331. Tại sao gọi là Kinh Gò mối (Vammika sutta)?
Tên kinh lấy từ điểm đầu tiên của ẩn ngữ đó là gò mối ban ngày phun khói, ban đêm chiếu sáng.
332. Đại ý Kinh Gò mối (Vammika sutta) là gì?
Một vị trời nói với tôn giả Kumāra Kassapa ẩn ngữ mang những chỉ điểm của hành trình tu tập. Giống như một người tin phong thuỷ đi tìm cuộc đất tốt (vượng địa) phải biết quan sát thế đất và nhận ra những dấu hiệu của long mạch, ẩn ngữ nầy hàm chứa những điều mới nghe rất lạ và khó hiểu nhưng khi được bạch hỏi Đức Thế Gian Giải thì Ngài chỉ rõ ý nghĩa nằm sau ẩn dụ chính là con đường tu chứng dẫn đến quả vị bất tử.
333. Tôn giả Kumāra Kassapa là nhân vật thế nào?
Tôn giả Kumāra Kassapa nguyên là con nuôi của vua Pasenadi (Ba Tư Nặc). Mẹ ngài là một tỳ kheo ni lúc đi xuất gia không biết mình đã mang thai. Sau những thị phi ngộ nhận cuối cùng sự việc sáng tỏ nên nhà vua nhận nuôi đứa bé sơ sinh. Sau nầy đứa bé xuất gia được biết với tên Kumāra Kassapa. Ẩn ngữ nầy được nói khi vị nầy còn là một bậc thánh hữu học. Nhờ nghe lý giải của kinh từ Đức Phật, tôn giả Kumàra Kassapa y cứ vào đó khai triểu tuệ giác chứng đạt quả vị A La Hán. Ngài được Đức Phật xác nhận là một thánh đệ tử đệ nhất biện tài (cittakathikānam)
Theo Sớ giải thì vị trời nói lên ẩn ngữ là một phạm thiên chứng tam quả ở cõi Tịnh Cư Thiên vốn là một pháp lữ đồng tu với tôn giả Kumàra Kassapa thời Đức Thế Tôn Kassapa. Do liên hệ trong quá khứ nên trong kiếp hiện tại vị nầy trợ duyên cho tôn giả trên đường tu tập.
334. Ẩn ngữ được nói thế nào?
Ẩn ngữ đó nói đến những điểm lạ lùng mà thoạt nghe như không liên quan gì nhau:
"Tỷ-kheo, Tỷ-kheo! Gò mối này ban đêm phun khói, ban ngày chiếu sáng.
"Một Bà-la-môn nói như sau: "Này kẻ trí, hãy cầm gươm và đào lên". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một then cửa: "Thưa Tôn giả, một then cửa".
"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí, hãy lấy then cửa lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con nhái: "Thưa Tôn giả, một con nhái".
"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí, hãy đem con nhái lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con đường hai ngã: "Thưa Tôn giả, một con đường hai ngã".
"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí hãy lấy con đường hai ngã lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một đồ lọc sữa: "Thưa Tôn giả, một đồ lọc sữa".
"Vị Bà-la-môn nói: "Hãy lấy đồ lọc sữa lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một con rùa: "Thưa Tôn giả, một con rùa".
"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí, hãy lấy con rùa lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một con dao phay: "Thưa Tôn giả, một con dao phay".
"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí, hãy lấy con dao phay lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một miếng thịt: "Thưa Tôn giả một miếng thịt".
"Vị Bà-la-môn nói: "Này kẻ trí, hãy lấy miếng thịt lên, cầm gươm đào thêm". Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con rắn hổ: "Thưa Tôn giả, con rắn hổ".
"Vị Bà-la-môn nói: "Hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ"
Sau khi nói lên ẩn ngữ nầy vị Thiên khuyên tỳ kheo Kumàra nên đến bạch hỏi Đức Phật về ý nghĩa của ẩn ngữ nầy bởi vì “không thấy ai trên cõi đời, với chư Thiên, các Ma vương, với Phạm thiên, các chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người có thể hướng tâm để trả lời những câu hỏi ấy, trừ Như Lai, đệ tử Như Lai hay những ai đã được nghe hai vị này".
335. Đức Phật đã trả lời thế nào về ý nghĩa của ẩn ngữ?
-- Này Tỷ-kheo, gò mối là đồng nghĩa với cái thân do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt.
Này Tỷ-kheo, cái gì thuộc về công việc ban ngày, ban đêm suy tầm, suy nghĩ, như vậy là ban đêm phun khói.
Này Tỷ-kheo, cái gì sau khi suy tầm, suy tư ban đêm, ban ngày đem ra thực hành, về thân, về lời nói, về ý, như vậy là ban ngày chói sáng.
Này Tỷ-kheo, Bà-la-môn là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này Tỷ-kheo, người có trí là đồng nghĩa với Tỷ-kheo hữu học. Này Tỷ-kheo, cái gươm là đồng nghĩa với trí tuệ của bậc Thánh. Này Tỷ-kheo, đào lên là đồng nghĩa với tinh tấn, tinh cần.
Này Tỷ-kheo, cái then cửa là đồng nghĩa với vô minh; đem then cửa lên là từ bỏ vô minh này; kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con nhái là đồng nghĩa với phẫn nộ hiềm hận; đem con nhái lên là từ bỏ phẫn nộ hiềm hận này; kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con đường hai ngã là đồng nghĩa với nghi hoặc; đem con đường hai ngã lên là từ bỏ nghi hoặc này; kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, đồ lọc sữa là đồng nghĩa với năm triền cái: dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi hoặc triền cái; đem đồ lọc sữa lên là từ bỏ năm triền cái này; kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con rùa là đồng nghĩa với năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn; đem con rùa lên là từ bỏ năm thủ uẩn này; kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con dao phay là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng, tức là các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn; lấy con dao phay lên là từ bỏ năm dục trưởng dưỡng này, kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, miếng thịt là đồng nghĩa với hỷ tham; lấy miếng thịt lên là từ bỏ hỷ tham này; kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc; hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ, là ý nghĩa này.
336. Nên hiểu thế nào câu “gò mối là đồng nghĩa với cái thân do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt”?
Con người thường đi tìm kho tàng châu báu hoặc những nơi gọi là vượng địa ở phương trời xa xăm nào đó nhưng đối với người tu Phật thì chính bản thân mình chứa đựng thứ vô cùng quý giá cần được quán sát, cần được khám phá.
Nhưng nói về thân thì nên hiểu đó là một giả hợp của tứ đại do nhân do duyên tạo thành và tồn tại. Mặc dù đó là phù du nhưng lại hàm chứa những tiềm năng to lớn dẫn đến cảnh giới bất tử.
337. Nên hiểu thế nào về hai câu: “ cái gì thuộc về công việc ban ngày, ban đêm suy tầm, suy nghĩ, như vậy là ban đêm phun khói”. Và “cái gì sau khi suy tầm, suy tư ban đêm, ban ngày đem ra thực hành, về thân, về lời nói, về ý, như vậy là ban ngày chói sáng.
Ban đêm suy nghĩ, ban ngày hành động đó là sự sống. Sự sống đó sinh động cần được quán sát. Sự hiểu rõ về thân tâm là nền tãng thắp sáng tuệ giác.
338. Nên hiểu thế nào câu “Bà-la-môn là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này Tỷ-kheo, người có trí là đồng nghĩa với Tỷ-kheo hữu học. Này Tỷ-kheo, cái gươm là đồng nghĩa với trí tuệ của bậc Thánh. Này Tỷ-kheo, đào lên là đồng nghĩa với tinh tấn, tinh cần”?
Trong văn hoá Ấn, vị Phạm chí hay Bà la môn tiêu biểu cho hình ảnh của bậc hiền trí có khả năng hướng dẫn tinh thần cho người khác. Trong ẩn ngữ nầy chỉ cho Đức Phật; thanh gươm biểu trưng cho sự sắc bén có khả năng chặt đứt các kiết sử chính là trí tuệ; sự đào lên đồng nghĩa với sự tinh tấn nỗ lực tức sức mạnh đi tới tiếp tục và tiếp tục cho tới khi công thành quả mãn.
339. Nên hiểu thế nào câu “ cái then cửa là đồng nghĩa với vô minh; đem then cửa lên là từ bỏ vô minh này”?
Then cửa là khoá cổng lại. Then cửa đó nói lên ý nghĩa của vô minh. Chính vô minh ngăn ngại nên chúng ta không thể vượt ra khỏi vòng cương toả của phiền não, khổ đau.
(Còn tiếp)
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Một người thấy sự vô thường ở ngoại cảnh có khác biệt gì thấy sự vô thường ở chính thân tâm mình? - TT Pháp Đăng
III Trắc Nghiệm
Trắc nghiệm 1. Câu nào sau đây phù hợp với lời Phật dạy được tìm thấy trong Tam tạng kinh điển?
A. Từ tấm thân sanh tử nầy nhiều thiện nghiệp có thể được tạo nên/
B. Trong tấm thân nhỏ bé nầy Đức Phật dạy có sự khổ, nguyên nhân sanh khổ, sự diệt khổ, và con đường dẫn tới diệt khổ /
C. Hưởng thụ dục lạc hay hành xác khổ hạnh đều là những cực đoan thấp kém không dẫn tới đích thực giải thoát /
D. Cả ba câu trên.
TT Tuệ Siêu cho đáp án trắc nghiệm 1: D
Trắc nghiệm 2. Từ vựng nào sau đây có ý nghĩa tương đồng với chữ khác trong câu hỏi?
A. Bà la môn /
B. Phạm chí /
C. Bậc thanh tịnh /
D. Cả ba từ vựng trên
TT Pháp Tân cho đáp án trắc nghiệm 2: D