṃso iti rūpantiādinā nayena
nānāvidhadesanāvilāsasampannaṃ sīhanādaṃ nadati. Tena vuttaṃ ‘‘parisāsu
sīhanādaṃ nadatī’’ti. Brahmacakkaṃ
pavattetīti ettha brahmanti
seṭṭhaṃ uttamaṃ visiṭṭhaṃ. Cakka-saddo panāyaṃ –
Sampattiyaṃ
lakkhaṇe ca, rathaṅge iriyāpathe;
Dāne
ratanadhammūra-cakkādīsu ca dissati;
Dhammacakke
idha mato, tañca dvedhā vibhāvaye.
‘‘Cattārimāni,
bhikkhave, cakkāni, yehi samannāgatānaṃ devamanussāna’’ntiādīsu (a. ni. 4.31)
hi ayaṃ sampattiyaṃ dissati. ‘‘Pādatalesu cakkāni jātānī’’ti (dī. ni. 2.35)
ettha lakkhaṇe. ‘‘Cakkaṃva vahato pada’’nti (dha. pa. 1) ettha rathaṅge.
‘‘Catucakkaṃ navadvāra’’nti (saṃ. ni. 1.29) ettha iriyāpathe. ‘‘Dadaṃ bhuñja mā
ca pamādo, cakkaṃ pavattaya sabbapāṇina’’nti (jā. 1.7.149) ettha dāne. ‘‘Dibbaṃ
cakkaratanaṃ pāturahosī’’ti (dī. ni. 2.243) ettha ratanacakke. ‘‘Mayā
pavattitaṃ cakka’’nti (su. ni. 562) ettha dhammacakke. ‘‘Icchāhatassa posassa,
cakkaṃ bhamati matthake’’ti (jā. 1.1.104; 1.5.103) ettha uracakke.
‘‘Khurapariyantena cepi cakkenā’’ti (dī. ni. 1.166) ettha paharaṇacakke.
‘‘Asanivicakka’’nti (dī. ni. 3.61; saṃ. ni. 2.162) ettha asanimaṇḍale. Idha
panāyaṃ dhammacakke adhippeto.
Taṃ
pana dhammacakkaṃ duvidhaṃ hoti paṭivedhañāṇañceva desanāñāṇañca. Tattha
paññāpabhāvitaṃ attano ariyabalāvahaṃ paṭivedhañāṇaṃ. Karuṇāpabhāvitaṃ
sāvakānaṃ ariyabalāvahaṃ desanāñāṇaṃ. Tattha paṭivedhañāṇaṃ uppajjamānaṃ
uppannanti duvidhaṃ. Tañhi abhinikkhamanato yāva arahattamaggā uppajjamānaṃ,
phalakkhaṇe uppannaṃ nāma. Tusitabhavanato vā yāva mahābodhipallaṅke arahattamaggā uppajjamānaṃ, phalakkhaṇe uppannaṃ nāma.
Dīpaṅkaradasabalato paṭṭhāya vā yāva arahattamaggā uppajjamānaṃ, phalakkhaṇe
uppannaṃ nāma. Desanāñāṇampi pavattamānaṃ pavattanti duvidhaṃ. Tañhi yāva
aññātakoṇḍaññassa sotāpattimaggā pavattamānaṃ, phalakkhaṇe pavattaṃ nāma. Tesu
paṭivedhañāṇaṃ lokuttaraṃ, desanāñāṇaṃ lokiyaṃ. Ubhayampi
panetaṃ aññehi asādhāraṇaṃ, buddhānaṃyeva orasañāṇaṃ.
Idāni
yehi balehi samannāgato tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, yāni āditova
‘‘dasa kho panimāni, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalānī’’ti nikkhittāni,
tāni vitthārato dassetuṃ katamāni dasa?
Idha, sāriputta, tathāgato ṭhānañca ṭhānatotiādimāha. Tattha ṭhānañca ṭhānatoti kāraṇañca kāraṇato.
Kāraṇañhi yasmā tattha phalaṃ tiṭṭhati tadāyattavuttiyāya uppajjati ceva
pavattati ca, tasmā ṭhānanti vuccati. Taṃ bhagavā ‘‘ye ye dhammā yesaṃ yesaṃ
dhammānaṃ hetū paccayā uppādāya, taṃ taṃ ṭhānaṃ. Ye ye dhammā yesaṃ yesaṃ
dhammānaṃ na hetū na paccayā uppādāya, taṃ taṃ aṭṭhāna’’nti pajānanto ṭhānañca
ṭhānato aṭṭhānañca aṭṭhānato yathābhūtaṃ pajānāti. Abhidhamme panetaṃ, ‘‘tattha
katamaṃ tathāgatassa ṭhānañca ṭhānato aṭṭhānañca aṭṭhānato yathābhūtaṃ
ñāṇa’’ntiādinā (vibha. 809) nayena vitthāritameva. Yampīti yena ñāṇena. Idampi,
sāriputta, tathāgatassāti idampi ṭhānāṭṭhānañāṇaṃ tathāgatassa tathāgatabalaṃ
nāma hotīti attho. Evaṃ sabbapadesu yojanā veditabbā.
Kammasamādānānanti
samādiyitvā katānaṃ kusalākusalakammānaṃ, kammameva vā
kammasamādānaṃ. Ṭhānaso hetusoti
paccayato ceva hetuto ca. Tattha gatiupadhikālapayogā vipākassa ṭhānaṃ. Kammaṃ
hetu. Imassa pana ñāṇassa vitthārakathā ‘‘atthekaccāni pāpakāni kammasamādānāni
gatisampattipaṭibāḷhāni na vipaccantī’’tiādinā (vibha. 810) nayena abhidhamme āgatāyeva.
Sabbatthagāmininti
sabbagatigāminiṃ agatigāminiñca. Paṭipadanti
maggaṃ. Yathābhūtaṃ pajānātīti
bahūsupi manussesu ekameva pāṇaṃ ghātentesu imassa cetanā
nirayagāminī bhavissati, imassa cetanā tiracchānayonigāminīti iminā nayena
ekavatthusmimpi kusalākusalacetanāsaṅkhātānaṃ paṭipattīnaṃ aviparītato sabhāvaṃ
jānāti. Imassa ca ñāṇassa vitthārakathā ‘‘tattha katamaṃ tathāgatassa
sabbatthagāminiṃ paṭipadaṃ yathābhūtaṃ ñāṇaṃ? Idha tathāgato ayaṃ maggo ayaṃ paṭipadā nirayagāmīti pajānātī’’tiādinā (vibha.
811) nayena abhidhamme
āgatāyeva.
Anekadhātunti
cakkhudhātuādīhi kāmadhātuādīhi vā dhātūhi bahudhātuṃ. Nānādhātunti tāsaṃyeva dhātūnaṃ vilakkhaṇatāya nānappakāradhātuṃ. Lokanti khandhāyatanadhātulokaṃ. Yathābhūtaṃ pajānātīti tāsaṃ tāsaṃ
dhātūnaṃ aviparītato sabhāvaṃ paṭivijjhati. Idampi ñāṇaṃ ‘‘tattha katamaṃ
tathāgatassa anekadhātunānādhātulokaṃ yathābhūtaṃ ñāṇaṃ, idha tathāgato
khandhanānattaṃ pajānātī’’tiādinā nayena abhidhamme vitthāritameva.
Nānādhimuttikatanti
hīnādīhi adhimuttīhi nānādhimuttikabhāvaṃ. Idampi ñāṇaṃ, ‘‘tattha katamaṃ
tathāgatassa sattānaṃ nānādhimuttikataṃ yathābhūtaṃ ñāṇaṃ, idha tathāgato
pajānāti santi sattā hīnādhimuttikā’’ti ādinā nayena abhidhamme vitthāritameva.
Parasattānanti
padhānasattānaṃ. Parapuggalānanti
tato paresaṃ hīnasattānaṃ. Ekatthameva vā etaṃ padadvayaṃ.
Veneyyavasena pana dvedhā vuttaṃ. Indriyaparopariyattanti
saddhādīnaṃ indriyānaṃ parabhāvaṃ aparabhāvañca, vuddhiñca hāniñcāti attho.
Imassapi ñāṇassa vitthārakathā – ‘‘tattha katamaṃ tathāgatassa parasattānaṃ
parapuggalānaṃ indriyaparopariyattaṃ yathābhūtaṃ ñāṇaṃ, idha tathāgato sattānaṃ
āsayaṃ pajānāti anusayaṃ pajānātī’’tiādinā (vibha. 814) nayena abhidhamme āgatāyeva.
Jhānavimokkhasamādhisamāpattīnanti paṭhamādīnaṃ catunnaṃ jhānānaṃ rūpī rūpāni
passatītiādīnaṃ aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ savitakkasavicārādīnaṃ tiṇṇaṃ samādhīnaṃ
paṭhamajjhānasamāpattiādīnañca navannaṃ anupubbasamāpattīnaṃ. Saṃkilesanti hānabhāgiyadhammaṃ. Vodānanti visesabhāgiyadhammaṃ. Vuṭṭhānanti ‘‘vodānampi vuṭṭhānaṃ.
Tamhā tamhā samādhimhā vuṭṭhānampi vuṭṭhāna’’nti (vibha.
828) evaṃ vuttapaguṇajjhānañceva bhavaṅgaphalasamāpattiyo ca. Heṭṭhimaṃ
heṭṭhimañhi paguṇajjhānaṃ uparimassa uparimassa padaṭṭhānaṃ hoti. Tasmā
‘‘vodānampi vuṭṭhāna’’nti vuttaṃ. Bhavaṅgena pana sabbajjhānehi vuṭṭhānaṃ hoti.
Phalasamāpattiyā nirodhasamāpattito vuṭṭhānaṃ hoti. Taṃ
sandhāya ‘‘tamhā tamhā samādhimhā vuṭṭhānampi vuṭṭhāna’’nti vuttaṃ. Idampi
ñāṇaṃ ‘‘tattha katamaṃ tathāgatassa jhānavimokkhasamādhisamāpattīnaṃ saṃkilesaṃ
vodānaṃ vuṭṭhānaṃ yathābhūtaṃ ñāṇaṃ, jhāyīti cattāro jhāyī, atthekacco jhāyī
sampattiṃyeva samānaṃ vipattīti paccetī’’tiādinā (vibha. 828) nayena abhidhamme vitthāritaṃ. Sattannaṃ
ñāṇānaṃ vitthārakathāvinicchayo sammohavinodaniyaṃ vibhaṅgaṭṭhakathāyaṃ vutto. Pubbenivāsānussatidibbacakkhuñāṇakathā
visuddhimagge vitthāritā.
Āsavakkhayakathā bhayabherave.
149. Imāni kho sāriputtāti
yāni pubbe ‘‘dasa kho panimāni, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalānī’’ti
avocaṃ, imāni tānīti appanaṃ karoti. Tattha paravādīkathā
hoti – dasabalañāṇaṃ nāma
pāṭiyekkaṃ natthi, sabbaññutaññāṇassevāyaṃ pabhedoti. Taṃ na tathā daṭṭhabbaṃ.
Aññameva hi dasabalañāṇaṃ, aññaṃ sabbaññutaññāṇaṃ. Dasabalañāṇañhi
sakasakakiccameva jānāti. Sabbaññutañāṇaṃ tampi tato avasesampi pajānāti.
Dasabalañāṇesu hi paṭhamaṃ kāraṇākāraṇameva jānāti. Dutiyaṃ
kammantaravipākantarameva. Tatiyaṃ kammaparicchedameva. Catutthaṃ
dhātunānattakāraṇameva. Pañcamaṃ sattānaṃ ajjhāsayādhimuttimeva. Chaṭṭhaṃ
indriyānaṃ tikkhamudubhāvameva. Sattamaṃ jhānādīhi saddhiṃ tesaṃ
saṃkilesādimeva. Aṭṭhamaṃ pubbenivutthakhandhasantatimeva. Navamaṃ sattānaṃ
cutipaṭisandhimeva. Dasamaṃ saccaparicchedameva. Sabbaññutaññāṇaṃ pana etehi
jānitabbañca tato uttariñca pajānāti. Etesaṃ pana kiccaṃ na sabbaṃ karoti.
Tañhi jhānaṃ hutvā appetuṃ na sakkoti, iddhi hutvā vikubbituṃ na sakkoti, maggo
hutvā kilese khepetuṃ na sakkoti. Apica paravādī evaṃ pucchitabbo –
‘‘dasabalañāṇaṃ nāma etaṃ savitakkasavicāraṃ avitakkavicāramattaṃ
avitakkaavicāraṃ kāmāvacaraṃ rūpāvacaraṃ arūpāvacaraṃ lokiyaṃ lokuttara’’nti?
Jānanto paṭipāṭiyā satta ñāṇāni savitakkasavicārānīti vakkhati. Tato parāni dve
avitakkaavicārānīti vakkhati. Āsavakkhayañāṇaṃ siyā
savitakkasavicāraṃ, siyā avitakkavicāramattaṃ, siyā avitakkaavicāranti
vakkhati. Tathā paṭipāṭiyā satta kāmāvacarāni, tato parāni dve rūpāvacarāni,
avasāne ekaṃ lokuttaranti vakkhati, sabbaññutaññāṇaṃ pana savitakkasavicārameva
kāmāvacarameva lokiyamevāti vakkhati.
Evamettha
anupadavaṇṇanaṃ katvā idāni yasmā tathāgato paṭhamaṃyeva
ṭhānāṭṭhānañāṇena veneyyasattānaṃ āsavakkhayādhigamassa ceva anadhigamassa ca
ṭhānāṭṭhānabhūtaṃ kilesāvaraṇābhāvaṃ passati, lokiyasammādiṭṭhiṭṭhānadassanato
niyatamicchādiṭṭhiṭṭhānābhāvadassanato ca. Atha nesaṃ kammavipākañāṇena
vipākāvaraṇābhāvaṃ passati, tihetukapaṭisandhidassanato.
Sabbatthagāminīpaṭipadāñāṇena kammāvaraṇābhāvaṃ passati,
anantariyakammābhāvadassanato. Evaṃ anāvaraṇānaṃ anekadhātunānādhātuñāṇena
anukūladhammadesanatthaṃ cariyavisesaṃ passati, dhātuvemattadassanato. Atha
nesaṃ nānādhimuttikatāñāṇena adhimuttiṃ passati, payogaṃ anādiyitvāpi
adhimuttivasena dhammadesanatthaṃ. Athevaṃ diṭṭhādhimuttīnaṃ yathāsatti yathābalaṃ
dhammaṃ desetuṃ indriyaparopariyattañāṇena indriyaparopariyattaṃ passati,
saddhādīnaṃ tikkhamudubhāvadassanato. Evaṃ pariññātindriyaparopariyattā pana te
sace dūre honti, paṭhamajjhānādīsu vasībhūtattā iddhivisesena te khippaṃ
upagacchati. Upagantvā ca nesaṃ pubbenivāsānussatiñāṇena pubbajātibhāvanaṃ,
dibbacakkhuñāṇānubhāvato pattabbena cetopariyañāṇena sampati cittavisesaṃ
passanto āsavakkhayañāṇānubhāvena āsavakkhayagāminiyā paṭipadāya
vigatasammohattā āsavakkhayāya dhammaṃ deseti. Tasmā iminā anukkamena imāni
dasabalāni vuttānīti veditabbāni.
Taṃ, sāriputta, vācaṃ appahāyātiādīsu puna evarūpiṃ vācaṃ na vakkhāmīti vadanto taṃ vācaṃ
pajahati nāma. Puna evarūpaṃ cittaṃ na uppādessāmīti cintento cittaṃ pajahati
nāma. Puna evarūpaṃ diṭṭhiṃ na gaṇhissāmīti pajahanto diṭṭhiṃ paṭinissajjati
nāma, tathā akaronto neva pajahati, na paṭinissajjati. So yathābhataṃ nikkhitto evaṃ nirayeti yathā nirayapālehi āharitvā
niraye ṭhapito, evaṃ niraye ṭhapitoyevāti veditabbo.
Idānissa
atthasādhakaṃ upamaṃ dassento seyyathāpītiādimāha. Tattha sīlasampannotiādīsu lokiyalokuttarā sīlasamādhipaññā veditabbā.
Lokuttaravaseneva vinivattetumpi vaṭṭati. Ayañhi sammāvācākammantājīvehi
sīlasampanno, sammāvāyāmasatisamādhīhi samādhisampanno, sammādiṭṭhisaṅkappehi
paññāsampanno, so evaṃ sīlādisampanno bhikkhu yathā diṭṭheva dhamme imasmiṃyeva
attabhāve aññaṃ ārādheti arahattaṃ pāpuṇāti, evaṃsampadamidaṃ, sāriputta,
vadāmi imampi kāraṇaṃ evarūpameva.
Yathā hi maggānantaraṃ avirajjhitvāva phalaṃ nibbattati, evameva imassāpi
puggalassa cutianantaraṃ avirajjhitvāva niraye paṭisandhi hotīti dasseti.
Sakalasmiñhi buddhavacane imāya upamāya gāḷhataraṃ katvā vuttaupamā nāma
natthi.
150. Vesārajjānīti
ettha sārajjapaṭipakkho vesārajjaṃ, catūsu ṭhānesu sārajjābhāvaṃ
paccavekkhantassa uppannasomanassamayañāṇassetaṃ nāmaṃ. Sammāsambuddhassa te paṭijānatoti ahaṃ sammāsambuddho, sabbe
dhammā mayā abhisambuddhāti evaṃ paṭijānato tava. Anabhisambuddhāti ime nāma dhammā tayā anabhisambuddhā. Tatra vatāti tesu vata
anabhisambuddhāti evaṃ dassitadhammesu. Sahadhammenāti
sahetunā sakāraṇena vacanena sunakkhatto viya vippalapanto appamāṇaṃ. Nimittametanti ettha puggalopi
dhammopi nimittanti adhippeto. Taṃ puggalaṃ na passāmi, yo maṃ paṭicodessati,
taṃ dhammaṃ na passāmi, yaṃ dassetvā ayaṃ nāma dhammo tayā anabhisambuddhoti
maṃ paṭicodessatīti ayamettha attho. Khemappattoti
khemaṃ patto, sesapadadvayaṃ imasseva vevacanaṃ. Sabbañhetaṃ vesārajjañāṇameva
sandhāya vuttaṃ. Dasabalassa hi ayaṃ nāma dhammo tayā anabhisambuddhoti codakaṃ
puggalaṃ vā codanākāraṇaṃ anabhisambuddhadhammaṃ vā apassato sabhāvabuddhoyeva
vā samāno ahaṃ buddhosmīti vadāmīti paccavekkhantassa balavataraṃ somanassaṃ
uppajjati. Tena sampayuttaṃ ñāṇaṃ vesārajjaṃ
nāma. Taṃ sandhāya ‘‘khemappatto’’tiādimāha. Evaṃ sabbattha attho veditabbo.
Antarāyikā dhammāti
ettha pana antarāyaṃ karontīti antarāyikā,
te atthato sañcicca vītikkantā satta āpattikkhandhā. Sañcicca vītikkantañhi
antamaso dukkaṭa-dubbhāsitampi maggaphalānaṃ antarāyaṃ karoti. Idha pana
methunadhammo adhippeto. Methunaṃ sevato hi yassa kassaci
nissaṃsayameva maggaphalānaṃ antarāyo hoti. Yassa kho pana tesu atthāyāti rāgakkhayādīsu yassa atthāya. Dhammo desitoti asubhabhāvanādidhammo
kathito. Tatra vata
manti tasmiṃ aniyyānikadhamme maṃ. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.
Dasabalañāṇādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Aṭṭhaparisavaṇṇanā
151. ‘‘Aṭṭha kho imā sāriputtā’’ti idaṃ
kasmā āraddhaṃ? Vesārajjañāṇassa baladassanatthaṃ. Yathā hi byattaṃ parisaṃ
ajjhogāhetvā viññūnaṃ cittaṃ ārādhanasamatthāya kathāya dhammakathikassa
chekabhāvo paññāyati, evaṃ imā aṭṭha parisā patvā vesārajjañāṇassa vesārajjabhāvo
sakkā ñātunti vesārajjañāṇassa balaṃ dassento, aṭṭha kho imā sāriputtātiādimāha.
Tattha
khattiyaparisāti khattiyānaṃ
sannipatitvā nisinnaṭṭhānaṃ, esa nayo sabbattha. Mārakāyikānaṃ pana
sannipatitvā nisinnaṭṭhānaṃ māraparisā veditabbā, na mārānaṃ. Sabbāpi cetā
parisā uggaṭṭhānadassanavasena gahitā. Manussā hi ‘‘ettha rājā nisinno’’ti
pakativacanampi vattuṃ na sakkonti, kacchehi sedā muccanti. Evaṃ uggā
khattiyaparisā. Brāhmaṇā tīsu vedesu kusalā honti, gahapatayo nānāvohāresu ceva
akkharacintāya ca. Samaṇā sakavādaparavādesu kusalā honti. Tesaṃ majjhe
dhammakathākathanaṃ nāma ativiya bhāro. Amanussāpi uggā honti. Amanussoti hi
vuttamattepi manussānaṃ sakalasarīraṃ saṅkampati, tesaṃ rūpaṃ vā disvā saddaṃ
vā sutvā sattā visaññino honti. Evaṃ amanussaparisā uggā. Tāsupi
dhammakathākathanaṃ nāma ativiya bhāro. Iti uggaṭṭhānadassanavasena tā gahitāti
veditabbā.
Ajjhogāhatīti
anupavisati. Anekasataṃ khattiyaparisanti
bimbisārasamāgama ñātisamāgama licchavīsamāgamasadisaṃ. Aññesupi cakkavāḷesu
labbhatiyeva. Kiṃ pana bhagavā aññāni cakkavāḷānipi gacchatīti? Āma gacchati.
Kīdiso hutvā? Yādisā te, tādisoyeva. Tenevāha ‘‘abhijānāmi kho
panāhaṃ, ānanda, anekasataṃ khattiyaparisaṃ upasaṅkamitā, tattha yādisako tesaṃ
vaṇṇo hoti, tādisako mayhaṃ vaṇṇo hoti. Yādisako tesaṃ saro
hoti, tādisako mayhaṃ saro hoti. Dhammiyā kathāya sandassemi samādapemi
samuttejemi sampahaṃsemi. Bhāsamānañca maṃ na jānanti ‘ko nu kho ayaṃ bhāsati
devo vā manusso vā’ti. Dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā
sampahaṃsetvā antaradhāyāmi. Antarahitañca maṃ na jānanti
‘ko nu kho ayaṃ antarahito devo vā manusso vā’’’ti (dī. ni. 2.172).
Khattiyā
keyūraṅgadamālāgandhādivibhūsitā nānāvirāgavasanā āmukkamaṇikuṇḍalā moḷidharā
honti. Kiṃ bhagavāpi evaṃ attānaṃ maṇḍeti? Te ca odātāpi honti kāḷāpi
maṃgulacchavīpi. Kiṃ satthāpi evarūpo hotīti? Satthā attano pabbajitavaseneva
gacchati, tesaṃ pana tādiso hutvā upaṭṭhāti, gantvā rājāsane nisinnaṃ attānaṃ
dasseti, tesaṃ ‘‘ajja amhākaṃ rājā ativiya virocatī’’ti hoti. Te ca bhinnassarāpi
honti gaggassarāpi kākassarāpi. Satthā brahmassareneva dhammaṃ katheti.
Tādisako mayhaṃ saro hotīti idaṃ pana bhāsantaraṃ sandhāya kathitaṃ. Manussānaṃ
pana taṃ sutvā ‘‘ajja rājā madhurena sarena kathetī’’ti hoti. Kathetvā pakkante
ca bhagavati puna rājānaṃ āgataṃ disvā ‘‘ko nu kho aya’’nti vīmaṃsā uppajjati.
Idaṃ
vuttaṃ hoti – ko nu kho ayaṃ imasmiṃ ṭhāne idāneva māgadhabhāsāya sīhaḷabhāsāya
madhurena sarena kathento antarahito, kiṃ devo, udāhu manussoti? Kimatthaṃ
panevaṃ ajānantānaṃ dhammaṃ desetīti? Vāsanatthāya. Evaṃ sutopi hi dhammo
anāgate paccayo hotiyevāti anāgataṃ paṭicca desetīti.
Sannisinnapubbanti
saṅgamma nisinnapubbaṃ. Sallapitapubbanti
ālāpasallāpo katapubbo. Sākacchāti
dhammasākacchāpi samāpajjitapubbā. Anekasataṃ
brāhmaṇaparisantiādīnampi soṇadaṇḍasamāgamādivasena ceva
aññacakkavāḷavasena ca sambhavo veditabbo.
Catuyonivaṇṇanā
152. Catasso kho imā, sāriputta,
yoniyoti ettha yonīti
khandhakoṭṭhāsassapi kāraṇassapi passāvamaggassapi nāmaṃ. ‘‘Catasso nāgayoniyo
catasso supaṇṇayoniyo’’ti (saṃ. ni. 3.342, 392) ettha hi
khandhakoṭṭhāso yoni nāma. ‘‘Yoni hesā bhūmija phalassa
adhigamāyā’’ti (ma. ni. 2.227) ettha kāraṇaṃ. ‘‘Na cāhaṃ brāhmaṇaṃ brūmi,
yonijaṃ mattisambhava’’nti (ma. ni. 2.457; dha. pa. 396) ettha passāvamaggo.
Idha pana khandhakoṭṭhāso yonīti adhippeto. Tattha aṇḍe jātā aṇḍajā. Jalābumhi jātā jalābujā. Saṃsede jātā saṃsedajā. Vinā etehi kāraṇehi
uppatitvā viya nibbattā abhinibbattāti opapātikā.
Abhinibbhijja jāyantīti bhinditvā nikkhamanavasena jāyanti. Pūtikuṇape vātiādīhi aniṭṭhaṭṭhānāneva
dassitāni. Iṭṭhesupi sappitelamadhuphāṇitādīsu sattā jāyanti eva. Devātiādīsu cātumahārājikato paṭṭhāya
uparidevā opapātikāva honti. Bhūmadevā pana catuyonikā. Ekacce ca manussāti manussesu keci devā viya opapātikā ca honti.
Yebhuyyena panete jalābujāva, aṇḍajāpi ettha kontaputtā dvebhātiyattherā viya,
saṃsedajāpi padumagabbhe nibbattapokkharasātibrāhmaṇapadumavatidevīādayo viya,
evaṃ vinipātikesu nijjhāmataṇhikapetā nerayikā viya opapātikāyeva, avasesā
catuyonikāpi honti. Yathā te evaṃ yakkhāpi
sabbacatuppadapakkhijātidīghajātiādayopi sabbe catuyonikāyeva.
Catuyonivaṇṇanā niṭṭhitā.
Pañcagativaṇṇanā
153. Pañca kho imā,
sāriputta, gatiyoti ettha sukatadukkaṭakammavasena gantabbāti gatiyo.
Apica gatigati nibbattigati ajjhāsayagati vibhavagati nipphattigatīti bahuvidhā
gati nāma. Tattha ‘‘taṃ gatiṃ pecca gacchāmī’’ti (a. ni. 4.184) ca, ‘‘yassa
gatiṃ na jānanti, devā gandhabbamānusā’’ti (dha. pa. 420) ca ayaṃ gatigati nāma. ‘‘Imesaṃ kho ahaṃ
bhikkhūnaṃ sīlavantānaṃ neva jānāmi gatiṃ vā agatiṃ vā’’ti (ma. ni. 1.508) ayaṃ
nibbattigati nāma. ‘‘Evampi kho
te ahaṃ brahme gatiṃ ca pajānāmi jutiñca pajānāmī’’ti (ma.
ni. 1.503) ayaṃ ajjhāsayagati
nāma. ‘‘Vibhavo gati dhammānaṃ, nibbānaṃ arahato gatī’’ti (pari. 339) ayaṃ vibhavagati nāma. ‘‘Dveyeva gatiyo
bhavanti anaññā’’ti (dī. ni. 1.258; 2.34) ayaṃ nipphattigati nāma. Tāsu idha gatigati
adhippetā.
Nirayotiādīsu
niratiatthena nirassādaṭṭhena nirayo. Tiriyaṃ añchitāti tiracchānā.
Tesaṃ yoni tiracchānayoni.
Peccabhāvaṃ pattānaṃ visayoti pettivisayo.
Manaso ussannattā manussā.
Pañcahi kāmaguṇehi attano attano ānubhāvehi ca dibbantīti devā. Nirayañcāhaṃ, sāriputtātiādīsu
nirayoti saddhiṃ okāsena khandhā. Tiracchānayoniṃ
cātiādīsupi eseva nayo. Maggaṃ
paṭipadanti ubhayenāpi vuttagatisaṃvattanika kammameva dasseti. Yathā ca paṭipannoti yena maggena yāya
paṭipadāya paṭipannoti ubhayampi ekato katvā niddisati. Apāyantiādīsu vaḍḍhisaṅkhātā sukhasaṅkhātā vā ayā apetattā apāyo. Dukkhassa gati paṭisaraṇanti duggati. Dukkaṭakārino ettha
vinipatantīti vinipāto. Nibbānañcāhanti
idaṃ pana na kevalaṃ gatigatimeva, gatinissaraṇaṃ nibbānampi jānāmīti
dassanatthamāha. Idha maggo paṭipadāti
ubhayenāpi ariyamaggova vutto.
Pañcagativaṇṇanā niṭṭhitā.
Ñāṇappavattākāravaṇṇanā
154. Idāni yathāvuttesu sattasu ṭhānesu aṭṭhasu ṭhānesu attano
ñāṇappavattākāraṃ dassento idhāhaṃ,
sāriputtātiādimāha.
Tattha
ekantadukkhāti niccadukkhā
nirantaradukkhā. Tibbāti bahalā.
Kaṭukāti kharā. Seyyathāpītiādīni opammadassanatthaṃ
vuttāni. Tattha kāsūti āvāṭopi
vuccati rāsipi.
‘‘Kinnu
santaramānova, kāsuṃ khaṇasi sārathi;
Puṭṭho
me samma akkhāhi, kiṃ kāsuyā karissasī’’ti. (jā. 2.22.3) –
Ettha
rāsi. Idha pana āvāṭo adhippeto. Tenevāha ‘‘sādhikaporisā’’ti. Tattha sādhikaṃ
porisaṃ pamāṇaṃ assāti sādhikaporisā,
atirekapañcaratanāti attho. Vītaccikānaṃ
vītadhūmānanti etaṃ pariḷāhassa balavabhāvadīpanatthaṃ vuttaṃ, acciyā vā
sati dhūme vā sati, vāto samuṭṭhāti, tena pariḷāho na balavā hoti. Ghammaparetoti ghammānugato. Tasitoti
jātataṇho. Pipāsitoti udakaṃ
pātukāmo. Ekāyanena maggenāti
ekapatheneva maggena, anukkamaniyena ubhosu passesu
nirantarakaṇṭakarukkhagahanena. Paṇidhāyāti
aṅgārakāsuyaṃ patthanā nāma natthi, aṅgārakāsuṃ ārabbha pana iriyāpathassa
ṭhapitattā evaṃ vuttaṃ.
Evameva khoti
ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ – aṅgārakāsu viya hi nirayo daṭṭhabbo.
Aṅgārakāsumaggo viya nirayūpagaṃ kammaṃ. Maggāruḷho viya kammasamaṅgī puggalo.
Cakkhumā puriso viya dibbacakkhuko bhagavā. Yathā so puriso maggāruḷhaṃ disvā vijānāti
‘‘ayaṃ iminā maggena gantvā aṅgārakāsuyaṃ patissatī’’ti, evamevaṃ bhagavā
pāṇātipātādīsu yaṃkiñci kammaṃ āyūhantaṃ evaṃ jānāti ‘‘ayaṃ imaṃ kammaṃ katvā
niraye nibbattissattī’’ti. Yathā so puriso aparabhāge taṃ aṅgārakāsuyā patitaṃ
passati, evameva bhagavā aparabhāge ‘‘so puriso taṃ kammaṃ katvā kuhiṃ
nibbatto’’ti ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbacakkhunā olokento niraye nibbattaṃ passati
pañcavidhabandhanādimahādukkhaṃ anubhavantaṃ. Tattha kiñcāpi tassa
kammāyūhanakāle añño vaṇṇo, niraye nibbattassa añño. Athāpi ‘‘so satto taṃ
kammaṃ katvā kattha nibbatto’’ti olokentassa anekasahassānaṃ sattānaṃ majjhe
ṭhitopi ‘‘ayaṃ so’’ti soyeva satto āpāthaṃ āgacchati, ‘‘dibbacakkhubalaṃ nāma
eta’’nti vadanti.
Dutiyaupamāyaṃ
yasmā aṅgārakāsuyaṃ viya gūthakūpe pariḷāho natthi, tasmā ‘‘ekantadukkhā’’ti
avatvā ‘‘dukkhā’’tiādimāha. Etthāpi purimanayeneva opammasaṃsandanaṃ veditabbaṃ. Imampi hi puggalaṃ bhagavā hatthiyoniādīsu yattha
katthaci nibbattaṃ vadhabandhanaākaḍḍhanavikaḍḍhanādīhi mahādukkhaṃ
anubhavamānaṃ passatiyeva.
Tatiyaupamāyaṃ
tanupattapalāsoti na
abbhapaṭalaṃ viya tanupaṇṇo, viraḷapaṇṇattaṃ panassa sandhāya idaṃ vuttaṃ. Kabaracchāyoti viraḷacchāyo. Dukkhabahulāti pettivisayasmiñhi dukkhameva bahulaṃ, sukhaṃ parittaṃ kadāci anubhavitabbaṃ
hoti, tasmā evamāha. Etthāpi purimanayeneva opammasaṃsandanaṃ veditabbaṃ.
Catutthaupamāyaṃ
bahalapattapalāsoti
nirantarapaṇṇo pattasañchanno. Santacchāyoti
pāsāṇacchattaṃ viya ghanacchāyo. Sukhabahulā
vedanāti manussaloke khattiyakulādīsu sukhabahulā vedanā vedayitabbā
hoti, tā vedayamānaṃ nipannaṃ vā nisinnaṃ vā passāmīti dasseti. Idhāpi
opammasaṃsandanaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.
Pañcamaupamāyaṃ
pāsādoti dīghapāsādo. Ullittāvalittanti anto ceva ullittaṃ
bahi ca avalittaṃ. Phusitaggaḷanti
dvārabāhāhi saddhiṃ supihitakavāṭaṃ. Gonakatthatoti
caturaṅgulādhikalomena kāḷakojavena atthato. Paṭikatthatoti uṇṇāmayena setaattharaṇena atthato. Paṭalikatthatoti ghanapupphakena
uṇṇāmayaattharaṇena atthato. Kadalimigapavarapaccattharaṇoti
kadalimigacammamayena uttamapaccattharaṇena atthato. Taṃ kira paccattharaṇaṃ
setavatthassa upari kadalimigacammaṃ attharitvā sibbetvā karonti. Sauttaracchadoti saha uttaracchadena,
uttaribaddhena rattavitānena saddhinti attho. Ubhatolohitakūpadhānoti sīsūpadhānañca pādūpadhānañcāti
pallaṅkassa ubhato ṭhapitalohitakūpadhāno. Idhāpi upamāsaṃsandanaṃ
purimanayeneva veditabbaṃ.
Ayaṃ
panettha aparabhāgayojanā, yathā so puriso maggāruḷhameva jānāti ‘‘ayaṃ etena
maggena gantvā pāsādaṃ āruyha kūṭāgāraṃ pavisitvā pallaṅke nisīdissati vā
nipajjissati vā’’ti, evamevaṃ bhagavā dānādīsu puññakiriyavatthūsu yaṃkiñci
kusalakammaṃ āyūhantaṃyeva puggalaṃ disvā ‘‘ayaṃ imaṃ katvā devaloke
nibbattissatī’’ti jānāti. Yathā so puriso aparabhāge taṃ pāsādaṃ āruyha kūṭāgāraṃ pavisitvā pallaṅke nisinnaṃ vā
nipannaṃ vā ekantasukhaṃ nirantarasukhaṃ vedanaṃ vedayamānaṃ passati, evamevaṃ
bhagavā aparabhāge ‘‘so taṃ kalyāṇaṃ katvā kuhiṃ nibbatto’’ti ālokaṃ vaḍḍhetvā
dibbacakkhunā olokento devaloke nibbattaṃ passati,
nandanavanādīsu accharāsaṅghaparivutaṃ dibbasampattiṃ anubhavamānaṃ.
Ñāṇappavattākāravaṇṇanā
niṭṭhitā.
Āsavakkhayavāravaṇṇanā
Āsavakkhayavāre
‘‘dibbena cakkhunā’’ti avatvā ‘‘tamenaṃ passāmī’’ti vuttaṃ. Taṃ kasmāti ce?
Niyamābhāvā. Imañhi puggalaṃ dibbacakkhunāpi passissati, cetopariyañāṇenāpi
jānissati, sabbaññutaññāṇenapi jānissatiyeva. Ekantasukhā vedanāti idaṃ kiñcāpi devalokasukhena saddhiṃ
byañjanato ekaṃ, atthato pana nānā hoti. Devalokasukhañhi rāgapariḷāhādīnaṃ
atthitāya na ekanteneva sukhaṃ. Nibbānasukhaṃ pana sabbapariḷāhānaṃ vūpasamāya
sabbākārena ekantasukhaṃ. Upamāyampi ‘‘yathā pāsāde ekantasukhā’’ti vuttaṃ. Taṃ
maggapariḷāhassa avūpasantatāya chātajjhattatāya pipāsābhibhūtatāya ca na
ekantameva sukhaṃ. Vanasaṇḍe pana pokkharaṇiyaṃ oruyha rajojallassa pavāhitattā
maggadarathassa vūpasantatāya bhisamūlakhādanena ceva madhurodakapānena ca
khuppipāsānaṃ vinītatāya udakasāṭakaṃ parivattetvā maṭṭhadukūlaṃ nivāsetvā
taṇḍulatthavikaṃ ussīsake katvā udakasāṭakaṃ pīḷetvā hadaye ṭhapetvā
mandamandena ca vātena bījayamānassa nipannattā sabbākārena ekantasukhaṃ hoti.
Evameva khoti
ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ – pokkharaṇī viya hi ariyamaggo daṭṭhabbo.
Pokkharaṇimaggo viya pubbabhāgapaṭipadā. Maggāruḷho viya
paṭipadāsamaṅgīpuggalo. Cakkhumā puriso viya dibbacakkhu bhagavā. Vanasaṇḍo
viya nibbānaṃ. Yathā so puriso maggāruḷhaṃ disvāva jānāti ‘‘ayaṃ iminā maggena
gantvā pokkharaṇiyaṃ nhatvā ramaṇīye vanasaṇḍe rukkhamūle nisīdissati vā
nipajjissati vā’’ti, evamevaṃ bhagavā paṭipadaṃ pūrentameva nāmarūpaṃ paricchindantameva paccayapariggahaṃ karontameva
lakkhaṇārammaṇāya vipassanāya kammaṃ karontameva jānāti ‘‘ayaṃ imaṃ paṭipadaṃ
pūretvā sabbaāsave khepetvā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttinti evaṃ vuttaṃ
phalasamāpattiṃ upasampajja viharissatī’’ti. Yathā so puriso aparabhāge tāyaṃ pokkharaṇiyaṃ nhatvā vanasaṇḍaṃ
pavisitvā nisinnaṃ vā nipannaṃ vā ekantasukhaṃ vedanaṃ vedayamānaṃ passati,
evameva bhagavā aparabhāge taṃ puggalaṃ paṭipadaṃ pūretvā maggaṃ bhāvetvā
phalaṃ sacchikatvā nirodhasayanavaragataṃ nibbānārammaṇaṃ phalasamāpattiṃ
appetvā ekantasukhaṃ vedanaṃ vedayamānaṃ passati.
Āsavakkhayavāravaṇṇanā
niṭṭhitā.
Dukkarakārikādisuddhivaṇṇanā
155. ‘‘Abhijānāmi kho panāhaṃ, sāriputta,
caturaṅgasamannāgata’’nti idaṃ kasmā āraddhaṃ? Pāṭiyekkaṃ anusandhivasena
āraddhaṃ. Ayaṃ kira sunakkhatto dukkarakārikāya suddhi hotīti evaṃ laddhiko.
Athassa bhagavā mayā ekasmiṃ attabhāve ṭhatvā caturaṅgasamannāgataṃ dukkaraṃ
kataṃ, dukkarakārako nāma mayā sadiso natthi. Dukkarakārena suddhiyā sati
ahameva suddho bhaveyyanti dassetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. Apica ayaṃ sunakkhatto
dukkarakārikāya pasanno, so cassa pasannabhāvo, ‘‘addasā kho, bhaggava,
sunakkhatto licchaviputto acelaṃ korakkhattiyaṃ catukkuṇḍikaṃ chamānikiṇṇaṃ
bhakkhasaṃ mukhena khādantaṃ mukhena bhuñjantaṃ. Disvānassa etadahosi ‘sādhu
rūpo vata, bho, ayaṃ samaṇo catukkuṇḍiko chamānikiṇṇaṃ bhakkhasaṃ mukheneva
khādati, mukheneva bhuñjatī’’’ti evamādinā pāthikasutte (dī. ni. 3.7) āgatanayena veditabbo.
Atha
bhagavā ayaṃ dukkarakārikāya pasanno, mayā ca etasmiṃ attabhāve ṭhatvā
caturaṅgasamannāgataṃ dukkaraṃ kataṃ, dukkarakāre pasīdantenāpi anena mayi
pasīditabbaṃ siyā, sopissa pasādo mayi natthīti dassento imaṃ desanaṃ ārabhi.
Tatra
brahmacariyanti
dānampi veyyāvaccampi sikkhāpadampi brahmavihārāpi dhammadesanāpi
methunaviratipi sadārasantosopi uposathopi ariyamaggopi sakalasāsanampi
ajjhāsayopi vīriyampi vuccati.
Kissa
suciṇṇassa ayaṃ vipāko;
Iddhī
jutī balavīriyūpapatti,
Idañca
te nāga mahāvimānaṃ.
Saddhā
ubho dānapatī ahumhā;
Opānabhūtaṃ
me gharaṃ tadāsi,
Santappitā
samaṇabrāhmaṇā ca.
Taṃ
me vataṃ taṃ pana brahmacariyaṃ,
Tassa
suciṇṇassa ayaṃ vipāko;
Iddhī
jutī balavīriyūpapatti,
Idañca
me dhīra mahāvimāna’’nti. (jā. 2.22.1592, 1593, 1595) –
Imasmiñhi
puṇṇakajātake dānaṃ brahmacariyanti vuttaṃ.
‘‘Kena
pāṇi kāmadado, kena pāṇi madhussavo;
Kena
te brahmacariyena, puññaṃ pāṇimhi ijjhati.
Tena
pāṇi kāmadado, tena pāṇi madhussavo;
Tena
me brahmacariyena, puññaṃ pāṇimhi ijjhatī’’ti. (pe. va. 275) –
Imasmiṃ
aṅkurapetavatthusmiṃ veyyāvaccaṃ brahmacariyanti vuttaṃ.
‘‘Evaṃ kho taṃ, bhikkhave, tittiriyaṃ nāma brahmacariyaṃ ahosī’’ti (cūḷava.
311) imasmiṃ tittirajātake pañcasikkhāpadaṃ brahmacariyanti vuttaṃ. ‘‘Taṃ kho
pana me pañcasikha brahmacariyaṃ neva nibbidāya na virāgāya na nirodhāya,
yāvadeva brahmalokūpapattiyā’’ti (dī. ni. 2.329) imasmiṃ mahāgovindasutte brahmavihārā brahmacariyanti
vuttaṃ. ‘‘Ekasmiṃ brahmacariyasmiṃ, sahassaṃ maccuhāyina’’nti (saṃ. ni. 1.184)
ettha dhammadesanā brahmacariyanti vuttā. ‘‘Pare abrahmacārī bhavissanti,
mayamettha brahmacārī bhavissāmā’’ti (ma. ni. 1.83) sallekhasutte methunavirati
brahmacariyanti vuttā.
Amhe
ca bhariyā nātikkamanti;
Aññatra
tāhi brahmacariyaṃ carāma,
Tasmā
hi amhaṃ daharā na mīyare’’ti. (jā. 1.10.97) –
Mahādhammapālajātake
sadārasantoso brahmacariyanti vutto.
‘‘Hīnena
brahmacariyena, khattiye upapajjati;
Majjhimena
ca devattaṃ, uttamena visujjhatī’’ti. (jā. 1.8.75) –
Evaṃ
nimijātake attadamanavasena kato aṭṭhaṅgiko uposatho
brahmacariyanti vutto. ‘‘Idaṃ kho pana me, pañcasikha, brahmacariyaṃ
ekantanibbidāya virāgāya…pe… ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo’’ti (dī. ni. 2.329)
mahāgovindasuttasmiññeva
ariyamaggo brahmacariyanti vutto. ‘‘Tayidaṃ brahmacariyaṃ iddhañceva phītañca
vitthārikaṃ bāhujaññaṃ puthubhūtaṃ yāva devamanussehi suppakāsita’’nti (dī. ni.
3.174) pāsādikasutte sikkhattayasaṅgahaṃ sāsanaṃ brahmacariyanti vuttaṃ.
Vipakkabrahmacariyosmi,
evaṃ jānāhi gāmaṇī’’ti. (jā. 1.1.8) –
Ettha
ajjhāsayo brahmacariyanti vutto. Idha pana vīriyaṃ brahmacariyanti adhippetaṃ. Vīriyabrahmacariyassa hi idameva suttaṃ.
Tadetaṃ ekasmiṃ attabhāve catubbidhassa dukkarassa katattā
caturaṅgasamannāgatanti vuttaṃ.
Tapassī sudaṃ homīti
sudanti nipātamattaṃ,
tapanissitako homīti attho. Paramatapassīti
paramo tapassī, tapanissitakānaṃ uttamo. Lūkho sudaṃ homīti lūkho homi. Jegucchīti pāpajegucchiko. Pavivitto
sudaṃ homīti pavivitto ahaṃ homi. Tatrāssu me idaṃ, sāriputtāti tatra caturaṅge brahmacariye idaṃ
mama tapassitāya hoti, tapanissitakabhāve mayhaṃ idaṃ acelakāditapassitakattaṃ
hotīti dasseti.
Tattha
acelakoti
niccelo naggo. Muttācāroti
visaṭṭhācāro, uccārakammādīsu lokiyakulaputtācārena virahito, ṭhitakova uccāraṃ
karomi, passāvaṃ karomi, khādāmi bhuñjāmi ca. Hatthāpalekhanoti hatthe piṇḍamhi ṭhite jivhāya hatthaṃ
apalikhāmi, uccāraṃ vā katvā hatthasmiññeva daṇḍakasaññī hutvā hatthena
apalikhāmīti dasseti. Te kira daṇḍakaṃ sattoti paññapenti, tasmā tesaṃ
paṭipadaṃ pūrento evamakāsi. Bhikkhāgahaṇatthaṃ ehi bhaddanteti vutto na etīti na ehibhaddantiko. Tena hi tiṭṭha
bhaddanteti vuttopi na tiṭṭhatīti na
tiṭṭhabhaddantiko. Tadubhayampi titthiyā evaṃ etassa
vacanaṃ kataṃ bhavissatīti na karonti. Ahampi evaṃ akāsinti dasseti. Abhihaṭanti puretaraṃ gahetvā āhaṭaṃ
bhikkhaṃ. Uddissakatanti idaṃ
tumhe uddissa katanti evaṃ ārocitabhikkhaṃ. Na nimantananti asukaṃ nāma kulaṃ vā vīthiṃ vā gāmaṃ vā
paviseyyāthāti evaṃ nimantitabhikkhampi na sādiyāmi na gaṇhāmi.
Na kumbhimukhāti
kumbhito uddharitvā diyyamānaṃ bhikkhaṃ na gaṇhāmi. Na kaḷopimukhāti kaḷopīti ukkhali vā pacchi vā. Tatopi na gaṇhāmi.
Kasmā? Kumbhikaḷopiyo maṃ nissāya kaṭacchunā pahāraṃ
labhantīti. Na eḷakamantaranti
ummāraṃ antaraṃ katvā diyyamānaṃ na gaṇhāmi. Kasmā? Ayaṃ maṃ nissāya
antarakaraṇaṃ labhatīti. Daṇḍamusalesupi eseva nayo. Na dvinnanti dvīsu bhuñjamānesu ekasmiṃ uṭṭhāya dente na gaṇhāmi.
Kasmā? Kabaḷantarāyo hotīti. Na
gabbhiniyātiādīsu pana gabbhiniyā kucchiyaṃ dārako kilamati, pāyantiyā
dārakassa khīrantarāyo hoti, purisantaragatāya ratiantarāyo hotīti na gaṇhāmi. Na saṃkittīsūti saṃkittetvā
katabhattesu. Dubbhikkhasamaye kira acelakasāvakā acelakānaṃ atthāya tato tato
taṇḍulādīni samādapetvā bhattaṃ pacanti. Ukkaṭṭhācelako tatopi na paṭiggaṇhāti.
Na yattha sāti
yattha sunakho piṇḍaṃ labhissāmīti upaṭṭhito hoti, tattha tassa adatvā āhaṭaṃ
na gaṇhāmi. Kasmā? Etassa piṇḍantarāyo hotīti. Saṇḍasaṇḍacārinīti samūhasamūhacārinī, sace hi acelakaṃ disvā
imassa bhikkhaṃ dassāmāti mānusakā bhattagehaṃ pavisanti. Tesu ca pavisantesu
kaḷopimukhādīsu nilīnā makkhikā uppatitvā saṇḍasaṇḍā caranti. Tato āhaṭaṃ bhikkhaṃ na gaṇhāmi. Kasmā? Maṃ nissāya makkhikānaṃ
gocarantarāyo jātoti, ahampi tathā akāsiṃ. Na thusodakanti sabbasassasambhārehi kataṃ loṇasovīrakaṃ. Ettha ca
surāpānameva sāvajjaṃ, ayaṃ pana sabbesupi sāvajjasaññī.
Ekāgārikoti
yo ekasmiññeva gehe bhikkhaṃ labhitvā nivattati. Ekālopikoti yo ekeneva ālopena yāpeti. Dvāgārikādīsupi eseva nayo. Ekissāpi dattiyāti ekāya dattiyā. Datti nāma ekā khuddakapāti hoti,
yattha aggabhikkhaṃ pakkhipitvā ṭhapenti. Ekāhikanti ekadivasantarikaṃ. Addhamāsikanti addhamāsantarikaṃ. Pariyāyabhattabhojananti vārabhattabhojanaṃ. Ekāhavārena
dvīhavārena sattāhavārena aḍḍhamāsavārenāti evaṃ divasavārena ābhataṃ
bhattabhojanaṃ.
Sākabhakkhoti
allasākabhakkho. Sāmākabhakkhoti
sāmākataṇḍulabhakkho. Nīvārādīsu
nīvārā nāma tāva araññe
sayaṃjātavīhijāti. Daddulanti
cammakārehi cammaṃ likhitvā chaḍḍitakasaṭaṃ. Haṭaṃ vuccati silesopi sevālopi kaṇikārādirukkhaniyyāsopi. Kaṇanti kuṇḍakaṃ. Ācāmoti bhattaukkhalikāya laggo
jhāmaodano, taṃ chaḍḍitaṭṭhāne gahetvā khādati. ‘‘Odanakañjiya’’ntipi vadanti. Piññākādayo pākaṭā eva. Pavattaphalabhojīti patitaphalabhojī.
Sāṇānīti
sāṇavākacoḷāni. Masāṇānīti
missakacoḷāni. Chavadussānīti
matasarīrato chaḍḍitavatthāni. Erakatiṇādīni vā ganthetvā katanivāsanāni. Paṃsukūlānīti pathaviyaṃ
chaḍḍitanantakāni. Tiritānīti
rukkhattacavatthāni. Ajinanti
ajinamigacammaṃ. Ajinakkhipanti
tadeva majjhe phālitaṃ. Sakhurakantipi vadanti. Kusacīranti kusatiṇaṃ ganthetvā katacīraṃ. Vākacīraphalakacīresupi eseva nayo. Kesakambalanti manussakesehi katakambalaṃ. Yaṃ sandhāya vuttaṃ
‘‘yāni kānici, bhikkhave, tantāvutānaṃ vatthānaṃ, kesakambalo tesaṃ paṭikuṭṭho
akkhāyati. Kesakambalo, bhikkhave, sīte sīto, uṇhe uṇho, dubbaṇṇo duggandho
dukkhasamphaso’’ti (a. ni. 3.138). Vālakambalanti
assavālādīhi katakambalaṃ. Ulūkapakkhakanti
ulūkapattāni ganthetvā katanivāsanaṃ. Ubbhaṭṭhakoti
uddhaṃ ṭhitako. Ukkuṭikappadhānamanuyuttoti
ukkuṭikavīriyaṃ anuyutto, gacchantopi ukkuṭikova hutvā uppatitvā uppatitvā gacchati. Kaṇṭakāpassayikoti
ayakaṇṭake vā pakatikaṇṭake vā bhūmiyaṃ koṭṭetvā tattha
cammaṃ attharitvā ṭhānacaṅkamādīni karomīti dasseti. Seyyanti sayantopi tattheva seyyaṃ kappemi. Sāyaṃ tatiyamassāti sāyatatiyakaṃ. Pāto majjhanhike
sāyanti divasassa tikkhattuṃ pāpaṃ pavāhessāmīti udakorohanānuyogaṃ anuyutto
viharāmīti dasseti.
156. Nekavassagaṇikanti
nekavassagaṇasañjātaṃ. Rajojallanti
rajamalaṃ, idaṃ attano rajojallakavatasamādānakālaṃ sandhāya vadati. Jegucchisminti pāpajigucchanabhāve. Yāva udakabindumhipīti yāva
udakathevakepi mama dayā paccupaṭṭhitā hoti, ko pana vādo aññesu
sakkharakaṭhaladaṇḍakavālikādīsu. Te kira udakabinduṃ ca ete ca
sakkharakaṭhalādayo khuddakapāṇāti paññapenti. Tenāha ‘‘yāva udakabindumhipi me
dayā paccupaṭṭhitā hotī’’ti. Udakabindumpi na hanāmi na vināsemi, kiṃ kāraṇā. Māhaṃ khuddake pāṇe visamagate saṅghātaṃ
āpādesinti. Ninnathalatiṇaggarukkhasākhādīsu visamaṭṭhāne gate
udakabindusaṅkhāte khuddakapāṇe saṅghātaṃ vadhaṃ mā
āpādesinti. Etamatthaṃ ‘‘satova abhikkamāmī’’ti dasseti. Acelakesu kira bhūmiṃ
akkantakālato pabhuti sīlavā nāma natthi. Bhikkhācāraṃ gacchantāpi dussīlāva
hutvā gacchanti, upaṭṭhākānaṃ gehe bhuñjantāpi dussīlāva hutvā bhuñjanti.
Āgacchantāpi dussīlāva hutvā āgacchanti. Yadā pana morapiñchena phalakaṃ
sammajjitvā sīlaṃ adhiṭṭhāya nisīdanti, tadā sīlavantā nāma honti.
Vanakammikanti
kandamūlaphalāphalādīnaṃ atthāya vane vicarantaṃ. Vanena vananti vanato vanaṃ, esa nayo sabbattha. Saṃpatāmīti gacchāmi. Āraññakoti araññe jātavuddho, idaṃ
attano ājīvakakālaṃ sandhāya vadati. Bodhisatto kira pāsaṇḍapariggaṇhaṇatthāya
taṃ pabbajjaṃ pabbaji, niratthakabhāvaṃ pana ñatvāpi na uppabbajjito,
bodhisattā hi yaṃ yaṃ ṭhānaṃ upenti, tato anivattitadhammā honti, pabbajitvā
pana mā maṃ koci addasāti tatova araññaṃ paviṭṭho. Tenevāha ‘‘mā maṃ te
addasaṃsu ahañca mā te addasa’’nti.
Goṭṭhāti
govajā. Paṭṭhitagāvoti
nikkhantagāvo. Tattha catukkuṇḍikoti
vananteyeva ṭhito gopālakānaṃ gāvīhi saddhiṃ apagatabhāvaṃ disvā dve hatthe dve ca jaṇṇukāni bhūmiyaṃ ṭhapetvā evaṃ
catukkuṇḍiko upasaṅkamitvāti attho. Tāni
sudaṃ āhāremīti mahallakavacchakānaṃ gomayāni kasaṭāni nirojāni honti,
tasmā tāni vajjetvā yāni taruṇavacchakānaṃ khīrapāneneva vaḍḍhantānaṃ saojāni
gomayāni tāni kucchipūraṃ khāditvā puna vanasaṇḍameva pavisati. Taṃ sandhāyāha
‘‘tāni sudaṃ āhāremī’’ti. Yāvakīvañca
meti yattakaṃ kālaṃ mama sakaṃ muttakarīsaṃ aparikkhīṇaṃ hoti. Yāva me
dvāravaḷañjo pavattittha, tāva tadeva āhāremīti attho. Kāle pana gacchante
gacchante parikkhīṇamaṃsalohito upacchinnadvāravaḷañjo vacchakānaṃ gomayāni
āhāremi. Mahāvikaṭabhojanasminti
mahante vikaṭabhojane, apakatibhojaneti attho.
157. Tatrāssudaṃ, sāriputta, bhiṃsanakassa
vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ hotīti. Tatrāti purimavacanāpekkhanaṃ. Sudanti padapūraṇamatte nipāto. Sāriputtāti ālapanaṃ. Ayaṃ panettha atthayojanā – tatrāti yaṃ vuttaṃ aññataraṃ
bhiṃsanakaṃ vanasaṇḍanti, tatra yo so bhiṃsanako vanasaṇḍo vutto,
tassa bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ hoti, bhiṃsanakakiriyāya
hotīti attho. Kiṃ hoti? Idaṃ hoti, yo koci avītarāgo…pe… lomāni haṃsantīti.
Atha
vā tatrāti sāmiatthe bhummaṃ. Su
iti nipāto. Kiṃ su nāma te bhonto samaṇabrāhmaṇātiādīsu viya. Idanti adhippetamatthaṃ paccakkhaṃ
viya katvā dassanavacanaṃ. Sudanti
su idaṃ, sandhivasena ikāralopo veditabbo. Cakkhundriyaṃ itthindriyaṃ
anaññātaññassāmītindriyaṃ kiṃ sūdhavittantiādīsu viya. Ayaṃ panettha
atthayojanā, tassa, sāriputta, bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ
idaṃsu hotīti. Bhiṃsanakatasminti
bhiṃsanakabhāveti attho. Ekassa takārassa lopo daṭṭhabbo.
‘‘Bhiṃsanakattasmi’’ntiyeva vā pāṭho, bhiṃsanakatāya iti vā
vattabbe liṅgavipallāso kato, nimittatthe cetaṃ bhummavacanaṃ. Tasmā evaṃ
sambandho veditabbo, bhiṃsanakabhāve idaṃsu hoti, bhiṃsanakabhāvanimittaṃ
bhiṃsanakabhāvahetu, bhiṃsanakabhāvapaccayā idaṃsu hoti. Yo koci avītarāgo taṃ
vanasaṇḍaṃ pavisati. Yebhuyyena lomāni haṃsanti bahutarāni
lomāni haṃsanti, uddhaṃ mukhāni sūcisadisāni kaṇṭakasadisāni ca hutvā
tiṭṭhanti, appāni na haṃsanti, bahutarānaṃ vā sattānaṃ haṃsanti, appakānaṃ
atisūrapurisānaṃ na haṃsantīti.
Antaraṭṭhakāti
māghamāsassa avasāne catasso, phagguṇamāsassa ādimhi catassoti evaṃ ubhinnaṃ
antare aṭṭharatti. Abbhokāseti
mahāsatto himapātasamaye rattiṃ abbhokāse viharati, athassa lomakūpesu
āvutamuttā viya himabindūni tiṭṭhanti, sarīraṃ setadukūlapārutaṃ viya hoti. Divā vanasaṇḍeti divā himabindūsu
sūriyātapasamphassena vigatesu assāsopi bhaveyya, ayaṃ pana sūriye
uggacchanteyeva vanasaṇḍaṃ pavisati, tatrāpissa sūriyātapena paggharantaṃ himaṃ
sarīreyeva patati. Divā abbhokāse
viharāmi rattiṃ vanasaṇḍeti gimhakāle kiresa divā abbhokāse vihāsi,
tenassa kacchehi sedadhārā mucciṃsu, rattiṃ assāso bhaveyya, ayaṃ pana sūriye
atthaṃ gacchanteyeva vanasaṇḍaṃ pavisati. Athassa divā gahitausme vanasaṇḍe
aṅgārakāsuyaṃ pakkhitto viya attabhāvo paridayhittha. Anacchariyāti anuacchariyā. Paṭibhāsīti upaṭṭhāsi.
Sotattoti
divā ātapena rattiṃ vanausmāya sutatto. Sosinnoti rattiṃ himena divā
himodakena suṭṭhu tinto. Bhiṃsanaketi
bhayajanake. Naggoti niccelo.
Nivāsanapārupane hi sati sītaṃ vā uṇhaṃ vā na atibādheyya, tampi me natthīti
dasseti. Na caggimāsinoti
aggimpi na upagato. Esanāpasutoti
suddhiesanatthāya pasuto, payutto. Munīti,
tadā attānaṃ munīti katvā katheti.
Chavaṭṭhikānīti
upaḍḍhadaḍḍhāni aṭṭhīni. Upadhāyāti
yathā sīsūpadhānañca pādūpadhānañca paññāyati, evaṃ santharitvā tattha seyyaṃ
kappemīti dasseti. Gāmaṇḍalāti gopāladārakā. Te kira bodhisattassa santikaṃ gantvā, sumedha,
tvaṃ imasmiṃ ṭhāne kasmā nisinno, kathehīti vadanti. Bodhisatto adhomukho
nisīdati, na katheti. Atha naṃ te akathetuṃ na dassāmāti parivāretvā oṭṭhubhanti sarīre kheḷaṃ pātenti.
Bodhisatto evampi na katheti. Atha naṃ tvaṃ na kathesīti omuttenti passāvamassa upari
vissajjenti. Bodhisatto evampi na kathetiyeva. Tato naṃ kathehi kathehīti
paṃsukena okiranti. Bodhisatto evampi na kathetiyeva. Athassa na kathesīti
daṇḍakasalākā gahetvā kaṇṇasotesu pavesenti. Bodhisatto dukkhā tibbā kaṭukā
vedanā adhivāsento kassaci kiñci na karissāmīti matako viya acchati. Tenāha
‘‘na kho panāhaṃ, sāriputta, abhijānāmi tesu pāpakaṃ cittaṃ uppādetā’’ti. Na
mayā tesu pāpakaṃ cittampi uppāditanti attho. Upekkhāvihārasmiṃ hotīti upekkhāvihāro hoti. Vihāro eva hi
vihārasminti vutto. Teneva ca ‘‘idaṃsu me’’ti etthāpi ayaṃsu meti evaṃ attho
veditabbo. Iminā nayena aññānipi evarūpāni padāni veditabbāni. Iminā ito
ekanavutikappe pūritaṃ upekkhāvihāraṃ dasseti. Yaṃ sandhāyāha –
‘‘Sukhapatto
na rajjāmi, dukkhe na homi dummano;
Sabbattha
tulito homi, esā me upekkhāpāramī’’ti.
Dukkarakārikādisuddhivaṇṇanā niṭṭhitā.
Āhārasuddhivaṇṇanā
158. Āhārena suddhīti
kolādinā ekaccena parittakaāhārena sakkā sujjhitunti evaṃdiṭṭhino honti. Evamāhaṃsūti evaṃ vadanti. Kolehīti padarehi. Kolodakanti kolāni madditvā
katapānakaṃ. Kolavikatinti
kolasāḷavakolapūvakolaguḷādikolavikāraṃ. Etaparamoti etaṃ pamāṇaṃ paramaṃ assāti etaparamo. Tadā
ekanavutikappamatthake pana na beluvapakkatālapakkapamāṇo kolo hoti, yaṃ
etarahi kolassa pamāṇaṃ, ettakova hotīti attho.
159. Adhimattakasimānanti
ativiya kisabhāvaṃ. Āsītikapabbāni vā
kāḷapabbāni vāti yathā āsītikavalliyā vā kāḷavalliyā vā sandhiṭṭhānesu
milāyitvā majjhe unnatunnatāni honti, evaṃ mayhaṃ aṅgapaccaṅgāni hontīti
dasseti. Oṭṭhapadanti yathā oṭṭhassa padaṃ majjhe gambhīraṃ hoti, evamevaṃ
bodhisattassa milāte maṃsalohite vaccadvārassa antopaviṭṭhattā ānisadaṃ majjhe
gambhīraṃ hoti. Athassa bhūmiyaṃ nisinnaṭṭhānaṃ sarapoṅkhena akkantaṃ
viya majjhe unnataṃ hoti. Vaṭṭanāvaḷīti
yathā rajjuyā āvunitvā katā vaṭṭanāvaḷī vaṭṭanānaṃ antarantarā ninnā hoti,
vaṭṭanaṭṭhānesu unnatā, evaṃ piṭṭhikaṇṭako unnatāvanato hoti, jarasālāya gopānasiyoti jiṇṇasālāya
gopānasiyo, tā vaṃsato muccitvā maṇḍale patiṭṭhahanti, maṇḍalato muccitvā
bhūmiyanti; evaṃ ekā upari hoti, ekā heṭṭhāti oluggaviluggā bhavanti.
Bodhisattassa pana na evaṃ phāsuḷiyo, tassa hi lohite chinne maṃse milāte
phāsuḷantarehi cammāni heṭṭhā otiṇṇāni, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Okkhāyikāti
heṭṭhā anupaviṭṭhā. Tassa kira lohite chinne maṃse milāte akkhiāvāṭakā
matthaluṅgaṃ āhacca aṭṭhaṃsu, tenassa evarūpā akkhitārakā ahesuṃ. Āmakacchinnoti atitaruṇakāle chinno,
so hi vātātapena saṃphusati ceva milāyati ca. Yāvassu me, sāriputtāti, sāriputta, mayhaṃ udaracchavi yāva
piṭṭhikaṇṭakaṃ allīnā hoti. Atha vā yāvassu me, sāriputta, bhāriyabhāriyā ahosi
dukkarakārikā, mayhaṃ udaracchavi yāva piṭṭhikaṇṭakaṃ allīnā ahosīti evamettha
sambandho veditabbo. Piṭṭhikaṇṭakaṃyeva
pariggaṇhāmīti sahaudaracchaviṃ gaṇhāmi. Udaracchaviṃyeva pariggaṇhāmīti
sahapiṭṭhikaṇṭakaṃ gaṇhāmi. Avakujjo
papatāmīti tassa hi uccārapassāvatthāya nisinnassa passāvo neva
nikkhamati, vaccaṃ pana ekaṃ dve kaṭakaṭṭhimattaṃ nikkhamati. Balavadukkhaṃ
uppādeti. Sarīrato sedā muccanti, tattheva avakujjo bhūmiyaṃ patati. Tenāha
‘‘avakujjo papatāmī’’ti. Tameva kāyanti
taṃ ekanavutikappamatthake kāyaṃ. Mahāsaccakasutte pana pacchimabhavikakāyaṃ
sandhāya imameva kāyanti āha. Pūtimūlānīti
maṃse vā lohite vā sati tiṭṭhanti. Tassa pana abhāve cammakhaṇḍe lomāni viya
hattheyeva lagganti, taṃ sandhāyāha ‘‘pūtimūlāni lomāni kāyasmā patantī’’ti.
Alamariyañāṇadassanavisesanti ariyabhāvaṃ kātuṃ samatthaṃ
lokuttaramaggaṃ. Imissāyeva ariyāya
paññāyāti vipassanāpaññāya anadhigamā. Yāyaṃ ariyāti yā ayaṃ maggapaññā adhigatā. Idaṃ vuttaṃ hoti –
yathā etarahi vipassanāpaññāya adhigatattā maggapaññā adhigatā, evaṃ
ekanavutikappamatthake vipassanāpaññāya anadhigatattā
lokuttaramaggapaññaṃ nādhigatosmīti, majjhimabhāṇakattherā panāhu, imissāyevāti
vuttapaññāpi yāyaṃ ariyāti vuttapaññāpi maggapaññāyeva. Atha ne bhikkhū āhaṃsu
‘‘evaṃ sante maggassa anadhigatattā maggaṃ nādhigatosmīti idaṃ vuttaṃ hoti,
bhante’’ti. Āvuso, kiñcāpi dīpetuṃ na sakkomi, dvepi pana maggapaññāyevāti,
etadeva cettha yuttaṃ. Itarathā hi yā ayanti niddeso ananurūpo siyā.
Āhārasuddhivaṇṇanā niṭṭhitā.
Saṃsārasuddhiādivaṇṇanā
160. Saṃsārena suddhīti
bahukaṃ saṃsaritvā sujjhantīti vadanti. Upapattiyā
suddhīti bahukaṃ upapajjitvā sujjhantīti vadanti. Āvāsena suddhīti bahūsu ṭhānesu
vasitvā sujjhantīti vadanti. Tīsupi ṭhānesu saṃsaraṇakavasena saṃsāro. Upapajjanakavasena upapatti. Vasanakavasena āvāsoti khandhāyeva vuttā. Yaññenāti bahuyāge yajitvā sujjhantīti
vadanti. Muddhāvasittenāti tīhi saṅkhehi khattiyābhisekena muddhani abhisittena. Aggipāricariyāyāti
bahuaggiparicaraṇena sujjhantīti vadanti.
161. Daharoti
taruṇo. Yuvāti yobbanena
samannāgato. Susukāḷakesoti
suṭṭhu kāḷakeso. Bhadrena yobbanena
samannāgatoti imināssa yena yobbanena samannāgato yuvā, taṃ yobbanaṃ
bhaddaṃ laddhakanti dasseti. Paṭhamena vayasāti paṭhamavayo nāma tettiṃsa
vassāni, tena samannāgatoti attho, paññāveyyattiyenāti
paññāveyyattibhāvena. Jiṇṇoti
jarājiṇṇo. Vuddhoti vaḍḍhitvā
ṭhitaaṅgapaccaṅgo. Mahallakoti
jātimahallako. Addhagatoti
bahuaddhānaṃ gato cirakālātikkanto. Vayo
anuppattoti vassasatassa tatiyakoṭṭhāsaṃ pacchimavayaṃ anuppatto. Āsītiko me vayo vattatīti imaṃ kira
suttaṃ bhagavā parinibbānasaṃvacchare kathesi. Tasmā evamāha. Paramāyāti uttamāya. Satiyātiādīsu padasatampi
padasahassampi vadantasseva gahaṇasamatthatā sati nāma. Tadeva
ādhāraṇaupanibandhanasamatthatā gati
nāma. Evaṃ gahitaṃ dhāritaṃ sajjhāyaṃ kātuṃ samatthavīriyaṃ
dhiti nāma. Tassa atthañca
kāraṇañca dassanasamatthatā paññāveyyattiyaṃ
nāma.
Daḷhadhammā dhanuggahoti
daḷhaṃ dhanuṃ gahetvā ṭhito issāso. Daḷhadhanu
nāma dvisahassathāmaṃ vuccati, dvisahassathāmaṃ nāma yassa āropitassa
jiyābaddho lohasīsādīnaṃ bhāro daṇḍe gahetvā yāva kaṇḍappamāṇā ukkhittassa
pathavito muccati. Sikkhitoti
dasa dvādasa vassāni ācariyakule uggahitasippo. Katahatthoti koci sippameva uggaṇhāti. Katahattho na hoti, ayaṃ
pana katahattho ciṇṇavasībhāvo. Katūpāsanoti
rājakulādīsu dassitasippo. Lahukena
asanenāti anto susiraṃ katvā tūlādīni pūretvā katalākhāparikammena
sallahukakaṇḍena. Evaṃ katañhi ekausabhagāmī dve usabhāni gacchati, aṭṭhausabhagāmī
soḷasausabhāni gacchati. Appakasirenāti
nidukkhena. Atipāteyyāti
atikkameyya. Evaṃ adhimattasatimantoti
yathā so dhanuggaho taṃ vidatthicaturaṅgulachāyaṃ sīghaṃ eva atikkameti, evaṃ
padasatampi padasahassampi uggahetuṃ upadhāretuṃ sajjhāyituṃ atthakāraṇāni ca
upaparikkhituṃ samatthāti attho. Aññatra
asitapītakhāyitasāyitāti asitapītādīni hi bhagavatāpi kātabbāni honti,
bhikkhūhipi. Tasmā tesaṃ karaṇamattakālaṃ ṭhapetvāti dasseti.
Apariyādinnāyevāti
aparikkhīṇāyeva. Sace hi eko bhikkhu kāyānupassanaṃ
pucchati, añño vedanānupassanaṃ, añño cittānupassanaṃ, ayyo dhammānupassanaṃ.
Iminā puṭṭhaṃ ahaṃ pucchissāmīti eko ekaṃ na oloketi. Evaṃ santepi tesaṃ vāro
paññāyati. Evaṃ buddhānaṃ pana vāro na paññāyati, vidatthicaturaṅgulachāyaṃ
atikkamato puretaraṃyeva bhagavā cuddasavidhena kāyānupassanaṃ, navavidhena
vedanānupassanaṃ, soḷasavidhena cittānupassanaṃ, pañcavidhena dhammānupassanaṃ
katheti. Tiṭṭhantu vā tāva ete cattāro. Sace hi aññe cattāro sammappadhānesu,
aññe iddhipādesu, aññe pañca indriyesu, aññe pañca balesu, aññe satta
bojjhaṅgesu, aññe aṭṭha maggaṅgesu pañhaṃ puccheyyuṃ, tampi bhagavā katheyya. Tiṭṭhantu vā ete aṭṭha. Sace aññe sattatiṃsa janā
bodhipakkhiyesu pañhaṃ puccheyyuṃ, tampi bhagavā tāvadeva
katheyya. Kasmā? Yāvatā hi lokiyamahājanā ekaṃ padaṃ kathenti. Tāva
ānandatthero aṭṭha padāni katheti. Ānandatthere pana ekaṃ padaṃ kathenteyeva
bhagavā soḷasapadāni katheti. Kasmā? Bhagavato hi jivhā mudukā dantāvaraṇaṃ
suphusitaṃ vacanaṃ agalitaṃ bhavaṅgaparivāso lahuko. Tenāha ‘‘apariyādinnāyevassa,
sāriputta, tathāgatassa dhammadesanā’’ti.
Tattha
dhammadasenāti tantiṭhapanā. Dhammapadabyañjananti pāḷiyā
padabyañjanaṃ, tassa tassa atthassa byañjanakaṃ akkharaṃ. Pañhapaṭibhānanti pañhabyākaraṇaṃ.
Iminā kiṃ dasseti? Tathāgato pubbe daharakāle akkharāni sampiṇḍetvā padaṃ
vattuṃ sakkoti, padāni sampiṇḍetvā gāthaṃ vattuṃ sakkoti, catuakkharehi vā
aṭṭhaakkharehi vā soḷasaakkharehi vā padehi yuttāya gāthāya atthaṃ vattuṃ
sakkoti. Idāni pana mahallakakāle akkharāni sampiṇḍetvā padaṃ vā, padāni
sampiṇḍetvā gāthaṃ vā, gāthāya atthaṃ vā vattuṃ na sakkotīti evaṃ natthi.
Daharakāle ca mahallakakāle ca sabbametaṃ tathāgatassa apariyādinnamevāti imaṃ
dasseti. Mañcakena cepi manti
idaṃ buddhabaladīpanatthameva parikappetvā āha. Dasabalaṃ pana mañcake āropetvā
gāmanigamarājadhāniyo pariharaṇakālo nāma natthi. Tathāgatā hi pañcame
āyukoṭṭhāse khaṇḍiccādīhi anabhibhūtā suvaṇṇavaṇṇasarīrassa vevaṇṇiye
ananuppatte devamanussānaṃ piyamanāpakāleyeva parinibbāyanti.
162. Nāgasamāloti
tassa therassa nāmaṃ. Paṭhamabodhiyañhi vīsativassabbhantare
upavānanāgitameghiyattherā viya ayampi bhagavato upaṭṭhāko
ahosi. Bījayamānoti mandamandena
tālavaṇṭavātena bhagavato utusukhaṃ samuṭṭhāpayamāno. Etadavocāti sakalasuttantaṃ sutvā bhagavato pubbacaritaṃ
dukkarakārakaṃ āgamma pasanno etaṃ ‘‘acchariyaṃ bhante’’tiādivacanaṃ avoca.
Tattha accharaṃ paharituṃ yuttanti acchariyaṃ.
Abhūtapubbaṃ bhūtanti abbhutaṃ.
Ubhayenapi attano vimhayameva dīpeti. Ko nāmo ayaṃ bhanteti idaṃ bhaddako
vatāyaṃ dhammapariyāyo, handassa bhagavantaṃ āyācitvā nāmaṃ gaṇhāpemīti
adhippāyena āha. Athassa bhagavā nāmaṃ gaṇhanto tasmā tiha tvantiādimāha. Tassattho, yasmā idaṃ suttaṃ sutvā tava
lomāni haṭṭhāni, tasmā tiha tvaṃ, nāgasamāla, imaṃ
dhammapariyāyaṃ ‘‘lomahaṃsana pariyāyo’’tveva naṃ dhārehīti.
Saṃsārasuddhiādivaṇṇanā
niṭṭhitā.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahāsīhanādasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Thảo luận 1. Tại sao nhân loại cần tới "thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân" để có thế thấy biết các loài hoá sanh? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 2. Thấy biết các loài chúng sanh (thiên nhãn) thì có thể hiểu được nhân quả "sở hành nào tạo nên quả báo nào" (sanh tử minh) chăng? - TT Pháp Tân
Thảo luận 3. Đối với những lập thuyết về pháp tu khổ hạnh, luân hồi tịnh hoá, tế tự tại sao Đức Phật nhấn mạnh về trãi nghiệm của bản thân? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
Thảo luận 2. Thấy biết các loài chúng sanh (thiên nhãn) thì có thể hiểu được nhân quả "sở hành nào tạo nên quả báo nào" (sanh tử minh) chăng? - TT Pháp Tân
Thảo luận 3. Đối với những lập thuyết về pháp tu khổ hạnh, luân hồi tịnh hoá, tế tự tại sao Đức Phật nhấn mạnh về trãi nghiệm của bản thân? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment