Sunday, September 9, 2018

Bài học. Thứ Hai ngày 10-9-2018

Trường Bộ Kinh - Dìgha Nikàya


Giảng Sư; TT Giác Đẳng

GIÁO TRÌNH TRƯỜNG BỘ KINH
HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 10/9/2018



15. Kinh Ðại duyên (Mahànidàna sutta)
PHẦN III: Duyên Khởi và Đạo Lộ Giác Ngộ Giải Thoát


Tổng quan Kinh Đại Duyên

Kinh Đại Duyên – Mahànidàna không có nghĩa là  kinh nói về đại duyên mà là duyên được nói trong một đại kinh.
Tôn giả Ananda, một thị giả trí tuệ tuyệt luân của Đức Phật, đã ca ngợi giáo lý duyên khởi rõ ràng là hết sức vi diệu, thâm thuý. Điều nầy khiến Đức Thế Tôn phải lên tiếng là không nên nói như vậy vì lý duyên khởi tế nhị khó hiểu, không đơn giản nằm trong sự lý luận của trí tuệ. 
Thế giới hiện tượng thuộc về tự nhiên như dầu pha với nước thì dầu nổi lên trên. Có những tác động duyên khởi không thể nói qua chiều kích thời gian: sanh duyên lão tử là một kiếp người trong lúc xúc duyên thọ thì chỉ là mảy may khoảnh khắc. Trong giáo lý duyên  khởi không có sự phân lập riêng biệt giữa vật chất và tâm thức: có thể thuần là tâm thức, có thể cả hai – bài kinh nầy lại nói thêm về sự tương tác mang tính xã hội. 
Theo sớ giải thì chữ duyên khởi bao hàm những tác động như sau:khiến tập khởi  (samudaya), là nguồn cội (nidàna), tạo thành (jàtika), định tánh (pabhava), nuôi dưỡng (àhàra), làm nền tảng (upanisà), tác động (upayàpeti)
 Về sự thâm sâu thì sớ giải nêu bốn phương diện: Nghĩa thâm sâu (atthagambhìratà), pháp thâm sâu  (dhammagambhìratà), tuyên thuyết thâm sâu (desanāgambhìratà), lãnh hội thâm sâu (pativedhagambhìratà. 
Bố cục bài kinh nầy tương đối có nhiều “điểm lạ” so với những bài kinh khác về lý duyên khởi: Trọn bài kinh không nhắc tới ba duyên khởi là vô minh, hành và lục nhập mà thức được xem là đầu mối. Từ điểm nầy Đức Thế Tôn giảng về bảy thức trú. Một số tác động mang tính tương quan xã hội cũng được nêu ra như xan tham, tranh chấp, trục lợi.. được nêu ra. 
Qua bài kinh kinh nầy thay vì chỉ định nghĩa từng duyên khởi như thế nào là ái, thế nào là thủ thì Đức Phật lại giải thích cụ thể tại sao ái duyên cho thủ.
Một điểm quan trọng của bài kinh là giải thích tại sao ngã chấp là sai lầm vì đi ngược với định lý duyên khởi.
Đoạn cuối của bài kinh Đức Phật giải về tám giải thoát - một hành trình mang tính tuần tự thành tựu hơn là chỉ xoáy vào một điểm. Mô tả nầy một lần nữa nêu rõ sự tu tập giải thoát là một tiến trình.
Ngài Ledi Sayadaw khẳng định nếu không nắm vững áo nghĩa của bài kinh nầy thì người học Phật rất dễ rơi vào  nhận thức sai lạc.

Đại ý phần III

Duyên khởi trong Phật học không phải là lý luận hay triết lý suông mà là nền tảng (nidàna) của giác ngộ giải thoát. Hai đạo lộ giải thoát được Đức Phật đề cập ở cuối bài pháp.

Trước hết là sự giác ngộ đơn thuần bằng tuệ giải thoát (pannavimutti hay sukkhavipassaka) và sự giác ngộ với có cả hai: tuệ giải thoát và thiền chứng (câu phần giải thoát (ubhatobhàgavimutti). Cả hai sự thành tựu đó đều y cứ trên sự liễu ngộ lý duyên khởi.
Đối với vị chứng ngộ đơn thuần bằng tuệ giải thoát thì: “Vị ấy không quan niệm ngã là thọ, không quan niệm ngã không phải thọ, không quan niệm: "Ngã của tôi là thọ, ngã của tôi có khả năng cảm thọ", khi ấy vị này sẽ không chấp trước một điều gì ở trên đời, vì không chấp trước nên không sợ hãi; vì không sợ hãi nên hoàn toàn tự mình tịch diệt. Vị ấy biết sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, sau đời này không còn đời nào khác nữa.” Đi xa hơn là tri kiến về bảy thức trú nói lên sự đồng dị của chúng sanh do nghiệp quả quá khứ.

Đối với vị câu phần giải thoát (thành tựu cả hai  thiền chứng và tuệ giải thoát) thì sự giác ngộ là khả năng vượt lên trên thiền chứng mà mình đã thành tựu. Trong phần nầy Đức Phật dạy rõ về tám giải thoát.

Chánh kinh
[Chứng ngộ đơn thuần bằng tuệ giải thoát]
32. Này Ananda, khi có một vị Tỷ-kheo không quan niệm ngã là thọ, không quan niệm ngã không phải thọ, không quan niệm: "Ngã của tôi là thọ, ngã của tôi có khả năng cảm thọ", khi ấy vị này sẽ không chấp trước một điều gì ở trên đời, vì không chấp trước nên không sợ hãi; vì không sợ hãi nên hoàn toàn tự mình tịch diệt. Vị ấy biết sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, sau đời này không còn đời nào khác nữa.
Này Ananda, với vị Tỷ-kheo có tâm giải thoát như vậy, nếu có ai nói vị Tỷ-kheo ấy có tà kiến như sau: "Như Lai có tồn tại sau khi chết" thời thật hoàn toàn phi lý. Hoặc có tà kiến như sau: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết", thời thật hoàn toàn phi lý. Hoặc có tà kiến như sau: "Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết", thời thật hoàn toàn phi lý. Hoặc có tà kiến như sau: "Như Lai không có tồn tại và không không có tồn tại sau khi chết", thời thật hoàn toàn phi lý. Tại sao vậy? Này Ananda, ví dầu có bao nhiêu danh mục, bao nhiêu danh mục đạo, dầu có bao nhiêu ngôn ngữ, bao nhiêu ngôn ngữ đạo, dầu có bao nhiêu thi thiết, bao nhiêu thi thiết đạo, dầu có bao nhiêu trí tuệ, bao nhiêu trí tuệ giới, dầu có bao nhiêu luân chuyển, bao nhiêu vận hành, với thắng trí hiểu biết tất cả, vị Tỷ-kheo được giải thoát. Với vị Tỷ-kheo thắng trí giải thoát như vậy mà nói rằng vị Tỷ-kheo ấy không biết, không thấy, thời thật là một sự phi lý.
33. Này Ananda, có bảy trú xứ của thức và hai xứ. Thế nào là bảy? Này Ananda, có những loại hữu tình, thân dị loại và tưởng dị loại, như loài Người, một số chư Thiên và một số trong địa ngục. Ðó là trú xứ thứ nhất của thức.
Này Ananda, có những loại hữu tình, thân dị loại nhưng tưởng nhất loại, như các vị Phạm Chúng thiên được sanh vào cõi ấy, nhờ sơ Thiền. Ðó là trú xứ thứ hai của thức.
Này Ananda, có những loại hữu tình, thân nhất loại nhưng tưởng dị loại, như các vị Quang Âm thiên (Abhassarà). Ðó là trú xứ thứ ba của thức.
Này Ananda, có những loại hữu tình, thân nhất loại và tưởng cũng nhất loại, như các vị Biến Tịnh thiên (Subhakinna). Ðó là trú xứ thứ tư của thức. Này Ananda, có những loại hữu tình, vượt ra khỏi tất cả sắc tưởng, đoạn trừ tất cả hữu đối tưởng, không suy tư đến mọi dị loại tưởng, chỉ có tưởng "Hư không là vô biên", được sanh vào cõi Hư không vô biên xứ. Ðó là trú xứ thứ năm của thức. Này Ananda, có những loại hữu tình hoàn toàn vượt ra khỏi Không vô biên xứ, chỉ có tưởng "Thức là vô biên", được sanh vào cõi Thức vô biên xứ. Ðó là trú xứ thứ sáu của thức.
Này Ananda, có những loại hữu tình, hoàn toàn vượt ra khỏi Thức vô biên xứ, chỉ có tưởng "Vô sở hữu", được sanh vào cõi Vô sở hữu xứ. Ðó là trú xứ thứ bảy của thức.
Hai xứ là Vô tưởng hữu tình xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
34. Này Ananda, trong thức trú xứ thứ nhất có thân dị loại và tưởng dị loại này, như loài Người, một số chư Thiên và một số hữu tình trong địa ngục. Này Ananda nếu có ai hiểu được trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích trú xứ này không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, trong thức trú xứ thứ hai ... thứ ba ... thứ tư ... thứ năm ... thứ sáu ... Này Ananda, trong thức trú xứ thứ bảy, hoàn toàn vượt ra khỏi Thức vô biên xứ, chỉ có tưởng "Vô sở hữu", được sanh vào cõi Vô sở hữu xứ. Này Ananda nếu có ai hiểu được trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích trú xứ này không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, với Vô tưởng hữu tình xứ này, này Ananda, nếu có ai hiểu được trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích trú xứ này không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, với Phi tưởng phi phi tưởng xứ này, này Ananda nếu có ai hiểu được trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích trú xứ này không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, bởi bảy thức trú xứ và hai xứ này, nếu có vị Tỷ-kheo đã như chơn hiểu được tập khởi, đoạn trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm, xuất ly của chúng, nhờ không còn chấp thủ, vị này được giải thoát. Này Ananda, vị Tỷ-kheo như vậy được gọi là Tuệ giải thoát.

[Giác ngộ với các thiền chứng]
35. Này Ananda, có tám giải thoát. Thế nào là tám?
Tự mình có sắc, thấy các sắc; đó là sự giải thoát thứ nhất.
Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc; đó là sự giải thoát thứ hai.
Quán tưởng (sắc là) tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy; đó là sự giải thoát thứ ba.
Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không tác ý đến những tưởng khác biệt, với suy tư "hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ; đó là sự giải thoát thứ tư.
Vượt khỏi hoàn toàn Không vô biên xứ, với suy tư "thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ; đó là giải thoát thứ năm.
Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư "không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ; đó là sự giải thoát thứ sáu.
Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ; đó là sự giải thoát thứ bảy.
Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng; đó là sự giải thoát thứ tám.
Này Ananda, như vậy là tám giải thoát.
36. Này Ananda, khi một vị Tỷ-kheo thuận thứ thể nhập tám giải thoát này, có thể nhập và có thể xuất khỏi bất cứ giải thoát nào khi nào mình muốn, chỗ nào mình muốn và dài bao lâu mình muốn - và với các lậu hoặc được đoạn trừ, vị Tỷ-kheo chứng và an trú trong tám giải thoát và tuệ giải thoát, không còn lậu hoặc ngay trong thời hiện tại, tự mình thấu đạt và chứng ngộ. Này Ananda, không còn có một Câu giải thoát nào khác cao hơn và thù thắng hơn Câu giải thoát này.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.




ÌI Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

Thảo luận 1. Tại sao một người có tính võ đoán rất khó nhìn mọi sự việc theo lý duyên khởi? - ĐĐ Pháp Tín


Thảo luận 2. Giáo lý duyên khởi tương qua với tứ diệu đế thế nào? - ĐĐ Nguyên Thông


 Thảo luận 3. Hiểu biết giáo lý duyên khởi có làm chúng ta bớt đau khổ chăng? - ĐĐ Nguyên Thông


 III Trắc Nghiệm

Trắc nghiệm 1. Người nào sau đây có hành xử được xem là “có hiểu biết” theo Phật học?
 A. Một người bị mất trộm không tự trách là do mình quá dở mà tại ăn trộm “khéo lấy” / 
B. Một người gặp chuyện tai bay hoạ gửi không than thở “sao mình xui xẻo quá” mà nghĩ là có thể do nghiệp quá khứ bất thiện đã tạo mà mình không biết /
 C. Một người làm việc luôn nghĩ rằng có nhiều ý kiến khác biệt tốt hơn “chỉ một mình hay nhất” / D. Cả ba người vừa nêu đều “hiểu biết lý lẽ”


ĐĐ Nguyên Thông cho đáp án trắc nghiệm 1: B


Trắc nghiệm 2. Một người hiểu lý duyên khởi sẽ không tin điều nào sau đây? 
A. Tất cả không phải do tiền định (đã được an bài) / 
B. Tất cả không do một đấng nào đó quyết định (hoàn cảnh và ý chí cá nhân đều có vai trò) / 
C. Có hiện tượng xẩy ra do ngẫu nhiên /
 D. Cả ba câu trên đều đúng


ĐĐ Pháp Tín cho đáp án trắc nghiệm 2: C




No comments:

Post a Comment