Phạn ngữ Pàli – Lễ Phật - cách phát âm
Giảng Sư: TT Tuệ Siêu
Ngày 1.9.2020
Bài 5
KHỔ DIỆU ĐẾ,
Chia danh từ theo chủ
cách, đối cách
“katamañca,
bhikkhave, dukkhaṃ ariyasaccaṃ? jātipi dukkhā, jarāpi dukkhā,
maraṇampi dukkhaṃ, sokaparidevadukkhadomanassupāyāsāpi dukkhā, appiyehi
sampayogopi dukkho, piyehi vippayogopi dukkho yampicchaṃ na labhati tampi
dukkhaṃ, saṅkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā”.
Katama
= là gì
ca
= và
bhikkhave
= nầy có tỳ khưu
dukkha
= khổ
ariya
= cao thượng, thánh
sacca
= sự thật
jāti
= sanh
pi
= cũng, chính là
jarā
= già
maraṇa
= chết
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā
= sầu, bi, khổ, ưu, ai (soka = sầu, parideva = bi, dukkha = khổ, domanassa= ưu,
upāyāsā = ai, não)
appiyehi
sampayogo = không thích phải gần
piyehi
vippayogo = thân thương lại xa
yampicchaṃ
na labhati tam = mong cầu nhưng không được (yam +pi+iccha = điều mong muốn, na
= không, labhati = đạt được; ta= đó)
saṅkhittena
= nói ngắn gọn
pañcupādānakkhandhā
= năm thủ uẩn
Thuật
ngữ dukkha, thường dịch là khổ, có một ý
nghĩa đặc biệt trong lời dạy của Đức Phật. Thuật ngữ nầy bao gồm tất cả những gì
bất toàn, không vừa ý, rỗng không, khó chịu. Chữ khổ như khổ sở chỉ là một
trong những phần của dukkha. Thật ra rất khó tìm một chữ tương đương để dịch
thuật ngữ nầy. Ngay trong kinh văn của bài học chữ dukkha trong cụm từ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā
chỉ là một phần nhỏ trong ý nghĩ của khổ thánh đế.
Trong
bài học nầy thử làm quen với hai cách chia danh từ Pàli là chủ cách và đối cách.
Nhìn vào hai câu dưới đây:
Nārī passati / người đàn bà thấy người đàn ông
Chữ
cái ṃ được nằm trong nhóm “bán phụ âm” luôn đi đứng sau nguyên âm chứ không
bao giờ đứng trước. Khi đọc một mình như chữ cái thì đọc là “ăng”. Nếu đứng sau
các nguyên âm thì đọc giống như “ng” trong tiếng Việt. Thí dụ: taṃ (tăng), tiṃ
(ting), tuṃ (tung)
No comments:
Post a Comment