Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
37. Tiểu Kinh Ðoạn Tận Ái
(Cūḷataṇhāsaṅkhaya Sutta)
Tên của bài kinh dựa trên ý nghĩa câu
hỏi của thiên chủ Sakka và câu trả lời của của Đức Phật về thế nào là đọan tận
ái dục. Bài kinh nầy gọi là tiểu kinh vì có bài kinh khác tiếp theo cùng tên
nhưng dài hơn.
Như
vầy tôi nghe.
Một thời, Thế
Tôn ở tại Sāvatthī (Xá-vệ), Ðông Viên (Pubbārāma), giảng đường Lộc
Mẫu (Migāramatu). Rồi Thiên chủ Sakka đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Thiên chủ Sakka đứng một
bên, bạch Thế Tôn:
Rồi Thiên chủ
Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn thuyết giảng, đảnh lễ Thế
Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ. Lúc bấy
giờ, Tôn giả Mahā Moggallāna (Ðại Mục-kiền liên) ngồi cách Thế Tôn
không xa. Rồi Tôn giả Mahā Moggallāna suy nghĩ: "Không hiểu Dạ-xoa
(Yakkaha) kia, sau khi hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, có tín thọ hay không?
Ta hãy tìm biết Dạ- xoa kia, sau khi hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, có tín
thọ hay không?"
Tôn giả Mahā moggallāna,
ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Còn Thiên chủ Sakka lấy một ghế
thấp khác và ngồi xuống một bên. Rồi Tôn giả Mahā Moggallāna nói
với Thiên chủ Sakka đang ngồi xuống một bên:
Khi nghe nói vậy,
này Thiện hữu Moggallāna, Thế Tôn nói với tôi như sau:
1- Câu “Thật không xứng đáng, nếu có thiên chấp đối với tất
cả pháp” là thấy được tất cả hiện tượng gọi là hữu vi hay pháp hành dù
quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay
gần đề có chung bản chất.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 37 [dàn ý]
Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái
(Cūḷataṇhāsaṅkhaya Sutta)
(M.i, 251)
Thiên chủ Sakka
hỏi đức Phật về ái tận giải thoát, và được đức Phật trả lời.
Rồi Tôn giả Moggallāna đi lên cõi Trời ba mươi ba để hỏi Sakka về
câu trả lời của Thế Tôn, nhưng Sakka chỉ ham đam mê vui chơi với
các tiên nữ, và lấy cớ là nhiều việc nên chỉ muốn Tôn giả
Moggallāna xem lâu đài Vejayanta. Moggallāna liền ấn ngón chân làm cho
lâu đài Vejayanta rung động khiến chư Thiên và Thiên chủ Sakka phải
hoảng sợ. Cuối cùng Thiên chủ Sakka lặp lại câu trả lời của đức Phật
cho Moggallāna.
Câu trả lời
của đức Phật như sau: Nếu vị Tỷ-kheo được nghe: “Thật không xứng
đáng nếu có thiên vị các pháp, vị ấy thắng tri các pháp. Sau khi
thắng tri các pháp, vị ấy liễu tri các pháp. Do liễu tri tất cả
pháp, nếu có một cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, quán tánh ly tham, quán
tánh đoạn diệt, quán tánh xả ly trên các cảm thọ. Do quán như vậy
nên không có chấp trước một sự gì ở đời. Do không chấp trước
nên không có sợ hãi, nhiệt não (paritassati). Do không sợ hãi, nhiệt
não, nên chứng Niết- bàn. Vị ấy rõ biết: Sanh đã tận, chứng quả
A-la-hán.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 37 [dàn ý]
Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái
(Cūḷataṇhāsaṅkhaya Sutta)
(M.i, 251)
A. Duyên khởi
Duyên khởi do
Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn thế nào là một vị Tỷ-kheo ái tận giải thoát?
B. Chánh kinh:
I. Thế Tôn trả
lời: Vị Tỷ-kheo không thiên chấp tất cả pháp, thắng tri, liễu tri tất cả pháp.
Phàm cảm thọ nào khởi lên, quán vô thường, ly tham đoạn diệt, xả ly, không chấp
trước, không phiền não dao động, chứng Niết-bàn.
II. Cuộc gặp
gỡ giữa Tôn giả Moggallna với thiên chủ Sakka.
1. Tôn giả
Moggallāna lên cõi trời 33 hỏi Sakka về câu kệ vừa được nghe từ Thế Tôn. Thiên
chủ Sakka tránh né vấn đề và mời Tôn giả Moggallāna đi thăm cung điện
Vejayanta.
2. Thiên chủ Sakka khoe khoang vẻ đẹp của lâu đài và tán thán công đức của
Kosiya đã làm thời xưa.
3. Tôn giả
Moggallāna thấy Thiên chủ Sakka quá phóng dật, khoe khoang, nên dùng thần thông
làm cho cung điện Vejayanta rung động khiến Thiên chủ Sakka hoảng hốt lo sợ.
4. Tôn giả
Moggallāna hỏi lại câu hỏi của mình và Thiên chủ Sakka phải nhắc lại câu kệ ái
tận giải thoát, đã được nghe từ Thế Tôn.
III. Tôn giả
Moggallāna về thuật lại với Thế Tôn cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Tôn giả với
Thiên chủ Sakka. Thế Tôn xác nhận câu kệ ái tận giải thoát được kể lại là đúng
với lời dạy của Thế Tôn.
C. Kết luận:
Moggallāna hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 37 [toát yếu]
Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái
(Cūḷataṇhāsaṅkhaya Sutta)
(M.i, 251)
I. TOÁT YẾU
Cūlatanhāsankhaya
Sutta - The shorter discourse on the destruction of craving.
The venerable
Mahā Moggallāna overhears the Buddha give a brief explanation
to Sakka, ruler of gods, as to how a bhikkhu is liberated through the
destruction of craving. Wishing to know if Sakka understood the meaning, he
makes a trip to the heaven of the Thirty-three to find out.
Bản kinh ngắn
về sự diệt ái.
Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên nghe lỏm một bài kinh ngắn Phật giảng cho Đế thích
thiên chủ, làm thế nào một tỳ kheo giải thoát nhờ diệt ái. Vì
muốn biết Thiên chủ có hiểu được ý nghĩa lời dạy ấy không, tôn
giả Mục Liên lên đến cõi trời 33 để tìm hiểu.
II. TÓM TẮT
Thiên chủ Đế
thích đến xin Phật giảng vắn tắt thế nào là một tỳ kheo ái tận
giải thoát, thành tựu mục đích của đời sống phạm hạnh. Phật dạy,
sau khi tỳ kheo được nghe rằng không có gì đáng chấp thủ, vị ấy
biết rõ tất cả pháp, biết một cách rốt ráo, và nhờ biết rốt ráo
tất cả pháp, mỗi khi một cảm thọ khởi lên, thuộc loại lạc, khổ hay
bất khổ bất lạc, vị ấy đều quán vô thường, ly tham, đoạn diệt, từ
bỏ. Do quán như vậy, vị ấy không chấp trước, do không chấp trước
nên không phiền não, chứng Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri Sinh đã tận,
phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại
đời này nữa.
Đế thích hoan
hỷ tín thọ lời Phật dạy rồi biến mất tại chỗ.
Tôn giả Mục
liên muốn biết Đế thích có tín thọ lời Phật dạy hay không, liền
bay lên cõi trời 33, gặp Đế thích đang thụ hưởng thiên lạc với vô
số thiên nữ trong lâu đài Vejayanta mà ông xây cất sau khi chiến
thắng a tu la. Đế thích rất hãnh diện về thành tích này. Tôn giả
hóa phép khiến cho lâu đài bị chấn động, thiên chủ hoảng sợ. Tôn
giả yêu cầu thiên chủ nhắc lại lời Phật dạy mà ông đã được nghe.
Đế thích lặp lại không sai sót. Tôn giả biến mất ở cõi trời 33,
trở về bạch Phật. Phật xác nhận đã giảng cho Đế thích pháp môn
giải thoát nhờ đoạn ái.
III. CHÚ GIẢI
Đế thích hỏi
về giai đoạn tu tập chuẩn bị của tỳ kheo hướng đến quả vị
A-la-hán, do tu tập này mà vị ấy được giải thoát nhờ đoạn diệt
ái.
Tất cả pháp ở đây là 5
uẩn, 12 xứ, 18 giới. Chúng được xem là không đáng tham lam chấp thủ
[ái và kiến] vì cuối cùng, trên thực tế, chúng hóa ra trái ngược:
Chúng được bám
víu vì tưởng là thường, lạc và ngã, nhưng kỳ thực là vô
thường, khổ, vô ngã. Thánh đệ tử thắng tri chúng là vô thường,
khổ, vô ngã, và liễu tri chúng bằng cách đi sâu vào vào sự thực
ấy. Quán vô thường, vv. được thực hiện nhờ các loại thắng trí:
sinh diệt trí, hoại trí... Vị ấy không chấp thủ - do ái và kiến
- vào một hành nào, không bị ái lung lạc, tự thân chứng Niết-bàn
vì đã dập tắt tất cả cấu uế.
Đế thích gọi tôn giả
Mục liên là bạn đồng tu phạm hạnh, vì bản thân ông trước kia đã
chứng quả Dự lưu - theo kinh Trường bộ số 21, và như vậy
trước sau gì ông cũng đạt đến giải thoát như tôn giả.
IV. PHÁP SỐ
Ba thọ: khổ, lạc, bất
khổ bất lạc.
Bốn cách quán
các pháp:
vô thường, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ.
V. KỆ TỤNG
Trời Đế thích hỏi Phật:
Tỳ kheo làm thế nào
Đạt cứu cánh phạm hạnh
Giải thoát mọi khát ái.
Phật trả lời Đế thích:
Tỳ kheo được giảng giải
Trong tất cả các pháp
Không gì đáng chấp thủ
Vì tất cả các pháp
Vô thường, vô ngã, khổ.
Khi tuệ tri như vậy
Cảm thọ nào khởi lên
Lạc, khổ hay trung tính
Vị ấy quán ngay liền:
Tánh vô thường, ly tham,
Tánh đoạn diệt, từ bỏ
Đối với cảm thọ ấy.
Nhờ vậy không chấp trước;
Nên không có phiền não,
Chứng giải thoát, Niết-bàn.
Tuệ tri: "Sinh đã tận
Phạm hạnh đã viên thành
Việc cần làm đã làm
Một đi không trở lại.
" Tỳ kheo được như vậy
Đạt vô thượng an ổn.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
37.
Cūḷataṇhāsaṅkhayasuttaṃ [Mūla]
390. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde. Atha
kho sakko devānamindo yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho sakko
devānamindo bhagavantaṃ etadavoca : ''kittāvatā nu kho, bhante, bhikkhu saṃkhittena
taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī accantabrahmacārī
accantapariyosāno seṭṭho devamanussānanti? ''idha, devānaminda, bhikkhuno sutaṃ
hoti : 'sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyāti. Evañcetaṃ, devānaminda, bhikkhuno
sutaṃ hoti : 'sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyāti. So sabbaṃ dhammaṃ abhijānāti
sabbaṃ dhammaṃ abhiññāya sabbaṃ dhammaṃ parijānāti sabbaṃ dhammaṃ pariññāya yaṃ
kiñci vedanaṃ vedeti : sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā, so tāsu
vedanāsu aniccānupassī viharati, virāgānupassī viharati, nirodhānupassī
viharati, paṭinissaggānupassī viharati. So tāsu vedanāsu aniccānupassī
viharanto, virāgānupassī viharanto, nirodhānupassī viharanto, paṭinissaggānupassī
viharanto na kiñci loke upādiyati. Anupādiyaṃ na paritassati, aparitassaṃ
paccattaññeva parinibbāyati : 'khīṇā
jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāti. Ettāvatā kho, devānaminda, bhikkhu
saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī
accantabrahmacārī accantapariyosāno seṭṭho devamanussānanti. Atha kho sakko
devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṃ abhivādetvā
padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.
391. Tena kho pana samayena āyasmā mahāmoggallāno bhagavato
avidūre nisinno hoti. Atha kho āyasmato mahāmoggallānassa etadahosi : ''kiṃ nu
kho so yakkho bhagavato bhāsitaṃ
abhisamecca anumodi udāhu no yaṃnūnāhaṃ taṃ yakkhaṃ jāneyyaṃ : yadi vā so
yakkho bhagavato bhāsitaṃ abhisamecca
anumodi yadi vā noti? atha kho āyasmā mahāmoggallāno : seyyathāpi nāma
balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya,
evameva : pubbārāme migāramātupāsāde antarahito devesu tāvatiṃsesu pāturahosi.
Tena kho pana samayena sakko devānamindo ekapuṇḍarīke uyyāne dibbehi pañcahi
tūriyasatehi [turiyasatehi (sī. syā. kaṃ. pī.)] samappito samaṅgībhūto
paricāreti. Addasā kho sakko devānamindo āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ dūratova
āgacchantaṃ. Disvāna tāni dibbāni pañca tūriyasatāni paṭippaṇāmetvā yenāyasmā
mahāmoggallāno tenupasaṅkami upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ etadavoca : ''ehi kho, mārisa moggallāna,
svāgataṃ, mārisa moggallāna! cirassaṃ kho, mārisa moggallāna, imaṃ pariyāyaṃ
akāsi yadidaṃ idhāgamanāya. Nisīda, mārisa moggallāna, idamāsanaṃ paññattanti.
Nisīdi kho āyasmā mahāmoggallāno paññatte āsane. Sakkopi kho devānamindo
aññataraṃ nīcaṃ āsanaṃ gahetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho sakkaṃ
devānamindaṃ āyasmā mahāmoggallāno etadavoca : ''yathā kathaṃ pana kho, kosiya,
Bhagavā saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ abhāsi? sādhu mayampi etissā
kathāya bhāgino assāma savanāyāti.
392. ''Mayaṃ kho, mārisa moggallāna, bahukiccā bahukaraṇīyā :
appeva sakena karaṇīyena, api ca devānaṃyeva tāvatiṃsānaṃ karaṇīyena. Api ca,
mārisa moggallāna, sussutaṃyeva hoti suggahitaṃ sumanasikataṃ sūpadhāritaṃ, yaṃ no khippameva
antaradhāyati. Bhūtapubbaṃ, mārisa moggallāna, devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho
[samūpabyuḷho (syā. kaṃ.), samūpabbūḷho (sī.)] ahosi. Tasmiṃ kho pana, mārisa
moggallāna, saṅgāme devā jiniṃsu, asurā parājiniṃsu. So kho ahaṃ, mārisa
moggallāna, taṃ saṅgāmaṃ abhivijinitvā vijitasaṅgāmo tato paṭinivattitvā
vejayantaṃ nāma pāsādaṃ māpesiṃ. Vejayantassa kho, mārisa moggallāna, pāsādassa
ekasataṃ niyyūhaṃ. Ekekasmiṃ niyyūhe satta satta kūṭāgārasatāni. Ekamekasmiṃ kūṭāgāre
satta satta accharāyo . Ekamekissā accharāya satta satta paricārikāyo.
Iccheyyāsi no tvaṃ , mārisa moggallāna, vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakaṃ daṭṭhunti?
adhivāsesi kho āyasmā mahāmoggallāno tuṇhībhāvena.
393. Atha kho sakko ca
devānamindo vessavaṇo ca mahārājā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ purakkhatvā yena
vejayanto pāsādo tenupasaṅkamiṃsu. Addasaṃsu kho sakkassa devānamindassa
paricārikāyo āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ dūratova āgacchantaṃ disvā ottappamānā
hirīyamānā sakaṃ sakaṃ ovarakaṃ pavisiṃsu. Seyyathāpi nāma suṇisā sasuraṃ disvā
ottappati hirīyati, evameva sakkassa devānamindassa paricārikāyo āyasmantaṃ
mahāmoggallānaṃ disvā ottappamānā hirīyamānā sakaṃ sakaṃ ovarakaṃ pavisiṃsu.
Atha kho sakko ca devānamindo vessavaṇo ca mahārājā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ
vejayante pāsāde anucaṅkamāpenti anuvicarāpenti : ''idampi, mārisa moggallāna,
passa vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakaṃ idampi, mārisa moggallāna, passa
vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakanti. ''Sobhati idaṃ āyasmato kosiyassa, yathā
taṃ pubbe katapuññassa. Manussāpi kiñcideva rāmaṇeyyakaṃ disvā [diṭṭhā (sī. pī.
ka.)] evamāhaṃsu : 'sobhati vata bho yathā devānaṃ tāvatiṃsānanti. Tayidaṃ
āyasmato kosiyassa sobhati, yathā taṃ pubbe katapuññassāti. Atha kho āyasmato
mahāmoggallānassa etadahosi : ''atibāḷhaṃ
kho ayaṃ yakkho pamatto viharati. Yaṃnūnāhaṃ imaṃ yakkhaṃ saṃvejeyyanti. Atha
kho āyasmā mahāmoggallāno tathārūpaṃ iddhābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkhāsi [abhisaṅkhāresi
(ka.), abhisaṅkhāreti (syā. kaṃ.)] yathā vejayantaṃ pāsādaṃ pādaṅguṭṭhakena saṅkampesi
sampakampesi sampavedhesi . Atha kho sakko ca devānamindo, vessavaṇo ca
mahārājā, devā ca tāvatiṃsā acchariyabbhutacittajātā ahesuṃ : ''acchariyaṃ
vata, bho, abbhutaṃ vata, bho, samaṇassa mahiddhikatā mahānubhāvatā, yatra hi
nāma dibbabhavanaṃ pādaṅguṭṭhakena saṅkampessati sampakampessati
sampavedhessatīti! atha kho āyasmā mahāmoggallāno sakkaṃ devānamindaṃ saṃviggaṃ
lomahaṭṭhajātaṃ viditvā sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca : ''yathā kathaṃ pana
kho, kosiya, Bhagavā saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ abhāsi? sādhu
mayampi etissā kathāya bhāgino assāma savanāyāti.
394. ''Idhāhaṃ , mārisa moggallāna, yena Bhagavā tenupasaṅkamiṃ
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsiṃ. Ekamantaṃ ṭhito kho
ahaṃ, mārisa moggallāna, bhagavantaṃ etadavocaṃ : 'kittāvatā nu kho, bhante,
bhikkhu saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī
accantabrahmacārī accantapariyosāno seṭṭho devamanussānanti? ''evaṃ vutte, mārisa moggallāna, Bhagavā maṃ
etadavoca : 'idha, devānaminda, bhikkhuno sutaṃ hoti : sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyāti. Evaṃ cetaṃ devānaminda
bhikkhuno sutaṃ hoti 'sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyāti. So sabbaṃ dhammaṃ
abhijānāti, sabbaṃ dhammaṃ abhiññāya sabbaṃ dhammaṃ parijānāti, sabbaṃ dhammaṃ
pariññāya yaṃ kiñci vedanaṃ vedeti sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā. So
tāsu vedanāsu aniccānupassī viharati, virāgānupassī viharati, nirodhānupassī
viharati, paṭinissaggānupassī viharati. So tāsu vedanāsu aniccānupassī
viharanto, virāgānupassī viharanto, nirodhānupassī viharanto, paṭinissaggānupassī
viharanto na kiñci loke upādiyati, anupādiyaṃ na paritassati, aparitassaṃ
paccattaññeva parinibbāyati : 'khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ,
nāparaṃ itthattāyāti pajānāti. Ettāvatā kho, devānaminda, bhikkhu saṃkhittena
taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī accantabrahmacārī
accantapariyosāno seṭṭho devamanussānanti. Evaṃ kho me, mārisa moggallāna, Bhagavā
saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ abhāsīti. Atha kho āyasmā mahāmoggallāno
sakkassa devānamindassa bhāsitaṃ
abhinanditvā anumoditvā : seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā
bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya evameva : devesu tāvatiṃsesu
antarahito pubbārāme migāramātupāsāde pāturahosi. Atha kho sakkassa
devānamindassa paricārikāyo acirapakkante āyasmante mahāmoggallāne sakkaṃ
devānamindaṃ etadavocuṃ : ''eso nu te,
mārisa, so Bhagavā satthāti? ''na kho me, mārisa, so Bhagavā
satthā. Sabrahmacārī me eso āyasmā mahāmoggallānoti. ''Lābhā te, mārisa,
(suladdhaṃ te, mārisa) [( ) natthi (sī. pī.)] yassa te sabrahmacārī evaṃmahiddhiko
evaṃmahānubhāvo! aho nūna te so Bhagavā satthāti.
395. Atha kho āyasmā
mahāmoggallāno yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ
abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā mahāmoggallāno
bhagavantaṃ etadavoca : ''abhijānāti no, bhante, Bhagavā ahu [ahunaññeva
(sī. syā. kaṃ.)] ñātaññatarassa mahesakkhassa yakkhassa saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ
bhāsitāti [abhāsitthāti (ka.)]? ''abhijānāmahaṃ, moggallāna, idha sakko
devānamindo yenāhaṃ tenupasaṅkami upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Ekamantaṃ ṭhito kho, moggallāna, sakko devānamindo maṃ etadavoca : 'kittāvatā
nu kho, bhante , bhikkhu saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho
accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosāno seṭṭho devamanussānanti.
Evaṃ vutte ahaṃ, moggallāna, sakkaṃ devānamindaṃ etadavocaṃ ''idha devānaminda
bhikkhuno sutaṃ hoti 'sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyāti. Evaṃ cetaṃ devānaminda
bhikkhuno sutaṃ hoti 'sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyāti. So sabbaṃ dhammaṃ
abhijānāti, sabbaṃ dhammaṃ abhiññāya sabbaṃ dhammaṃ parijānāti , sabbaṃ dhammaṃ
pariññāya yaṃ kiñci vedanaṃ vedeti sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā. So
tāsu vedanāsu aniccānupassī viharati, virāgānupassī viharati, nirodhānupassī
viharati, paṭinissaggānupassī viharati. So tāsu vedanāsu aniccānupassī
viharanto, virāgānupassī viharanto, nirodhānupassī viharanto, paṭinissaggānupassī
viharanto na kiñci loke upādiyati, anupādiyaṃ na paritassati, aparitassaṃ
paccattaññeva parinibbāyati : 'khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ , kataṃ karaṇīyaṃ,
nāparaṃ itthattāyāti pajānāti. Ettāvatā kho, devānaminda, bhikkhu saṃkhittena
taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī accantabrahmacārī
accantapariyosāno seṭṭho devamanussānanti. Evaṃ kho ahaṃ, moggallāna,
abhijānāmi sakkassa devānamindassa saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ bhāsitāti.
Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā mahāmoggallāno bhagavato bhāsitaṃ
abhinandīti.
Cūḷataṇhāsaṅkhayasuttaṃ niṭṭhitaṃ sattamaṃ.
37.
Cūḷataṇhāsaṅkhayasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
390. Evaṃ me sutanti cūḷataṇhāsaṅkhayasuttaṃ. Tattha pubbārāme migāramātupāsādeti
pubbārāmasaṅkhāte vihāre migāramātuyā pāsāde. Tatrāyaṃ anupubbīkathāatīte
satasahassakappamatthake ekā upāsikā padumuttaraṃ bhagavantaṃ nimantetvā
buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa satasahassaṃ dānaṃ datvā bhagavato pādamūle
nipajjitvā, ‘‘anāgate tumhādisassa buddhassa aggupaṭṭhāyikā homī’’ti
patthanamakāsi. Sā kappasatasahassaṃ devesu ceva manussesu ca saṃsaritvā amhākaṃ
bhagavato kāle bhaddiyanagare meṇḍakaseṭṭhiputtassa dhanañjayassa seṭṭhino gahe
sumanadeviyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi. Jātakāle cassā visākhāti nāmaṃ akaṃsu.
Sā yadā bhagavā bhaddiyanagaraṃ agamāsi, tadā pañcahi dārikāsatehi saddhiṃ
bhagavato paccuggamanaṃ katvā paṭhamadassanamhiyeva sotāpannā ahosi. Aparabhāge
sāvatthiyaṃ migāraseṭṭhiputtassa puṇṇavaḍḍhanakumārassa gehaṃ gatā, tattha naṃ
migāraseṭṭhi mātiṭṭhāne ṭhapesi, tasmā migāramātāti vuccati.
Patikulaṃ gacchantiyā cassā pitā mahālatāpiḷandhanaṃ nāma kārāpesi.
Tasmiṃ piḷandhane catasso vajiranāḷiyo upayogaṃ agamaṃsu, muttānaṃ ekādasa nāḷiyo,
pavāḷānaṃ dvāvīsati nāḷiyo, maṇīnaṃ tettiṃsa nāḷiyo, iti etehi ca aññehi ca
sattavaṇṇehi ratanehi niṭṭhānaṃ agamāsi. Taṃ sīse paṭimukkaṃ yāva pādapiṭṭhiyā
bhassati, pañcannaṃ hatthīnaṃ balaṃ dhārayamānāva naṃ itthī dhāretuṃ sakkoti.
Sā aparabhāge dasabalassa aggupaṭṭhāyikā hutvā taṃ pasādhanaṃ vissajjetvā
navahi koṭīhi bhagavato vihāraṃ kārayamānā karīsamatte bhūmibhāge pāsādaṃ
kāresi. Tassa uparibhūmiyaṃ pañca gabbhasatāni honti, heṭṭhābhūmiyaṃ pañcāti
gabbhasahassappaṭimaṇḍito ahosi. Sā ‘‘suddhapāsādova na sobhatī’’ti taṃ
parivāretvā pañca dvikūṭagehasatāni, pañca cūḷapāsādasatāni, pañca
dīghasālasatāni ca kārāpesi. Vihāramaho catūhi māsehi niṭṭhānaṃ agamāsi.
Mātugāmattabhāve ṭhitāya visākhāya viya aññissā buddhasāsane
dhanapariccāgo nāma natthi, purisattabhāve ṭhitassa ca anāthapiṇḍikassa viya
aññassa buddhasāsane dhanapariccāgo nāma natthi. So hi catupaññāsakoṭiyo
vissajjetvā sāvatthiyā dakkhiṇabhāge anurādhapurassa mahāvihārasadise ṭhāne
jetavanamahāvihāraṃ nāma kāresi. Visākhā, sāvatthiyā pācīnabhāge
uttamadevīvihārasadise ṭhāne pubbārāmaṃ nāma kāresi. Bhagavā imesaṃ dvinnaṃ
kulānaṃ anukampāya sāvatthiṃ nissāya viharanto imesu dvīsu vihāresu
nibaddhavāsaṃ vasi. Ekaṃ antovassaṃ jetavane vasati, ekaṃ pubbārāme, etasmiṃ
pana samaye bhagavā pubbārāme viharati. Tena vuttaṃ – ‘‘pubbārāme
migāramātupāsāde’’ti.
Kittāvatā nu kho, bhanteti kittakena nu kho, bhante. Saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto
hotīti taṇhāsaṅkhaye nibbāne taṃ ārammaṇaṃ katvā vimuttacittatāya taṇhāsaṅkhayavimutto
nāma saṃkhittena kittāvatā hoti? Yāya paṭipattiyā taṇhāsaṅkhayavimutto hoti, taṃ
me khīṇāsavassa bhikkhuno pubbabhāgappaṭipadaṃ saṃkhittena desethāti pucchati.
Accantaniṭṭhoti khayavayasaṅkhātaṃ antaṃ atītāti accantā. Accantā niṭṭhā assāti
accantaniṭṭho, ekantaniṭṭho satataniṭṭhoti attho. Accantaṃ yogakkhemīti
accantayogakkhemī, niccayogakkhemīti attho. Accantaṃ brahmacārīti accantabrahmacārī,
niccabrahmacārīti attho. Accantaṃ pariyosānamassāti purimanayeneva
accantapariyosāno. Seṭṭho devamanussānanti devānañca manussānañca seṭṭho
uttamo. Evarūpo bhikkhu kittāvatā hoti, khippametassa saṅkhepeneva paṭipattiṃ
kathethāti bhagavantaṃ yācati. Kasmā panesa evaṃ vegāyatīti? Kīḷaṃ
anubhavitukāmatāya.
Ayaṃ kira uyyānakīḷaṃ āṇāpetvā catūhi mahārājūhi catūsu disāsu ārakkhaṃ
gāhāpetvā dvīsu devalokesu devasaṅghena parivuto aḍḍhatiyāhi nāṭakakoṭīhi
saddhiṃ erāvaṇaṃ āruyha uyyānadvāre ṭhito imaṃ pañhaṃ sallakkhesi – ‘‘kittakena
nu kho taṇhāsaṅkhayavimuttassa khīṇāsavassa saṅkhepato āgamaniyapubbabhāgapaṭipadā
hotī’’ti. Athassa etadahosi – ‘‘ayaṃ pañho ativiya sassiriko, sacāhaṃ imaṃ
pañhaṃ anuggaṇhitvāva uyyānaṃ pavisissāmi, chadvārikehi ārammaṇehi nimmathito
na puna imaṃ pañhaṃ sallakkhessāmi, tiṭṭhatu tāva uyyānakīḷā, satthu santikaṃ
gantvā imaṃ pañhaṃ pucchitvā uggahitapañho uyyāne kīḷissāmī’’ti hatthikkhandhe
antarahito bhagavato santike pāturahosi. Tepi cattāro mahārājāno ārakkhaṃ
gahetvā ṭhitaṭṭhāneyeva ṭhitā, paricārikadevasaṅghāpi nāṭakānipi erāvaṇopi
nāgarājā tattheva uyyānadvāre aṭṭhāsi, evamesa kīḷaṃ anubhavitukāmatāya
vegāyanto evamāha.
Sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyāti ettha sabbe dhammā nāma pañcakkhandhā
dvādasāyatanāni aṭṭhārasa dhātuyo. Te sabbepi taṇhādiṭṭhivasena abhinivesāya
nālaṃ na pariyattā na samatthā na yuttā, kasmā? Gahitākārena atiṭṭhanato. Te hi
niccāti gahitāpi aniccāva sampajjanti, sukhāti gahitāpi dukkhāva sampajjanti,
attāti gahitāpi anattāva sampajjanti, tasmā nālaṃ abhinivesāya. Abhijānātīti
aniccaṃ dukkhaṃ anattāti ñātapariññāya abhijānāti. Parijānātīti tatheva tīraṇapariññāya
parijānāti. Yaṃkiñci vedananti antamaso pañcaviññāṇasampayuttampi yaṃkiñci
appamattakampi vedanaṃ anubhavati. Iminā bhagavā sakkassa devānamindassa
vedanāvasena nibbattetvā arūpapariggahaṃ dasseti. Sace pana vedanākammaṭṭhānaṃ
heṭṭhā na kathitaṃ bhaveyya, imasmiṃ ṭhāne kathetabbaṃ siyā. Heṭṭhā pana
kathitaṃ, tasmā satipaṭṭhāne vuttanayeneva veditabbaṃ. Aniccānupassīti ettha
aniccaṃ veditabbaṃ, aniccānupassanā veditabbā, aniccānupassī veditabbo. Tattha
aniccanti pañcakkhandhā, te hi uppādavayaṭṭhena aniccā. Aniccānupassanāti
pañcakkhandhānaṃ khayato vayato dassanañāṇaṃ. Aniccānupassīti tena ñāṇena
samannāgato puggalo. Tasmā ‘‘aniccānupassī viharatī’’ti aniccato anupassanto
viharatīti ayamettha attho.
Virāgānupassīti ettha dve virāgā khayavirāgo ca accantavirāgo ca. Tattha
saṅkhārānaṃ khayavayato anupassanāpi, accantavirāgaṃ nibbānaṃ virāgato
dassanamaggañāṇampi virāgānupassanā. Tadubhayasamāṅgīpuggalo virāgānupassī
nāma, taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘virāgānupassī’’ti, virāgato anupassantoti attho.
Nirodhānupassimhipi eseva nayo, nirodhopi hi khayanirodho ca accantanirodho
cāti duvidhoyeva. Paṭinissaggānupassīti ettha paṭinissaggo vuccati vossaggo, so
ca pariccāgavossaggo pakkhandanavossaggoti duvidho hoti. Tattha
pariccāgavossaggoti vipassanā, sā hi tadaṅgavasena kilese ca khandhe ca
vossajjati. Pakkhandanavossaggoti maggo, so hi nibbānaṃ ārammaṇaṃ ārammaṇato
pakkhandati. Dvīhipi vā kāraṇehi vossaggoyeva, samucchedavasena khandhānaṃ
kilesānañca vossajjanato, nibbānañca pakkhandanato. Tasmā kilese ca khandhe ca
pariccajatīti pariccāgavossaggo, nirodhe nibbānadhātuyā cittaṃ pakkhandatīti
pakkhandanavossaggoti ubhayampetaṃ magge sameti. Tadubhayasamaṅgīpuggalo imāya
paṭinissaggānupassanāya samannāgatattā paṭinissaggānupassī nāma hoti. Taṃ
sandhāya vuttaṃ ‘‘paṭinissaggānupassī’’ti. Na kiñci loke upādiyatīti kiñci
ekampi saṅkhāragataṃ taṇhāvasena na upādiyati na gaṇhāti na parāmasati.
Anupādiyaṃ na paritassatīti aggaṇhanto taṇhāparitassanāya na paritassati.
Paccattaññeva parinibbāyatīti sayameva kilesaparinibbānena parinibbāyati. Khīṇā
jātītiādinā panassa paccavekkhaṇāva dassitā. Iti bhagavā sakkassa
devānamindassa saṃkhittena khīṇāsavassa pubbabhāgappaṭipadaṃ pucchito sallahukaṃ
katvā saṃkhitteneva khippaṃ kathesi.
391. Avidūre nisinno hotīti anantare kūṭāgāre nisinno hoti.
Abhisameccāti ñāṇena abhisamāgantvā, jānitvāti attho. Idaṃ vuttaṃ hoti – kiṃ nu
kho esa jānitvā anumodi, udāhu ajānitvā vāti. Kasmā panassa evamahosīti? Thero
kira na bhagavato pañhavissajjanasaddaṃ assosi, sakkassa pana devarañño,
‘‘evametaṃ bhagavā evametaṃ sugatā’’ti anumodanasaddaṃ assosi. Sakko kira
devarājā mahatā saddena anumodi. Atha kasmā na bhagavato saddaṃ assosīti?
Yathāparisaviññāpakattā. Buddhānañhi dhammaṃ kathentānaṃ ekābaddhāya cakkavāḷapariyantāyapi
parisāya saddo suyyati, pariyantaṃ pana muñcitvā aṅgulimattampi bahiddhā na
niccharati. Kasmā? Evarūpā madhurakathā mā niratthakā agamāsīti. Tadā bhagavā
migāramātupāsāde sattaratanamaye kūṭāgāre sirigabbhamhi nisinno hoti, tassa
dakkhiṇapasse sāriputtattherassa vasanakūṭāgāraṃ, vāmapasse mahāmoggallānassa,
antare chiddavivarokāso natthi, tasmā thero na bhagavato saddaṃ assosi,
sakkasseva assosīti.
Pañcahi tūriyasatehīti pañcaṅgikānaṃ tūriyānaṃ pañcahi satehi. Pañcaṅgikaṃ
tūriyaṃ nāma ātataṃ vitataṃ ātatavitataṃ susiraṃ ghananti imehi pañcahi aṅgehi
samannāgataṃ. Tattha ātataṃ nāma cammapariyonaddhesu bheriādīsu ekatalatūriyaṃ.
Vitataṃ nāma ubhayatalaṃ. Ātatavitataṃ nāma tantibaddhapaṇavādi. Susiraṃ vaṃsādi.
Ghanaṃ sammādi. Samappitoti upagato. Samaṅgībhūtoti tasseva vevacanaṃ.
Paricāretīti taṃ sampattiṃ anubhavanto tato tato indriyāni cāreti. Idaṃ vuttaṃ
hoti – parivāretvā vajjamānehi pañcahi tūriyasatehi samannāgato hutvā dibbasampattiṃ
anubhavatī. Paṭipaṇāmetvāti apanetvā, nissaddāni kārāpetvāti attho. Yatheva hi
idāni saddhā rājāno garubhāvaniyaṃ bhikkhuṃ disvā – ‘‘asuko nāma ayyo
āgacchati, mā, tātā, gāyatha, mā vādetha, mā naccathā’’ti nāṭakāni paṭivinenti,
sakkopi theraṃ disvā evamakāsi. Cirassaṃ kho, mārisa moggallāna, imaṃ
pariyāyamakāsīti evarūpaṃ loke pakatiyā piyasamudāhāravacanaṃ hoti, lokiyā hi
cirassaṃ āgatampi anāgatapubbampi manāpajātiyaṃ āgataṃ disvā, – ‘‘kuto bhavaṃ
āgato, cirassaṃ bhavaṃ āgato, kathaṃ te idhāgamanamaggo ñāto maggamūḷhosī’’tiādīni
vadanti. Ayaṃ pana āgatapubbattāyeva evamāha. Thero hi kālena kālaṃ devacārikaṃ
gacchatiyeva. Tattha pariyāyamakāsīti vāramakāsi. Yadidaṃ idhāgamanāyāti yo ayaṃ
idhāgamanāya vāro, taṃ, bhante, cirassamakāsīti vuttaṃ hoti. Idamāsanaṃ
paññattanti yojanikaṃ maṇipallaṅkaṃ paññapāpetvā evamāha.
392. Bahukiccā bahukaraṇīyāti ettha yesaṃ bahūni kiccāni, te bahukiccā.
Bahukaraṇīyāti tasseva vevacanaṃ. Appeva sakena karaṇīyenāti sakaraṇīyameva
appaṃ mandaṃ, na bahu, devānaṃ karaṇīyaṃ pana bahu, pathavito paṭṭhāya hi
kapparukkhamātugāmādīnaṃ atthāya aṭṭā sakkassa santike chijjanti, tasmā
niyamento āha – apica devānaṃyeva tāvatiṃsānaṃ karaṇīyenāti. Devānañhi dhītā ca
puttā ca aṅke nibbattanti, pādaparicārikā itthiyo sayane nibbattanti, tāsaṃ maṇḍanapasādhanakārikā
devadhītā sayanaṃ parivāretvā nibbattanti, veyyāvaccakarā antovimāne
nibbattanti, etesaṃ atthāya aṭṭakaraṇaṃ natthi. Ye pana sīmantare nibbattanti,
te ‘‘mama santakā tava santakā’’ti nicchetuṃ asakkontā aṭṭaṃ karonti, sakkaṃ
devarājānaṃ pucchanti, so yassa vimānaṃ āsannataraṃ, tassa santakoti vadati.
Sace dvepi samaṭṭhāne honti, yassa vimānaṃ olokento ṭhito, tassa santakoti
vadati. Sace ekampi na oloketi, taṃ ubhinnaṃ kalahupacchedanatthaṃ attano
santakaṃ karoti. Taṃ sandhāya, ‘‘devānaṃyeva tāvatiṃsānaṃ karaṇīyenā’’ti āha.
Apicassa evarūpaṃ kīḷākiccampi karaṇīyameva.
Yaṃ no khippameva antaradhāyatīti yaṃ amhākaṃ sīghameva andhakāre
rūpagataṃ viya na dissati. Iminā – ‘‘ahaṃ, bhante, taṃ pañhavissajjanaṃ na
sallakkhemī’’ti dīpeti. Thero – ‘‘kasmā nu kho ayaṃ yakkho asallakkhaṇabhāvaṃ
dīpeti, passena pariharatī’’ti āvajjanto – ‘‘devā nāma mahāmūḷhā honti.
Chadvārikehi ārammaṇehi nimmathīyamānā attano bhuttābhuttabhāvampi
pītāpītabhāvampi na jānanti, idha katamettha pamussantī’’ti aññāsi. Keci panāhu
– ‘‘thero etassa garu bhāvaniyo, tasmā ‘idāneva loke aggapuggalassa santike
pañhaṃ uggahetvā āgato, idāneva nāṭakānaṃ antaraṃ paviṭṭhoti evaṃ maṃ thero
tajjeyyā’ti bhayena evamāhā’’ti. Etaṃ pana kohaññaṃ nāma hoti, na
ariyasāvakassa evarūpaṃ kohaññaṃ nāma hoti, tasmā mūḷhabhāveneva na
sallakkhesīti veditabbaṃ. Upari kasmā sallakkhesīti? Thero tassa somanassasaṃvegaṃ
janayitvā tamaṃ nīhari, tasmā sallakkhesīti.
Idāni sakko pubbe attano evaṃ bhūtakāraṇaṃ therassa ārocetuṃ
bhūtapubbantiādimāha. Tattha samupabyūḷhoti sannipatito rāsibhūto. Asurā
parājiniṃsūti asurā parājayaṃ pāpuṇiṃsu. Kadā panete parājitāti? Sakkassa
nibbattakāle. Sakko kira anantare attabhāve magadharaṭṭhe macalagāme magho nāma
māṇavo ahosi, paṇḍito byatto, bodhisattacariyā viyassa cariyā ahosi. So tettiṃsa
purise gahetvā kalyāṇamakāsi. Ekadivasaṃ attanova paññāya upaparikkhitvā
gāmamajjhe mahājanassa sannipatitaṭṭhāne kacavaraṃ ubhayato apabbahitvā taṃ ṭhānaṃ
atiramaṇīyamakāsi, puna tattheva maṇḍapaṃ kāresi, puna gacchante kāle sālaṃ
kāresi. Gāmato ca nikkhamitvā gāvutampi aḍḍhayojanampi tigāvutampi yojanampi
vicaritvā tehi sahāyehi saddhiṃ visamaṃ samaṃ akāsi. Te sabbepi ekacchandā
tattha tattha setuyuttaṭṭhānesu setuṃ, maṇḍapasālāpokkharaṇīmālāgaccharopanādīnaṃ
yuttaṭṭhānesu maṇḍapādīni karontā bahuṃ puññamakaṃsu. Magho satta vatapadāni
pūretvā kāyassa bhedā saddhiṃ sahāyehi tāvatiṃsabhavane nibbatti.
Tasmiṃ kāle asuragaṇā tāvatiṃsadevaloke paṭivasanti. Sabbe te devānaṃ
samānāyukā samānavaṇṇā ca honti, te sakkaṃ saparisaṃ disvā adhunā nibbattā
navakadevaputtā āgatāti mahāpānaṃ sajjayiṃsu. Sakko devaputtānaṃ saññaṃ adāsi –
‘‘amhehi kusalaṃ karontehi na parehi saddhiṃ sādhāraṇaṃ kataṃ, tumhe gaṇḍapānaṃ
mā pivittha pītamattameva karothā’’ti. Te tathā akaṃsu. Bālaasurā gaṇḍapānaṃ
pivitvā mattā niddaṃ okkamiṃsu. Sakko devānaṃ saññaṃ datvā te pādesu gāhāpetvā
sinerupāde khipāpesi, sinerussa heṭṭhimatale asurabhavanaṃ nāma atthi, tāvatiṃsadevalokappamāṇameva.
Tattha asurā vasanti. Tesampi cittapāṭali nāma rukkho atthi. Te tassa pupphanakāle
jānanti – ‘‘nāyaṃ tāvatiṃsā, sakkena vañcitā maya’’nti. Te gaṇhatha nanti vatvā
sineruṃ pariharamānā deve vuṭṭhe vammikapādato vammikamakkhikā viya abhiruhiṃsu.
Tattha kālena devā jinanti, kālena asurā. Yadā devānaṃ jayo hoti, asure yāva
samuddapiṭṭhā anubandhanti. Yadā asurānaṃ jayo hoti, deve yāva vedikapādā
anubandhanti. Tasmiṃ pana saṅgāme devānaṃ jayo ahosi, devā asure yāva samuddapiṭṭhā
anubandhiṃsu. Sakko asure palāpetvā pañcasu ṭhānesu ārakkhaṃ ṭhapesi. Evaṃ
ārakkhaṃ datvā vedikapāde vajirahatthā indapaṭimāyo ṭhapesi. Asurā kālena kālaṃ
uṭṭhahitvā tā paṭimāyo disvā, ‘‘sakko appamatto tiṭṭhatī’’ti tatova nivattanti.
Tato paṭinivattitvāti vijitaṭṭhānato nivattitvā. Paricārikāyoti
mālāgandhādikammakārikāyo.
393. Vessavaṇo ca mahārājāti so kira sakkassa vallabho, balavavissāsiko,
tasmā sakkena saddhiṃ agamāsi. Purakkhatvāti purato katvā. Pavisiṃsūti
pavisitvā pana upaḍḍhapihitāni dvārāni katvā olokayamānā aṭṭhaṃsu. Idampi,
mārisa moggallāna, passa vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakanti, mārisa
moggallāna, idampi vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakaṃ passa, suvaṇṇatthambhe
passa, rajatatthambhe maṇitthambhe pavāḷatthambhe lohitaṅgatthambhe
masāragallatthambhe muttatthambhe sattaratanatthambhe, tesaṃyeva suvaṇṇādimaye
ghaṭake vāḷarūpakāni ca passāti evaṃ thambhapantiyo ādiṃ katvā rāmaṇeyyakaṃ
dassento evamāha. Yathā taṃ pubbekatapuññassāti yathā pubbe katapuññassa
upabhogaṭṭhānena sobhitabbaṃ, evamevaṃ sobhatīti attho. Atibāḷhaṃ kho ayaṃ
yakkho pamatto viharatīti attano pāsāde nāṭakaparivārena sampattiyā vasena
ativiya matto.
Iddhābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkhāsīti iddhimakāsi. Āpokasiṇaṃ samāpajjitvā
pāsādapatiṭṭhitokāsaṃ udakaṃ hotūti iddhiṃ adhiṭṭhāya pāsādakaṇṇike pādaṅguṭṭhakena
pahari. So pāsādo yathā nāma udakapiṭṭhe ṭhapitapattaṃ mukhavaṭṭiyaṃ aṅguliyā
pahaṭaṃ aparāparaṃ kampati calati na santiṭṭhati. Evamevaṃ saṃkampi sampakampi
sampavedhi, thambhapiṭṭhasaṅghāṭakaṇṇikagopānasiādīni karakarāti saddaṃ
muñcantāni patituṃ viya āraddhāni. Tena vuttaṃ – ‘‘saṅkampesi sampakampesi
sampavedhesī’’ti. Acchariyabbhutacittajātāti aho acchariyaṃ, aho abbhutanti evaṃ
sañjātaacchariyaabbhutā ceva sañjātatuṭṭhino ca ahesuṃ uppannabalavasomanassā.
Saṃvigganti ubbiggaṃ. Lomahaṭṭhajātanti jātalomahaṃsaṃ, kañcanabhittiyaṃ ṭhapitamaṇināgadantehi
viya uddhaggehi lomehi ākiṇṇasarīranti attho. Lomahaṃso ca nāmesa somanassenapi
hoti domanassenapi, idha pana somanassena jāto. Thero hi sakkassa
somanassavegena saṃvejetuṃ taṃ pāṭihāriyamakāsi. Tasmā somanassavegena saṃviggalomahaṭṭhaṃ
viditvāti attho.
394. Idhāhaṃ, mārisāti idānissa yasmā therena somanassasaṃvegaṃ
janayitvā tamaṃ vinoditaṃ, tasmā sallakkhetvā evamāha. Eso nu te, mārisa, so
bhagavā satthāti, mārisa, tvaṃ kuhiṃ gatosīti vutte mayhaṃ satthu santikanti
vadesi, imasmiṃ devaloke ekapādakena viya tiṭṭhasi, yaṃ tvaṃ evaṃ vadesi, eso
nu te, mārisa, so bhagavā satthāti pucchiṃsu. Sabrahmacārī me esoti ettha
kiñcāpi thero anagāriyo abhinīhārasampanno aggasāvako, sakko agāriyo,
maggabrahmacariyavasena panete sabrahmacārino honti, tasmā evamāha. Aho nūna te
so bhagavā satthāti sabrahmacārī tāva te evaṃmahiddhiko, so pana te bhagavā
satthā aho nūna mahiddhikoti satthu iddhipāṭihāriyadassane jātābhilāpā hutvā
evamāhaṃsu.
395. Ñātaññatarassāti paññātaññatarassa, sakko hi paññātānaṃ aññataro.
Sesaṃ sabbattha pākaṭameva, desanaṃ pana bhagavā yathānusandhināva niṭṭhāpesīti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Cūḷataṇhāsaṅkhayasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
No comments:
Post a Comment