Tuesday, December 31, 2019

Bài học. Thứ Ba ngày 31 tháng 12, 2019

Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Quyền
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH  HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 30/12/2019 
24. Kinh Trạm xe (Rathavinìta sutta)



352. Thế nào là giới thanh tịnh?
Là sự thanh tịnh đối các học giới thọ trì. Đây là những nguyên tắc tạo thành luật nghi do Đức Phật chế định. Tứ thanh tịnh giới của một vị thọ đại giới được xem là cao nhất trong lãnh vực nầy.
353. Thế nào là tâm thanh tịnh?
Là sự thanh tịnh do xua tan năm triền cái bằng tam muội định. Năm triền cái khiến tâm không thể nhập vào thiền định được là dục tham, sân độc, hôn thuỵ, trạo hối, và nghi hoặc.
354. Thế nào là kiến thanh tịnh?
Sự sự thanh tịnh của cái nhìn đối với sự hiện hữu của chúng sanh. Chính là sự nhận rõ cái gọi là chúng sanh là tập hợp của các uẩn như sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
355. Thế nào là đoạn nghi thanh tịnh?
Là sự thanh tịnh do không còn nghi hoặc đối với nhân và duyên tạo nên pháp hữu vi. Nghi hoặc ở đây được nói trong phạm trù rộng lớn chứ không phải là thứ nghi hoặc do thói quen như trong năm triền cái.
356. Thế nào là đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh ?
Là sự thanh tịnh do phân biệt và khẳng định rõ đường nào nên đi và đường nào không nên đi dựa trên kinh nghiệm thực chứng.
357. Thế nào là đạo tri kiến thanh tịnh ?
Là sự thanh tịnh do nhận rõ từng công đoạn của hành trình tu chứng cũng được dịch là hành lộ tri kiến tịnh. 
358. Thế nào là tri kiến thanh tịnh ?
Là sự thanh tịnh cho thành tựu đạo quả. Đây là những “dứt điểm” đối với các phiền não kiết sử (trong trường hợp tâm đạo)

359. Thế nào là vô thủ trước Bát-niết-bàn? 
Là cảnh giới tối hậu nhưng không phải tạo nên do nhân do duyên như thí dụ con đường dẫn tới hòn núi nhưng không thể nói con đường tạo nên hòn núi. (Ý niệm nầy được thiền tông Trung Hoa, Nhật bản gọi là “vô môn quan - lối vào không có cửa hay con đường dẫn tới nhưng không tạo thành)

360. Câu “có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn” nêu được hiểu thế nào?
Bát niết bàn – parinibbàna – là cảnh giới tối hậu không bị tạo cũng không tạo tác (không là năng hay sở) không còn gì đề nói thêm nữa.

361. Những gì được ghi nhận sau cùng của cuộc đàm đạo? 
Tôn giả Sàriputta tán thán tôn giả Puṇṇo mantāṇiputta. Tôn giả Puṇṇo mantāṇiputta cũng nhận ra người trước mặt nêu lên những câu hỏi là bậc thượng thủ thinh văn. Cả hai ngài cùng hoan hỷ.



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

Thảo luận 1. Giới thanh tịnh là hành giả làm cho giới được thanh tịnh hay giới khiến hành giả thanh tịnh? - TT Tuệ Siêu

Thảo luận 2. Ba pháp thuộc giới học tăng thượng là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng có phải là giới căn bản của người muốn tu tập định học tăng thượng? so với ngũ giới, bát quan trai giới, sa di giới, tỳ kheo giới thì đồng dị thế nào? - TT Tuệ Siêu

Thảo luận 3. Sự thanh tịnh của tâm tại sao theo Phật học vẫn chưa đủ mà còn phải thanh tịnh của tri kiến ? - TT Tuệ Siêu


Thảo luận 4. Đoạn tận nghi hoặc có đồng nghĩa với cả tin? - ĐĐ Pháp Tín

Thảo luận 5. Có chăng thứ trí tuệ không thanh tịnh? - ĐĐ Nguyên Thông


Thảo luận 6. Tại sao phải nói thêm sự thấy rõ hành trình sẽ đi (hành lộ tri kiến) trong lúc trước đó đã có nhận thức con đường nào nên đi và con đường nào không nên đi (đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh)? - TT Tuệ Quyền

Thảo luận 7. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận




 III Trắc Nghiệm

Monday, December 30, 2019

Bài học. Thứ Ba ngày 30 tháng 12, 2019

Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH  HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 30/12/2019 
24. Kinh Trạm xe (Rathavinìta sutta)



347. Tại sao gọi là  Kinh Trạm xe (Rathavinìta sutta)?
Tên kinh lấy từ thí dụ trong bài kinh như một hành trình từ thành phố nầy đến thành phố khác với nhiều trạm xe để dừng nghỉ dọc đường. Mỗi trạm dừng là một điểm để hướng đến nhưng chỉ là giai đoạn rồi phải tiếp tục chứ không thể là đích điểm sau cùng. Những trạm xe nầy được dùng làm thí dụ cho bảy bước thanh tịnh hoá của đạo lộ giải thoát.

348. Đại ý Kinh Trạm xe (Rathavinìta sutta) là gì?
Bài kinh ghi lại giai thoại đối đáp giữa hai bậc thánh đệ tử Phật nổi tiếng là thông tuệ là Tôn giả Sāriputta và tôn giả Puṇṇo mantāṇiputta. Trong cuộc luận đàm nầy hai Ngài đã nói về hành trình tu chứng với những gì mang tánh giai đoạn và cái gì cứu cánh sau cùng.
Thất tịnh hay bảy bước thanh tịnh là một trình bày rộng tam học giới, định, tuệ. Bảy pháp nầy được quảng diễn với nhiều chi tiết tạo thành nội dung của bộ sách danh tiếng Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) của Ngài Buddhaghosa sau nầy. 

349. Xin cho biết đại lược về tôn giả Sāriputta và tôn giả Puṇṇo mantāṇiputta là nhân vật thế nào?
Tôn giả Sāriputta là một trong hai vị thượng thủ thinh văn đệ tử Phật được Thế Tôn xác nhận là vị đệ nhất về trí tuệ trong hàng đệ tử.
Tôn giả Puṇṇo mantāṇiputta là người cháu gọi Ngài Aññā Kondañña (Kiều Trần Như) bằng cậu. Tôn giả được Ngài Kondañña khai tâm và truyền đại giới và được Thế Tôn xác nhận là vị đệ nhất về thuyết pháp trong hàng đệ tử.
Trong lần gặp mặt nầy giữa hai bậc thánh đệ tử Phật ngài Sāriputta biết ngài Puṇṇo mantāṇiputta là ai nhưng ngược lại ngài Puṇṇo mantāṇiputta không biết ngài Sāriputta  vì chưa từng gặp mặt.


350. Cuộc đàm thoại mang nội dung thế nào?
Tôn giả Sāriputta là người đưa ra câu hỏi và Tôn giả Puṇṇo mantāṇiputta là người trả lời:

-- Hiền giả, có phải chúng ta sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
-- Thật như vậy, Hiền giả.

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là mục đích kiến thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo tri kiến thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.

-- Hiền giả, khi hỏi "có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?", Hiền giả trả lời "Không phải vậy". Khi hỏi ... tâm thanh tịnh? ... kiến thanh tịnh?... đoạn nghi thanh tịnh? ... đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh? ... đạo tri kiến thanh tịnh? ... Khi hỏi "có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?", Hiền giả trả lời "Không phải vậy". Như vậy, Hiền giả, với mục đích gì, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?

-- Hiền giả, với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn, nên sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn.

-- Hiền giả, có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.

-- Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.

-- Hiền giả, có phải kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.

-- Hiền giả, có phải đoạn nghi thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.

-- Hiền giả, có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.

-- Hiền giả, có phải đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.

-- Hiền giả, có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.

-- Hiền giả, có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy. 

351. Thí dụ trạm xe được nói lên thế nào?

Mỗi trạm xe chỉ là điểm đến nhất thời và sẽ phải rời bỏ để tiếp tục hành trình: 
 Hiền giả, như vua Pasenadi xứ Kosala trong khi ở tại Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho vua giữa Savatthi và Saketa. Hiền giả, rồi vua Pasenadi xứ Kosala, từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm thứ nhất đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, leo lên trạm xe thứ hai, nhờ trạm xe thứ hai đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm, từ bỏ trạm xe thứ tư, leo lên trạm xe thứ năm, nhờ trạm xe thứ năm đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu, leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy đến được Saketa, tại cửa nội thành. Khi vua đến tại cửa nội thành, các bộ trưởng cận thần, các thân thích cùng huyết thống hỏi như sau:"-- Tâu Ðại vương có phải với trạm xe này, Bệ hạ đi từ Savatthi đến Saketa tại cửa nội thành?" Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế nào mới gọi là trả lời đúng đắn?

-- Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế này mới trả lời đúng đắn: "-- Ở đây, trong khi ta ở Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho ta, giữa Savatthi và Saketa. Ta từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm xe thứ nhất, ta đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, ta leo lên trạm xe thứ hai; và nhờ trạm xe thứ hai, ta đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm; từ bỏ trạm xe thứ tư... đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm xe thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu... leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy, Ta đến được Saketa, tại cửa nội thành". Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala trả lời như vậy mới trả lời một cách đúng đắn.

[Còn tiếp]



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

Thảo luận 1. Trên phương diện tu tập những gì có giá trị mang tánh giai đoạn có cần được quan tâm? - TT Tuệ Siêu


Thảo luận 2. Tại sao những chủ đề pháp như bát chánh đạo, tam học, thất tịnh nói cho cùng thì giống nhau nhưng tại sao mang chủ đề và con số khác biệt? - TT Tuệ Siêu

Thảo luận 3. Cả hai bậc thánh thông tuệ đều hiểu rõ những gì được hỏi và những gì được trả lời vậy thì tại sao tôn giả Sàriputta hỏi để làm gì? - TT Pháp Tân

Thảo luận 4. Đàm luận về Phật pháp có những lợi ích thiết thực nào đối với sự tu tập? - TT Tuệ Quyền

Thảo luận 5. Trong hành trình đến nơi nào đó thì một phân đoạn được hướng tới và rồi bỏ lại sau lưng thế nhưng tại sao các bậc hoàn toàn giải thoát vẫn còn sống trong giới thanh tịnh? - ĐĐ Pháp Tín 




 III Trắc Nghiệm

Sunday, December 29, 2019

Bài học. Chủ Nhật ngày 29 tháng 12, 2019

Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Siêu
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH  HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 29/12/2019 
23. Kinh Gò mối (Vammika sutta)(tiếp theo)


340. Nên hiểu thế nào câu  “Con nhái là đồng nghĩa với bực bội khó chịu”?
Con nhái là hình ảnh của “đụng tới thời nhảy” ở đây chỉ cho phản ứng của hành giả. Một tâm trạng thường có đối với người tu tập là phản ứng đối với sự việc xẩy ra ở chính thân tâm hay hoàn cảnh chung quanh. Thường là phản ứng bực bội do trống vắng dục lạc hay khó chịu khiến tâm bị giao động. Khi chánh niệm đủ mạnh thì chỉ có ghi nhận những hiện tượng sanh diệt hơn là phản ứng. 

341. Nên hiểu thế nào câu  “Con đường hai ngã là đồng nghĩa với nghi hoặc”?
Con đường hai ngã là ví dụ của sự phân vân lưỡng lự hay nghi hoặc. Sẽ có một giai đoạn mà hành giả niệm không đủ mạnh và rõ để tạo nên sự phân biệt tinh xác (trạch pháp giác chi). Chính giai đoạn nầy với sự hiện khởi lẫn lộn cả tâm thiện và phiền não tạo thành nghi hoặc. Mấu chốt là tiếp tục kiên trì nuôi dưỡng chánh niệm. Chánh niệm mạnh và rõ thì trạch pháp giác chi sẽ sanh khởi. Sự phân biệt trở nên tinh xác và nghi hoặc sẽ tan biến.


342. Nên hiểu thế nào câu  “Đồ lọc sữa là đồng nghĩa với năm triền cái: dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi hoặc triền cái”?

Đồ lọc là biểu tượng cho “sau hết cái giữ lại là cặn bả”. Năm triền cái là dục tham, sân độc, hôn thuỵ, trạo hối và nghi hoặc là năm thành phẩm tự nhiên của tâm sống dục giới. Tuy là thuộc về thô nhưng lại là những gì tồn đọng cho tới khi năm thiền chi tầm, tứ, hỷ, lạc, định được lớn mạnh đầy đủ. Những pháp triền cái nầy giống như những “bản năng cố hữu” khiến chúng sanh bị giam chân lại trong sự tu tập nội tại.

343. Nên hiểu thế nào câu  “Con rùa là đồng nghĩa với năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn; đem con rùa lên là từ bỏ năm thủ uẩn này”
Con rùa với chiếc mai rùa cứng như chiếc giáp để rút đầu và bốn chân vào khi bị đụng tới đó là ví dụ của năm thủ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức là những gì luôn đi với ái chấp, mạn chấp và kiến chấp . Hành giả cần vượt quan nếp suy nghĩ cố hữu nầy với nhận thức sắc chỉ là sắc, thọ chỉ là thọ, tưởng chỉ là tưởng, hành chỉ là hành, thức chỉ là thức mà không có thái độ: đây là ta, là của ta, là tự ngã của ta.

344. Nên hiểu thế nào câu “con dao phay là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng, tức là các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn?
Chữ asisūnā là con dao chặt thịt vừa sắc bén và có sức nặng để chặt đứ ám chỉ cho khả năng chi phối của ngoại cảnh. Hành giả không phải chỉ có thách thức nội tại (chấp thủ năm uẩn) mà còn phải cẩn trọng với ngoại cảnh. Sự chi phối từ ngoại giới vốn một phần do ở thói quen nhiều đời. Đó là những tấn công bất ngờ mà hành giả chỉ cần xao lãng trong giây phút là có thể bị giao động.

345. Nên hiểu thế nào câu “Miếng thịt là đồng nghĩa với hỷ tham”? 
Miếng thịt đối với nhiều chúng sanh là sự hứa hẹn của ngon ngọt ở đây chỉ cho hai trạng thái mà bất cứ hành giả nào cũng cần cảnh giác là hỷ hay sự hân hoan và tham hay sự dính mắc. Mỗi mỗi sự thành tựu trong hành trình tu tập đều có dấu ấn của hỷ và ái chấp. Muốn chứng nhị thiền phải bỏ sơ thiền, muốn chứng tam thiền phải bỏ nhị thiền… Đó là ý nghĩ tế nhị.

346. Nên hiểu thế nào câu  “Con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc; hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ.

Chữ nàga trong Phạn ngữ có nghĩa là mãng xà mà cũng có nghĩa là voi hay rồng tuỳ theo ngữ cảnh. Mạch văn ở đây có thể dịch là con rồng hay long mạch là sự khám phá sau cùng của hành giả chỉ cho sự đoạn tận toàn bộ phiền não (tuệ giải thoát) hay có khi là sự chấm dứt thọ tưởng (tâm giải thoát). Đó là đích điểm cuối cùng của hành giác ngộ giải thoát “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm” đó là ý nghĩa của câu “hãy để yên long mạch đựng đụng chạm tới”.



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

Thảo luận 1. Phải chăng trên hành trình tu tập những chướng ngại khó vượt qua tuỳ căn tánh của mỗi hành giả chứ không nhất định một trường hợp áp dụng chung cho tất cả? - TT Tuệ Siêu

Thảo luận 2. TT Giác Đẳng chia sẻ thêm về kinh Gò Mối




 III Trắc Nghiệm

Saturday, December 28, 2019

Bài học. Thứ Bảy ngày 28 tháng 12, 2019

Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Tân
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH  HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 28/12/2019 
23. Kinh Gò mối (Vammika sutta)(tiếp theo)


339. Nên hiểu thế nào câu “ cái then cửa là đồng nghĩa với vô minh; đem then cửa lên là từ bỏ vô minh này”?
Then cửa là để khoá cổng lại.  Vô minh trong ẩn ngữ nầy chỉ cho sự thiếu ý thức về sự khổ, nhân sanh khổ, sự diệt khổ và phương thức diệt khổ như là chánh kiến khởi đầu cho hành giả tu tập. Hành giả cần có cái nhìn tổng quan về những gì cần giải quyết và những gì nên làm.

340. Nên hiểu thế nào câu  “Con nhái là đồng nghĩa với bực bội khó chịu”?
Con nhái là hình ảnh của “đụng tới thời nhảy” ở đây chỉ cho phản ứng của hành giả. Một tâm trạng thường có đối với người tu tập là phản ứng đối với sự việc xẩy ra ở chính thân tâm hay hoàn cảnh chung quanh. Thường là phản ứng bực bội do trống vắng dục lạc hay khó chịu khiến tâm bị giao động. Khi chánh niệm đủ mạnh thì chỉ có ghi nhận những hiện tượng sanh diệt hơn là phản ứng. 

341. Nên hiểu thế nào câu  “Con đường hai ngã là đồng nghĩa với nghi hoặc”?
Con đường hai ngã là ví dụ của sự phân vân lưỡng lự hay nghi hoặc. Sẽ có một giai đoạn mà hành giả niệm không đủ mạnh và rõ để tạo nên sự phân biệt tinh xác (trạch pháp giác chi). Chính giai đoạn nầy với sự hiện khởi lẫn lộn cả tâm thiện và phiền não tạo thành nghi hoặc. Mấu chốt là tiếp tục kiên trì nuôi dưỡng chánh niệm. Chánh niệm mạnh và rõ thì trạch pháp giác chi sẽ sanh khởi. Sự phân biệt trở nên tinh xác và nghi hoặc sẽ tan biến.


342. Nên hiểu thế nào câu  “Đồ lọc sữa là đồng nghĩa với năm triền cái: dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi hoặc triền cái”?

Đồ lọc là biểu tượng cho “sau hết cái giữ lại là cặn bả”. Năm triền cái là dục tham, sân độc, hôn thuỵ, trạo hối và nghi hoặc là năm thành phẩm tự nhiên của tâm sống dục giới. Tuy là thuộc về thô nhưng lại là những gì tồn đọng cho tới khi năm thiền chi tầm, tứ, hỷ, lạc, định được lớn mạnh đầy đủ. Những pháp triền cái nầy giống như những “bản năng cố hữu” khiến chúng sanh bị giam chân lại trong sự tu tập nội tại.

343. Nên hiểu thế nào câu  “Con rùa là đồng nghĩa với năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn; đem con rùa lên là từ bỏ năm thủ uẩn này”
Con rùa với chiếc mai rùa cứng như chiếc giáp để rút đầu và bốn chân vào khi bị đụng tới đó là ví dụ của năm thủ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức là những gì luôn đi với ái chấp, mạn chấp và kiến chấp . Hành giả cần vượt quan nếp suy nghĩ cố hữu nầy với nhận thức sắc chỉ là sắc, thọ chỉ là thọ, tưởng chỉ là tưởng, hành chỉ là hành, thức chỉ là thức mà không có thái độ: đây là ta, là của ta, là tự ngã của ta.

344. Nên hiểu thế nào câu “con dao phay là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng, tức là các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn?
Chữ asisūnā là con dao chặt thịt vừa sắc bén và có sức nặng để chặt đứ ám chỉ cho khả năng chi phối của ngoại cảnh. Hành giả không phải chỉ có thách thức nội tại (chấp thủ năm uẩn) mà còn phải cẩn trọng với ngoại cảnh. Sự chi phối từ ngoại giới vốn một phần do ở thói quen nhiều đời. Đó là những tấn công bất ngờ mà hành giả chỉ cần xao lãng trong giây phút là có thể bị giao động.

344. Nên hiểu thế nào câu “Miếng thịt là đồng nghĩa với hỷ tham”? 
Miếng thịt đối với nhiều chúng sanh là sự hứa hẹn của ngon ngọt ở đây chỉ cho hai trạng thái mà bất cứ hành giả nào cũng cần cảnh giác là hỷ hay sự hân hoan và tham hay sự dính mắc. Mỗi mỗi sự thành tựu trong hành trình tu tập đều có dấu ấn của hỷ và ái chấp. Muốn chứng nhị thiền phải bỏ sơ thiền, muốn chứng tam thiền phải bỏ nhị thiền… Đó là ý nghĩ tế nhị.

344. Nên hiểu thế nào câu  “Con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc; hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ.

Chữ nàga trong Phạn ngữ có nghĩa là mãng xà mà cũng có nghĩa là voi hay rồng tuỳ theo ngữ cảnh. Mạch văn ở đây có thể dịch là con rồng hay long mạch là sự khám phá sau cùng của hành giả chỉ cho sự đoạn tận toàn bộ phiền não (tuệ giải thoát) hay có khi là sự chấm dứt thọ tưởng (tâm giải thoát). Đó là đích điểm cuối cùng của hành giác ngộ giải thoát “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm” đó là ý nghĩa của câu “hãy để yên long mạch đựng đụng chạm tới”.



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

Thảo luận 1. Chánh kiến được định nghĩa là cái nhìn rõ ràng về sự khổ, nhân sanh khổ, sự diệt khổ, và con đường dẫn đến diệt khổ. Như vậy chánh kiến là điều kiện tiên khởi của sự tu tập hay kết quả sau cùng của sự tu tập? - TT Pháp Tân


Thảo luận 2. Hoài nghi trong trường hợp nào là phiền não (nghi hoặc) trong trường hợp nào là thái độ nên có (hoài nghi để tìm cho ra lẽ)? - TT Pháp Đăng

Thảo luận 3. Làm sao để có thể phản ứng đối với cảnh mà không rơi vào hai trạng thái thích thú hay ghét bỏ? - TT Tuệ Siêu

Thảo luận 4. Sự chi phối chủ quan (từ năm thủ uẩn) so với sự chi phối khách quan (năm ngoại cảnh) cái nào mạnh và đáng sợ hơn? - TT Pháp Đăng

Thảo luận 5. Phải chăng sự ái chấp trong những thiện sự, phước báu đôi khi cũng có thể làm trở ngại cho hành giả tu tập? - TT Pháp Tân




 III Trắc Nghiệm

Friday, December 27, 2019

Bài học. Thứ Sáu ngày 27 tháng 12, 2019

Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH  HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 27/12/2019 
23. Kinh Gò mối (Vammika sutta)


331. Tại sao gọi là  Kinh Gò mối (Vammika sutta)?
Tên kinh lấy từ điểm đầu tiên của ẩn ngữ đó là gò mối ban ngày phun khói, ban đêm chiếu sáng.

332. Đại ý Kinh Gò mối (Vammika sutta) là gì?
Một vị trời nói với tôn giả Kumāra  Kassapa  ẩn ngữ mang những chỉ điểm của hành trình tu tập. Giống như một người tin phong thuỷ đi tìm cuộc đất tốt (vượng địa) phải biết quan sát thế đất và nhận ra những dấu hiệu của long mạch, ẩn ngữ nầy hàm chứa những điều mới nghe rất lạ và khó hiểu nhưng khi được bạch hỏi Đức Thế Gian Giải thì Ngài chỉ rõ ý nghĩa nằm sau ẩn dụ chính là con đường tu chứng dẫn đến quả vị bất tử.

333. Tôn giả Kumāra Kassapa là nhân vật thế nào?
Tôn giả Kumāra Kassapa nguyên là con nuôi của vua Pasenadi (Ba Tư Nặc). Mẹ ngài là một tỳ kheo ni lúc đi xuất gia không biết mình đã mang thai. Sau những thị phi ngộ nhận cuối cùng sự việc sáng tỏ nên nhà vua nhận nuôi đứa bé sơ sinh. Sau nầy đứa bé xuất gia được biết với tên Kumāra Kassapa. Ẩn ngữ nầy được nói khi vị nầy còn là một bậc thánh hữu học. Nhờ nghe lý giải của kinh từ Đức Phật, tôn giả Kumàra Kassapa y cứ vào đó khai triểu tuệ giác chứng đạt quả vị A La Hán. Ngài được Đức Phật xác nhận là một thánh đệ tử đệ nhất biện tài (cittakathikānam)
Theo Sớ giải thì vị trời nói lên ẩn ngữ là một phạm thiên chứng tam quả ở cõi Tịnh Cư Thiên vốn là một pháp lữ đồng tu với tôn giả Kumàra Kassapa thời Đức Thế Tôn Kassapa. Do liên hệ trong quá khứ nên trong kiếp hiện tại vị nầy trợ duyên cho tôn giả trên đường tu tập.
334. Ẩn ngữ được nói thế nào?
Ẩn ngữ đó nói đến những điểm lạ lùng mà thoạt nghe như không liên quan gì nhau:
"Tỷ-kheo, Tỷ-kheo! Gò mối này ban đêm phun khói, ban ngày chiếu sáng.

"Một Bà-la-môn nói như sau: "Này kẻ trí, hãy cầm gươm và đào lên". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một then cửa: "Thưa Tôn giả, một then cửa".

"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí, hãy lấy then cửa lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con nhái: "Thưa Tôn giả, một con nhái".

"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí, hãy đem con nhái lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con đường hai ngã: "Thưa Tôn giả, một con đường hai ngã".

"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí hãy lấy con đường hai ngã lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một đồ lọc sữa: "Thưa Tôn giả, một đồ lọc sữa".

"Vị Bà-la-môn nói: "Hãy lấy đồ lọc sữa lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một con rùa: "Thưa Tôn giả, một con rùa".

"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí, hãy lấy con rùa lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một con dao phay: "Thưa Tôn giả, một con dao phay".

"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí, hãy lấy con dao phay lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một miếng thịt: "Thưa Tôn giả một miếng thịt".

"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí, hãy lấy miếng thịt lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con rắn hổ: "Thưa Tôn giả, con rắn hổ".

"Vị Bà-la-môn nói: "Hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ"

Sau khi nói lên ẩn ngữ nầy vị Thiên khuyên tỳ kheo Kumàra nên đến bạch hỏi Đức Phật về ý nghĩa của ẩn ngữ nầy bởi vì “không thấy ai trên cõi đời, với chư Thiên, các Ma vương, với Phạm thiên, các chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người có thể hướng tâm để trả lời những câu hỏi ấy, trừ Như Lai, đệ tử Như Lai hay những ai đã được nghe hai vị này". 

335. Đức Phật đã trả lời thế nào về ý nghĩa của ẩn ngữ?
-- Này Tỷ-kheo, gò mối là đồng nghĩa với cái thân do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt.

Này Tỷ-kheo, cái gì thuộc về công việc ban ngày, ban đêm suy tầm, suy nghĩ, như vậy là ban đêm phun khói.

Này Tỷ-kheo, cái gì sau khi suy tầm, suy tư ban đêm, ban ngày đem ra thực hành, về thân, về lời nói, về ý, như vậy là ban ngày chói sáng.

Này Tỷ-kheo, Bà-la-môn là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này Tỷ-kheo, người có trí là đồng nghĩa với Tỷ-kheo hữu học. Này Tỷ-kheo, cái gươm là đồng nghĩa với trí tuệ của bậc Thánh. Này Tỷ-kheo, đào lên là đồng nghĩa với tinh tấn, tinh cần.

Này Tỷ-kheo, cái then cửa là đồng nghĩa với vô minh; đem then cửa lên là từ bỏ vô minh này; kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.

Này Tỷ-kheo, con nhái là đồng nghĩa với phẫn nộ hiềm hận; đem con nhái lên là từ bỏ phẫn nộ hiềm hận này; kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.

Này Tỷ-kheo, con đường hai ngã là đồng nghĩa với nghi hoặc; đem con đường hai ngã lên là từ bỏ nghi hoặc này; kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.

Này Tỷ-kheo, đồ lọc sữa là đồng nghĩa với năm triền cái: dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi hoặc triền cái; đem  đồ lọc sữa lên là từ bỏ năm triền cái này; kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.

Này Tỷ-kheo, con rùa là đồng nghĩa với năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn; đem con rùa lên là từ bỏ năm thủ uẩn này; kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.

Này Tỷ-kheo, con dao phay là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng, tức là các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn; lấy con dao phay lên là từ bỏ năm dục trưởng dưỡng này, kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.

Này Tỷ-kheo, miếng thịt là đồng nghĩa với hỷ tham; lấy miếng thịt lên là từ bỏ hỷ tham này; kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.

Này Tỷ-kheo, con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc; hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ, là ý nghĩa này.

336. Nên hiểu thế nào câu “gò mối là đồng nghĩa với cái thân do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt”?
Con người thường đi tìm kho tàng châu báu hoặc những nơi gọi là vượng địa ở phương trời xa xăm nào đó nhưng đối với người tu Phật thì chính bản thân mình chứa đựng thứ vô cùng quý giá cần được quán sát, cần được khám phá. 
Nhưng nói về thân thì nên hiểu đó là một giả hợp của tứ đại do nhân do duyên tạo thành và tồn tại. Mặc dù đó là phù du nhưng lại hàm chứa những tiềm năng to lớn dẫn đến cảnh giới bất tử.

337. Nên hiểu thế nào về hai câu: “ cái gì thuộc về công việc ban ngày, ban đêm suy tầm, suy nghĩ, như vậy là ban đêm phun khói”. Và “cái gì sau khi suy tầm, suy tư ban đêm, ban ngày đem ra thực hành, về thân, về lời nói, về ý, như vậy là ban ngày chói sáng. 
Ban đêm suy nghĩ, ban ngày hành động đó là sự sống. Sự sống đó sinh động cần được quán sát. Sự hiểu rõ về thân tâm là nền tãng thắp sáng tuệ giác.

338. Nên hiểu thế nào câu “Bà-la-môn là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này Tỷ-kheo, người có trí là đồng nghĩa với Tỷ-kheo hữu học. Này Tỷ-kheo, cái gươm là đồng nghĩa với trí tuệ của bậc Thánh. Này Tỷ-kheo, đào lên là đồng nghĩa với tinh tấn, tinh cần”?
Trong văn hoá Ấn, vị Phạm chí hay Bà la môn tiêu biểu cho hình ảnh của bậc hiền trí có khả năng hướng dẫn tinh thần cho người khác. Trong ẩn ngữ nầy chỉ cho Đức Phật; thanh gươm biểu trưng cho sự sắc bén có khả năng chặt đứt các kiết sử chính là trí tuệ; sự đào lên đồng nghĩa với sự tinh tấn nỗ lực tức sức mạnh đi tới tiếp tục và tiếp tục cho tới khi công thành quả mãn.

339. Nên hiểu thế nào câu “ cái then cửa là đồng nghĩa với vô minh; đem then cửa lên là từ bỏ vô minh này”?
Then cửa là khoá cổng lại. Then cửa đó nói lên ý nghĩa của vô minh. Chính vô minh ngăn ngại nên chúng ta không thể vượt ra khỏi vòng cương toả của phiền não, khổ đau.

(Còn tiếp)



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

Thảo luận 1. Một người thấy sự vô thường ở ngoại cảnh có khác biệt gì thấy sự vô thường ở chính thân tâm mình? - TT Pháp Đăng




 III Trắc Nghiệm
Trắc nghiệm 1. Câu nào sau đây phù hợp với lời Phật dạy được tìm thấy trong Tam tạng kinh điển? 
A. Từ tấm thân sanh tử nầy nhiều thiện nghiệp có thể được tạo nên/ 
B. Trong tấm thân nhỏ bé nầy Đức Phật dạy có sự khổ, nguyên nhân sanh khổ, sự diệt khổ, và con đường dẫn tới diệt khổ /
 C. Hưởng thụ dục lạc hay hành xác khổ hạnh đều là những cực đoan thấp kém không dẫn tới đích thực giải thoát /

 D. Cả ba câu trên.

TT Tuệ Siêu cho đáp án trắc nghiệm 1: D

Trắc nghiệm 2. Từ vựng nào sau đây có ý nghĩa tương đồng với chữ khác trong câu hỏi?
 A. Bà la môn /
 B. Phạm chí / 
C. Bậc thanh tịnh / 
D. Cả ba từ vựng trên


TT Pháp Tân cho đáp án trắc nghiệm 2: D