Thursday, September 3, 2020

Thắng Pháp Abhidhamma - Bài 23 Tâm Sắc Giới - Thứ Năm, ngày 3 tháng 9, 2020

 Thắng Pháp Abhidhamma

Giảng Sư: TT Giác Đẳng

Giáo trình Thắng Pháp Abhidhamma NGÀY  3/9/2020 

Bài 23

 Tâm Sắc Giới (Rūpāvacara Citta) 

Tất cả chúng sanh không tu tập đều sống với tâm dục giới. Muốn đi cao hơn vào cảnh giới của sắc giới, vô sắc giới, siêu thế đều cần tới công phu tu tập.

 Trong dục giới tâm thường tiếp xúc với năm cảnh: sắc, thinh, khí, vị, xúc. Năm cảnh nầy đa dạng, thuộc ngoại giới, lệ thuộc vay mượn, thô thiển, là nhân giao động của tâm.

 Hệ quả trực tiếp cố hữu của năm cảnh dục: năm pháp ngăn ngại

 Khi tâm sống nhiều với những gì thấy, nghe, ngữi, nếm, xúc chạm nếu không tu tập thì sẽ dẫn đến năm hệ quả tất nhiên là:

1.     Tham dục hay sự khao khát dính mắc với những gì khả ý

2.     Sân độc hay sự bực bội bất mãn với những gì nghịch ý

3.     Hôn thuỵ hay sự biếng nhác thụ động

4.     Trạo hối hay sự giao động tiếc nuối

5.     Nghi hoặc hay sự phân vân trù trừ

 Đốt trị pháp ngăn ngại: năm chi thiền

 Năm pháp ngăn ngại là bản chất cố hữu của tâm thiếu tu tập của cuộc sống trong cảnh dục. Đối ngược lại với năm pháp ngăn ngại là năm chi thiền:

1.     Tầm tầm khả năng hướng tâm như ý muốn đối với cảnh. Tầm đối trị với hôn thuỵ.

2.     Tứ là khả năng khắn khít gắn bó với cảnh. Tứ đối trị nghi hoặc.

3.     Hỷ là sự hân hoan đối với cảnh. Hỷ đối trị sân độc.

4.     Lạc là sự gội nhuần đối với cảnh. Lạc đối trị trạo hối.

5.     Định là sự an trụ đối với cảnh. Định đối trị tham dục.

 Nên lưu ý là sự tu tập càng thuần thục, tầng thiền càng cao thì chi thiền càng giảm. Thí dụ như người học ngoại ngữ thời gian đầu học nói thì vận dụng nhiều cách đặt câu, cách dùng chữ nhưng càng thông thạo thì càng bớt dùng tới những cách đó.

 Tánh cách phức hợp của năm chi thiền

 Tầm và tứ thường đi chung trong nhiều cụm từ chỉ cho tâm đối với cảnh. Nên hiểu giống như động từ “dán dính” thực tế dán (thí dụ cho tầm) là một chuyện mà “dính” (thí dụ cho tứ) là chuyện khác. Tầm là hướng tâm tới cảnh. Tâm bình thường cũng có vấn đề là nếu muốn hướng tâm vào hơi thở chẳng hạn thì có thể làm như ý hay không là chuyện khác. Tứ là sự gắn bó, khắn khít với cảnh mang tánh quyết đoán nên đoạn trừ nghi hoặc.

 Hỷ và lạc là hai chi thiền cần phân biệt rõ. Trước hết ở đây hỷ không phải là thọ hỷ (thọ uẩn) mà là thuộc tánh hỷ (hành uẩn). Có thể thí dụ thọ hỷ như ra đa thụ động (cảm biết nhận tín hiệu) còn thuộc tánh hỷ như ra đa chủ động (phát sóng dò vật thể). Lạc thuộc thọ uẩn. Có thể dùng thí dụ một người khát nước nhìn thấy nước uống phản ứng hân hoan là hỷ; uống nước một cách thoả mãn là lạc.

 Định hay nhất hành có mặt trong tất cả tâm nhưng định ở đây là khả năng an trụ hay tập chú liên tục trên một cảnh. Trong lúc bản chất của tham dục là vọng móng thì định là sự an lập bền bĩ.

 Tại sao gọi là sắc giới?

Sở dĩ gọi là tâm sắc giới vì những tâm thiền nầy bắt đầu sự tu tập y cứ trên ấn tượng đối với vật chất. Ngược lại tâm vô sắc giới dùng ý niệm trừu tượng. Hai giác quan được sử dụng bước đầu là thị giác (như sử dụng kasina màu sắc) và xúc giác (như hơi thở) khi tâm định thuần thục thì chỉ còn lại ấn tượng. Nên hiểu là đã là ấn tượng thì không còn là cảnh sắc hay cảnh xúc mà là cảnh pháp.

 Quang tướng: hiện tượng tế nhị của vật chất

 Trong quá trình tu tập tâm thiền sắc giới hành giả đi qua những “cầu nối” giữa vật thể mà tâm thể để rồi từ từ thể nhập hẳn vào tâm thể. Những cầu ấy bước đầu là các kasina (vật thể để chú tâm) rồi sau đó chỉ giữ lại ấn tượng (tợ tướng) rồi biến mãn (quang tướng). Quá trình nầy liên quan tới hai thứ: màu sắc (màu gốc xanh, vàng, đỏ, trắng) và ánh sáng (điển quang) vốn là hiện tượng vật chất cực nhanh, đi cực xa tương thích với khả năng biến mãn rộng lớn của tam muội định.

 

Tâm sắc giới không biết cảnh sắc. Sắc giới ở đây chỉ cho đề mục định liên quan tới vật chất đối ngược với vô sắc giới là đề mục hoàn toàn trừu tượng. Tâm sắc giới tuy thành tựu do sự tu tập bước đầu có liên hệ tới sắc nhưng khi khi tâm sắc giới chỉ biết cảnh pháp. 

 

Thắng pháp Tạng trình bày năm thiền trong lúc Kinh Tạng trình bày bốn thiền. Sự khác biệt là Kinh Tạng trình bày nhị thiền là tầng thiền “không tầm không tứ” cò Thắng Pháp Tạng thì nói đến tầng thiền “không tầm có tứ”. Kỳ thật thì không có gì khác nhau. Kinh Tạng cũng nói đền pháp “vô tầm hữu tứ” như trong Kinh Phúng Tụng, Trường Bộ chẳng hạn. Rất tiếc là một số học giả không nghiên cứu Thắng pháp kết luận võ đoán là Abhidhamma “thêm thắt” ngũ thiền, một cách nhận định rất thiếu cơ sở.

 

KINH TẠNG

THẮNG PHÁP TẠNG

Sơ thiền (Tầm, tứ, hỷ, lạc, định)

Sơ thiền (Tầm, tứ, hỷ, lạc, định)

 

Nhị thiền (Tứ, hỷ, lạc, định)

Nhị thiền (hỷ, lạc, định)

Tam thiền (hỷ, lạc, định)

Tam thiền (lạc, định)

Tứ thiền (lạc, định)

Tứ thiền ( xả, định)

Ngũ thiền ( xả, định)

Hai thứ có thể đi rất xa trong vật chất là ánh sáng và âm thanh bởi hai hiện tượng nầy dựa trên vi ba. Trong lúc mùi, vị thì không đi nhanh, đi xa. Một người có thể nhìn gò mối và hòn núi trong khoảnh khắc như nhau bằng thị giác nhưng không thể cảm thụ những cảnh dục khác như vậy. Do vậy khả năng biến mãn dựa trên cảnh sắc – trong đó ánh sáng là then chốt. 

Tâm sắc giới là thuộc loại tâm sanh khởi do tu tập trong lúc nhiều tâm dục giới sanh khởi “tự nhiên”

 Chữ sắc giới trong tâm sắc giới (tu tập khởi sự từ đề mục vật chất) là cách gọi đối lập với tâm vô sắc giới (đề mục trừu tượng)

 Các chi thiền trong tâm sắc giới vốn đủ mạnh để áp đảo hoàn toàn năm pháp ngăn ngại thường có đối với người không tu tập.

Tâm sắc giới trong biểu đồ chư pháp:




Bài học trước là: Tâm Duy Tác Dục Giới Tịnh Hảo

Bài học tiếp theo sẽ là: Tâm Thiện, Tâm Quả và Tâm Duy Tác Sắc Giới



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

        
      Thảo luận 1. Các chi thiền đối trị các pháp cái. Tại sao chư vị A la hán không còn pháp cái mà vẫn có vị tu thiền sắc giới? - TT Tuệ Siêu 

 Thảo luận 2. Sự tu tập bốn vô lượng tâm có thể xem là “nữa cụ thể nữa trừu tượng chăng? thí dụ “hư không vô biên” là khái niệm trừu tượng thì tại sau “chúng sanh vô lượng” lại liệt vào thiền sắc giới? - TT Tuệ Siêu

Thảo luận 3. Tại sao một người đã từng trãi nghiệm chứng đắc thiền định và thần thông ở trình độ cao như tỳ kheo Devadatta vẫn còn ham thích danh lợi? - TT Tuệ Siêu

Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận

 III Trắc Nghiệm

No comments:

Post a Comment