Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
36. Ðại Kinh Saccaka
(Mahāsaccaka Sutta)
Giống như bài kinh trước, nội dung bài kinh nầy liên
quan tới nhân vật Saccaka - một
người rất giỏi biện luận của ngoại giáo Nigantha. Bài kinh nầy dài hơn so với
bài trước nên gọi là đại kinh. Saccaka có một cái tên thường gọi là Aggivessana
nên trong đối thoại Đức Phật gọi bằng tên đó.
Như vầy tôi
nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Vesālī, rừng Ðại Lâm, tại giảng đường Trùng Các. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đắp y thật đầy đủ, cầm y bát, muốn vào Vesālī để khất thực. Rồi Nigaṇṭhaputta Saccaka tánh hay ngao du thiên hạ, trong khi đi khắp đó đây, đến tại Ðại Lâm, giảng đường Trùng Các. Tôn giả Ānanda thấy Nigaṇṭhaputta Saccaka từ xa đi lại, liền bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Nigaṇṭhaputta Saccaka đang đến, tánh ưa luận chiến, biện luận thiện xảo, được số đông tôn kính. Bạch Thế Tôn, vị này ưa chỉ trích Phật, ưa chỉ trích Pháp, ưa chỉ trích Tăng. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn ngồi lại một lát.
Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Rồi Nigaṇṭhaputta Saccaka đi đến chỗ Thế Tôn ở, nói lên những lời hỏi thăm, chúc tụng, xã giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Nigaṇṭhaputta Saccaka nói với Thế Tôn:
-- Tôn giả Gotama, có một số Sa-môn, Bà-la-môn sống chuyên lo tu tập về thân, không tu tập về tâm. Tôn giả Gotama, những vị này cảm khổ thọ về thân. Sự tình này đã xảy ra, này Tôn giả Gotama, do cảm khổ về thân, chân sẽ bị tê liệt, quả tim có thể tức bể, máu nóng có thể trào ra từ miệng, có thể bị điên cuồng loạn tâm. Tôn giả Gotama, sự tình này xảy ra đối với người mà tâm tùy thuộc thân, khi tâm chịu sự điều khiển của thân. Vì sao vậy? Vì tâm không được tu tập. Tôn giả Gotama, nhưng có một số Sa- môn, Bà-la-môn, sống chuyên lo tu tập về tâm, không tu tập về thân. Tôn giả Gotama, những vị này cảm khổ thọ về tâm. Sự tình này đã xảy ra, này Tôn giả Gotama; do cảm khổ thọ về tâm, chân sẽ bị tê liệt, quả tim có thể tức bể, máu có thể trào ra từ miệng, có thể bị điên cuồng loạn tâm. Tôn giả Gotama, sự tình này xảy ra đối với người mà thân tùy thuộc tâm, khi thân chịu sự điều khiển của tâm. Vì sao vậy? Vì thân không được tu tập. Này Tôn giả Gotama, rồi tôi suy nghĩ: "Thật sự, Thanh văn đệ tử của Tôn giả Gotama sống chuyên lo tu tập về tâm không tu tập về thân?"
-- Này Aggivessana, Ông nghe tu tập về thân như thế nào?
-- Như Nanda Vaccha, Kisa Sankicca, Makkhali Gosāla, những vị này, này Tôn giả Gotama, sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nồi chảo, không nhận đồ ăn tại ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo, không nhận đồ ăn từ hai người, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ ruồi bu, không ăn cá thịt, không uống rượu nấu, rượu men, cháo trấu. Những vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà, vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy các vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần.
-- Này Aggivessana, họ có thể tự nuôi sống với mức độ như vậy chăng?
-- Không phải vậy, này Tôn giả Gotama. Thỉnh thoảng, này Tôn giả Gotama, họ ăn những món ăn thù thắng loại cứng, họ ăn những món ăn thù thắng loại mền, họ nếm những vị ăn thù thắng, họ uống những đồ uống thù thắng. Họ nhờ các món ăn ấy gầy dựng thân lực, làm cho thân to lớn, làm cho thân béo mập.
-- Này Aggivessana, như vậy những gì ban đầu họ từ bỏ, về sau họ lại thọ dụng. Như vậy có tụ, có tán (có được, có mất) cho thân này. Này Aggivessana, Ông nghe tu tập về tâm như thế nào?
Nigaṇṭhaputta Saccaka, được Thế Tôn hỏi tu tập về tâm, không có thể trả lời được.
160. Tu tập trong ý nghĩa chân thực
Đức Phật đã đưa ra định nghĩa của Ngài về thân tu tập và tâm tu tập vốn hoàn toàn không nằm trong tiên liệu của Saccaka: Đối với lạc thọ mà thiếu chánh niệm để tâm nhiễm đắm là thiếu tu tập về thân. Đối với khổ thọ mà thiếu kham nhẫn chịu đựng là thiếu tu tập về tâm.
Rồi Thế Tôn nói với Niganthaputta Saccaka:
Này Aggivessana, rồi một ví dụ thứ hai, vi
diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta. Này
Aggivessana, ví như có một khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống, được
vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô. Có một người đến, cầm
dụng cụ làm lửa với ý nghĩ: "Ta sẽ nhen lửa, hơi nóng sẽ hiện
ra". Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Người ấy lấy khúc cây
đẫm ướt, đầy nhựa sống, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất
khô ấy, rồi cọ xát với dụng cụ làm lửa, có thể nhen lửa, khiến
hơi nóng hiện ra được không?
Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ". Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những gọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã quúp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những vị này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Aggivessana, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh giữa, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Đức Phật đã nêu lên một điểm là khi Ngài thuyết pháp
cho đại chúng nhiều người đặc biệt hoan hỷ quy hướng nhưng đó không phải là điều
khiến ngài vui mừng. Đấng Như Lai thuyết pháp chỉ với mục đích đơn thuần là
khai thị chúng sanh rồi sau đó Ngài thể nhập vào vô tướng tâm định. (Chỉ có
phàm phu mới vui thích với hơn thua của đàm luận, thuyết giáo).
Trong bản dịch tiếng Việt có câu cuối “ Ta an trú nội tâm, làm cho tịnh chỉ, làm cho nhất tâm, làm cho định tĩnh trên định tướng thứ nhất ấy, và như vậy Ta sống an trú, trường cửu, vĩnh viễn. ”. Nguyên văn Phạn ngữ tasmiṃyeva purimasmiṃ samādhinimitte ajjhattameva cittaṃ saṇṭhapemi sannisādemi ekodiṃ karomi samādahāmi, yena sudaṃ niccakappaṃ viharāmī’”ti. Cụm từ niccakappaṃ viharāmī’ nên được dịch là “an trú liên tục không gián đoạn” hơn là “và như vậy Ta sống an trú, trường cửu, vĩnh viễn”.
162. Phàm phu không khuấy động được tâm tư bậc thánh
Saccaka nghĩ rằng có thể tìm ra khuyết điểm nơi Đức Phật khi hỏi rằng Ngài có nghỉ trưa và cho phép các đệ tử nghỉ trưa chăng. Khi Đức Phật trả lời vào những tháng thời tiết khắc nghiệt Ngài có cho phép nghỉ ngơi để nhẹ nhàng. Saccaka nắm ngay điểm nầy với lập luận “như vậy một số Sa-môn, Bà-la-môn gọi là an trú nơi si ám”. Đức Phật trả lời rằng nên hiểu thế nào si ám và không si ám. Rồi Ngài dạy về sự vô minh đối với thực trạng của đời sống và những hiểm nguy của lậu hoặc.
-- Như vậy, Tôn giả Gotama thật đáng tin cậy, vì Ngài là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Nhưng không biết Tôn giả Gotama có cho phép ngủ ban ngày không?
-- Này Aggivessana, Ta có cho phép, vào cuối tháng hạ, sau khi khất thực về, sau khi xếp áo Saṅgāṭi (đại y) thành bốn, chánh niệm tỉnh giác, Ta nằm xuống ngủ, nằm phía tay mặt.
-- Này Tôn giả Gotama, như vậy một số Sa-môn, Bà-la-môn gọi là an trú nơi si ám.
-- Này Aggivessana, như vậy không phải là si ám hay không si ám. Này Aggivessana, như thế nào là si ám và như thế nào là không si ám? Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Nigaṇṭhaputta Saccaka trả lời Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Ðối với ai, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, những lậu hoặc liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, vị ấy Ta gọi là còn si ám. Này Aggivessana, đối với ai các lậu hoặc đã được đoạn trừ, những lậu hoặc, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, vị ấy Ta gọi là không si ám. Này Aggivessana, sự đoạn trừ lậu hoặc là không si ám. Này Aggivessana, đối với Như Lai, các lậu hoặc đã được đoạn trừ, những lậu hoặc liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, chúng bị cắt tận gốc, được làm như cây ta-la bị chặt đầu, khiến cho không thể tái sanh, không thể sanh lại trong tương lai. Này Aggivessana, ví như cây ta-la bị chặt đứt đầu, không lớn lên; cũng vậy, này Aggivessana, đối với Như Lai, các lậu hoặc đã được đoạn trừ, những lậu hoặc liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, chúng bị cắt tận gốc, được làm như cây ta-la bị chặt đầu, khiến cho không thể tái sanh, không thể sanh lại trong tương lai.
Khi được nghe nói vậy, Nigaṇṭhaputta Saccaka bạch Thế Tôn:
-- Thật kỳ diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Dầu cho Tôn giả Gotama bị chống đối một cách mỉa mai, dầu cho bị công kích với những lời lẽ buộc tội trong cuộc đối thoại, màu da Tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt Tôn giả vẫn hoan hỷ, như một A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này Tôn giả Gotama, tôi xác nhận tôi cùng với Purana Kassapa biện luận, vị này khi bị tôi dùng lời nói chất vấn, liền tránh né với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, và tỏ lộ sự phẫn nộ, sân hận, tức tối. Còn Tôn giả Gotama, dầu bị chống đối một cách mỉa mai, dầu bị công kích với những lời lẽ buộc tội trong cuộc đối thoại, màu da Tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt Tôn giả vẫn hoan hỷ như một A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này Tôn giả Gotama, tôi xác nhận tôi cùng với Makkhali Gosāla... Ajita Kesakambala... Pakudha Kaccāyana... Sanjaya Belatthiputta... cùng với Nigantha Nataputta biện luận, vị này khi bị tôi dùng lời nói chất vấn liền tránh né với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề và tỏ lộ sự phẫn nộ, sân hận và tức tối. Còn Tôn giả Gotama, dầu bị chống đối một cách mỉa mai, dầu bị công kích với những lời lẽ buộc tội, trong cuộc đối thoại, màu da Tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt Tôn giả vẫn hoan hỷ như một A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Và này Tôn giả Gotama, chúng tôi nay phải đi, chúng tôi có nhiều công việc, có nhiều việc phải làm.
-- Này Aggivessana, Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.
Rồi Nigaṇṭhaputta Saccaka hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy và từ biệt.
Saccaka trình bày rằng ông ấy từng đàm luận với hầu hết
những giáo chủ danh tiếng. Khi bị chất vấn với những câu hỏi hóc búa, trịch thượng,
vấn nạn thì tất cả đều có thái độ bực tức, phẫn nộ nhưng riêng với Đức Phật thì
vẫn an nhiên với nét mặt tự tại. Theo sớ giải thì mặc dù lúc đó Saccaka chỉ là
một người tín phục Đức Phật nhưng sau nầy sanh lại ở Tích Lan xuất gia trở
thành một vị A la hán có tên Kāla Buddharakkhita
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh Số 36 [tóm tắt]
Đại Kinh Saccaka
(Mahāsaccaka Sutta)
(M.i, 237)
Saccaka đến yết kiến đức
Phật, đề cập đến tu tập về thân, tu tập về tâm, và nói ngoại đạo
tu khổ hạnh, tu tập về thân và tâm, nhưng chỉ tu tập trong một thời
gian rồi ăn uống các đồ ăn ngon trở lại. Đức Phật nói tu tập về
thân như vậy không phải là tu tập trong Pháp và Luật của bậc
Thánh. Rồi đức Phật giải thích thế nào là không tu tập về thân và
tâm, thế nào là tu tập về thân và tâm. Rồi đức Phật kể lại kinh
nghiệp tu hành của mình, tu tập về thân như thế nào, tu tập về tâm
như thế nào, từ khi tu hành khổ hạnh cho đến chứng được vô thượng
giác ngộ.
Cuối cùng Saccaka hỏi đức
Phật có cho phép ngủ ban ngày không, và ngủ như vậy có phải là si
ám không? Đức Phật trả lời có cho phép ngủ ban ngày nhưng như vậy
không gọi là si ám. Khi nào còn lậu hoặc thời còn có si ám. Lậu
hoặc đã đoạn trừ thời không còn si ám nữa.
Theo ngoại đạo, có kẻ tu tập
về thân không tu tập về tâm, cảm thọ khổ thọ về thân, chân bị tê
liệt, quả tim có thể tức bể, máu nóng có thể trào ra từ miệng, có
thể bị điên cuồng loạn tâm. Người này tâm tùy thuộc thân, tâm bị
thân điều khiển, vì tâm không được tu tập. Có người chuyên tu tập
về tâm, không tu tập về thân, cảm thọ khổ thọ về tâm, chân bị tê
liệt, quả tim tức bể, máu nóng có thể trào ra, có thể bị điên
cuồng loạn tâm. Người này tùy thuộc tâm, thân bị tâm điều khiển,
vì thân không tu tập. Các ngoại đạo tu các khổ hạnh, tu tập về
thân, nhưng chỉ một thời gian, sau thời gian ấy lại ăn uống sung túc
như trước.
Đức Phật giải thích về thân
không tu tập, về tâm không tu tập rất sai khác. Kẻ vô văn phàm phu,
khởi lên lạc thọ, liền tham đắm lạc thọ. Nếu lạc thọ bị diệt,
khởi lên khổ thọ. Do cảm giác khổ thọ nên sầu muộn than khóc, đi
đến bất tỉnh. Lạc thọ ấy khởi lên cho người ấy, xâm chiếm tâm và
an trú, do thân không tu tập. Khổ thọ ấy khởi lên, xâm chiếm tâm
và an trú, do tâm không tu tập. Còn bậc đa văn Thánh đệ tử cảm
giác lạc thọ, không tham đắm lạc thọ. Khi lạc thọ diệt mất, khởi
lên khổ thọ, cảm giác khổ thọ nhưng không có sầu muộn than khóc,
rơi vào bất tỉnh. Lạc thọ khởi lên, không xâm chiếm tâm và an
trú, vì thân có tu tập. Khổ thọ khởi lên, không xâm chiếm tâm và
an trú, vì tâm có tu tập. Người nào hai phương diện có đầy đủ,
được gọi là người có thân tu tập, có tâm tu tập.
Rồi đức Phật nói lên kinh
nghiệm của Ngài về thân tu tập, tâm tu tập, từ khi Ngài xuất gia
tuổi trẻ cho đến khi học đạo với Āḷārara Kālāma và Uddaka
Rāmaputta, rồi Ngài đến Magadha, Uruvelā, bên bờ sông Ni-liên-thiền
và bắt đầu tu tập. Ba ví dụ khởi lên cho đức Phật:
– Một khúc cây đẫm ướt,
đầy nhựa sống, đặt trong nước, không thể bén lửa đốt cháy được.
– Một khúc cây đẫm ướt,
đầy nhựa sống, được đặt trên đất khô, cũng không thể bén lửa,
đốt cháy được.
– Một khúc cây khô, không
nhựa, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô, nếu đem cọ
xát, có thể bén lửa, đốt cháy được.
Cũng vậy, những Sa-môn,
Bà-la-môn sống không xả ly dục vọng về thân, dục tham, dục ái, dục
hôn ám, dục khát vọng, dục nhiệt não, chưa được đoạn trừ, thời
nếu có vị nào có cảm thọ những cảm giác đau nhói kịch liệt, chúng
không có thể chứng được tri kiến, vô thượng chánh đẳng giác. Và
nếu không cảm thọ những cảm giác nhói đau kịch liệt, cũng không có
thể chứng được tri kiến, vô thượng chánh đẳng giác. Với những vị
không xả ly các dục vọng về thân, các dục tham, dục ái, dục hôn
ám, dục khát vọng, dục nhiệt não, nội tâm chưa khéo đoạn trừ,
chưa được làm nhẹ bớt, nên các vị này dù cảm thọ hay không cảm
thọ những cảm giác khổ đau kịch liệt, cũng không có thể chứng
được tri kiến, vô thượng chánh đẳng giác. Chỉ ai xả ly các dục
vọng về thân, đoạn trừ các dục tham, dục ái, dục hôn ám, dục khát
vọng, dục nhiệt não, nếu hạng người này thình lình cảm thọ những
cảm giác nhói đau khốc liệt, các vị ấy có thể chứng được tri
kiến, vô thượng chánh đẳng giác. Nếu không có cảm giác những khổ
thọ khốc liệt, cũng có thể chứng được tri kiến, vô thượng chánh
đẳng giác.
Sau khi nghĩ như vậy, Thế
Tôn nghiến răng, dán chặt lưỡi trên nóc họng, lấy tâm chế ngự
tâm, đánh bại tâm, mồ hôi toát ra từ nách. Dù cho Ngài chú tâm
tinh cần, tận lực, niệm không dao động, nhưng thân bị dao động, không
có khinh an vì bị chi phối bởi sự tinh tấn chống lại khổ thọ ấy.
Tuy vậy, khổ thọ ấy khởi lên, được tồn tại, nhưng không xâm chiếm
tâm.
Rồi Thế Tôn tu chỉ tức
thiền, tức là nín thở bằng miệng, bằng lỗ mũi, bằng lỗ tai. Làm
như vậy, có tiếng động kinh khủng vang qua lỗ tai, có ngọn gió kinh
khủng thổi lên đau nhói trong đầu, hay cảm bị đau đầu một cách kinh
khủng, hay một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng hay một sức nóng kinh
khủng khởi lên. Dù cho Thế Tôn có tinh tấn tận lực, niệm không dao
động, nhưng thân vẫn bị kích động không có khinh an, vì bị chi phối
bởi sự tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy khổ thọ ấy khởi
lên, an trú nhưng không xâm chiếm tâm.
Rồi đức Phật tuyệt thực
nhưng không thực hành được vì chư Thiên sẽ đổ các món ăn ngang
qua lỗ chân lông, nên đức Phật giảm thiểu sự ăn uống, ăn quá ít
đến nỗi ốm o gầy mòn, da trở thành màu vàng sẫm.
Đến đây đức Phật mới biết
con đường tu khổ hạnh không đưa đến giác ngộ. Ngài nhớ lại lúc
còn trẻ, một trải nghiệm khi ngồi dưới gốc cây Diêm-phù-đề, Ngài
chứng sơ thiền, khởi lên lạc thọ. Ngài suy nghĩ: Không đáng để sợ
lạc thọ ấy, vì đây là một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện. Rồi
Ngài dùng đồ ăn trở lại, tu và chứng sơ thiền, nhị thiền, tam
thiền, tứ thiền, các trạng thái hỷ lạc, lạc thọ khởi lên, có tồn
tại nhưng không xâm chiếm tâm.
Rồi đức Phật chuyển qua tu
tuệ, chứng được túc mạng minh, thiên nhãn minh, lậu tận minh, thoát
khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, chứng được quả A-la-hán. Rồi
đức Phật thuyết pháp cho Đại chúng hàng trăm người, mỗi người
nghĩ rằng: “Như Lai thuyết pháp cho ta”. Thật sự Như Lai thuyết pháp
chỉ có mục đích giảng dạy.
Cuối cùng Saccaka tán thán
đức Phật, dù cho bị chống đối, bị mỉa mai, màu da Như Lai vẫn sáng
suốt, sắc mặt Như Lai vẫn hoan hỷ, như một vị A-la-hán chánh đẳng
giác. Còn các ngoại đạo sư khác, trong khi bị chất vấn liền tránh
né vấn đề, tỏ lộ phẫn nộ bất mãn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh Số 36 [dàn ý]
Đại Kinh Saccaka
(Mahāsaccaka Sutta)
(M.i, 237)
A.
Duyên khởi:
Thế Tôn trú tại Đại
Lâm trùng các giảng đường và Saccaka cùng đến tại chỗ ấy. Tôn giả nanda yêu cầu
Thế Tôn có cuộc đàm luận với Saccaka vì vị này hay chỉ trích Phật, Pháp, Tăng.
Thế Tôn nhận lời và cuộc đàm luận bắt đầu.
B.
Chánh kinh:
I. Saccaka
trình bày về thân tu tập và tâm tu tập của ngoại đạo và giải thích về thân tu tập.
II. Thế Tôn
giải thích về thân không tu tập, tâm không tu tập, thân tu tập và tâm tu tập
trong pháp luật của bậc Thánh.
III. Kinh
nghiệm về thân tu tập và tâm tu tập của Sa-môn Gotama:
1. Xuất gia.
2. Cầu đạo học
đạo.
3. Ba ví dụ.
4. Tu khổ hạnh.
a. Nghiến
răng chế ngự tâm.
b. Chỉ tức
thiền I, II, III, IV, V.
c. Tuyệt thực,
giảm thiểu ăn uống.
d. Ý thức được
khổ hạnh không phải con đường giải thoát.
5. Ăn uống lại,
tu bốn thiền.
6. Chứng được
3 minh, thành đạo.
IV. Thế Tôn
giải thích thách thức của Saccaka: ngủ ban ngày không phải là còn si ám đối với
vị đã đoạn trừ lậu hoặc.
V. Saccaka
tán thán Thế Tôn, trong khi biện luận, không có nổi nóng như các ngoại đạo sư.
C. Kết
luận:
Saccaka hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn giảng.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh Số 36 [toát yếu]
Đại Kinh Saccaka
(Mahāsaccaka Sutta)
(M.I, 237)
I. TOÁT YẾU
Mahāsaccaka Sutta - The greater
discourse to Saccaka.
The Buddha meets again with
Saccaka and in the course of a discussion on development of body and
development of mind he relates a detailed narrative on his own spiritual quest.
Bản kinh dài giảng cho Saccaka.
Phật lại gặp Saccaka và trong
một cuộc thảo luận về thân tu tập và tâm tu tập, Ngài thuật lại
chi tiết về cuộc tầm đạo của chính mình.
II. TÓM TẮT
Ni-kiền Tử Saccaka cho rằng
những người tu tập về thân bị đau đớn về thân, và tâm cũng trở
nên điên loạn, vì tâm không được tu tập. Ngược lại có người tu
tập về tâm mà không tu tập thân, cũng cảm thọ thống khổ, tâm
cuồng vì thân không được tu tập. Và ông ta nghĩ chắc chắn đệ tử
Phật thuộc hạng thứ hai,
nghĩa là chỉ tu tâm, không tu thân.
Phật hỏi ông nghĩ thế nào
là tu thân, ông đáp đó là các kiểu ép xác của lõa thể ngoại đạo,
tiết chế ăn uống trong thời gian tu tập. Phật hỏi sau đó thì sao,
Ni-kiền Tử đáp sau đó họ lại ăn đủ thứ béo bổ để lấy lại sức.Phậtdạynhư vậy là họ
trở lại với những gì họ từ bỏ, thì có tu cũng như không. Phật
lại hỏi tu tâm là thế nào, Saccaka không đáp được.
Do đó Phật giảng cho nghe thế
nào là tu thân và tu tâm trong giới luật bậc thánh:
Khi lạc thọ khởi lên vị
thánh đệ tử không tham đắm, theo đuổi lạc ấy. Khi lạc thọ chấm dứt,
khổ thọ khởi lên, vị thánh đệ tử không sầu muộn than khóc.
Vị ấy không bị lạc thọ chi phối, vì có tu
tập về thân.
Vị ấy không bị khổ thọ chi
phối, vì có tu tập về tâm.
Khi ấy Saccaka hỏi Phật: có
bao giờ lạc thọ khởi lên xâm chiếm tâm Ngài, có bao giờ khổ thọ
khởi lên xâm chiếm tâm Ngài không.
Để trả lời, Phật kể lại, sau khi thoát ly
gia đình, Ngài nhận thấy nếu không xả ly các dục về thân mà tu khổ
hạnh, thì cũng vô ích như cọ xát một khúc cây còn ướt để lấy
lửa. Do đó Ngài từ bỏ các dục, khởi sự tu khổ hạnh. Ngài cảm thọ
những khổ thọ khốc liệt, nhưng khổ thọ ấy không chi phối được
tâm Ngài. Tuy vậy, vì khổ hạnh đã không giúp Ngài chứng được
pháp thượng nhân, nên Ngài nhớ lại một kinh nghiệm thiền lạc mà
Ngài đã nếm trải lúc còn thơ ấu. Ngài khởi sự nghĩ không phải
tất cả lạc thọ đều đáng sợ, mà còn có thứ lạc thọ vô hại này,
đó là lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú các thiền...
Nhưng không thể nào chứng được các lạc thọ ấy với một thân thể
gầy yếu. Và từ đấy Ngài ăn uống trở lại để tham thiền, và đã đắc
đạo. Như vậy lạc thọ của các thiền chứng đã khởi lên nơi Ngài
nhưng Ngài không bị lạc thọ ấy chi phối.
Saccaka hỏi: Ngài có cho phép
ngủ ngày không ? Phật dạy có, mỗi khi khất thực về, cảm thấy mệt
mỏi, Ngài cũng đặt lưng xuống ngủ trong chánh niệm tỉnh giác.
Saccaka bảo: Như vậy là Ngài còn trú trong
si ám. Phật dạy, si ám là chưa đoạn trừ lậu hoặc, còn những phiền
não đưa đến sinh, già, chết trong tương lai.
Saccaka khen Phật dù bị chất vấn công kích
mặt vẫn không biến sắc như các đạo sư khác. Rồi ông cáo từ.
III. CHÚ GIẢI
Theo Luận giải, lần này Saccaka đến gặp Phật
với ý định bài bác giáo lý của Ngài, vì lần trước [kinh số 35]
đã bị thất bại. Nhưng lần này ông đi một mình, để rủi có bị luận
bại cũng không ai biết. Ông định bài báng Phật với câu hỏi về
chuyện ngủ ngày, nhưng để dành câu hỏi ấy cho đến đoạn cuối cuộc
đàm luận.
Thân tu tập theo Saccaka,
là thực hành ép xác khổ hạnh. Vì không thấy các tỳ kheo của Phật
tu khổ hạnh, ông nghĩ họ không tu thân.
Nhưng theo Luận, tu thân trong Phật giáo là
thiền quán, còn tu tâm là thiền tịnh chỉ. Khi thánh đệ tử cảm thọ
lạc, vị ấy không bị xâm chiếm bởi lạc thọ ấy, vì nhờ tuệ quán,
vị ấy biết cảm thọ là vô thường, khổ, không thực chất. Khi cảm
thọ khổ, tâm vị ấy cũng không bị khổ thọ xâm chiếm, vì nhờ tu
tập định, vị ấy có thể thoát khỏi khổ thọ bằng cách nhập vào một
định chứng.
Theo Luận giải, Phật gặp Saccaka đến hai lần
và chịu khó đàm luận với ông ta mặc dù ông không quy thuận, vì
Ngài biết trước ông ta sẽ tái sinh tại Tích lan, nơi đây ông sẽ
thành vị A-la-hán với tên Hắc Phật Hộ [Kàla Buddharakkhita].
IV. PHÁP SỐ
Ba lậu, ba minh, bốn thiền, bốn sự thật.
V. KỆ TỤNG
1. Ni-kiền Tử cho rằng ép xác là tu thân
Sacca
nêu vấn đề
Tu thân và tu tâm
Cho
rằng đệ tử Phật
Không
tu tập về thân
Vì
không có khổ hạnh.
Phật
giải thích rõ ràng
Về tu thân, tu tâm
Trong giới luật bậc Thánh.
2. Tu thân và tu tâm theo Phật giáo
Khi
lạc thọ khởi lên
Không đam mê cuồng nhiệt
Như
vậy thánh đệ tử
Gọi là có tu thân
Khi lạc dứt, khổ sinh
Tâm không bị điên đảo
Vị thánh đệ tử ấy
Được gọi có tu tâm.
3. Khổ, lạc khởi lên nhưng không chi phối
tâm Phật
Phật cho biết xưa kia
Ngài từng tu khổ hạnh
Những khổ thọ chết người
Không khiến Ngài nao núng
Nhưng thể xác gầy mòn
Mà không đạt tri kiến
Xứng đáng bậc thượng nhân
Ngài từ bỏ khổ hạnh.
Ngài nhớ thuở ấu thời
Đã nếm qua thiền lạc
Một cảm thọ vô hại
Có thể đây con đường
Dẫn Ngài đến giác ngộ
Can gì phải từ bỏ ?
Bởi vậy Ngài ăn uống
Để lấy sức tu thiền.
Ngài chứng thiền thứ nhất
Hỷ lạc ly dục sinh
Tâm không bị chi phối
Ngài chứng thiền thứ hai
Tâm không hề thay đổi
Cho đến thiền thứ tư
Được xả niệm thanh tịnh
Tâm Ngài vẫn như như.
Hướng đến túc mạng minh
Nhớ nhiều đời quá khứ
Như vậy lạc thọ sinh
Ngài hướng Sinh tử trí
Thấy sống chết chúng sinh
Lạc thọ cũng khởi lên
Tâm Ngài không chướng ngại
Hướng đến trí Lậu tận
Hoàn toàn hết lỗi lầm.
4. Ni-kiền Tử bác chuyện ngủ ngày
Khi ấy Ni-kiền Tử
Hỏi trong giáo lý
Ngài Có cho phép ngủ ngày ?
Nếu có, còn si ám.
- Trong giáo pháp Như Lai
Ai lậu hoặc chưa trừ
Còn già chết tương lai
Mới gọi là si ám.
Lành thay Go-ta-ma
Dầu bị tôi công kích
Sắc mặt vẫn hoan hỷ
Vẫn không đổi màu da.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
36.
Mahāsaccakasuttaṃ [Mūla]
364. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ. Tena kho
pana samayena Bhagavā pubbaṇhasamayaṃ sunivattho hoti pattacīvaramādāya
vesāliṃ piṇḍāya pavisitukāmo [pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya...
pavisitukāmo hoti (sī.)]. Atha kho saccako nigaṇṭhaputto jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno
anuvicaramāno yena mahāvanaṃ kūṭāgārasālā tenupasaṅkami. Addasā kho āyasmā
ānando saccakaṃ nigaṇṭhaputtaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna bhagavantaṃ
etadavoca : ''ayaṃ, bhante, saccako nigaṇṭhaputto
āgacchati bhassappavādako paṇḍitavādo sādhusammato bahujanassa. Eso kho,
bhante, avaṇṇakāmo buddhassa, avaṇṇakāmo dhammassa, avaṇṇakāmo saṅghassa.
Sādhu, bhante, Bhagavā muhuttaṃ nisīdatu anukampaṃ upādāyāti. Nisīdi Bhagavā
paññatte āsane. Atha kho saccako nigaṇṭhaputto yena Bhagavā tenupasaṅkami
upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ
vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho saccako nigaṇṭhaputto
bhagavantaṃ etadavoca :
365. ''Santi, bho gotama, eke samaṇabrāhmaṇā
kāyabhāvanānuyogamanuyuttā viharanti, no cittabhāvanaṃ. Phusanti hi te, bho
gotama, sārīrikaṃ dukkhaṃ vedanaṃ. Bhūtapubbaṃ, bho gotama, sārīrikāya dukkhāya
vedanāya phuṭṭhassa sato ūrukkhambhopi nāma bhavissati, hadayampi nāma phalissati, uṇhampi lohitaṃ mukhato
uggamissati, ummādampi pāpuṇissati [pāpuṇissanti (syā. kaṃ.)] cittakkhepaṃ.
Tassa kho etaṃ, bho gotama, kāyanvayaṃ cittaṃ hoti, kāyassa vasena vattati. Taṃ
kissa hetu? abhāvitattā cittassa. Santi
pana, bho gotama, eke samaṇabrāhmaṇā cittabhāvanānuyogamanuyuttā viharanti, no
kāyabhāvanaṃ. Phusanti hi te, bho gotama, cetasikaṃ dukkhaṃ vedanaṃ. Bhūtapubbaṃ,
bho gotama, cetasikāya dukkhāya vedanāya phuṭṭhassa sato ūrukkhambhopi nāma
bhavissati, hadayampi nāma phalissati, uṇhampi lohitaṃ mukhato uggamissati,
ummādampi pāpuṇissati cittakkhepaṃ. Tassa kho eso, bho gotama, cittanvayo kāyo
hoti, cittassa vasena vattati. Taṃ kissa hetu? abhāvitattā kāyassa . Tassa
mayhaṃ, bho gotama, evaṃ hoti : 'addhā bhoto gotamassa sāvakā
cittabhāvanānuyogamanuyuttā viharanti, no kāyabhāvananti.
366. ''Kinti pana te, aggivessana, kāyabhāvanā sutāti?
''seyyathidaṃ : nando vaccho, kiso saṃkicco, makkhali gosālo : etehi, bho
gotama, acelakā muttācārā hatthāpalekhanā naehibhaddantikā natiṭṭhabhaddantikā
[naehibhadantikā, natiṭṭhabhadantikā (sī. syā. kaṃ. pī. ka.)] na abhihaṭaṃ na
uddissakataṃ na nimantanaṃ sādiyanti, te na kumbhimukhā paṭiggaṇhanti na kaḷopimukhā paṭiggaṇhanti na
eḷakamantaraṃ na daṇḍamantaraṃ na musalamantaraṃ na dvinnaṃ bhuñjamānānaṃ na
gabbhiniyā na pāyamānāya na purisantaragatāya na saṅkittīsu na yattha sā upaṭṭhito
hoti na yattha makkhikā saṇḍasaṇḍacārinī , na macchaṃ na maṃsaṃ na suraṃ na
merayaṃ na thusodakaṃ pivanti. Te ekāgārikā vā honti ekālopikā, dvāgārikā vā
honti dvālopikā - pe - sattāgārikā vā honti sattālopikā. Ekissāpi dattiyā
yāpenti, dvīhipi dattīhi yāpenti - pe - sattahipi dattīhi yāpenti. Ekāhikampi
āhāraṃ āhārenti, dvīhikampi āhāraṃ āhārenti - pe - sattāhikampi āhāraṃ
āhārenti. Iti evarūpaṃ addhamāsikampi pariyāyabhattabhojanānuyogamanuyuttā
viharantīti. ''Kiṃ pana te, aggivessana, tāvatakeneva yāpentīti? ''no hidaṃ,
bho gotama. Appekadā, bho gotama, uḷārāni uḷārāni khādanīyāni khādanti, uḷārāni
uḷārāni bhojanāni bhuñjanti, uḷārāni uḷārāni sāyanīyāni sāyanti, uḷārāni uḷārāni
pānāni pivanti. Te imaṃ kāyaṃ balaṃ gāhenti nāma, brūhenti nāma, medenti
nāmāti. ''Yaṃ kho te, aggivessana, purimaṃ pahāya pacchā upacinanti, evaṃ
imassa kāyassa ācayāpacayo hoti. Kinti pana te, aggivessana, cittabhāvanā
sutāti? cittabhāvanāya kho saccako nigaṇṭhaputto
bhagavatā puṭṭho samāno na sampāyāsi.
367. Atha kho Bhagavā saccakaṃ nigaṇṭhaputtaṃ etadavoca :
''yāpi kho te esā, aggivessana, purimā kāyabhāvanā bhāsitā sāpi ariyassa vinaye
no dhammikā kāyabhāvanā. Kāyabhāvanampi [kāyabhāvanaṃ hi (sī. pī. ka.)] kho tvaṃ,
aggivessana, na aññāsi, kuto pana tvaṃ cittabhāvanaṃ jānissasi ? api ca, aggivessana, yathā
abhāvitakāyo ca hoti abhāvitacitto ca, bhāvitakāyo ca hoti bhāvitacitto ca. Taṃ
suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi, bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhoti kho saccako nigaṇṭhaputto
bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca :
368. ''Kathañca , aggivessana, abhāvitakāyo ca hoti abhāvitacitto
ca? idha, aggivessana, assutavato puthujjanassa uppajjati sukhā vedanā. So
sukhāya vedanāya phuṭṭho samāno sukhasārāgī ca hoti sukhasārāgitañca āpajjati.
Tassa sā sukhā vedanā nirujjhati. Sukhāya vedanāya nirodhā uppajjati dukkhā
vedanā. So dukkhāya vedanāya phuṭṭho samāno socati kilamati paridevati urattāḷiṃ
kandati sammohaṃ āpajjati. Tassa kho esā, aggivessana, uppannāpi sukhā vedanā
cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati abhāvitattā kāyassa, uppannāpi dukkhā vedanā cittaṃ
pariyādāya tiṭṭhati abhāvitattā cittassa. Yassa kassaci, aggivessana, evaṃ
ubhatopakkhaṃ uppannāpi sukhā vedanā cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati abhāvitattā
kāyassa, uppannāpi dukkhā vedanā cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati abhāvitattā
cittassa, evaṃ kho, aggivessana, abhāvitakāyo ca hoti abhāvitacitto ca.
369. ''Kathañca, aggivessana, bhāvitakāyo ca hoti bhāvitacitto
ca? idha, aggivessana, sutavato ariyasāvakassa uppajjati sukhā vedanā. So
sukhāya vedanāya phuṭṭho samāno na sukhasārāgī
ca hoti, na sukhasārāgitañca āpajjati. Tassa sā sukhā vedanā nirujjhati.
Sukhāya vedanāya nirodhā uppajjati dukkhā vedanā. So dukkhāya vedanāya phuṭṭho
samāno na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ
āpajjati. Tassa kho esā, aggivessana, uppannāpi sukhā vedanā cittaṃ na
pariyādāya tiṭṭhati bhāvitattā kāyassa, uppannāpi dukkhā vedanā cittaṃ na
pariyādāya tiṭṭhati bhāvitattā cittassa. Yassa kassaci, aggivessana, evaṃ
ubhatopakkhaṃ uppannāpi sukhā vedanā cittaṃ
na pariyādāya tiṭṭhati bhāvitattā kāyassa, uppannāpi dukkhā vedanā cittaṃ
na pariyādāya tiṭṭhati bhāvitattā cittassa. Evaṃ kho, aggivessana, bhāvitakāyo
ca hoti bhāvitacitto cāti.
370. ''Evaṃ pasanno ahaṃ bhoto gotamassa! bhavañhi gotamo
bhāvitakāyo ca hoti bhāvitacitto cāti . ''Addhā kho te ayaṃ, aggivessana,
āsajja upanīya vācā bhāsitā, api ca te ahaṃ byākarissāmi . Yato kho ahaṃ,
aggivessana, kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā
anagāriyaṃ pabbajito, taṃ vata me uppannā vā sukhā vedanā cittaṃ pariyādāya ṭhassati,
uppannā vā dukkhā vedanā cittaṃ pariyādāya ṭhassatīti netaṃ ṭhānaṃ [netaṃ khoṭhānaṃ
(sī. pī.)] vijjatīti. ''Na hi nūna [na hanūna (sī. syā. kaṃ. pī.)] bhoto
gotamassa uppajjati tathārūpā sukhā vedanā yathārūpā uppannā sukhā vedanā cittaṃ
pariyādāya tiṭṭheyya na hi nūna bhoto gotamassa uppajjati tathārūpā dukkhā vedanā yathārūpā uppannā
dukkhā vedanā cittaṃ pariyādāya tiṭṭheyyāti.
371. ''Kiñhi no siyā, aggivessana? idha me, aggivessana, pubbeva
sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato etadahosi : 'sambādho
gharāvāso rajāpatho, abbhokāso pabbajjā. Nayidaṃ sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā
ekantaparipuṇṇaṃ ekantaparisuddhaṃ saṅkhalikhitaṃ brahmacariyaṃ carituṃ. Yaṃnūnāhaṃ
kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ
pabbajeyyanti. So kho ahaṃ, aggivessana, aparena samayena daharova samāno,
susukāḷakeso bhadrena yobbanena samannāgato paṭhamena vayasā, akāmakānaṃ mātāpitūnaṃ
assumukhānaṃ rudantānaṃ, kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā
agārasmā anagāriyaṃ pabbajiṃ. So evaṃ pabbajito samāno kiṃkusalagavesī anuttaraṃ
santivarapadaṃ pariyesamāno yena āḷāro kālāmo tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā āḷāraṃ
kālāmaṃ etadavocaṃ : 'icchāmahaṃ, āvuso kālāma, imasmiṃ dhammavinaye
brahmacariyaṃ caritunti. Evaṃ vutte, aggivessana, āḷāro kālāmo maṃ etadavoca :
'viharatāyasmā, tādiso ayaṃ dhammo yattha viññū puriso nacirasseva sakaṃ
ācariyakaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihareyyāti. So kho ahaṃ,
aggivessana, nacirasseva khippameva taṃ dhammaṃ pariyāpuṇiṃ. So kho ahaṃ,
aggivessana, tāvatakeneva oṭṭhapahatamattena lapitalāpanamattena ñāṇavādañca vadāmi theravādañca, 'jānāmi passāmīti ca paṭijānāmi,
ahañceva aññe ca. Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'na kho āḷāro kālāmo
imaṃ dhammaṃ kevalaṃ saddhāmattakena sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedeti,
addhā āḷāro kālāmo imaṃ dhammaṃ jānaṃ passaṃ viharatīti. ''Atha khvāhaṃ,
aggivessana, yena āḷāro kālāmo tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā āḷāraṃ kālāmaṃ etadavocaṃ : 'kittāvatā no, āvuso
kālāma, imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti
pavedesīti? evaṃ vutte, aggivessana, āḷāro kālāmo ākiñcaññāyatanaṃ pavedesi.
Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'na kho āḷārasseva kālāmassa atthi
saddhā, mayhaṃpatthi saddhā na kho āḷārasseva kālāmassa atthi vīriyaṃ, mayhaṃpatthi
vīriyaṃ na kho āḷārasseva kālāmassa atthi sati, mayhaṃpatthi sati na kho āḷārasseva
kālāmassa atthi samādhi, mayhaṃpatthi samādhi na kho āḷārasseva kālāmassa atthi
paññā, mayhaṃpatthi paññā yaṃnūnāhaṃ yaṃ dhammaṃ āḷāro kālāmo sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedeti tassa dhammassa sacchikiriyāya
padaheyyanti. So kho ahaṃ, aggivessana, nacirasseva khippameva taṃ dhammaṃ sayaṃ
abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsiṃ.
''Atha khvāhaṃ, aggivessana, yena āḷāro kālāmo tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā
āḷāraṃ kālāmaṃ etadavocaṃ : 'ettāvatā no, āvuso kālāma , imaṃ dhammaṃ sayaṃ
abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedesīti? 'ettāvatā kho ahaṃ, āvuso, imaṃ
dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedemīti. 'Ahampi kho, āvuso,
ettāvatā imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti. 'Lābhā
no, āvuso, suladdhaṃ no, āvuso, ye mayaṃ āyasmantaṃ tādisaṃ sabrahmacāriṃ
passāma. Iti yāhaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedemi taṃ
tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharasi yaṃ tvaṃ dhammaṃ
sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharasi tamahaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja pavedemi. Iti yāhaṃ dhammaṃ jānāmi taṃ tvaṃ dhammaṃ
jānāsi yaṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi tamahaṃ dhammaṃ jānāmi. Iti yādiso ahaṃ tādiso
tuvaṃ, yādiso tuvaṃ tādiso ahaṃ. Ehi dāni, āvuso, ubhova santā imaṃ gaṇaṃ
pariharāmāti. Iti kho, aggivessana, āḷāro
kālāmo ācariyo me samāno (attano) [( ) natthi (sī. pī.)] antevāsiṃ maṃ samānaṃ
attanā samasamaṃ ṭhapesi, uḷārāya ca maṃ pūjāya pūjesi. Tassa mayhaṃ,
aggivessana, etadahosi : 'nāyaṃ dhammo nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na
upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattati, yāvadeva
ākiñcaññāyatanūpapattiyāti. So kho ahaṃ, aggivessana, taṃ dhammaṃ analaṅkaritvā
tasmā dhammā nibbijja apakkamiṃ.
372. ''So kho ahaṃ, aggivessana, kiṃkusalagavesī anuttaraṃ
santivarapadaṃ pariyesamāno yena udako rāmaputto tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā
udakaṃ rāmaputtaṃ etadavocaṃ : 'icchāmahaṃ, āvuso [passa mAnguttara Nikāye
1.278 pāsarāsisutte] imasmiṃ dhammavinaye brahmacariyaṃ caritunti. Evaṃ vutte,
aggivessana, udako rāmaputto maṃ etadavoca : 'viharatāyasmā, tādiso ayaṃ dhammo
yattha viññū puriso nacirasseva sakaṃ ācariyakaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja vihareyyāti. So kho ahaṃ, aggivessana, nacirasseva khippameva taṃ
dhammaṃ pariyāpuṇiṃ. So kho ahaṃ, aggivessana, tāvatakeneva oṭṭhapahatamattena
lapitalāpanamattena ñāṇavādañca vadāmi theravādañca, 'jānāmi passāmīti ca paṭijānāmi,
ahañceva aññe ca. Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'na kho rāmo imaṃ
dhammaṃ kevalaṃ saddhāmattakena sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
viharāmīti pavedesi. Addhā rāmo imaṃ dhammaṃ jānaṃ passaṃ vihāsīti. Atha khvāhaṃ,
aggivessana, yena udako rāmaputto tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā udakaṃ rāmaputtaṃ
etadavocaṃ : 'kittāvatā no, āvuso rāmo, imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja viharāmīti pavedesīti? evaṃ vutte, aggivessana, udako rāmaputto
nevasaññānāsaññāyatanaṃ pavedesi. Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'na
kho rāmasseva ahosi saddhā, mayhaṃpatthi saddhā na kho rāmasseva ahosi vīriyaṃ,
mayhaṃpatthi vīriyaṃ na kho rāmasseva ahosi sati, mayhaṃpatthi sati na kho
rāmasseva ahosi samādhi, mayhaṃpatthi
samādhi na kho rāmasseva ahosi paññā, mayhaṃpatthi paññā yaṃnūnāhaṃ yaṃ
dhammaṃ rāmo sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedesi tassa
dhammassa sacchikiriyāya padaheyyanti.
So kho ahaṃ, aggivessana, nacirasseva khippameva taṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja vihāsiṃ. ''Atha khvāhaṃ, aggivessana, yena udako
rāmaputto tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā udakaṃ rāmaputtaṃ etadavocaṃ : 'ettāvatā
no, āvuso, rāmo imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedesīti?
'ettāvatā kho, āvuso, rāmo imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
pavedesīti. 'Ahampi kho, āvuso, ettāvatā imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja viharāmīti. 'Lābhā no, āvuso, suladdhaṃ no, āvuso, ye mayaṃ āyasmantaṃ
tādisaṃ sabrahmacāriṃ passāma. Iti yaṃ dhammaṃ rāmo sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja pavedesi, taṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
viharasi yaṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharasi, taṃ
dhammaṃ rāmo sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedesi. Iti yaṃ dhammaṃ
rāmo abhiññāsi taṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi yaṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi taṃ dhammaṃ rāmo
abhiññāsi. Iti yādiso rāmo ahosi tādiso
tuvaṃ yādiso tuvaṃ tādiso rāmo ahosi. Ehi dāni, āvuso, tuvaṃ imaṃ gaṇaṃ
pariharāti. Iti kho, aggivessana, udako
rāmaputto sabrahmacārī me samāno ācariyaṭṭhāne ca maṃ ṭhapesi, uḷārāya
ca maṃ pūjāya pūjesi. Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'nāyaṃ dhammo
nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na
nibbānāya saṃvattati, yāvadeva nevasaññānāsaññāyatanūpapattiyāti. So kho ahaṃ,
aggivessana, taṃ dhammaṃ analaṅkaritvā tasmā dhammā nibbijja apakkamiṃ.
373. ''So kho ahaṃ, aggivessana, kiṃkusalagavesī anuttaraṃ
santivarapadaṃ pariyesamāno magadhesu anupubbena cārikaṃ caramāno yena uruvelā
senānigamo tadavasariṃ. Tatthaddasaṃ ramaṇīyaṃ bhūmibhāgaṃ, pāsādikañca vanasaṇḍaṃ,
nadiñca sandantiṃ setakaṃ supatitthaṃ ramaṇīyaṃ, samantā ca gocaragāmaṃ. Tassa
mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'ramaṇīyo vata, bho, bhūmibhāgo, pāsādiko ca
vanasaṇḍo, nadī ca sandati setakā supatitthā ramaṇīyā, samantā ca gocaragāmo.
Alaṃ vatidaṃ kulaputtassa padhānatthikassa
padhānāyāti. So kho ahaṃ, aggivessana, tattheva nisīdiṃ 'alamidaṃ
padhānāyāti.
374. ''Apissumaṃ, aggivessana, tisso upamā paṭibhaṃsu anacchariyā
pubbe assutapubbā. Seyyathāpi, aggivessana, allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ udake
nikkhittaṃ. Atha puriso āgaccheyya uttarāraṇiṃ ādāya : 'aggiṃ
abhinibbattessāmi, tejo pātukarissāmīti. Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana, api nu so
puriso amuṃ allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ, udake nikkhittaṃ , uttarāraṇiṃ ādāya
abhimanthento aggiṃ abhinibbatteyya, tejo pātukareyyāti? ''no hidaṃ, bho
gotama. ''Taṃ kissa hetu? ''aduñhi, bho gotama, allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ, tañca
pana udake nikkhittaṃ. Yāvadeva ca pana
so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assāti. ''Evameva kho, aggivessana, ye
hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā kāyena ceva cittena ca kāmehi avūpakaṭṭhā
viharanti, yo ca nesaṃ kāmesu kāmacchando kāmasneho kāmamucchā kāmapipāsā
kāmapariḷāho, so ca ajjhattaṃ na suppahīno hoti, na suppaṭippassaddho,
opakkamikā cepi te bhonto samaṇabrāhmaṇā dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā
vedayanti, abhabbāva te ñāṇāya dassanāya anuttarāya sambodhāya. No cepi te
bhonto samaṇabrāhmaṇā opakkamikā dukkhā
tibbā kharā kaṭukā vedanā vedayanti, abhabbāva te ñāṇāya dassanāya anuttarāya
sambodhāya. Ayaṃ kho maṃ, aggivessana, paṭhamā upamā paṭibhāsi anacchariyā
pubbe assutapubbā.
375. ''Aparāpi kho maṃ, aggivessana, dutiyā upamā paṭibhāsi
anacchariyā pubbe assutapubbā. Seyyathāpi, aggivessana, allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ,
ārakā udakā thale nikkhittaṃ. Atha puriso āgaccheyya uttarāraṇiṃ ādāya : 'aggiṃ
abhinibbattessāmi, tejo pātukarissāmīti. Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana, api nu
so puriso amuṃ allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ, ārakā udakā thale nikkhittaṃ, uttarāraṇiṃ
ādāya abhimanthento aggiṃ
abhinibbatteyya tejo pātukareyyāti? ''no hidaṃ, bho gotama. ''Taṃ kissa hetu?
''aduñhi, bho gotama, allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ, kiñcāpi ārakā udakā thale
nikkhittaṃ. Yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assāti. Evameva kho, aggivessana, ye hi
keci samaṇā vā brāhmaṇā vā kāyena ceva cittena ca kāmehi vūpakaṭṭhā viharanti,
yo ca nesaṃ kāmesu kāmacchando kāmasneho kāmamucchā kāmapipāsā kāmapariḷāho so
ca ajjhattaṃ na suppahīno hoti, na suppaṭippassaddho, opakkamikā cepi te bhonto
samaṇabrāhmaṇā dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedayanti, abhabbāva te ñāṇāya
dassanāya anuttarāya sambodhāya. No cepi te bhonto samaṇabrāhmaṇā opakkamikā
dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedayanti, abhabbāva te ñāṇāya dassanāya
anuttarāya sambodhāya. Ayaṃ kho maṃ, aggivessana, dutiyā upamā paṭibhāsi
anacchariyā pubbe assutapubbā.
376. ''Aparāpi kho maṃ, aggivessana, tatiyā upamā paṭibhāsi
anacchariyā pubbe assutapubbā.
Seyyathāpi, aggivessana, sukkhaṃ kaṭṭhaṃ koḷāpaṃ, ārakā udakā thale nikkhittaṃ.
Atha puriso āgaccheyya uttarāraṇiṃ ādāya : 'aggiṃ abhinibbattessāmi, tejo
pātukarissāmīti. Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana, api nu so puriso amuṃ sukkhaṃ kaṭṭhaṃ
koḷāpaṃ, ārakā udakā thale nikkhittaṃ, uttarāraṇiṃ ādāya abhimanthento aggiṃ abhinibbatteyya, tejo
pātukareyyāti? ''evaṃ, bho gotama. ''Taṃ kissa hetu? ''aduñhi, bho gotama,
sukkhaṃ kaṭṭhaṃ koḷāpaṃ, tañca pana ārakā udakā thale nikkhittanti . ''Evameva
kho, aggivessana, ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā kāyena ceva cittena ca
kāmehi vūpakaṭṭhā viharanti, yo ca nesaṃ kāmesu kāmacchando kāmasneho
kāmamucchā kāmapipāsā kāmapariḷāho, so ca ajjhattaṃ suppahīno hoti suppaṭippassaddho,
opakkamikā cepi te bhonto samaṇabrāhmaṇā dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā
vedayanti, bhabbāva te ñāṇāya dassanāya anuttarāya sambodhāya. No cepi te
bhonto samaṇabrāhmaṇā opakkamikā dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedayanti,
bhabbāva te ñāṇāya dassanāya anuttarāya sambodhāya. Ayaṃ kho maṃ, aggivessana,
tatiyā upamā paṭibhāsi anacchariyā pubbe assutapubbā. Imā kho maṃ, aggivessana,
tisso upamā paṭibhaṃsu anacchariyā pubbe assutapubbā.
377. ''Tassa mayhaṃ,
aggivessana, etadahosi : 'yaṃnūnāhaṃ dantebhi dantamādhāya [passa mAnguttara
Nikāye 1.221 vitakkasaṇṭhānasutte], jivhāya tāluṃ āhacca, cetasā cittaṃ
abhiniggaṇheyyaṃ abhinippīḷeyyaṃ abhisantāpeyyanti. So kho ahaṃ, aggivessana,
dantebhi dantamādhāya, jivhāya tāluṃ āhacca, cetasā cittaṃ abhiniggaṇhāmi
abhinippīḷemi abhisantāpemi. Tassa mayhaṃ, aggivessana, dantebhi dantamādhāya
jivhāya tāluṃ āhacca cetasā cittaṃ abhiniggaṇhato abhinippīḷayato abhisantāpayato kacchehi sedā muccanti.
Seyyathāpi, aggivessana, balavā puriso dubbalataraṃ purisaṃ sīse vā gahetvā
khandhe vā gahetvā abhiniggaṇheyya abhinippīḷeyya abhisantāpeyya, evameva kho
me, aggivessana, dantebhi dantamādhāya, jivhāya tāluṃ āhacca, cetasā cittaṃ
abhiniggaṇhato abhinippīḷayato abhisantāpayato kacchehi sedā muccanti. Āraddhaṃ
kho pana me, aggivessana, vīriyaṃ hoti asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā,
sāraddho ca pana me kāyo hoti appaṭippassaddho
teneva dukkhappadhānena padhānābhitunnassa sato. Evarūpāpi kho me, aggivessana,
uppannā dukkhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati.
378. ''Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'yaṃnūnāhaṃ appāṇakaṃyeva
jhānaṃ jhāyeyyanti. So kho ahaṃ, aggivessana, mukhato ca nāsato ca
assāsapassāse uparundhiṃ. Tassa mayhaṃ, aggivessana, mukhato ca nāsato ca
assāsapassāsesu uparuddhesu kaṇṇasotehi vātānaṃ nikkhamantānaṃ adhimatto saddo
hoti. Seyyathāpi nāma kammāragaggariyā dhamamānāya adhimatto saddo hoti,
evameva kho me, aggivessana, mukhato ca nāsato ca assāsapassāsesu uparuddhesu kaṇṇasotehi vātānaṃ nikkhamantānaṃ
adhimatto saddo hoti. Āraddhaṃ kho pana me, aggivessana, vīriyaṃ hoti asallīnaṃ
upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā. Sāraddho ca pana me
kāyo hoti appaṭippassaddho teneva dukkhappadhānena padhānābhitunnassa
sato. Evarūpāpi kho me, aggivessana, uppannā dukkhā vedanā cittaṃ na pariyādāya
tiṭṭhati. ''Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'yaṃnūnāhaṃ appāṇakaṃyeva
jhānaṃ jhāyeyyanti. So kho ahaṃ, aggivessana, mukhato ca nāsato ca kaṇṇato ca assāsapassāse uparundhiṃ. Tassa mayhaṃ,
aggivessana, mukhato ca nāsato ca kaṇṇato ca assāsapassāsesu uparuddhesu
adhimattā vātā muddhani ūhananti [ūhanti (sī.), ohananti (syā. kaṃ.), uhananti
(ka.)]. Seyyathāpi, aggivessana, balavā puriso tiṇhena sikharena muddhani
abhimattheyya [muddhānaṃ abhimantheyya (sī. pī.), muddhānaṃ abhimattheyya (syā.
kaṃ.)], evameva kho me, aggivessana, mukhato ca nāsato ca kaṇṇato ca
assāsapassāsesu uparuddhesu adhimattā vātā muddhani ūhananti. Āraddhaṃ kho pana
me, aggivessana, vīriyaṃ hoti asallīnaṃ upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā. Sāraddho ca
pana me kāyo hoti appaṭippassaddho teneva dukkhappadhānena padhānābhitunnassa
sato. Evarūpāpi kho me, aggivessana, uppannā dukkhā vedanā cittaṃ na pariyādāya
tiṭṭhati. ''Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'yaṃnūnāhaṃ appāṇakaṃyeva
jhānaṃ jhāyeyyanti. So kho ahaṃ, aggivessana, mukhato ca nāsato ca kaṇṇato ca
assāsapassāse uparundhiṃ. Tassa mayhaṃ, aggivessana, mukhato ca nāsato ca kaṇṇato
ca assāsapassāsesu uparuddhesu adhimattā
sīse sīsavedanā honti. Seyyathāpi, aggivessana, balavā puriso daḷhena varattakkhaṇḍena [varattakabandhanena (sī.)]
sīse sīsaveṭhaṃ dadeyya, evameva kho me, aggivessana, mukhato ca nāsato ca kaṇṇato
ca assāsapassāsesu uparuddhesu adhimattā sīse sīsavedanā honti. Āraddhaṃ kho
pana me, aggivessana, vīriyaṃ hoti asallīnaṃ upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā. Sāraddho
ca pana me kāyo hoti appaṭippassaddho teneva dukkhappadhānena
padhānābhitunnassa sato. Evarūpāpi kho me, aggivessana, uppannā dukkhā vedanā
cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati. ''Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'yaṃnūnāhaṃ
appāṇakaṃyeva jhānaṃ jhāyeyyanti. So kho ahaṃ, aggivessana, mukhato ca nāsato
ca kaṇṇato ca assāsapassāse uparundhiṃ. Tassa mayhaṃ, aggivessana, mukhato ca
nāsato ca kaṇṇato ca assāsapassāsesu uparuddhesu adhimattā vātā kucchiṃ parikantanti. Seyyathāpi,
aggivessana, dakkho goghātako vā goghātakantevāsī vā tiṇhena govikantanena kucchiṃ parikanteyya, evameva
kho me, aggivessana, mukhato ca nāsato ca kaṇṇato ca assāsapassāsesu
uparuddhesu adhimattā vātā kucchiṃ parikantanti. Āraddhaṃ kho pana me,
aggivessana, vīriyaṃ hoti asallīnaṃ upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā. Sāraddho ca pana
me kāyo hoti appaṭippassaddho teneva dukkhappadhānena padhānābhitunnassa sato. Evarūpāpi kho me,
aggivessana, uppannā dukkhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati. ''Tassa mayhaṃ,
aggivessana, etadahosi : 'yaṃnūnāhaṃ appāṇakaṃyeva jhānaṃ jhāyeyyanti. So kho
ahaṃ, aggivessana, mukhato ca nāsato ca kaṇṇato ca assāsapassāse uparundhiṃ.
Tassa mayhaṃ, aggivessana, mukhato ca nāsato ca kaṇṇato ca assāsapassāsesu
uparuddhesu adhimatto kāyasmiṃ ḍāho hoti. Seyyathāpi, aggivessana, dve
balavanto purisā dubbalataraṃ purisaṃ nānābāhāsu gahetvā aṅgārakāsuyā
santāpeyyuṃ samparitāpeyyuṃ, evameva kho me, aggivessana, mukhato ca nāsato ca
kaṇṇato ca assāsapassāsesu uparuddhesu adhimatto kāyasmiṃ ḍāho hoti. Āraddhaṃ
kho pana me, aggivessana, vīriyaṃ hoti asallīnaṃ upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā.
Sāraddho ca pana me kāyo hoti appaṭippassaddho teneva dukkhappadhānena
padhānābhitunnassa sato. Evarūpāpi kho me, aggivessana, uppannā dukkhā vedanā
cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati. Apissu maṃ, aggivessana, devatā disvā evamāhaṃsu : 'kālaṅkato samaṇo
gotamoti. Ekaccā devatā evamāhaṃsu : 'na kālaṅkato samaṇo gotamo, api ca kālaṅkarotīti.
Ekaccā devatā evamāhaṃsu : 'na kālaṅkato samaṇo gotamo, napi kālaṅkaroti, arahaṃ
samaṇo gotamo, vihārotveva so [vihārotveveso (sī.)] arahato evarūpo hotīti
[vihārotveveso arahatoti (?)].
379. ''Tassa mayhaṃ,
aggivessana, etadahosi : 'yaṃnūnāhaṃ sabbaso āhārupacchedāya paṭipajjeyyanti.
Atha kho maṃ, aggivessana, devatā upasaṅkamitvā
etadavocuṃ : 'mā kho tvaṃ, mārisa, sabbaso āhārupacchedāya paṭipajji.
Sace kho tvaṃ, mārisa, sabbaso āhārupacchedāya paṭipajjissasi, tassa te mayaṃ
dibbaṃ ojaṃ lomakūpehi ajjhohāressāma [ajjhoharissāma (syā. kaṃ. pī. ka.)],
tāya tvaṃ yāpessasīti. Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'ahañceva kho
pana sabbaso ajajjitaṃ [ajaddhukaṃ (sī. pī.), jaddhukaṃ (syā. kaṃ.)] paṭijāneyyaṃ,
imā ca me devatā dibbaṃ ojaṃ lomakūpehi ajjhohāreyyuṃ [ajjhohareyyuṃ (syā. kaṃ.
pī. ka.)], tāya cāhaṃ yāpeyyaṃ, taṃ
mamassa musāti. So kho ahaṃ, aggivessana, tā devatā paccācikkhāmi, 'halanti
vadāmi.
380. ''Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'yaṃnūnāhaṃ thokaṃ
thokaṃ āhāraṃ āhāreyyaṃ, pasataṃ pasataṃ, yadi vā muggayūsaṃ, yadi vā
kulatthayūsaṃ, yadi vā kaḷāyayūsaṃ, yadi vā hareṇukayūsanti. So kho ahaṃ,
aggivessana, thokaṃ thokaṃ āhāraṃ āhāresiṃ, pasataṃ pasataṃ, yadi vā muggayūsaṃ,
yadi vā kulatthayūsaṃ, yadi vā kaḷāyayūsaṃ, yadi vā hareṇukayūsaṃ. Tassa mayhaṃ,
aggivessana, thokaṃ thokaṃ āhāraṃ āhārayato, pasataṃ pasataṃ, yadi vā muggayūsaṃ,
yadi vā kulatthayūsaṃ, yadi vā kaḷāyayūsaṃ, yadi vā hareṇukayūsaṃ,
adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti. Seyyathāpi nāma āsītikapabbāni vā kāḷapabbāni
vā, evamevassu me aṅgapaccaṅgāni
bhavanti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma oṭṭhapadaṃ, evamevassu me ānisadaṃ
hoti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma vaṭṭanāvaḷī, evamevassu me piṭṭhikaṇṭako
uṇṇatāvanato hoti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma jarasālāya gopāṇasiyo
oluggaviluggā bhavanti, evamevassu me phāsuḷiyo oluggaviluggā bhavanti
tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma gambhīre udapāne udakatārakā gambhīragatā
okkhāyikā dissanti, evamevassu me akkhikūpesu akkhitārakā gambhīragatā
okkhāyikā dissanti tāyevappāhāratāya. Seyyathāpi nāma tittakālābu āmakacchinno vātātapena saṃphuṭito hoti
sammilāto, evamevassu me sīsacchavi saṃphuṭitā hoti sammilātā tāyevappāhāratāya. ''So kho ahaṃ,
aggivessana, udaracchaviṃ parimasissāmīti piṭṭhikaṇṭakaṃyeva pariggaṇhāmi, piṭṭhikaṇṭakaṃ
parimasissāmīti udaracchaviṃyeva pariggaṇhāmi, yāvassu me, aggivessana,
udaracchavi piṭṭhikaṇṭakaṃ allīnā hoti tāyevappāhāratāya. So kho ahaṃ,
aggivessana, vaccaṃ vā muttaṃ vā karissāmīti tattheva avakujjo papatāmi
tāyevappāhāratāya. So kho ahaṃ, aggivessana, imameva kāyaṃ assāsento pāṇinā
gattāni anumajjāmi. Tassa mayhaṃ, aggivessana, pāṇinā gattāni anumajjato
pūtimūlāni lomāni kāyasmā papatanti tāyevappāhāratāya. Apissu maṃ, aggivessana,
manussā disvā evamāhaṃsu : 'kāḷo samaṇo
gotamoti. Ekacce manussā evamāhaṃsu : 'na kāḷo samaṇo gotamo, sāmo samaṇo
gotamoti. Ekacce manussā evamāhaṃsu : 'na kāḷo samaṇo gotamo , napi sāmo, maṅguracchavi
samaṇo gotamoti. Yāvassu me, aggivessana, tāva parisuddho chavivaṇṇo pariyodāto
upahato hoti tāyevappāhāratāya.
381. ''Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'ye kho keci
atītamaddhānaṃ samaṇā vā brāhmaṇā vā opakkamikā dukkhā tibbā kharā kaṭukā
vedanā vedayiṃsu, etāvaparamaṃ, nayito bhiyyo. Yepi hi keci anāgatamaddhānaṃ
samaṇā vā brāhmaṇā vā opakkamikā dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedayissanti,
etāvaparamaṃ, nayito bhiyyo. Yepi hi keci etarahi samaṇā vā brāhmaṇā vā
opakkamikā dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedayanti, etāvaparamaṃ, nayito
bhiyyo. Na kho panāhaṃ imāya kaṭukāya dukkarakārikāya adhigacchāmi uttari
manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ. Siyā nu kho añño maggo bodhāyāti?
tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'abhijānāmi kho panāhaṃ pitu sakkassa
kammante sītāya jambucchāyāya nisinno vivicceva kāmehi vivicca akusalehi
dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja
viharitā. Siyā nu kho eso maggo bodhāyāti? tassa mayhaṃ, aggivessana, satānusāri viññāṇaṃ ahosi : 'eseva maggo bodhāyāti.
Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'kiṃ nu kho ahaṃ tassa sukhassa bhāyāmi, yaṃ taṃ sukhaṃ
aññatreva kāmehi aññatra akusalehi
dhammehīti? tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'na kho ahaṃ tassa sukhassa
bhāyāmi, yaṃ taṃ sukhaṃ aññatreva kāmehi aññatra akusalehi dhammehīti.
382. ''Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi : 'na kho taṃ sukaraṃ
sukhaṃ adhigantuṃ evaṃ adhimattakasimānaṃ pattakāyena, yaṃnūnāhaṃ oḷārikaṃ
āhāraṃ āhāreyyaṃ odanakummāsanti. So kho ahaṃ, aggivessana, oḷārikaṃ āhāraṃ
āhāresiṃ odanakummāsaṃ. Tena kho pana maṃ, aggivessana, samayena pañca
[pañcavaggiyā (aññasuttesu)] bhikkhū paccupaṭṭhitā honti : 'yaṃ kho samaṇo
gotamo dhammaṃ adhigamissati, taṃ no ārocessatīti. Yato kho ahaṃ, aggivessana,
oḷārikaṃ āhāraṃ āhāresiṃ odanakummāsaṃ, atha me te pañca bhikkhū nibbijja
pakkamiṃsu : 'bāhulliko [bāhuliko (sī. pī.) saṃghabhedasikkhāpadaṭīkāya sameti]
samaṇo gotamo, padhānavibbhanto, āvatto bāhullāyāti.
383. ''So kho ahaṃ,
aggivessana, oḷārikaṃ āhāraṃ āhāretvā, balaṃ gahetvā, vivicceva kāmehi vivicca
akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ
upasampajja vihāsiṃ. Evarūpāpi kho me, aggivessana, uppannā sukhā vedanā cittaṃ
na pariyādāya tiṭṭhati. Vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso
ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja
vihāsiṃ. Evarūpāpi kho me, aggivessana, uppannā sukhā vedanā cittaṃ na
pariyādāya tiṭṭhati. Pītiyā ca virāgā upekkhako ca vihāsiṃ, sato ca sampajāno.
Sukhañca kāyena paṭisaṃvedesiṃ yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti : 'upekkhako satimā
sukhavihārīti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja
vihāsiṃ. Evarūpāpi kho me, aggivessana, uppannā sukhā vedanā cittaṃ na
pariyādāya tiṭṭhati. Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā, pubbeva
somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā, adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ
catutthaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. Evarūpāpi kho me, aggivessana, uppannā
sukhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati.
384. ''So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe
vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte pubbenivāsānussatiñāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. So anekavihitaṃ
pubbenivāsaṃ anussarāmi , seyyathidaṃ : ekampi jātiṃ - pe - iti sākāraṃ sauddesaṃ
anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarāmi. Ayaṃ kho me, aggivessana, rattiyā paṭhame
yāme paṭhamā vijjā adhigatā avijjā vihatā, vijjā uppannā tamo vihato, āloko
uppanno yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato. Evarūpāpi kho me,
aggivessana, uppannā sukhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati.
385. ''So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe
vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte sattānaṃ cutūpapātañāṇāya
cittaṃ abhininnāmesiṃ. So dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte
passāmi cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate
yathākammūpage satte pajānāmi - pe - ayaṃ kho me, aggivessana, rattiyā majjhime
yāme dutiyā vijjā adhigatā avijjā vihatā, vijjā uppannā tamo vihato, āloko uppanno yathā taṃ appamattassa
ātāpino pahitattassa viharato . Evarūpāpi kho me, aggivessana , uppannā sukhā
vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati.
386. ''So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe
vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte āsavānaṃ khayañāṇāya
cittaṃ abhininnāmesiṃ. So 'idaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ
dukkhasamudayoti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ dukkhanirodhoti yathābhūtaṃ
abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ. 'Ime
āsavāti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ āsavasamudayoti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ,
'ayaṃ āsavanirodhoti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadāti
yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ. Tassa me evaṃ jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ
vimuccittha, bhavāsavāpi cittaṃ vimuccittha, avijjāsavāpi cittaṃ vimuccittha.
Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ ahosi. 'Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ
karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti abbhaññāsiṃ. Ayaṃ kho me, aggivessana, rattiyā
pacchime yāme tatiyā vijjā adhigatā avijjā vihatā, vijjā uppannā tamo vihato,
āloko uppanno yathā taṃ appamattassa
ātāpino pahitattassa viharato. Evarūpāpi kho me, aggivessana, uppannā sukhā
vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati.
387. ''Abhijānāmi kho panāhaṃ, aggivessana, anekasatāya parisāya
dhammaṃ desetā. Apissu maṃ ekameko evaṃ maññati : 'mamevārabbha samaṇo gotamo
dhammaṃ desetīti. 'Na kho panetaṃ, aggivessana, evaṃ daṭṭhabbaṃ yāvadeva
viññāpanatthāya tathāgato paresaṃ dhammaṃ
deseti. So kho ahaṃ, aggivessana, tassāyeva kathāya pariyosāne, tasmiṃyeva
purimasmiṃ samādhinimitte ajjhattameva cittaṃ saṇṭhapemi sannisādemi ekodiṃ
karomi samādahāmi, yena sudaṃ niccakappaṃ viharāmīti. ''oKappaniyametaṃ bhoto
gotamassa yathā taṃ arahato sammāsambuddhassa. Abhijānāti kho pana bhavaṃ
gotamo divā supitāti? ''abhijānāmahaṃ, aggivessana, gimhānaṃ pacchime māse
pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññapetvā dakkhiṇena
passena sato sampajāno niddaṃ okkamitāti. ''Etaṃ kho, bho gotama, eke samaṇabrāhmaṇā
sammohavihārasmiṃ vadantīti ? ''na kho,
aggivessana, ettāvatā sammūḷho vā hoti asammūḷho vā. Api ca, aggivessana, yathā
sammūḷho ca hoti asammūḷho ca, taṃ suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi,
bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhoti kho saccako nigaṇṭhaputto bhagavato paccassosi.
Bhagavā etadavoca :
388. ''Yassa kassaci, aggivessana, ye āsavā saṃkilesikā
ponobbhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇiyā appahīnā, tamahaṃ
'sammūḷhoti vadāmi. Āsavānañhi, aggivessana, appahānā sammūḷho hoti. Yassa
kassaci, aggivessana, ye āsavā saṃkilesikā ponobbhavikā sadarā dukkhavipākā
āyatiṃ jātijarāmaraṇiyā pahīnā, tamahaṃ 'asammūḷhoti vadāmi. Āsavānañhi,
aggivessana, pahānā asammūḷho hoti. ''Tathāgatassa kho, aggivessana, ye āsavā saṃkilesikā
ponobbhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇiyā pahīnā ucchinnamūlā
tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā . Seyyathāpi, aggivessana,
tālo matthakacchinno abhabbo puna virūḷhiyā, evameva kho, aggivessana,
tathāgatassa ye āsavā saṃkilesikā ponobbhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ
jātijarāmaraṇiyā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ
anuppādadhammāti.
389. Evaṃ vutte, saccako nigaṇṭhaputto bhagavantaṃ etadavoca :
''acchariyaṃ, bho gotama, abbhutaṃ, bho gotama! yāvañcidaṃ bhoto gotamassa evaṃ
āsajja āsajja vuccamānassa, upanītehi vacanappathehi samudācariyamānassa,
chavivaṇṇo ceva pariyodāyati, mukhavaṇṇo ca vippasīdati, yathā taṃ arahato
sammāsambuddhassa. Abhijānāmahaṃ, bho gotama, pūraṇaṃ kassapaṃ vādena vādaṃ
samārabhitā. Sopi mayā vādena vādaṃ samāraddho aññenaññaṃ paṭicari, bahiddhā
kathaṃ apanāmesi, kopañca dosañca appaccayañca pātvākāsi. Bhoto pana [bhoto kho
pana (sī.)] gotamassa evaṃ āsajja āsajja vuccamānassa, upanītehi vacanappathehi
samudācariyamānassa, chavivaṇṇo ceva pariyodāyati, mukhavaṇṇo ca vippasīdati,
yathā taṃ arahato sammāsambuddhassa. Abhijānāmahaṃ, bho gotama, makkhaliṃ
gosālaṃ - pe - ajitaṃ kesakambalaṃ... pakudhaṃ kaccāyanaṃ... sañjayaṃ belaṭṭhaputtaṃ...
nigaṇṭhaṃ nāṭaputtaṃ vādena vādaṃ samārabhitā . Sopi mayā vādena vādaṃ samāraddho aññenaññaṃ paṭicari, bahiddhā kathaṃ apanāmesi, kopañca
dosañca appaccayañca pātvākāsi. Bhoto pana gotamassa evaṃ āsajja āsajja
vuccamānassa, upanītehi vacanappathehi samudācariyamānassa, chavivaṇṇo ceva
pariyodāyati, mukhavaṇṇo ca vippasīdati, yathā taṃ arahato sammāsambuddhassa.
Handa ca dāni mayaṃ, bho gotama, gacchāma. Bahukiccā mayaṃ, bahukaraṇīyāti.
''Yassadāni tvaṃ, aggivessana, kālaṃ maññasīti. Atha kho saccako nigaṇṭhaputto
bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā pakkāmīti.
Mahāsaccakasuttaṃ niṭṭhitaṃ chaṭṭhaṃ.
36.
Mahāsaccakasutavaṇṇanā [Atthakathā]
364. Evaṃ me sutanti mahāsaccakasuttaṃ. Tattha ekaṃ samayanti ca tena
kho pana samayenāti ca pubbaṇhasamayanti ca tīhi padehi ekova samayo vutto.
Bhikkhūnañhi vattapaṭipattiṃ katvā mukhaṃ dhovitvā pattacīvaramādāya cetiyaṃ
vanditvā kataraṃ gāmaṃ pavisissāmāti vitakkamāḷake ṭhitakālo nāma hoti. Bhagavā
evarūpe samaye rattadupaṭṭaṃ nivāsetvā kāyabandhanaṃ bandhitvā paṃsukūlacīvaraṃ
ekaṃsaṃ pārupitvā gandhakuṭito nikkhamma bhikkhusaṅghaparivuto gandhakuṭipamukhe
aṭṭhāsi. Taṃ sandhāya, – ‘‘ekaṃ samayanti ca tena kho pana samayenāti ca pubbaṇhasamaya’’nti
ca vuttaṃ. Pavisitukāmoti piṇḍāya pavisissāmīti evaṃ katasanniṭṭhāno. Tenupasaṅkamīti
kasmā upasaṅkamīti? Vādāropanajjhāsayena. Evaṃ kirassa ahosi – ‘‘pubbepāhaṃ apaṇḍitatāya
sakalaṃ vesāliparisaṃ gahetvā samaṇassa gotamassa santikaṃ gantvā parisamajjhe
maṅku jāto. Idāni tathā akatvā ekakova gantvā vādaṃ āropessāmi. Yadi samaṇaṃ
gotamaṃ parājetuṃ sakkhissāmi, attano laddhiṃ dīpetvā jayaṃ karissāmi. Yadi
samaṇassa gotamassa jayo bhavissati, andhakāre naccaṃ viya na koci
jānissatī’’ti niddāpañhaṃ nāma gahetvā iminā vādajjhāsayena upasaṅkami.
Anukampaṃ upādāyāti saccakassa nigaṇṭhaputtassa anukampaṃ paṭicca.
Therassa kirassa evaṃ ahosi – ‘‘bhagavati muhuttaṃ nisinne buddhadassanaṃ
dhammassavanañca labhissati. Tadassa dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattissatī’’ti.
Tasmā bhagavantaṃ yācitvā paṃsukūlacīvaraṃ catugguṇaṃ paññapetvā nisīdatu
bhagavāti āha. ‘‘Kāraṇaṃ ānando vadatī’’ti sallakkhetvā nisīdi bhagavā paññatte
āsane. Bhagavantaṃ etadavocāti yaṃ pana pañhaṃ ovaṭṭikasāraṃ katvā ādāya āgato
taṃ ṭhapetvā passena tāva pariharanto etaṃ santi, bho gotamātiādivacanaṃ avoca.
365. Phusanti hi te, bho gotamāti te samaṇabrāhmaṇā sarīre uppannaṃ
sārīrikaṃ dukkhaṃ vedanaṃ phusanti labhanti, anubhavantīti attho. Ūrukkhambhoti
khambhakataūrubhāvo, ūruthaddhatāti attho. Vimhayatthavasena panettha
bhavissatīti anāgatavacanaṃ kataṃ. Kāyanvayaṃ hotīti kāyānugataṃ hoti kāyassa
vasavatti. Kāyabhāvanāti pana vipassanā vuccati, tāya cittavikkhepaṃ pāpuṇanto
nāma natthi, iti nigaṇṭho asantaṃ abhūtaṃ yaṃ natthi, tadevāha.
Cittabhāvanātipi samatho vuccati, samādhiyuttassa ca puggalassa ūrukkhambhādayo
nāma natthi, iti nigaṇṭho idaṃ abhūtameva āha. Aṭṭhakathāyaṃ pana vuttaṃ –
‘‘yatheva ‘bhūtapubbanti vatvā ūrukkhambhopi nāma bhavissatī’tiādīni vadato
anāgatarūpaṃ na sameti, tathā atthopi na sameti, asantaṃ abhūtaṃ yaṃ natthi, taṃ
kathetī’’ti.
No kāyabhāvananti pañcātapatappanādiṃ attakilamathānuyogaṃ sandhāyāha.
Ayañhi tesaṃ kāyabhāvanā nāma. Kiṃ pana so disvā evamāha? So kira divādivassa
vihāraṃ āgacchati, tasmiṃ kho pana samaye bhikkhū pattacīvaraṃ paṭisāmetvā
attano attano rattiṭṭhānadivāṭṭhānesu paṭisallānaṃ upagacchanti. So te paṭisallīne
disvā cittabhāvanāmattaṃ ete anuyuñjanti, kāyabhāvanā panetesaṃ natthīti
maññamāno evamāha.
366. Atha naṃ bhagavā anuyuñjanto kinti pana te, aggivessana, kāyabhāvanā
sutāti āha. So taṃ vitthārento seyyathidaṃ, nando vacchotiādimāha. Tattha
nandoti tassa nāmaṃ. Vacchoti gottaṃ. Kisoti nāmaṃ. Saṃkiccoti gottaṃ.
Makkhaligosālo heṭṭhā āgatova. Eteti ete tayo janā, te kira kiliṭṭhatapānaṃ
matthakapattā ahesuṃ. Uḷārāni uḷārānīti paṇītāni paṇītāni. Gāhenti nāmāti balaṃ
gaṇhāpenti nāma. Brūhentīti vaḍḍhenti. Medentīti jātamedaṃ karonti. Purimaṃ
pahāyāti purimaṃ dukkarakāraṃ pahāya. Pacchā upacinantīti pacchā uḷārakhādanīyādīhi
santappenti, vaḍḍhenti. Ācayāpacayo hotīti vaḍḍhi ca avaḍḍhi ca hoti, iti
imassa kāyassa kālena vaḍḍhi, kālena parihānīti vaḍḍhiparihānimattameva
paññāyati, kāyabhāvanā pana na paññāyatīti dīpetvā cittabhāvanaṃ pucchanto,
‘‘kinti pana te, aggivessana, cittabhāvanā sutā’’ti āha. Na sampāyāsīti
sampādetvā kathetuṃ nāsakkhi, yathā taṃ bālaputhujjano.
367. Kuto pana tvanti yo tvaṃ evaṃ oḷārikaṃ dubbalaṃ kāyabhāvanaṃ na
jānāsi? So tvaṃ kuto saṇhaṃ sukhumaṃ cittabhāvanaṃ jānissasīti. Imasmiṃ pana ṭhāne
codanālayatthero, ‘‘abuddhavacanaṃ nāmetaṃ pada’’nti bījaniṃ ṭhapetvā pakkamituṃ
ārabhi. Atha naṃ mahāsīvatthero āha – ‘‘dissati, bhikkhave, imassa
cātumahābhūtikassa kāyassa ācayopi apacayopi ādānampi nikkhepanampī’’ti (saṃ.
ni. 2.62). Taṃ sutvā sallakkhesi – ‘‘oḷārikaṃ kāyaṃ pariggaṇhantassa
uppannavipassanā oḷārikāti vattuṃ vaṭṭatī’’ti.
368. Sukhasārāgīti sukhasārāgena samannāgato. Sukhāya vedanāya nirodhā
uppajjati dukkhā vedanāti na anantarāva uppajjati, sukhadukkhānañhi
anantarapaccayatā paṭṭhāne (paṭṭhā. 1.2.45-46) paṭisiddhā. Yasmā pana sukhe
aniruddhe dukkhaṃ nuppajjati, tasmā idha evaṃ vuttaṃ. Pariyādāya tiṭṭhatīti
khepetvā gaṇhitvā tiṭṭhati. Ubhatopakkhanti sukhaṃ ekaṃ pakkhaṃ dukkhaṃ ekaṃ
pakkhanti evaṃ ubhatopakkhaṃ hutvā.
369. Uppannāpi sukhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, bhāvitattā
kāyassa. Uppannāpi dukkhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, bhāvitattā
cittassāti ettha kāyabhāvanā vipassanā, cittabhāvanā samādhi. Vipassanā ca
sukhassa paccanīkā, dukkhassa āsannā. Samādhi dukkhassa paccanīko, sukhassa
āsanno. Kathaṃ? Vipassanaṃ paṭṭhapetvā nisinnassa hi addhāne gacchante
gacchante tattha tattha aggiuṭṭhānaṃ viya hoti, kacchehi sedā muccanti,
matthakato usumavaṭṭiuṭṭhānaṃ viya hotīti cittaṃ haññati vihaññati vipphandati.
Evaṃ tāva vipassanā sukhassa paccanīkā, dukkhassa āsannā. Uppanne pana kāyike
vā cetasike vā dukkhe taṃ dukkhaṃ vikkhambhetvā samāpattiṃ samāpannassa
samāpattikkhaṇe dukkhaṃ dūrāpagataṃ hoti, anappakaṃ sukhaṃ okkamati. Evaṃ
samādhi dukkhassa paccanīko, sukhassa āsanno. Yathā vipassanā sukhassa
paccanīkā, dukkhassa āsannā, na tathā samādhi. Yathā samādhi dukkhassa
paccanīko, sukhassa āsanno, na ca tathā vipassanāti. Tena vuttaṃ – ‘‘uppannāpi
sukhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, bhāvitattā kāyassa. Uppannāpi
dukkhā vedanā cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, bhāvitattā cittassā’’ti.
370. Āsajja upanīyāti guṇe ghaṭṭetvā ceva upanetvā ca. Taṃ vata meti taṃ
vata mama cittaṃ.
371. Kiñhi no siyā, aggivessanāti, aggivessana, kiṃ na bhavissati,
bhavissateva, mā evaṃ saññī hohi, uppajjiyeva me sukhāpi dukkhāpi vedanā,
uppannāya panassā ahaṃ cittaṃ pariyādāya ṭhātuṃ na demi. Idānissa tamatthaṃ
pakāsetuṃ upari pasādāvahaṃ dhammadesanaṃ desetukāmo mūlato paṭṭhāya
mahābhinikkhamanaṃ ārabhi. Tattha idha me, aggivessana, pubbeva sambodhā…pe…
tattheva nisīdiṃ, alamidaṃ padhānāyāti idaṃ sabbaṃ heṭṭhā pāsarāsisutte
vuttanayeneva veditabbaṃ. Ayaṃ pana viseso, tattha bodhipallaṅke nisajjā, idha
dukkarakārikā.
374. Allakaṭṭhanti allaṃ udumbarakaṭṭhaṃ. Sasnehanti sakhīraṃ. Kāmehīti
vatthukāmehi. Avūpakaṭṭhāti anapagatā. Kāmacchandotiādīsu kilesakāmova
chandakaraṇavasena chando. Sinehakaraṇavasena sneho. Mucchākaraṇavasena mucchā.
Pipāsākaraṇavasena pipāsā. Anudahanavasena pariḷāhoti veditabbo. Opakkamikāti
upakkamanibbattā. Ñāṇāya dassanāya anuttarāya sambodhāyāti sabbaṃ
lokuttaramaggavevacanameva.
Idaṃ panettha opammasaṃsandanaṃ – allaṃ sakhīraṃ udumbarakaṭṭhaṃ viya hi
kilesakāmena vatthukāmato anissaṭapuggalā. Udake pakkhittabhāvo viya
kilesakāmena tintatā; manthanenāpi aggino anabhinibbattanaṃ viya kilesakāmena
vatthukāmato anissaṭānaṃ opakkamikāhi vedanāhi lokuttaramaggassa anadhigamo.
Amanthanenāpi aggino anabhinibbattanaṃ viya tesaṃ puggalānaṃ vināpi
opakkamikāhi vedanāhi lokuttaramaggassa anadhigamo. Dutiyaupamāpi imināva
nayena veditabbā. Ayaṃ pana viseso, purimā saputtabhariyapabbajjāya upamā;
pacchimā brāhmaṇadhammikapabbajjāya.
376. Tatiyaupamāya koḷāpanti chinnasinehaṃ nirāpaṃ. Thale nikkhittanti
pabbatathale vā bhūmithale vā nikkhittaṃ. Etthāpi idaṃ opammasaṃsandanaṃ –
sukkhakoḷāpakaṭṭhaṃ viya hi kilesakāmena vatthukāmato nissaṭapuggalā, ārakā
udakā thale nikkhittabhāvo viya kilesakāmena atintatā. Manthanenāpi aggino
abhinibbattanaṃ viya kilesakāmena vatthukāmato nissaṭānaṃ
abbhokāsikanesajjikādivasena opakkamikāhipi vedanāhi lokuttaramaggassa
adhigamo. Aññassa rukkhassa sukkhasākhāya saddhiṃ ghaṃsanamatteneva aggino
abhinibbattanaṃ viya vināpi opakkamikāhi vedanāhi sukhāyeva paṭipadāya
lokuttaramaggassa adhigamoti. Ayaṃ upamā bhagavatā attano atthāya āhaṭā.
377. Idāni attano dukkarakārikaṃ dassento, tassa mayhantiādimāha. Kiṃ
pana bhagavā dukkaraṃ akatvā buddho bhavituṃ na samatthoti? Katvāpi akatvāpi
samatthova. Atha kasmā akāsīti? Sadevakassa lokassa attano parakkamaṃ
dassessāmi. So ca maṃ vīriyanimmathanaguṇo hāsessatīti. Pāsāde nisinnoyeva hi
paveṇiāgataṃ rajjaṃ labhitvāpi khattiyo na tathāpamudito hoti, yathā balakāyaṃ
gahetvā saṅgāme dve tayo sampahāre datvā amittamathanaṃ katvā pattarajjo. Evaṃ
pattarajjassa hi rajjasiriṃ anubhavantassa parisaṃ oloketvā attano parakkamaṃ
anussaritvā, ‘‘asukaṭṭhāne asukakammaṃ katvā asukañca asukañca amittaṃ evaṃ
vijjhitvā evaṃ paharitvā imaṃ rajjasiriṃ pattosmī’’ti cintayato balavasomanassaṃ
uppajjati. Evamevaṃ bhagavāpi sadevakassa lokassa parakkamaṃ dassessāmi, so hi
maṃ parakkamo ativiya hāsessati, somanassaṃ uppādessatīti dukkaramakāsi.
Apica pacchimaṃ janataṃ anukampamānopi akāsiyeva, pacchimā hi janatā
sammāsambuddho kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūretvāpi
padhānaṃ padahitvāva sabbaññutaññāṇaṃ patto, kimaṅgaṃ pana mayanti
padhānavīriyaṃ kattabbaṃ maññissati; evaṃ sante khippameva jātijarāmaraṇassa
antaṃ karissatīti pacchimaṃ janataṃ anukampamāno akāsiyeva.
Dantebhidantamādhāyāti heṭṭhādante uparidantaṃ ṭhapetvā. Cetasā cittanti
kusalacittena akusalacittaṃ. Abhiniggaṇheyyanti niggaṇheyyaṃ. Abhinippīḷeyyanti
nippīḷeyyaṃ. Abhisantāpeyyanti tāpetvā vīriyanimmathanaṃ kareyyaṃ. Sāraddhoti
sadaratho. Padhānābhitunnassāti padhānena abhitunnassa, viddhassa satoti attho.
378. Appāṇakanti nirassāsakaṃ. Kammāragaggariyāti kammārassa gaggaranāḷiyā.
Sīsavedanā hontīti kutoci nikkhamituṃ alabhamānehi vātehi samuṭṭhāpitā
balavatiyo sīsavedanā honti. Sīsaveṭhaṃ dadeyyāti sīsaveṭhanaṃ dadeyya.
Devatāti bodhisattassa caṅkamanakoṭiyaṃ paṇṇasālapariveṇasāmantā ca adhivatthā
devatā.
Tadā kira bodhisattassa adhimatte kāyadāhe uppanne mucchā udapādi. So caṅkameva
nisinno hutvā papati. Taṃ disvā devatā evamāhaṃsu – ‘‘vihārotveva so
arahato’’ti, ‘‘arahanto nāma evarūpā honti matakasadisā’’ti laddhiyā vadanti.
Tattha yā devatā ‘‘kālaṅkato’’ti āhaṃsu, tā gantvā suddhodanamahārājassa
ārocesuṃ – ‘‘tumhākaṃ putto kālaṅkato’’ti. Mama putto buddho hutvā kālaṅkato,
no ahutvāti? Buddho bhavituṃ nāsakkhi, padhānabhūmiyaṃyeva patitvā kālaṅkatoti.
Nāhaṃ saddahāmi, mama puttassa bodhiṃ apatvā kālaṅkiriyā nāma natthīti.
Aparabhāge sammāsambuddhassa dhammacakkaṃ pavattetvā anupubbena rājagahaṃ
gantvā kapilavatthuṃ anuppattassa suddhodanamahārājā pattaṃ gahetvā pāsādaṃ
āropetvā yāgukhajjakaṃ datvā antarābhattasamaye etamatthaṃ ārocesi – tumhākaṃ
bhagavā padhānakaraṇakāle devatā āgantvā, ‘‘putto te, mahārāja, kālaṅkato’’ti
āhaṃsūti. Kiṃ saddahasi mahārājāti? Na bhagavā saddahinti. Idāni, mahārāja,
supinappaṭiggahaṇato paṭṭhāya acchariyāni passanto kiṃ saddahissasi? Ahampi
buddho jāto, tvampi buddhapitā jāto, pubbe pana mayhaṃ aparipakke ñāṇe bodhicariyaṃ
carantassa dhammapālakumārakālepi sippaṃ uggahetuṃ gatassa, ‘‘tumhākaṃ putto
dhammapālakumāro kālaṅkato, idamassa aṭṭhī’’ti eḷakaṭṭhiṃ āharitvā dassesuṃ,
tadāpi tumhe, ‘‘mama puttassa antarāmaraṇaṃ nāma natthi, nāhaṃ saddahāmī’’ti
avocuttha, mahārājāti imissā aṭṭhuppattiyā bhagavā mahādhammapālajātakaṃ
kathesi.
379. Mā kho tvaṃ mārisāti sampiyāyamānā āhaṃsu. Devatānaṃ kirāyaṃ
piyamanāpavohāro, yadidaṃ mārisāti. Ajajjitanti abhojanaṃ. Halanti vadāmīti
alanti vadāmi, alaṃ iminā evaṃ mā karittha, yāpessāmahanti evaṃ paṭisedhemīti
attho.
380-1. Maṅguracchavīti maṅguramacchacchavi. Etāva paramanti tāsampi
vedanānametaṃyeva paramaṃ, uttamaṃ pamāṇaṃ. Pitu sakkassa kammante…pe… paṭhamaṃ
jhānaṃ upasampajja viharitāti rañño kira vappamaṅgaladivaso nāma hoti, tadā
anekappakāraṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ paṭiyādenti. Nagaravīthiyo sodhāpetvā puṇṇaghaṭe
ṭhapāpetvā dhajapaṭākādayo ussāpetvā sakalanagaraṃ devavimānaṃ viya alaṅkaronti.
Sabbe dāsakammakarādayo ahatavatthanivatthā gandhamālādipaṭimaṇḍitā rājakule
sannipatanti. Rañño kammante naṅgalasatasahassaṃ yojīyati. Tasmiṃ pana divase
ekena ūnaṃ aṭṭhasataṃ yojenti. Sabbanaṅgalāni saddhiṃ balibaddarasmiyottehi jāṇussoṇissa
ratho viya rajataparikkhittāni honti. Rañño ālambananaṅgalaṃ rattasuvaṇṇaparikkhittaṃ
hoti. Balibaddānaṃ siṅgānipi rasmipatodāpi suvaṇṇaparikkhittā honti. Rājā
mahāparivārena nikkhamanto puttaṃ gahetvā agamāsi.
Kammantaṭṭhāne eko jamburukkho bahalapattapalāso sandacchāyo ahosi.
Tassa heṭṭhā kumārassa sayanaṃ paññapetvā upari suvaṇṇatārakakhacitaṃ vitānaṃ
bandhāpetvā sāṇipākārena parikkhipāpetvā ārakkhaṃ ṭhapetvā rājā sabbālaṅkāraṃ
alaṅkaritvā amaccagaṇaparivuto naṅgalakaraṇaṭṭhānaṃ agamāsi. Tattha rājā suvaṇṇanaṅgalaṃ
gaṇhāti. Amaccā ekenūnaaṭṭhasatarajatanaṅgalāni gahetvā ito cito ca kasanti.
Rājā pana orato pāraṃ gacchati, pārato vā oraṃ gacchati. Etasmiṃ ṭhāne
mahāsampatti hoti, bodhisattaṃ parivāretvā nisinnā dhātiyo rañño sampattiṃ
passissāmāti antosāṇito bahi nikkhantā. Bodhisatto ito cito ca olokento kañci
adisvā vegena uṭṭhāya pallaṅkaṃ ābhujitvā ānāpāne pariggahetvā paṭhamajjhānaṃ
nibbattesi. Dhātiyo khajjabhojjantare vicaramānā thokaṃ cirāyiṃsu, sesarukkhānaṃ
chāyā nivattā, tassa pana rukkhassa parimaṇḍalā hutvā aṭṭhāsi. Dhātiyo
ayyaputto ekakoti vegena sāṇiṃ ukkhipitvā anto pavisamānā bodhisattaṃ sayane
pallaṅkena nisinnaṃ tañca pāṭihāriyaṃ disvā gantvā rañño ārocayiṃsu – ‘‘kumāro
deva, evaṃ nisinno aññesaṃ rukkhānaṃ chāyā nivattā, jamburukkhassa parimaṇḍalā ṭhitā’’ti.
Rājā vegenāgantvā pāṭihāriyaṃ disvā, ‘‘idaṃ te, tāta, dutiyaṃ vandana’’nti puttaṃ
vandi. Idametaṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘pitu sakkassa kammante…pe… paṭhamajjhānaṃ
upasampajja viharitā’’ti. Siyā nu kho eso maggo bodhāyāti bhaveyya nu kho etaṃ
ānāpānassatipaṭhamajjhānaṃ bujjhanatthāya maggoti. Satānusāriviññāṇanti nayidaṃ
bodhāya maggo bhavissati, ānāpānassatipaṭhamajjhānaṃ pana bhavissatīti evaṃ ekaṃ
dve vāre uppannasatiyā anantaraṃ uppannaviññāṇaṃ satānusāriviññāṇaṃ nāma. Yaṃ
taṃ sukhanti yaṃ taṃ ānāpānassatipaṭhamajjhānasukhaṃ.
382. Paccupaṭṭhitā hontīti paṇṇasālapariveṇasammajjanādivattakaraṇena
upaṭṭhitā honti. Bāhullikoti paccayabāhulliko. Āvatto bāhullāyāti rasagiddho
hutvā paṇītapiṇḍapātādīnaṃ atthāya āvatto. Nibbijja pakkamiṃsūti ukkaṇṭhitvā
dhammaniyāmeneva pakkantā bodhisattassa sambodhiṃ pattakāle kāyavivekassa
okāsadānatthaṃ dhammatāya gatā. Gacchantā ca aññaṭṭhānaṃ agantvā bārāṇasimeva
agamaṃsu. Bodhisatto tesu gatesu addhamāsaṃ kāyavivekaṃ labhitvā bodhimaṇḍe
aparājitapallaṅke nisīditvā sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhi.
383. Vivicceva kāmehītiādi bhayabherave vuttanayeneva veditabbaṃ.
387. Abhijānāmi kho panāhanti ayaṃ pāṭiyekko anusandhi. Nigaṇṭho kira
cintesi – ‘‘ahaṃ samaṇaṃ gotamaṃ ekaṃ pañhaṃ pucchiṃ. Samaṇo gotamo ‘aparāpi maṃ,
aggivessana, aparāpi maṃ, aggivessanā’ti pariyosānaṃ adassento kathetiyeva.
Kupito nu kho’’ti? Atha bhagavā, aggivessana, tathāgate anekasatāya parisāya
dhammaṃ desente kupito samaṇo gotamoti ekopi vattā natthi, paresaṃ
bodhanatthāya paṭivijjhanatthāya eva tathāgato dhammaṃ desetīti dassento imaṃ
dhammadesanaṃ ārabhi. Tattha ārabbhāti sandhāya. Yāvadevāti payojanavidhi
paricchedaniyamanaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – paresaṃ viññāpanameva tathāgatassa
dhammadesanāya payojanaṃ, tasmā na ekasseva deseti, yattakā viññātāro atthi,
sabbesaṃ desetīti. Tasmiṃyeva purimasminti iminā kiṃ dassetīti? Saccako kira
cintesi – ‘‘samaṇo gotamo abhirūpo pāsādiko suphusitaṃ dantāvaraṇaṃ, jivhā
mudukā, madhuraṃ vākkaraṇaṃ, parisaṃ rañjento maññe vicarati, anto panassa
cittekaggatā natthī’’ti. Atha bhagavā, aggivessana, na tathāgato parisaṃ
rañjento vicarati, cakkavāḷapariyantāyapi parisāya tathāgato dhammaṃ deseti,
asallīno anupalitto ettakaṃ ekavihārī, suññataphalasamāpattiṃ anuyuttoti
dassetuṃ evamāha.
Ajjhattamevāti gocarajjhattameva. Sannisādemīti sannisīdāpemi, tathāgato
hi yasmiṃ khaṇe parisā sādhukāraṃ deti, tasmiṃ khaṇe pubbābhogena
paricchinditvā phalasamāpattiṃ samāpajjati, sādhukārasaddassa nigghose
avicchinneyeva samāpattito vuṭṭhāya ṭhitaṭṭhānato paṭṭhāya dhammaṃ deseti,
buddhānañhi bhavaṅgaparivāso lahuko hotīti assāsavāre passāsavāre samāpattiṃ
samāpajjanti. Yena sudaṃ niccakappanti yena suññena phalasamādhinā niccakālaṃ
viharāmi, tasmiṃ samādhinimitte cittaṃ saṇṭhapemi samādahāmīti dasseti.
Okappaniyametanti saddahaniyametaṃ. Evaṃ bhagavato ekaggacittataṃ sampaṭicchitvā
idāni attano ovaṭṭikasāraṃ katvā ānītapañhaṃ pucchanto abhijānāti kho pana
bhavaṃ gotamo divā supitāti āha. Yathā hi sunakho nāma
asambhinnakhīrapakkapāyasaṃ sappinā yojetvā udarapūraṃ bhojitopi gūthaṃ disvā
akhāditvā gantuṃ na sakkā, akhādamāno ghāyitvāpi gacchati, aghāyitvāva gatassa
kirassa sīsaṃ rujjati; evamevaṃ imassapi satthā
asambhinnakhīrapakkapāyasasadisaṃ abhinikkhamanato paṭṭhāya yāva āsavakkhayā
pasādanīyaṃ dhammadesanaṃ deseti. Etassa pana evarūpaṃ dhammadesanaṃ sutvā
satthari pasādamattampi na uppannaṃ, tasmā ovaṭṭikasāraṃ katvā ānītapañhaṃ
apucchitvā gantuṃ asakkonto evamāha. Tattha yasmā thinamiddhaṃ sabbakhīṇāsavānaṃ
arahattamaggeneva pahīyati, kāyadaratho pana upādinnakepi hoti anupādinnakepi.
Tathā hi kamaluppalādīni ekasmiṃ kāle vikasanti, ekasmiṃ makulāni honti, sāyaṃ
kesañci rukkhānampi pattāni patilīyanti, pāto vipphārikāni honti. Evaṃ
upādinnakassa kāyassa darathoyeva darathavasena bhavaṅgasotañca idha niddāti
adhippetaṃ, taṃ khīṇāsavānampi hoti. Taṃ sandhāya, ‘‘abhijānāmaha’’ntiādimāha.
Sammohavihārasmiṃ vadantīti sammohavihāroti vadanti.
389. Āsajja āsajjāti ghaṭṭetvā ghaṭṭetvā. Upanītehīti upanetvā
kathitehi. Vacanappathehīti vacanehi. Abhinanditvā anumoditvāti alanti cittena
sampaṭicchanto abhinanditvā vācāyapi pasaṃsanto anumoditvā. Bhagavatā imassa
nigaṇṭhassa dve suttāni kathitāni. Purimasuttaṃ eko bhāṇavāro, idaṃ diyaḍḍho,
iti aḍḍhatiye bhāṇavāre sutvāpi ayaṃ nigaṇṭho neva abhisamayaṃ patto, na
pabbajito, na saraṇesu patiṭṭhito. Kasmā etassa bhagavā dhammaṃ desesīti?
Anāgate vāsanatthāya. Passati hi bhagavā, ‘‘imassa idāni upanissayo natthi,
mayhaṃ pana parinibbānato samadhikānaṃ dvinnaṃ vassasatānaṃ accayena tambapaṇṇidīpe
sāsanaṃ patiṭṭhahissati. Tatrāyaṃ kulaghare nibbattitvā sampatte kāle
pabbajitvā tīṇi piṭakāni uggahetvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ
patvā kāḷabuddharakkhito nāma mahākhīṇāsavo bhavissatī’’ti. Idaṃ disvā anāgate
vāsanatthāya dhammaṃ desesi.
Sopi tattheva tambapaṇṇidīpamhi sāsane patiṭṭhite devalokato cavitvā
dakkhiṇagirivihārassa bhikkhācāragāme ekasmiṃ amaccakule nibbatto
pabbajjāsamatthayobbane pabbajitvā tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ uggahetvā gaṇaṃ
pariharanto mahābhikkhusaṅghaparivuto upajjhāyaṃ passituṃ agamāsi. Athassa
upajjhāyo saddhivihārikaṃ codessāmīti tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ uggahetvā āgatena
tena saddhiṃ mukhaṃ datvā kathāmattampi na akāsi. So paccūsasamaye vuṭṭhāya
therassa santikaṃ gantvā, – ‘‘tumhe, bhante, mayi ganthakammaṃ katvā tumhākaṃ
santikaṃ āgate mukhaṃ datvā kathāmattampi na karittha, ko mayhaṃ doso’’ti
pucchi. Thero āha – ‘‘tvaṃ, āvuso, buddharakkhita ettakeneva ‘pabbajjākiccaṃ me
matthakaṃ patta’nti saññaṃ karosī’’ti. Kiṃ karomi, bhanteti? Gaṇaṃ vinodetvā
tvaṃ papañcaṃ chinditvā cetiyapabbatavihāraṃ gantvā samaṇadhammaṃ karohīti. So
upajjhāyassa ovāde ṭhatvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā puññavā
rājapūjito hutvā mahābhikkhusaṅghaparivāro cetiyapabbatavihāre vasi.
Tasmiñhi kāle tissamahārājā uposathakammaṃ karonto cetiyapabbate rājaleṇe
vasati. So therassa upaṭṭhākabhikkhuno saññaṃ adāsi – ‘‘yadā mayhaṃ ayyo pañhaṃ
vissajjeti, dhammaṃ vā katheti, tadā me saññaṃ dadeyyāthā’’ti. Theropi ekasmiṃ
dhammassavanadivase bhikkhusaṅghaparivāro kaṇṭakacetiyaṅgaṇaṃ āruyha cetiyaṃ
vanditvā kāḷatimbarurukkhamūle aṭṭhāsi. Atha naṃ eko piṇḍapātikatthero kāḷakārāmasuttante
pañhaṃ pucchi. Thero nanu, āvuso, ajja dhammassavanadivasoti āha. Āma, bhante,
dhammassavanadivasoti. Tena hi pīṭhakaṃ ānetha, idheva nisinnā dhammassavanaṃ
karissāmāti. Athassa rukkhamūle āsanaṃ paññapetvā adaṃsu. Thero pubbagāthā
vatvā kāḷakārāmasuttaṃ ārabhi. Sopissa upaṭṭhākadaharo rañño saññaṃ dāpesi.
Rājā pubbagāthāsu aniṭṭhitāsuyeva pāpuṇi. Patvā ca aññātakaveseneva parisante ṭhatvā
tiyāmarattiṃ ṭhitakova dhammaṃ sutvā therassa, idamavoca bhagavāti vacanakāle
sādhukāraṃ adāsi. Thero ñatvā, kadā āgatosi, mahārājāti pucchi. Pubbagāthā osāraṇakāleyeva,
bhanteti. Dukkaraṃ te mahārāja, katanti. Nayidaṃ, bhante, dukkaraṃ, yadi pana
me ayyassa dhammakathaṃ āraddhakālato paṭṭhāya ekapadepi aññavihitabhāvo ahosi,
tambapaṇṇidīpassa patodayaṭṭhinitudanamattepi ṭhāne sāmibhāvo nāma me mā hotūti
sapathamakāsi.
Tasmiṃ pana sutte buddhaguṇā paridīpitā, tasmā rājā pucchi – ‘‘ettakāva,
bhante, buddhaguṇā, udāhu aññepi atthī’’ti. Mayā kathitato, mahārāja,
akathitameva bahu appamāṇanti. Upamaṃ, bhante, karothāti. Yathā, mahārāja,
karīsasahassamatte sālikkhette ekasālisīsato avasesasālīyeva bahū, evaṃ mayā
kathitaguṇā appā, avasesā bahūti. Aparampi, bhante, upamaṃ karothāti. Yathā,
mahārāja, mahāgaṅgāya oghapuṇṇāya sūcipāsaṃ sammukhaṃ kareyya, sūcipāsena
gataudakaṃ appaṃ, sesaṃ bahu, evameva mayā kathitaguṇā appā, avasesā bahūti.
Aparampi, bhante, upamaṃ karothāti. Idha, mahārāja, cātakasakuṇā nāma ākāse kīḷantā
vicaranti. Khuddakā sā sakuṇajāti, kiṃ nu kho tassa sakuṇassa ākāse
pakkhapasāraṇaṭṭhānaṃ bahu, avaseso ākāso appoti? Kiṃ, bhante, vadatha, appo
tassa pakkhapasāraṇokāso, avasesova bahūti. Evameva, mahārāja, appakā mayā
buddhaguṇā kathitā, avasesā bahū anantā appameyyāti. Sukathitaṃ, bhante, anantā
buddhaguṇā ananteneva ākāsena upamitā. Pasannā mayaṃ ayyassa, anucchavikaṃ pana
kātuṃ na sakkoma. Ayaṃ me duggatapaṇṇākāro imasmiṃ tambapaṇṇidīpe imaṃ
tiyojanasatikaṃ rajjaṃ ayyassa demāti. Tumhehi, mahārāja, attano pasannākāro
kato, mayaṃ pana amhākaṃ dinnaṃ rajjaṃ tumhākaṃyeva dema, dhammena samena rajjaṃ
kārehi mahārājāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahāsaccakasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
No comments:
Post a Comment