Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
38. Ðại Kinh Ðoạn Tận Ái
(Mahātaṇhāsaṅkhaya Sutta)
Tên bài kinh được đặt dựa trên nội dung dựa trên lời dạy của
Đức Phật về đoạn tận ái chấp. Gọi là đại kinh vì bài kinh nầy dài hơn so với
bài kinh trước ngắn hơn.
Như
vầy tôi nghe.
Một thời Thế
Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapiṇḍika
(Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Sati, con của người đánh
cá, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu pháp Thế
Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruỗi, luân chuyển nhưng không
đổi khác".
-- Hiền giả Sāti,
chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là
không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Sāti, Thế Tôn
đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi; không có duyên thì
thức không hiện khởi.
"-- Hiền giả Sāti chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Sāti, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi, không có duyên thì thức không hiện khởi.
"Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sāti, con của người đánh cá dầu cho được chúng con cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy:
(Duyên sanh
Thức)
Với sự kết hợp nầy
thì rõ ràng căn thay đổi (như người già mắt mờ, tai điếc) hay cảnh thay đổi
(nhưng hết thấy cảnh nầy sang cảnh khác) thì tâm thức phải thay đổi. Bảo rằng
dù căn, cảnh thay đổi nhưng tâm thức thường hằng là không hiểu về xúc hay sự tập
hợp của ba yếu tố căn, cảnh và thức.
(Các câu hỏi
về sanh vật)
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
(Thức ăn và
Duyên khởi)
-- Này các
Tỷ-kheo, có bốn món ăn giúp cho an trú các loài hữu tình đã sanh
hay phò trợ các loài hữu tình sẽ sanh. Thế nào là bốn? Ðoàn thực
hoặc thô hoặc tế, thứ hai là xúc thực, thứ ba là tư niệm thực, và
thứ tư là thức thực.
Và này các Tỷ-kheo bốn món ăn này, lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Bốn món ăn này lấy ái làm nhân duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm sanh chủng, lấy ái làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, ái này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Ái lấy thọ làm nhân duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ làm sanh chủng, lấy thọ làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thọ này lấy gì làm nguyên nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thọ lấy xúc làm nhân duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm sanh chủng, lấy xúc làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, xúc này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Xúc lấy sáu nhập làm nhân duyên, lấy sáu nhập làm tập khởi, lấy sáu nhập làm sanh chủng, lấy sáu nhập làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Sáu nhập lấy danh sắc làm nhân duyên, lấy danh sắc làm tập khởi, lấy danh sắc làm sanh chủng, lấy danh sắc làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, danh sắc này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Danh sắc lấy thức làm nhân duyên, lấy thức là tập khởi, lấy thức làm sanh chủng, lấy thức làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thức này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thức lấy hành làm nhân duyên, lấy hành làm tập khởi, lấy hành làm sanh chủng, lấy hành làm nguyên nhân. Này các Tỷ- kheo, các hành này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Các hành lấy vô minh làm sanh chủng, lấy vô minh làm nguyên nhân.
Như vậy Phật pháp dạy rằng tất cả hiện tượng vật chất hay
tâm thức đều tồn tại do chất liệu nuôi dưỡng hay tứ thực. Chất liệu nuôi dưỡng
vô thường thì tâm thức không thể hằng cữu.
169. Chấp thủ thường kiến là không hiểu rõ định lý về y tương sinh
Đó là nguyên lý của hữu vi pháp: cái nầy có thì cái kia có, cái nầy không có thì cái kia không có. Như vậy sẽ không có sự hiện hữu đơn thuần mà luôn có lực tác động.
Có hai cách lý giải về giáo lý duyên khởi:
Cách giải thích thứ nhất, phổ thông thường tìm thấy ở Kinh Tạng, là thập nhị duyên khởi giảng theo “tam sinh” hay ba kiếp: quá khứ, hiện tại, và tương lai. Đây là cách trình bày theo hình thức quy mô (marcro)
Cách giải thích thứ hai, tìm thấy trong A Tỳ Đàm, là thập nhị duyên khởi xẩy ra trong kiếp hiện hiện tại. Đây là hình thức trình bày theo vĩ mô (micro)
(Tương tự như cách giảng về tứ đại có khi tách rời đất, nước, lửa, gió có khi giảng bốn đại là sắc bất ly)
(Duyên theo
chiều thuận)
Như vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được hiện hữu. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
(Duyên theo chiều nghịch)
Trước đã nói: Sanh duyên già, chết (Do duyên sanh nên già, chết hiện khởi). Này các Tỷ-kheo, sanh duyên già, chết có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, sanh duyên già, chết. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Sanh duyên già, chết.
-- Trước đã nói: hữu duyên sanh. Này các Tỷ-kheo, hữu duyên sanh có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, hữu duyên sanh. Như vậy, đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Hữu duyên sanh.
-- Trước đã nói: Thủ duyên hữu. Này các Tỷ-kheo, thủ duyên hữu có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, thủ duyên hữu. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy:
Thủ duyên hữu.
-- Trước đã nói: Ái duyên thủ. Này các Tỷ-kheo, ái duyên thủ có phải không? Hay ở đây, (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, ái duyên thủ. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Ái duyên thủ.
-- Trước đã nói: Thọ duyên ái. Này các Tỷ-kheo, thọ duyên ái có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, thọ duyên ái. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thọ duyên ái.
- Trước đã nói: Xúc duyên thọ. Này các Tỷ-kheo, xúc duyên thọ có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, xúc duyên thọ. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Xúc duyên thọ.
-- Trước đã
nói: Sáu nhập duyên xúc. Này các Tỷ-kheo, sáu nhập duyên xúc có
phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, sáu nhập duyên xúc. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Sáu nhập duyên xúc.
-- Trước đã nói: Danh sắc duyên sáu nhập. Này các Tỷ-kheo, danh sắc duyên sáu nhập có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, danh sắc duyên sáu nhập. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Danh sắc duyên sáu nhập.
-- Trước đã nói: Thức duyên danh sắc. Này các Tỷ-kheo, thức duyên danh sắc có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, thức duyên danh sắc. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thức duyên danh sắc.
-- Trước đã nói: Hành duyên thức: Này các Tỷ-kheo, hành duyên thức có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, hành duyên thức. Như vậy, đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Hành duyên thức.
-- Trước đã nói: Vô minh duyên hành. Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, vô minh duyên hành. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Vô minh duyên hành.
(Tóm lược về Duyên)
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các Ông nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: "Cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh", như vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não cùng sanh khởi. Như vậy, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
(Diệt theo chiều thuận)
Do vô minh đoạn diệt, xả ly một cách hoàn toàn nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
(Diệt theo chiều
nghịch)
Trước đã nói: Do sanh diệt nên già, chết diệt. Này các Tỷ-kheo, do sanh diệt nên già, chết diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, do sanh diệt nên già, chết diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do sanh diệt nên già, chết diệt.
-- Trước đã nói: Do hữu diệt nên sanh diệt. Này các Tỷ-kheo, do hữu diệt nên sanh diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, do hữu diệt nên sanh diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do hữu diệt nên sanh diệt.
-- Trước đã nói: Do thủ diệt nên hữu diệt. Này các Tỷ-kheo, do thủ diệt nên hữu diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, do thủ diệt nên hữu diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do thủ diệt nên hữu diệt.
-- Trước đã nói: Do ái diệt nên thủ diệt. Này các Tỷ-kheo, do ái diệt nên thủ diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, do ái diệt nên thủ diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do ái diệt nên thủ diệt.
-- Trước đã nói: Do thọ diệt nên ái diệt. Này các Tỷ-kheo, do thọ diệt nên ái diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do thọ diệt nên ái diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở
đây là vậy: Do thọ diệt nên ái diệt.
-- Trước đã nói: Do xúc diệt nên thọ diệt. Này các Tỷ-kheo, do xúc diệt nên thọ diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, do xúc diệt nên thọ diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do xúc diệt nên thọ diệt.
-- Trước đã nói: Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Này các Tỷ-kheo, do sáu nhập diệt nên xúc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do sáu nhập diệt nên xúc diệt.
-- Trước đã nói: Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Này các Tỷ-kheo, do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt.
-- Trước đã nói: Do thức diệt nên danh sắc diệt. Này các Tỷ-kheo, do thức diệt nên danh sắc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, do thức diệt nên danh sắc diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do thức diệt nên danh sắc diệt.
-- Trước đã nói: Do hành diệt nên thức diệt. Này các Tỷ-kheo, do hành diệt nên thức diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, do hành diệt nên thức diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do hành diệt nên thức diệt.
-- Trước đã nói: Do vô minh diệt nên hành diệt. Này các Tỷ-kheo, do vô minh diệt nên hành diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, do vô minh diệt nên hành diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do vô minh diệt nên hành diệt.
(Tóm lược về Diệt)
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các Ông nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: "Cái này không có nên cái kia không có, cái này diệt nên cái kia diệt", như vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên sáu nhập diệt, sáu nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
- Vô minh duyên hành có nghĩa là do không
biết nên hành động tạo tác. Thí dụ: như một người tất bật làm nhiều công việc để
kiếm tiền bởi vì không biết cách làm ra tiền nhẹ nhàng hơn. Người đó nghĩ mình
làm nhiều việc vì mình biết nhiều thứ kỳ thật là làm nhiều việc do không biết cái
nên làm.
- Hành duyên thức là từ hành vi thiện ác
tạo nên chủng thức tái sanh tương ứng. Thí dụ như trồng cây thì ra trái trong
trái có hạt giống để tạo ra cây.
Nên lưu ý vài điểm về giáo lý duyên khởi:
- Trình bày thì có đầu có đuôi nhưng thực tế là một xoay vần không mối ban đầu. Trong bài kinh nầy tứ thực, ái và vô minh đều được đề cập khiến người nghe có thể nghĩ là một trong ba thứ đó là điểm tiên khởi nhưng kỳ thật không nên hiểu như vậy.
- Nên chỉ nhìn vào hai khía cạnh bị tạo và trợ tạo không nằm trong khung thời gian: có thể từ kiếp nầy sanh kiếp khác như hành duyên thức, hữu duyên sanh; có thể từ đầu đến cuối kiếp sống như sanh duyên lão tử; có thể không nằm trong ý niệm thời gian như danh sắc duyên lục nhập.
- Chữ “diệt-nirodha” như trong câu “vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt…” nên được hiểu là “cái nầy không có thì cái kia không có” chứ không phải diệt là cái đang có bị đoạn tận.
Bản kinh tụng sau đây có thể dùng là một tóm tắt cho giáo lý duyên khởi:
Bởi không tường diệu đế
Hữu tình tạo nghiệp duyên
Chính vô minh nguồn cội
Là nhân tạo nên hành
Từ hành vi thiện ác
Gieo chủng thức tái sanh
Như vậy chính do hành
Kiết sanh thức tập khởi
Thức chủng tử đầu đời
Tạo hiện hữu thân tâm
Bởi do ý nghĩa nầy
Gọi thức duyên danh sắc
Vật chất và tâm thức
Biến hiện sáu giác quan
Như vậy do danh sắc
Lục nhập được hiện thành
Sáu giác quan năng động
Tiếp xúc sáu cảnh trần
Như vậy do lục nhập
Hiện tượng xúc khởi sanh
Sáu căn gặp sáu cảnh
Khổ lạc xả phát sanh
Như vậy do duyên xúc
Cảm thọ được tạo thành
Khổ lạc ưu hỷ xả
Nhân sanh mọi chấp trước
Phật dạy chính cảm thọ
Duyên tạo nên ái dục
Tham muốn nên dính mắc
Dục lạc cột mê tâm
Nên gọi nhân ái dục
Là duyên sanh chấp thủ
Khi tâm trần hệ lụy
Biến hiện muôn sở hành
Như vậy do duyên thủ
Tác động hữu khởi sanh
Có tạo tác có quả
Có chủng tử luân hồi
Như vậy do duyên hữu
Sanh quả được hiện thành
Có thân hẳn phải già
Có sanh ắt có diệt
Chính do ý nghĩa nầy
Gọi sanh duyên lão tử
Cũng chính do duyên sanh
Sầu bi khổ ưu não
Toàn bộ khổ uẩn nầy
Ðược hiện thành tập khởi
Không vô minh không hành
Không hành thời không thức
Không thức không danh sắc
Không danh sắc không lục nhập
Không lục nhập không xúc
Không xúc không cảm thọ
Không cảm thọ không ái
Không ái dục không thủ
Không chấp thủ không hữu
Không hữu thời không sanh
Không sanh không lão tử
Sầu bi khổ ưu não
Toàn bộ khổ uẩn nầy
Không hình thành tập khởi
170. Chấp thủ thường kiến là không hiểu rõ những vấn đề trong nhận thức về bản ngã
Quan niệm về một bản ngã hằng hữu thường dựa trên những lập thuyết về kiếp quá khứ (như mỗi chúng sanh là một tự thể tách rời từ đại ngã) và kiếp tương lai (như chúng sanh sẽ trở về lại với tự tánh ban đầu hay chân diện mục). Theo Phật pháp thì một chúng sanh có thể được năm uẩn bằng sự quán sát ngay trong kiếp hiện tại. Hiểu được những hiện tượng sanh diệt của danh sắc trong kiếp hiện hiện tại thì không cần suy diễn kiếp trước hay đời sau. Đây cũng là ý nghĩa của giáo pháp với đặc tính: Được khéo thuyết bởi Đức Thế Tôn, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự thân lãnh hội:
(Tri kiến về
ngã)
Này các Tỷ-kheo, các Ông nên biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo thời quá khứ, và suy nghĩ: "Ta có mặt trong thời quá khứ hay không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta có mặt như thế nào trong thời quá khứ"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo thời vị lai, và suy nghĩ: "Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nghi ngờ gì về mình trong thời hiện tại: "Ta có mặt hay ta không có mặt. Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt, hình vóc như thế nào? Hữu tình này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu"?
-- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nói như sau: "Bậc Ðạo Sư được chúng ta tôn trọng. Chúng ta nói vì chúng ta tôn trọng bậc Ðạo Sư"?
-- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nói như sau: "Một Sa-môn nói với chúng tôi như vậy, các Sa-môn khác cũng nói như vậy, và còn chúng tôi không có nói như vậy"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có tìm một vị Ðạo Sư khác không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có trở lui lại các giới cấm, tế tự đàn tràng của các tục tử Sa-môn, Bà-la-môn (và nghĩ rằng) chúng là căn bản không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Này các Tỷ-kheo, có phải các Ông chỉ nói những gì các Ông tự biết, tự thấy, tự ý thức được?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo,! Này các Tỷ-kheo, các Ông đã được ta giới thiệu Chánh Pháp, Pháp này thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự thân giác hiểu. Này các Tỷ-kheo, Pháp này thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự thân giác hiểu. Tất cả những gì đã nói là do duyên này mà nói.
171. Chấp thủ thường kiến là không hiểu rõ bản chất hằng chuyển trong một kiếp sống
Đây là một kiếp người với đầy đủ những hiện tượng luôn dịch
chuyển, bất toàn và vô ngã vì cấu thành do nhiều nhân nhiều duyên:
(Vòng luân hồi:
từ sanh đến trưởng thành)
Này các Tỷ-kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình: ở đây, cha mẹ có giao hợp và người mẹ không trong thời có thể thụ thai, và hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây, cha và mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Và này các Tỷ-kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình.
Rồi này các
Tỷ-kheo, người mẹ trong chín hay mười tháng mang bào thai ấy, với
sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Rồi này các Tỷ-kheo, sau chín
hay mười tháng, người mẹ sinh đẻ với sự lo âu lớn đối với gánh nặng
ấy. Khi đã sinh, người mẹ nuôi (hài nhi ấy) với máu của mình. Này
các Tỷ-kheo, trong luật của bậc Thánh, sữa của bà mẹ được xem là
máu.
Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ ấy, sau khi lớn lên, sau khi các căn đã thuần thục, chơi với những trò chơi dành cho các đứa trẻ, như với cái cày nhỏ, chơi khăng, chơi nhảy lộn nhào, chơi chong chóng, chơi với đồ đong bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ.
Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ sau khi lớn lên, sau khi các căn do mắt nhận thức, được thuần thục, thọ hưởng đầy đủ năm món dục lạc; các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc; các xúc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục.
172. Chấp thủ thường kiến là không hiểu rõ sự tương tác giữa hai thế giới chủ quan và khách quan
Cuộc sống luôn là thể hiện của cả hai phía khách quan và chủ quan. Phần khách quan là sự hiện khởi của các cảnh. Phần chủ quan là dục hỷ, buồn phiền đối với thuận nghịch. Người cho rằng sống là phải xuôi theo định mệnh là phủ nhận khả năng can thiệp của ý chí. Ngược lại người quá tự tin là với ý chí mạnh mẽ có thể khiến tất tả theo ý muốn của mình là không biết về mãnh lực của nghiệp quá khứ và yếu tố khách quan mà mình không làm chủ được:
(Tiếp tục luân
hồi)
Khi thấy sắc bằng mắt, người đó tham ái đối với sắc đẹp, người đó ghét bỏ đối với sắc xấu, người đó sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của người đó được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy, đối diện với thân, sơ (thuận, nghịch) có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước thọ ấy. Vì tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy, nên dục sanh hỷ, có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, nên dục hỷ sanh, có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
Khi người đó nghe tiếng với tai... khi người đó ngửi hương với mũi... khi người đó nếm vị với lưỡi... khi người đó cảm xúc với thân... khi người đó nhận thức pháp với ý, người đó tham ái đối với pháp tốt, ghét bỏ đối với pháp xấu. Người đó sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như thật tuệ tri đến tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của người đó được trừ diệt, không còn dư tàn. Như vậy, đối diện với thân, sơ (thuận, nghịch), có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy. Vì người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy nên dục hỷ sanh. Có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
173. Chấp thủ thường kiến là không hiểu rõ con đường tháo gỡ ngã chấp
Những lập thuyết về bản ngã trường cữu thoạt nghe như là một tín lý tôn giáo nhưng đó chính là một luận điểm chống lại sự tu tập thay đổi bản thân. Người tu phải tin rằng dòng tâm thức có thể thay đổi do đó sự tu tập có giá trị:
(Ðoạn tận luân
hồi: Sự tu tập)
Khi mắt thấy
sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham
ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; vị ấy tự chế ngự
nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi
tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
ý nhận thức các pháp; vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm
giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế
ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; vị ấy
chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý
căn. Vị ấy nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ,
nội tâm không lỗi lầm.
Vị ấy khi đi
tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh
giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát,
thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi
đi đại tiểu tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi, nằm,
thức, nói, im lặng đều tỉnh giác.
(Ðoạn tận luân
hồi: Giải thoát rốt ráo)
Khi vị ấy thấy
sắc bằng mắt, vị ấy không tham ái đối với sắc đẹp, không ghét bỏ
đối với sắc xấu, vị ấy sống an trú niệm trên thân, với tâm vô
lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát,
chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của vị ấy được trừ diệt,
không có dư tàn. Như vậy từ bỏ (thuận nghịch), có cảm thọ nào
khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không
tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy. Vì vị ấy không
tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy, nếu có dục hỷ
nào đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt. Do dục hỷ của
vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt
nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt.
Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
Khi vị ấy nghe
tiếng bằng tai... khi vị ngửi hương bằng mũi... Khi vị ấy nếm vị
bằng lưỡi... Khi vị ấy cảm xúc bằng thân... Khi vị ấy nhận thức
pháp bằng ý, vị ấy không tham ái đối với pháp tốt, không ghét bỏ
đối với pháp xấu. Vị ấy sống an trú niệm trên thân, với tâm vô
lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Chính nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của vị ấy được trừ diệt,
không có dư tàn. Như vậy, vị ấy đoạn trừ (thuận nghịch) có cảm
thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; vị
ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy. Vì vị
ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy, nếu
có dục hỷ nào đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt. Do
dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do
hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ,
ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 38 [tóm tắt]
Đại Kinh Đoạn Tận Ái
(Mahātaṇhāsaṅkhaya Sutta)
(M.i, 256)
A. Duyên khởi:
Tỷ-kheo Sati khởi
lên tà kiến, xem thức là dong ruổi luân chuyển nhưng không đổi khác. Các Tỷ-kheo
khuyên Sati nên bỏ tà kiến này, nhưng không được, bèn thưa lên Đức Phật. Đức Phật
cho gọi Sati đến và Sati xác nhận có nói như thế.
B Chánh kinh:
I. Thế Tôn
xác nhận đúng nghĩa của thức là do duyên sanh, tuỳ duyên mà có tên sai khác. Rồi
Ngài đề cập đến sự có mặt, sự tập khởi, sự đoạn diệt của thức và một số vấn đề
liên quan đến vấn đề này.
II. Sự tập khởi
của toàn bộ khổ uẩn, theo tiến trình duyên sanh.
III. Sự đoạn
diệt của toàn bộ khổ uẩn này theo tiến trình duyên diệt.
IV. Ích lợi của
sự hiểu biết về sự hiện hữu, tập khởi và đoạn diệt của một sinh vật.
V. Sự tập khởi
toàn bộ khổ uẩn của một con người và sự đoạn diệt toàn bộ khổ uẩn của một con
người nhờ Như Lai thuyết pháp.
1. Sự ra đời
của một con người, từ khi sanh cho đến sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn của con
người ấy.
2. Như Lai ra
đời, thuyết pháp. Vị thiện nam tử nghe pháp, khởi lòng tin, xuất gia, tu tập
theo giới, định, tuệ, cuối cùng được giải thoát.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ
tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 38 [dàn ý]
Đại Kinh Đoạn Tận Ái
(Mahātaṇhāsaṅkhaya Sutta)
(M.i, 256)
Tỷ-kheo Sāti
khởi lên ác tà kiến: “Thức này dong ruỗi luân chuyển nhưng không
đổi khác. Chính thức ấy mới cảm thọ, thọ lãnh kết quả thiện ác!”
Đức Phật khiển trách Sāti, nói rằng: Đức Phật đã nói thức do duyên
khởi, không có duyên thời thức không có khởi.
Rồi đức Phật
giải thích, do duyên thức sanh, và thức ấy có tên tùy theo duyên
ấy; sự có mặt của sanh vật, sự sanh diệt của sanh vật ấy. Những
nghi ngờ gì có thể khởi lên đối với sanh vật; với trí tuệ, trừ diệt
các nghi ngờ ấy; với trí tuệ, khéo thấy sự sanh diệt các sanh vật;
không chấp trước các tri kiến, hiểu được ví dụ chiếc bè. Rồi đức
Phật phân tích sự tập khởi và sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn;
những lợi ích do sự hiểu biết này đưa đến, không còn nghi ngờ,
không còn tà kiến, tự thấy, tự ý thức và thấy được pháp. Tiếp
theo, đức Phật nói đến sự hình thành của bào thai, sự ra đời của một
chúng sanh, con người ấy lớn lên, đắm say các dục, không biết tâm
giải thoát, tuệ giải thoát, tùy hỷ các cảm thọ, chấp thủ, khởi
lên khổ uẩn. Cuối cùng, đức Phật nói đến sự xuất hiện của đức Phật:
Ngài thuyết pháp, một thiện nam tử nghe pháp xuất gia, sống và tu tập
giới định tuệ, được giải thoát, giác ngộ, đoạn tận ái, không còn
sanh tử luân hồi.
Đức Phật dạy
thức do duyên sanh và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy. Đức Phật
đề cập đến sinh vật (bhūta), sự tác thành sinh vật do các món ăn;
sự đoạn diệt các sinh vật do sự đoạn diệt các món ăn; các nghi ngờ
có thể sanh đối với sinh vật; sự đoạn trừ các nghi ngờ này nhờ
thấy như thật với trí tuệ; nhờ đoạn trừ các nghi ngờ, nên không
còn có các nghi ngờ đối với sanh vật; nhờ như thật thấy với chánh
trí tuệ, nên được khéo thấy đối với vấn đề sanh vật; với tri kiến
thanh tịnh này, nếu chấp trước, hãnh diện, truy cầu thời không thể
hiểu được. Chánh pháp như chiếc bè. Nếu không chấp trước, hãnh diện,
truy cầu thời có thể hiểu được ví dụ chánh pháp như chiếc bè:
nói Pháp dùng để vượt qua, không phải để nắm giữ.
Rồi đức Phật
đề cập đến bốn món ăn, bốn món ăn này lấy ái làm nhân duyên; ái
lấy thọ, thọ lấy xúc, xúc lấy sáu nhập, sáu nhập lấy danh sắc,
danh sắc lấy thức, thức lấy hành, hành lấy vô minh làm nhân duyên.
Như vậy duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, cho đến duyên
sanh có già chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Như vậy là sự tập khởi
của toàn bộ khổ uẩn.
Rồi đức Phật
thuyết về duyên khởi: do duyên sanh nên có già chết, duyên hữu nên
có sanh, duyên thủ nên có hữu, duyên ái nên có thủ, duyên thọ nên
có ái, duyên xúc nên có thọ, duyên sáu nhập nên có xúc, duyên
danh sắc nên có sáu nhập, duyên thức nên có danh sắc, duyên hành
nên có thức, duyên vô minh nên có hành. Như vậy cái này có nên
cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh, như duyên vô minh có
hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, cho đến duyên sanh
có già chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Như vậy là sự tập khởi của
toàn bộ khổ uẩn. Do vô minh diệt nên hành diệt, do hành diệt nên
thức diệt, cho đến do sanh diệt nên già chết, sầu bi, khổ, ưu, não
đều diệt, như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
Rồi đức Phật
thuyết về duyên diệt: do sanh diệt nên già chết diệt, do hữu diệt
nên sanh diệt, do thủ diệt nên hữu diệt, do ái diệt nên thủ diệt,
do thọ diệt nên ái diệt, do xúc diệt nên thọ diệt, do sáu nhập diệt
nên xúc diệt, do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt, do thức diệt nên
danh sắc diệt, do hành diệt nên thức diệt, do vô minh diệt nên hành
diệt. Như vậy do cái này không có, cái kia không có; do cái này diệt
nên cái kia diệt; do vô minh diệt nên hành diệt; do hành diệt nên
thức diệt... cho đến sanh diệt nên già chết, sầu bi, khổ, ưu, não diệt.
Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
Khi đã hiểu sự
tập khởi và sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn, thời vị Tỷ-kheo sẽ
không còn chạy theo sự có mặt của mình trong quá khứ, tương lai, hiện
tại; không xem bậc Đạo sư là quá nặng nề; không nương tựa lời
nói của người khác; không tìm một Đạo sư khác; không trở lui các
giới cấm, tế tự đàn tràng của tục tử Sa-môn; chỉ nói những gì tự
biết, tự thấy, tự ý thức được, và có vậy mới hiểu được Pháp do
Thế Tôn giảng dạy, thiết thực hiện tại, chỉ người có trí mới
chứng hiểu. Tất cả những gì đức Phật nói chính do duyên này mà
nói.
Tiếp đến đức Phật
đề cập đến sự hình thành của bào thai: Có ba sự hòa hợp thời một
bào thai mới hình thành, khi nào bào thai hình thành, phải chín
tháng cưu mang, khi sinh người mẹ nuôi với máu của mình, tức là
với sữa. Rồi đứa trẻ lớn lên, chơi với trò chơi cho đến khi
trưởng thành, các căn thuần thục, hưởng thọ các dục. Khi thấy
sắc, nó tham ái với sắc đẹp, nó ghét giận với sắc xấu, nó sống
không an trú niệm trên thân, với một tâm nhỏ mọn, không như thật
biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát, như vậy nó rơi vào thuận và
nghịch, tùy hỷ, hoan nghênh tham trước các cảm thọ, nên hoan hỷ
sanh. Có hoan hỷ nên có chấp thủ, do duyên thủ nên có hữu, do duyên
hữu nên có sanh, do duyên sanh nên có già chết, sầu bi, khổ, ưu,
não. Như vậy là sự tập khởi của khổ uẩn.
Rồi Như Lai
xuất hiện thuyết pháp, trình bày nếp sống Phạm hạnh thuần tịnh.
Người gia trưởng hay con người gia trưởng nghe pháp xuất gia, sống
Phạm hạnh, sống theo giới định tuệ.
Sống theo giới
tức là bỏ mười điều ác, làm mười hạnh lành, sống giữ theo tiểu
giới, trung giới, chế ngự các căn, chánh niệm tỉnh giác. Rồi vị ấy
tu thiền, để niệm trước mặt, ngồi kiết già, đoạn trừ năm triền
cái, chứng và trú bốn thiền. Khi mắt thấy sắc, vị ấy không tham ái
đối với hảo sắc, không ghét bỏ đối với ố sắc, sống niệm an trú trên
thân với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, từ bỏ thuận nghịch, phàm có thọ gì, không có hân hoan,
không có hoan hỷ, nên hỷ đối với các thọ được đoạn diệt... Do hỷ
diệt nên thủ diệt; do thủ diệt nên hữu diệt... cho đến sầu bi, khổ,
ưu, não đoạn diệt. Sau cùng đức Phật khuyên các Tỷ-kheo thọ trì Ái
tận Giải thoát này.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 38 [toát yếu]
Đại Kinh Đoạn Tận Ái
(Mahātaṇhāsaṅkhaya Sutta)
(M.i, 256)
I. TOÁT YẾU
Mahātanhāsankhāya
Sutta - The greater discourse on the destruction of craving.
A bhikkhu named
Sati promulgates the pernicious view that the same consciousness transmigrates
from life to life. The Buddha reprimands him with a lengthy discourse on
dependent origination, showing how all phenomena of existence arise and cease
through conditions.
Bản kinh dài về
Đoạn ái dục.
Một tỳ kheo tên
Sati tuyên bố tà kiến cho rằng cũng một tâm thức ấy lưu chuyển đời
này sang đời khác. Phật quở trách ông với một bài thuyết giảng dài
về lý duyên sinh, chỉ rõ tất cả pháp hiện hữu [hiện tượng] đều sinh
và diệt do những điều kiện.
II. TÓM TẮT
Tỳ kheo tên Sati
khởi lên ác tà kiến cho rằng Thức này cứ luân chuyển qua các cõi
luân hồi nhưng không có đổi khác. Phật cho gọi ông để hỏi có thực
ông nghĩ vậy không. Khi Sati xác nhận ông hiểu đúng như vậy, Phật
dạy đấy là xuyên tạc lời Ngài dạy, và là một kiểu chấp ngã.
Phật thường
dạy tất cả pháp do duyên sinh. Thức cũng thế, nếu không có các
duyên hay điều kiện, thì thức không hiện khởi. Thức được đặt tên
do những điều kiện phát sinh ra nó, như do duyên mắt và sắc, có tên
là nhãn thức; do duyên tai và tiếng, có tên là nhĩ thức; do duyên
mũi và mùi, có tên là tỷ thức; do duyên lưỡi và vị, có tên là
thiệt thức; do duyên thân và xúc, có tên là thân thức; do duyên ý
và pháp, có tên là ý thức. Như lửa đốt bằng củi thì gọi là lửa
củi, lửa đốt bằng rơm gọi là lửa rơm, đốt bằng trấu gọi là lửa
trấu.
Tất cả các sinh
vật tác thành nhờ thức ăn, nếu thức ăn đoạn diệt, sinh vật cũng
đoạn diệt. Có bốn loại thức ăn, nương vào đấy các hữu tình an
trú, đó là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, và thức thực. Bốn
loại thức ăn này có nguyên nhân là ái, ái có ra từ thọ, nguyên
nhân thọ là xúc, nguyên nhân xúc là sáu nhập, nhân của sáu nhập
là danh- sắc, nhân của danh-sắc là thức, nhân của thức là hành,
nhân của hành là vô minh. Do mê mờ bốn chân lý nên có sự tập
khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
Cái này có nên
cái kia có, cái này không nên cái kia không; cái này sinh nên kia
sinh; cái này diệt, nên kia diệt. Tỳ kheo biết như vậy sẽ không truy
tầm quá khứ hay theo đuổi vị lai để đi tìm tự ngã. Họ cũng không
thờ một bậc thầy nào khác ngoài Phật, bậc đạo sư đã công bố
Duyên khởi. Họ cũng không còn có những giới cấm thủ như ngoại đạo
với mục đích tái sinh vào các cõi. Vị ấy thành tựu Giới, từ bỏ
năm triền cái, chứng và trú bốn thiền, sống với tâm vô lượng. Khi
cảm thọ khởi lên, vị ấy đoạn trừ tâm thuận nghịch, nghĩa là không
còn ưa cái này ghét cái nọ. Nhờ không tham nên thủ diệt, thủ diệt
nên hữu diệt, hữu diệt nên sinh diệt, sinh diệt nên già chết sầu bi
khổ não diệt. Đây là sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này, gọi là
"Ái tận giải thoát."
III. CHÚ GIẢI
Theo Luận, tỳ
kheo Sàti vì lý giải sai lạc sự kiện tái sinh, đã đi đến kết luận
rằng có một cái thức trường cửu di chuyển từ đời này sang đời
khác mới có thể giải thích được hiện tượng tái sinh. Phần đầu
kinh này lặp lại đề tài "nắm giữ Pháp một cách sai lạc"
như phần đầu của kinh Bắt rắn số 22, chỉ khác là kinh Bắt rắn đề cập
kiến chấp về dục [dục thủ], còn kinh này đề cập kiến chấp về thức
[kiến thủ].
"Chính thức
ấy nói, cảm thọ kết quả các hành vi thiện ác chỗ này chỗ
kia..." Đây là một trong sáu loại kiến chấp về tự ngã nói ở
kinh số 2, Tất cả lậu hoặc.
Mục đích của
ví dụ này là để chứng tỏ không có thức lưu chuyển qua các giác
quan [căn môn]. Hệt như lửa đốt bằng củi cháy nhờ củi, và tắt khi
hết củi chứ không lưu chuyển đến tro để thành lửa tro. Thức cũng vậy,
khởi lên do duyên nhãn căn và hình sắc thành nhãn thức sẽ chấp
dứt khi các điều kiện này chấm dứt, chứ không chuyển qua lỗ tai, vv.
thành nhĩ thức vv. Phật dạy: "Trong sự sinh khởi của thức, còn
không có chuyện lưu chuyển từ căn môn này qua căn môn khác, thì
làm sao có chuyện lưu chuyển từ đời này sang đời khác."
Có cảm thọ nào
khởi lên, vị ấy không hoan nghênh thọ ấy; ... do dục hỷ diệt nên
thủ diệt: [Kệ: Khi cảm thọ khởi lên, đoạn trừ tâm thuận nghịch].
Lời này cho thấy sợi xích duyên sinh bị bẽ gãy tại chỗ nối thọ
với ái. Thọ hay cảm giác đương nhiên phải khởi lên, vì đã có ra
cái thân thể do nghiệp quá khứ. Nhưng nếu hiện tại, ta không thích
thú trong các cảm thọ, thì ái sẽ không có cơ hội khởi lên kèm
theo những phản ứng thuận nghịch để cung cấp thêm nhiên liệu cho
vòng tái sinh. Chu kỳ tái sinh như vậy sẽ chấm dứt.
IV. PHÁP SỐ
Bốn niệm xứ,
bốn thiền, bốn thức ăn, năm triền cái, Sáu căn, sáu trần, sáu
thức, mười hai nhân duyên.
V. KỆ TỤNG
Tỳ kheo tên Sati
Khởi lên ác tà kiến
"Thức này cứ luân chuyển
Nhưng không có khác gì."
Đây là lời xuyên tạc
Vì Phật vẫn thường dạy
Nếu không có các duyên
Thì thức không hiện khởi.
Thức do duyên mà sinh
Duyên nào mang tên ấy
Do duyên mắt và sắc
Có tên là nhãn thức
Do duyên tai và tiếng
Có tên là nhĩ thức
Do duyên mũi và mùi
Có tên là tỷ thức
Do duyên lưỡi và vị
Có tên là thiệt thức
Do duyên thân và xúc
Có tên là thân thức
Do duyên ý và pháp
Có tên là ý thức.
Như lửa đốt bằng củi
Thì gọi là lửa củi
Lửa được đốt bằng rơm
Được gọi là lửa rơm
Duyên trấu mà lửa sinh
Thì gọi là lửa trấu.
Tất cả các sinh vật
Tác thành nhờ thức ăn
Nếu thức ăn đoạn diệt
Sinh vật cũng đoạn diệt.
Có bốn loại thức ăn
Khiến hữu tình an trú
Là đoàn thực, xúc thực
Tư niệm thực, thức thực.
Bốn loại thức ăn này
Có nguyên nhân là ái
Ái có ra từ thọ
Nguyên nhân thọ là xúc
Nguyên nhân xúc, sáu nhập
Nhân sáu nhập, danh-sắc
Nhân danh-sắc là thức
Nhân của thức là hành
Nhân của hành, vô minh
Do mê mờ bốn đế
Đấy là sự tập khởi
Toàn bộ khổ uẩn này.
Cái này có, kia có
Cái này không, kia không
Cái này sinh, kia sinh
Cái này diệt, kia diệt.
Tỳ kheo biết như vậy
Không truy tầm quá khứ
Hay theo đuổi vị lai
Để đi tìm tự ngã.
Không thờ thầy nào khác
Không còn giới cấm thủ.
Vị ấy thành tựu Giới
Từ bỏ năm triền cái.
Chứng và trú bốn thiền
Sống với tâm vô lượng
Khi cảm thọ khởi lên
Đoạn trừ tâm thuận nghịch
Không tham nên Thủ diệt
Thủ diệt nên Hữu diệt
Hữu diệt nên Sinh diệt
Sinh diệt, Già chết diệt
Sầu bi khổ... cũng diệt
Đây là sự chấm dứt
Toàn bộ khổ uẩn này
Gọi "Ái tận giải thoát."
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
38. Mahātaṇhāsaṅkhayasuttaṃ
[Mūla]
396. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Tena kho pana samayena sātissa nāma bhikkhuno kevaṭṭaputtassa evarūpaṃ pāpakaṃ
diṭṭhigataṃ uppannaṃ hoti : ''tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā
tadevidaṃ viññāṇaṃ sandhāvati saṃsarati anaññanti. Assosuṃ kho sambahulā
bhikkhū : ''sātissa kira nāma bhikkhuno kevaṭṭaputtassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ
uppannaṃ : 'tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā tadevidaṃ viññāṇaṃ
sandhāvati saṃsarati, anaññanti. Atha kho te bhikkhū yena sāti bhikkhu kevaṭṭaputto
tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā sātiṃ bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ etadavocuṃ :
''saccaṃ kira te, āvuso sāti, evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ : 'tathāhaṃ
bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā tadevidaṃ viññāṇaṃ sandhāvati saṃsarati,
anaññanti? ''evaṃ byā kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā
tadevidaṃ viññāṇaṃ sandhāvati saṃsarati, anaññanti. Atha kho te bhikkhū sātiṃ
bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetukāmā samanuyuñjanti
samanugāhanti samanubhāsanti : ''mā evaṃ, āvuso sāti, avaca, mā bhagavantaṃ
abbhācikkhi, na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ, na hi Bhagavā evaṃ
vadeyya. Anekapariyāyenāvuso sāti, paṭiccasamuppannaṃ
viññāṇaṃ vuttaṃ bhagavatā, aññatra
paccayā natthi viññāṇassa sambhavoti. Evampi kho sāti bhikkhu kevaṭṭaputto tehi
bhikkhūhi samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno samanubhāsiyamāno tadeva pāpakaṃ
diṭṭhigataṃ thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati : ''evaṃ byā kho ahaṃ, āvuso,
bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā tadevidaṃ viññāṇaṃ sandhāvati saṃsarati
anaññanti.
397. Yato kho te bhikkhū nāsakkhiṃsu sātiṃ bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ
etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetuṃ, atha kho te bhikkhū yena Bhagavā
tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ : ''sātissa nāma,
bhante, bhikkhuno kevaṭṭaputtassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ : 'tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā tadevidaṃ viññāṇaṃ
sandhāvati saṃsarati, anaññanti. Assumha kho mayaṃ, bhante, sātissa kira nāma
bhikkhuno kevaṭṭaputtassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ : 'tathāhaṃ
bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā tadevidaṃ viññāṇaṃ sandhāvati saṃsarati,
anaññanti. Atha kho mayaṃ, bhante, yena sāti bhikkhu kevaṭṭaputto tenupasaṅkamimha
upasaṅkamitvā sātiṃ bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ etadavocumha : 'saccaṃ kira te,
āvuso sāti, evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ : ''tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ
desitaṃ ājānāmi yathā tadevidaṃ viññāṇaṃ sandhāvati saṃsarati, anaññanti? evaṃ
vutte, bhante, sāti bhikkhu kevaṭṭaputto amhe etadavoca : 'evaṃ byā kho ahaṃ,
āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi
yathā tadevidaṃ viññāṇaṃ sandhāvati saṃsarati, anaññanti. Atha kho mayaṃ,
bhante, sātiṃ bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetukāmā
samanuyuñjimha samanugāhimha samanubhāsimha : 'mā evaṃ, āvuso sāti, avaca, mā
bhagavantaṃ abbhācikkhi, na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ, na hi Bhagavā
evaṃ vadeyya. Anekapariyāyenāvuso sāti, paṭiccasamuppannaṃ viññāṇaṃ vuttaṃ
bhagavatā, aññatra paccayā natthi viññāṇassa sambhavoti. Evampi kho, bhante,
sāti bhikkhu kevaṭṭaputto amhehi samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno
samanubhāsiyamāno tadeva pāpakaṃ diṭṭhigataṃ thāmasā parāmasā abhinivissa
voharati : 'evaṃ byā kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā
tadevidaṃ viññāṇaṃ sandhāvati saṃsarati, anaññanti. Yato kho mayaṃ, bhante,
nāsakkhimha sātiṃ bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetuṃ,
atha mayaṃ etamatthaṃ bhagavato ārocemāti.
398. Atha kho Bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi : ''ehi
tvaṃ bhikkhu, mama vacanena sātiṃ
bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ āmantehi : 'satthā taṃ, āvuso sāti, āmantetīti. ''Evaṃ,
bhanteti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yena sāti bhikkhu kevaṭṭaputto
tenupasaṅkami upasaṅkamitvā sātiṃ bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ etadavoca : ''satthā
taṃ, āvuso sāti, āmantetīti. ''Evamāvusoti kho sāti bhikkhu kevaṭṭaputto tassa bhikkhuno paṭissutvā yena Bhagavā
tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ
abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho sātiṃ bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ
Bhagavā etadavoca : ''saccaṃ kira, te, sāti, evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ
uppannaṃ : 'tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā tadevidaṃ viññāṇaṃ
sandhāvati saṃsarati, anaññanti? ''evaṃ byā kho ahaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ
desitaṃ ājānāmi yathā tadevidaṃ viññāṇaṃ
sandhāvati saṃsarati, anaññanti. ''Katamaṃ taṃ, sāti, viññāṇanti?
''yvāyaṃ, bhante, vado vedeyyo tatra tatra kalyāṇapāpakānaṃ kammānaṃ vipākaṃ paṭisaṃvedetīti.
''Kassa nu kho nāma tvaṃ, moghapurisa, mayā evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānāsi? nanu
mayā, moghapurisa, anekapariyāyena paṭiccasamuppannaṃ viññāṇaṃ vuttaṃ, aññatra
paccayā natthi viññāṇassa sambhavoti? atha ca pana tvaṃ, moghapurisa, attanā
duggahitena amhe ceva abbhācikkhasi, attānañca khaṇasi, bahuñca apuññaṃ
pasavasi. Tañhi te, moghapurisa, bhavissati dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyāti.
399. Atha kho Bhagavā bhikkhū āmantesi : ''taṃ kiṃ
maññatha, bhikkhave, api nāyaṃ sāti bhikkhu kevaṭṭaputto usmīkatopi imasmiṃ
dhammavinayeti? ''kiñhi siyā bhante? no hetaṃ, bhanteti. Evaṃ vutte, sāti
bhikkhu kevaṭṭaputto tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto
appaṭibhāno nisīdi. Atha kho Bhagavā sātiṃ bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ tuṇhībhūtaṃ maṅkubhūtaṃ
pattakkhandhaṃ adhomukhaṃ pajjhāyantaṃ appaṭibhānaṃ viditvā sātiṃ bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ
etadavoca : ''paññāyissasi kho tvaṃ, moghapurisa, etena sakena pāpakena diṭṭhigatena.
Idhāhaṃ bhikkhū paṭipucchissāmīti. Atha kho Bhagavā bhikkhū āmantesi :
''tumhepi me, bhikkhave, evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānātha yathāyaṃ sāti bhikkhu
kevaṭṭaputto attanā duggahitena amhe
ceva abbhācikkhati, attānañca khaṇati, bahuñca apuññaṃ pasavatīti? ''no hetaṃ,
bhante! anekapariyāyena hi no, bhante, paṭiccasamuppannaṃ viññāṇaṃ vuttaṃ
bhagavatā, aññatra paccayā natthi viññāṇassa sambhavoti. ''Sādhu sādhu, bhikkhave!
sādhu kho me tumhe, bhikkhave, evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānātha. Anekapariyāyena
hi vo, bhikkhave, paṭiccasamuppannaṃ viññāṇaṃ vuttaṃ mayā, aññatra paccayā
natthi viññāṇassa sambhavoti. Atha ca panāyaṃ sāti bhikkhu kevaṭṭaputto attanā
duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khaṇati, bahuñca apuññaṃ
pasavati pasavati. Tañhi tassa
moghapurisassa bhavissati dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.
400. ''Yaṃ yadeva, bhikkhave, paccayaṃ paṭicca uppajjati viññāṇaṃ,
tena teneva viññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati [saṅkhaṃ gacchati (sī. pī.)].
Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati viññāṇaṃ, cakkhuviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati sotañca paṭicca sadde ca
uppajjati viññāṇaṃ, sotaviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati ghānañca paṭicca gandhe
ca uppajjati viññāṇaṃ, ghānaviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati jivhañca paṭicca rase ca uppajjati
viññāṇaṃ, jivhāviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati kāyañca paṭicca phoṭṭhabbe ca
uppajjati viññāṇaṃ, kāyaviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati manañca paṭicca dhamme
ca uppajjati viññāṇaṃ, manoviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati. ''Seyyathāpi,
bhikkhave, yaṃ yadeva paccayaṃ paṭicca aggi jalati tena teneva saṅkhyaṃ
gacchati. Kaṭṭhañca paṭicca aggi jalati, kaṭṭhaggitveva saṅkhyaṃ gacchati
sakalikañca paṭicca aggi jalati, sakalikaggitveva saṅkhyaṃ gacchati tiṇañca paṭicca
aggi jalati, tiṇaggitveva saṅkhyaṃ gacchati gomayañca paṭicca aggi jalati,
gomayaggitveva saṅkhyaṃ gacchati thusañca paṭicca aggi jalati, thusaggitveva saṅkhyaṃ
gacchati saṅkārañca paṭicca aggi jalati, saṅkāraggitveva saṅkhyaṃ gacchati.
Evameva kho, bhikkhave, yaṃ yadeva paccayaṃ paṭicca uppajjati viññāṇaṃ, tena
teneva saṅkhyaṃ gacchati. Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati viññāṇaṃ,
cakkhuviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati sotañca paṭicca sadde ca uppajjati viññāṇaṃ,
sotaviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati, ghānañca paṭicca gandhe ca uppajjati viññāṇaṃ
, ghāṇaviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati, jivhañca paṭicca rase ca uppajjati
viññāṇaṃ, jivhāviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati. Kāyañca paṭicca phoṭṭhabbe ca
uppajjati viññāṇaṃ, kāyaviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati. Manañca paṭicca dhamme
ca uppajjati viññāṇaṃ, manoviññāṇaṃtveva saṅkhyaṃ gacchati.
401. ''Bhūtamidanti , bhikkhave, passathāti? ''evaṃ, bhante.
''Tadāhārasambhavanti, bhikkhave, passathāti? ''evaṃ, bhante.
''Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ, taṃ
nirodhadhammanti, bhikkhave, passathāti? ''evaṃ, bhante. ''Bhūtamidaṃ nossūti,
bhikkhave, kaṅkhato uppajjati vicikicchāti? ''evaṃ, bhante. ''Tadāhārasambhavaṃ
nossūti, bhikkhave , kaṅkhato uppajjati vicikicchāti? ''evaṃ, bhante.
''Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ, taṃ nirodhadhammaṃ nossūti, bhikkhave, kaṅkhato
uppajjati vicikicchāti? ''evaṃ, bhante. ''Bhūtamidanti, bhikkhave, yathābhūtaṃ
sammappaññāya passato yā vicikicchā sā pahīyatīti? ''evaṃ, bhante.
''Tadāhārasambhavanti, bhikkhave, yathābhūtaṃ sammappaññāya passatāe yā
vicikicchā sā pahīyatīti? ''evaṃ, bhante. ''Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ, taṃ
nirodhadhammanti, bhikkhave, yathābhūtaṃ sammappaññāya passatāe yā vicikicchā
sā pahīyatīti? ''evaṃ , bhante. ''Bhūtamidanti, bhikkhave, itipi vo ettha
nibbicikicchāti? ''evaṃ, bhante. ''Tadāhārasambhavanti, bhikkhave, itipi vo
ettha nibbicikicchāti? ''evaṃ, bhante.
''Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ taṃ nirodhadhammanti, bhikkhave, itipi vo
ettha nibbicikicchāti? ''evaṃ, bhante. ''Bhūtamidanti, bhikkhave, yathābhūtaṃ
sammappaññāya sudiṭṭhanti? ''evaṃ, bhante. ''Tadāhārasambhavanti, bhikkhave,
yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhanti? ''evaṃ, bhante. ''Tadāhāranirodhā yaṃ
bhūtaṃ taṃ nirodhadhammanti, bhikkhave, yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhanti?
''evaṃ, bhante. ''Imaṃ ce tumhe, bhikkhave,
diṭṭhiṃ evaṃ parisuddhaṃ evaṃ pariyodātaṃ allīyetha kelāyetha dhanāyetha mamāyetha, api nu me tumhe, bhikkhave,
kullūpamaṃ dhammaṃ desitaṃ ājāneyyātha nittharaṇatthāya no gahaṇatthāyāti? ''no
hetaṃ, bhante. ''Imaṃ ce tumhe, bhikkhave, diṭṭhiṃ evaṃ parisuddhaṃ evaṃ
pariyodātaṃ na allīyetha na kelāyetha na
dhanāyetha na mamāyetha, api nu me tumhe, bhikkhave, kullūpamaṃ dhammaṃ desitaṃ
ājāneyyātha nittharaṇatthāya no gahaṇatthāyāti? ''evaṃ, bhante.
402. ''Cattārome, bhikkhave, āhārā bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā,
sambhavesīnaṃ vā anuggahāya. Katame cattāro? kabaḷīkāro āhāro oḷāriko vā
sukhumo vā, phasso dutiyo, manosañcetanā tatiyā, viññāṇaṃ catutthaṃ. ''Ime ca,
bhikkhave, cattāro āhārā kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā? ''ime
cattāro āhārā taṇhānidānā taṇhāsamudayā taṇhājātikā taṇhāpabhavā. ''Taṇhā cāyaṃ,
bhikkhave, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā? ''taṇhā vedanānidānā
vedanāsamudayā vedanājātikā vedanāpabhavā. ''Vedanā cāyaṃ, bhikkhave, kiṃnidānā
kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā? ''vedanā phassanidānā phassasamudayā
phassajātikā phassapabhavā . ''Phasso cāyaṃ, bhikkhave, kiṃnidāno kiṃsamudayo
kiṃjātiko kiṃpabhavo? ''phasso saḷāyatananidāno
saḷāyatanasamudayo saḷāyatanajātiko saḷāyatanapabhavo. ''Saḷāyatanaṃ cidaṃ,
bhikkhave, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ
kiṃpabhavaṃ? ''saḷāyatanaṃ nāmarūpanidānaṃ nāmarūpasamudayaṃ nāmarūpajātikaṃ
nāmarūpapabhavaṃ. ''Nāmarūpaṃ cidaṃ, bhikkhave, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ
kiṃpabhavaṃ? ''nāmarūpaṃ viññāṇanidānaṃ viññāṇasamudayaṃ viññāṇajātikaṃ viññāṇapabhavaṃ.
''Viññāṇaṃ cidaṃ, bhikkhave, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ?
''viññāṇaṃ saṅkhāranidānaṃ saṅkhārasamudayaṃ saṅkhārajātikaṃ saṅkhārapabhavaṃ.
''Saṅkhārā cime, bhikkhave, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā? ''saṅkhārā
avijjānidānā avijjāsamudayā avijjājātikā avijjāpabhavā.
''Iti kho, bhikkhave, avijjāpaccayā saṅkhārā, saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ,
viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ, nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ, saḷāyatanapaccayā
phasso, phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā, taṇhāpaccayā upādānaṃ,
upādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti. Evametassa kevalassa
dukkhakkhandhassa samudayo hoti.
403. ''Jātipaccayā jarāmaraṇanti iti kho panetaṃ vuttaṃ
jātipaccayā nu kho, bhikkhave, jarāmaraṇaṃ, no vā, kathaṃ vā ettha [kathaṃ vā
vo ettha (?)] hotīti? ''jātipaccayā, bhante, jarāmaraṇaṃ evaṃ no ettha hoti
[evaṃ no ettha hotīti (ka.)] : jātipaccayā jarāmaraṇanti. ''Bhavapaccayā jātīti
iti kho panetaṃ vuttaṃ bhavapaccayā nu kho, bhikkhave, jāti, no vā, kathaṃ vā
ettha hotīti? ''bhavapaccayā, bhante , jāti evaṃ no ettha hoti : bhavapaccayā
jātīti . ''Upādānapaccayā bhavoti iti
kho panetaṃ vuttaṃ upādānapaccayā nu kho, bhikkhave, bhavo, no vā, kathaṃ vā
ettha hotīti? ''upādānapaccayā, bhante, bhavo evaṃ no ettha hoti :
upādānapaccayā bhavoti. ''Taṇhāpaccayā upādānanti iti kho panetaṃ vuttaṃ, taṇhāpaccayā
nu kho, bhikkhave, upādānaṃ, no vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''taṇhāpaccayā,
bhante, upādānaṃ evaṃ no ettha hoti : taṇhāpaccayā upādānanti.
''Vedanāpaccayā taṇhāti iti kho panetaṃ
vuttaṃ vedanāpaccayā nu kho, bhikkhave, taṇhā, no vā, kathaṃ vā ettha hotīti?
''vedanāpaccayā, bhante, taṇhā evaṃ no ettha hoti : vedanāpaccayā taṇhāti.
''Phassapaccayā vedanāti iti kho panetaṃ vuttaṃ phassapaccayā nu kho,
bhikkhave, vedanā, no vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''phassapaccayā, bhante,
vedanā evaṃ no ettha hoti : phassapaccayā vedanāti. ''Saḷāyatanapaccayā
phassoti iti kho panetaṃ vuttaṃ saḷāyatanapaccayā nu kho, bhikkhave, phasso, no
vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''saḷāyatanapaccayā, bhante, phasso evaṃ no ettha
hoti : saḷāyatanapaccayā phassoti. ''Nāmarūpapaccayā saḷāyatananti iti kho
panetaṃ vuttaṃ nāmarūpapaccayā nu kho, bhikkhave, saḷāyatanaṃ, no vā, kathaṃ vā
ettha hotīti? ''nāmarūpapaccayā, bhante, saḷāyatanaṃ evaṃ no ettha hoti :
nāmarūpapaccayā saḷāyatananti. ''Viññāṇapaccayā nāmarūpanti iti kho panetaṃ vuttaṃ viññāṇapaccayā nu kho,
bhikkhave, nāmarūpaṃ, no vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''viññāṇapaccayā, bhante,
nāmarūpaṃ evaṃ no ettha hoti : viññāṇapaccayā nāmarūpanti. ''Saṅkhārapaccayā
viññāṇanti iti kho panetaṃ vuttaṃ saṅkhārapaccayā nu kho, bhikkhave, viññāṇaṃ,
no vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''saṅkhārapaccayā, bhante, viññāṇaṃ evaṃ no
ettha hoti : saṅkhārapaccayā viññāṇanti. ''Avijjāpaccayā saṅkhārāti iti kho
panetaṃ vuttaṃ avijjāpaccayā nu kho, bhikkhave, saṅkhārā, no vā, kathaṃ vā
ettha hotīti? ''avijjāpaccayā, bhante, saṅkhārā evaṃ no ettha hoti :
avijjāpaccayā saṅkhārāti.
404. ''Sādhu, bhikkhave. Iti kho, bhikkhave, tumhepi evaṃ
vadetha, ahampi evaṃ vadāmi : imasmiṃ sati idaṃ hoti, imassuppādā idaṃ uppajjati, yadidaṃ : avijjāpaccayā saṅkhārā,
saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ, viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ, nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ,
saḷāyatanapaccayā phasso, phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā, taṇhāpaccayā
upādānaṃ, upādānapaccayā bhavo,
bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā
sambhavanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.
''Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho,
saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho, viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho, nāmarūpanirodhā
saḷāyatananirodho , saḷāyatananirodhā phassanirodho, phassanirodhā
vedanānirodho, vedanānirodhā taṇhānirodho, taṇhānirodhā upādānanirodho,
upādānanirodhā bhavanirodho, bhavanirodhā jātinirodho, jātinirodhā jarāmaraṇaṃ
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā nirujjhanti. Evametassa kevalassa
dukkhakkhandhassa nirodho hoti.
405. ''Jātinirodhā jarāmaraṇanirodhoti iti kho panetaṃ vuttaṃ
jātinirodhā nu kho, bhikkhave, jarāmaraṇanirodho, no vā, kathaṃ vā ettha
hotīti? ''jātinirodhā, bhante, jarāmaraṇanirodho evaṃ no ettha hoti :
jātinirodhā jarāmaraṇanirodhoti. ''Bhavanirodhā jātinirodhoti iti kho panetaṃ
vuttaṃ bhavanirodhā nu kho, bhikkhave, jātinirodho, no vā, kathaṃ vā ettha
hotīti? ''bhavanirodhā, bhante, jātinirodho evaṃ no ettha hoti : bhavanirodhā
jātinirodhoti. ''Upādānanirodhā bhavanirodhoti iti kho panetaṃ vuttaṃ
upādānanirodhā nu kho, bhikkhave, bhavanirodho, no vā, kathaṃ vā ettha hotīti?
''upādānanirodhā, bhante, bhavanirodho evaṃ no ettha hoti : upādānanirodhā
bhavanirodhoti. ''Taṇhānirodhā upādānanirodhoti iti kho panetaṃ vuttaṃ taṇhānirodhā
nu kho, bhikkhave, upādānanirodho, no vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''taṇhānirodhā,
bhante, upādānanirodho evaṃ no ettha hoti : taṇhānirodhā upādānanirodhoti.
''Vedanānirodhā taṇhānirodhoti iti kho
panetaṃ vuttaṃ vedanānirodhā nu kho, bhikkhave, taṇhānirodho, no vā, kathaṃ vā
ettha hotīti? ''vedanānirodhā, bhante, taṇhānirodho evaṃ no ettha hoti :
vedanānirodhā taṇhānirodhoti. ''Phassanirodhā vedanānirodhoti iti kho panetaṃ
vuttaṃ phassanirodhā nu kho, bhikkhave,
vedanānirodho, no vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''phassanirodhā, bhante,
vedanānirodho evaṃ no ettha hoti : phassanirodhā vedanānirodhoti. ''Saḷāyatananirodhā
phassanirodhoti iti kho panetaṃ vuttaṃ saḷāyatananirodhā nu kho, bhikkhave,
phassanirodho, no vā , kathaṃ vā ettha hotīti? saḷāyatananirodhā, bhante,
phassanirodho evaṃ no ettha hoti : saḷāyatananirodhā phassanirodhoti. ''Nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodhoti
iti kho panetaṃ vuttaṃ nāmarūpanirodhā nu kho, bhikkhave, saḷāyatananirodho, no
vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''nāmarūpanirodhā, bhante, saḷāyatananirodho evaṃ
no ettha hoti : nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodhoti. ''Viññāṇanirodhā
nāmarūpanirodhoti iti kho panetaṃ vuttaṃ viññāṇanirodhā nu kho, bhikkhave,
nāmarūpanirodho, no vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''viññāṇanirodhā, bhante,
nāmarūpanirodho evaṃ no ettha hoti : viññāṇanirodhā nāmarūpanirodhoti. ''Saṅkhāranirodhā
viññāṇanirodhoti iti kho panetaṃ vuttaṃ saṅkhāranirodhā nu kho, bhikkhave,
viññāṇanirodho, no vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''saṅkhāranirodhā, bhante ,
viññāṇanirodho evaṃ no ettha hoti : saṅkhāranirodhā viññāṇanirodhoti.
''Avijjānirodhā saṅkhāranirodhoti iti kho panetaṃ vuttaṃ avijjānirodhā nu kho,
bhikkhave, saṅkhāranirodho, no vā, kathaṃ vā ettha hotīti? ''avijjānirodhā,
bhante, saṅkhāranirodho evaṃ no ettha hoti : avijjānirodhā saṅkhāranirodhoti.
406. ''Sādhu, bhikkhave. Iti kho, bhikkhave, tumhepi evaṃ
vadetha, ahampi evaṃ vadāmi : imasmiṃ asati idaṃ na hoti, imassa nirodhā idaṃ
nirujjhati, yadidaṃ : avijjānirodhā saṅkhāranirodho, saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho,
viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho, nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho, saḷāyatananirodhā
phassanirodho, phassanirodhā vedanānirodho, vedanānirodhā taṇhānirodho, taṇhānirodhā
upādānanirodho, upādānanirodhā bhavanirodho, bhavanirodhā jātinirodho,
jātinirodhā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā nirujjhanti.
Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hoti.
407. ''Api nu tumhe, bhikkhave, evaṃ jānantā evaṃ passantā
pubbantaṃ vā paṭidhāveyyātha :
'ahesumha nu kho mayaṃ atītamaddhānaṃ, nanu kho ahesumha atītamaddhānaṃ, kiṃ nu
kho ahesumha atītamaddhānaṃ, kathaṃ nu kho ahesumha atītamaddhānaṃ, kiṃ hutvā
kiṃ ahesumha nu kho mayaṃ atītamaddhānanti? ''no hetaṃ, bhante. ''Api nu tumhe, bhikkhave, evaṃ jānantā evaṃ
passantā aparantaṃ vā paṭidhāveyyātha :
bhavissāma nu kho mayaṃ anāgatamaddhānaṃ, nanu kho bhavissāma anāgatamaddhānaṃ,
kiṃ nu kho bhavissāma anāgatamaddhānaṃ, kathaṃ nu kho bhavissāma
anāgatamaddhānaṃ, kiṃ hutvā kiṃ bhavissāma nu kho mayaṃ anāgatamaddhānanti?
''no hetaṃ, bhante. ''Api nu tumhe, bhikkhave, evaṃ jānantā evaṃ passantā etarahi
vā paccuppannamaddhānaṃ ajjhattaṃ kathaṃkathī assatha : ahaṃ nu khosmi, no nu
khosmi, kiṃ nu khosmi, kathaṃ nu khosmi, ayaṃ nu kho satto kuto āgato, so kuhiṃgāmī
bhavissatīti? ''no hetaṃ, bhante. ''Api nu tumhe, bhikkhave, evaṃ jānantā evaṃ
passantā evaṃ vadeyyātha : satthā no garu, satthugāravena ca mayaṃ evaṃ
vademāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Api nu tumhe, bhikkhave, evaṃ jānantā evaṃ
passantā evaṃ vadeyyātha : samaṇo evamāha, samaṇā ca nāma mayaṃ evaṃ vademāti?
''no hetaṃ, bhante. ''Api nu tumhe, bhikkhave, evaṃ jānantā evaṃ passantā aññaṃ
satthāraṃ uddiseyyāthāti? ''no hetaṃ,
bhante. ''Api nu tumhe, bhikkhave, evaṃ jānantā evaṃ passantā yāni tāni
puthusamaṇabrāhmaṇānaṃ vata kotūhalamaṅgalāni tāni sārato paccāgaccheyyāthāti?
''no hetaṃ, bhante. ''Nanu, bhikkhave,
yadeva tumhākaṃ sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ, tadeva tumhe
vadethāti. ''Evaṃ, bhante. ''Sādhu, bhikkhave, upanītā kho me tumhe, bhikkhave,
iminā sandiṭṭhikena dhammena akālikena ehipassikena opaneyyikena paccattaṃ
veditabbena viññūhi. Sandiṭṭhiko ayaṃ, bhikkhave, dhammo akāliko ehipassiko
opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhi : iti yantaṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca
vuttanti.
408. ''Tiṇṇaṃ kho pana, bhikkhave, sannipātā gabbhassāvakkanti
hoti. Idha mātāpitaro ca sannipatitā honti, mātā ca na utunī hoti, gandhabbo ca
na paccupaṭṭhito hoti, neva tāva gabbhassāvakkanti hoti. Idha mātāpitaro ca sannipatitā honti,
mātā ca utunī hoti, gandhabbo ca na paccupaṭṭhito hoti, neva tāva
gabbhassāvakkanti hoti. Yato ca kho, bhikkhave, mātāpitaro ca sannipatitā
honti, mātā ca utunī hoti, gandhabbo ca paccupaṭṭhito hoti : evaṃ tiṇṇaṃ
sannipātā gabbhassāvakkanti hoti. Tamenaṃ, bhikkhave, mātā nava vā dasa vā māse
gabbhaṃ kucchinā pariharati mahatā saṃsayena garubhāraṃ [garumbhāraṃ (sī.
pī.)]. Tamenaṃ, bhikkhave, mātā navannaṃ
vā dasannaṃ vā māsānaṃ accayena vijāyati
mahatā saṃsayena garubhāraṃ. Tamenaṃ jātaṃ samānaṃ sakena lohitena poseti.
Lohitañhetaṃ, bhikkhave, ariyassa vinaye yadidaṃ mātuthaññaṃ. Sa kho so,
bhikkhave, kumāro vuddhimanvāya indriyānaṃ paripākamanvāya yāni tāni kumārakānaṃ
kīḷāpanakāni tehi kīḷati, seyyathidaṃ : vaṅkakaṃ ghaṭikaṃ mokkhacikaṃ ciṅgulakaṃ
pattāḷhakaṃ rathakaṃ dhanukaṃ. Sa kho so, bhikkhave, kumāro vuddhimanvāya
indriyānaṃ paripākamanvāya pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāreti
: cakkhuviññeyyehi rūpehi iṭṭhehi kantehi manāpehi piyarūpehi kāmūpasaṃhitehi
rajanīyehi, sotaviññeyyehi saddehi... ghānaviññeyyehi gandhehi...
jivhāviññeyyehi rasehi... kāyaviññeyyehi phoṭṭhabbehi iṭṭhehi kantehi manāpehi
piyarūpehi kāmūpasaṃhitehi rajanīyehi.
409. ''So cakkhunā rūpaṃ
disvā piyarūpe rūpe sārajjati, appiyarūpe rūpe byāpajjati, anupaṭṭhitakāyasati
ca viharati parittacetaso. Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ
nappajānāti : yatthassa te pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti. So evaṃ
anurodhavirodhaṃ samāpanno yaṃ kiñci vedanaṃ vedeti sukhaṃ vā dukkhaṃ vā
adukkhamasukhaṃ vā, so taṃ vedanaṃ abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati.
Tassa taṃ vedanaṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato uppajjati nandī .
Yā vedanāsu nandī tadupādānaṃ, tassupādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti,
jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti.
Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Sotena saddaṃ sutvā - pe
- ghānena gandhaṃ ghāyitvā - pe - jivhāya rasaṃ sāyitvā - pe - kāyena phoṭṭhabbaṃ
phusitvā - pe - manasā dhammaṃ viññāya piyarūpe dhamme sārajjati, appiyarūpe dhamme byāpajjati,
anupaṭṭhitakāyasati ca viharati parittacetaso. Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ
yathābhūtaṃ nappajānāti : yatthassa te pāpakā akusalā dhammā aparisesā
nirujjhanti. So evaṃ anurodhavirodhaṃ samāpanno yaṃ kiñci vedanaṃ vedeti sukhaṃ
vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā, so taṃ vedanaṃ abhinandati abhivadati
ajjhosāya tiṭṭhati. Tassa taṃ vedanaṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato
uppajjati nandī. Yā vedanāsu nandī tadupādānaṃ, tassupādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā
jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti. Evametassa kevalassa
dukkhakkhandhassa samudayo hoti.
410. ''Idha, bhikkhave, tathāgato loke uppajjati arahaṃ
sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi
satthā devamanussānaṃ buddho Bhagavā. So imaṃ lokaṃ sadevakaṃ samārakaṃ
sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti. So dhammaṃ deseti
ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ
parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāseti. Taṃ dhammaṃ suṇāti gahapati vā
gahapatiputto vā aññatarasmiṃ vā kule paccājāto. So taṃ dhammaṃ sutvā tathāgate
saddhaṃ paṭilabhati. So tena saddhāpaṭilābhena samannāgato iti paṭisañcikkhati
: 'sambādho gharāvāso rajāpatho, abbhokāso pabbajjā. Nayidaṃ sukaraṃ agāraṃ
ajjhāvasatā ekantaparipuṇṇaṃ ekantaparisuddhaṃ saṅkhalikhitaṃ brahmacariyaṃ carituṃ.
Yaṃnūnāhaṃ kesamassuṃ ohāretvā, kāsāyāni
vatthāni acchādetvā, agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyyanti. So aparena samayena
appaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya, mahantaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya, appaṃ vā
ñātiparivaṭṭaṃ pahāya, mahantaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ pahāya, kesamassuṃ ohāretvā,
kāsāyāni vatthāni acchādetvā, agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.
411. ''So evaṃ pabbajito samāno bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno
pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato hoti, nihitadaṇḍo nihitasattho lajjī
dayāpanno sabbapāṇabhūtahitānukampī viharati. ''Adinnādānaṃ pahāya adinnādānā
paṭivirato hoti, dinnādāyī dinnapāṭikaṅkhī
athenena sucibhūtena attanā viharati. ''Abrahmacariyaṃ pahāya brahmacārī hoti,
ārācārī virato methunā gāmadhammā. ''Musāvādaṃ
pahāya musāvādā paṭivirato hoti, saccavādī saccasandho theto paccayiko avisaṃvādako lokassa. ''Pisuṇaṃ
vācaṃ pahāya pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti : ito sutvā na amutra akkhātā
imesaṃ bhedāya, amutra vā sutvā na imesaṃ akkhātā amūsaṃ bhedāya. Iti bhinnānaṃ
vā sandhātā, sahitānaṃ vā anuppadātā samaggārāmo samaggarato samagganandī,
samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. ''Pharusaṃ vācaṃ pahāya pharusāya vācāya paṭivirato
hoti : yā sā vācā nelā kaṇṇasukhā pemanīyā hadayaṅgamā porī bahujanakantā
bahujanamanāpā tathārūpiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. ''Samphappalāpaṃ pahāya
samphappalāpā paṭivirato hoti, kālavādī bhūtavādī atthavādī dhammavādī
vinayavādī, nidhānavatiṃ vācaṃ bhāsitā kālena, sāpadesaṃ pariyantavatiṃ atthasaṃhitaṃ.
''So bījagāmabhūtagāmasamārambhā paṭivirato
hoti, ekabhattiko hoti rattūparato, virato vikālabhojanā.
Naccagītavāditavisūkadassanā paṭivirato hoti, mālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā
paṭivirato hoti, uccāsayanamahāsayanā paṭivirato hoti, jātarūparajatapaṭiggahaṇā
paṭivirato hoti, āmakadhaññapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti, āmakamaṃsapaṭiggahaṇā
paṭivirato hoti, itthikumārikapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti, dāsidāsapaṭiggahaṇā
paṭivirato hoti, ajeḷakapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti, kukkuṭasūkarapaṭiggahaṇā
paṭivirato hoti, hatthigavāssavaḷavapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti, khettavatthupaṭiggahaṇā paṭivirato
hoti, dūteyyapahiṇagamanānuyogā paṭivirato hoti, kayavikkayā paṭivirato hoti,
tulākūṭakaṃsakūṭamānakūṭā paṭivirato hoti, ukkoṭanavañcana-nikati-sāciyogā paṭivirato
hoti, chedana-vadhabandhanaviparāmosa-ālopa-sahasākārā paṭivirato hoti [passa
mAnguttara Nikāye 1.293 cūḷahatthipadopame]. ''So santuṭṭho hoti
kāyaparihārikena cīvarena kucchiparihārikena piṇḍapātena. So yena yeneva
pakkamati samādāyeva pakkamati . Seyyathāpi nāma pakkhī sakuṇo yena yeneva ḍeti
sapattabhārova ḍeti, evameva bhikkhu santuṭṭho hoti kāyaparihārikena cīvarena,
kucchiparihārikena piṇḍapātena. So yena yeneva pakkamati samādāyeva pakkamati.
So iminā ariyena sīlakkhandhena
samannāgato ajjhattaṃ anavajjasukhaṃ paṭisaṃvedeti.
''So cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī.
Yatvādhikaraṇamenaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā
akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati cakkhundriyaṃ,
cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati. Sotena saddaṃ sutvā - pe - ghānena gandhaṃ
ghāyitvā - pe - jivhāya rasaṃ sāyitvā - pe - kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā - pe -
manasā dhammaṃ viññāya na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī. Yatvādhikaraṇamenaṃ
manindriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā
anvāssaveyyuṃ tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati manindriyaṃ manindriye saṃvaraṃ
āpajjati. So iminā ariyena indriyasaṃvarena samannāgato ajjhattaṃ abyāsekasukhaṃ paṭisaṃvedeti. ''So abhikkante paṭikkante
sampajānakārī hoti, ālokite vilokite sampajānakārī hoti , samiñjite pasārite
sampajānakārī hoti, saṅghāṭipattacīvaradhāraṇe sampajānakārī hoti, asite pīte
khāyite sāyite sampajānakārī hoti, uccārapassāvakamme sampajānakārī hoti, gate ṭhite
nisinne sutte jāgarite bhāsite tuṇhībhāve sampajānakārī hoti.
412. ''So iminā ca ariyena sīlakkhandhena samannāgato, (imāya ca
ariyāya santuṭṭhiyā samannāgato) [passa mAnguttara Nikāye 1.296 cūḷahatthipadopame],
iminā ca ariyena indriyasaṃvarena samannāgato, iminā ca ariyena
satisampajaññena samannāgato, vivittaṃ senāsanaṃ bhajati : araññaṃ rukkhamūlaṃ
pabbataṃ kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ abbhokāsaṃ palālapuñjaṃ. So
pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto nisīdati pallaṅkaṃ ābhujitvā, ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya,
parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā. So abhijjhaṃ loke pahāya vigatābhijjhena cetasā
viharati, abhijjhāya cittaṃ parisodheti byāpādapadosaṃ pahāya abyāpannacitto viharati, sabbapāṇabhūtahitānukampī,
byāpādapadosā cittaṃ parisodheti thīnamiddhaṃ pahāya vigatathīnamiddho viharati
ālokasaññī, sato sampajāno, thīnamiddhā cittaṃ parisodheti uddhaccakukkuccaṃ
pahāya anuddhato viharati ajjhattaṃ vūpasantacitto, uddhaccakukkuccā cittaṃ
parisodheti vicikicchaṃ pahāya tiṇṇavicikiccho viharati akathaṃkathī kusalesu
dhammesu, vicikicchāya cittaṃ parisodheti.
413. ''So ime pañca
nīvaraṇe pahāya cetaso upakkilese paññāya dubbalīkaraṇe, vivicceva kāmehi
vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ
jhānaṃ upasampajja viharati. Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu vitakkavicārānaṃ
vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ
pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ - pe - tatiyaṃ jhānaṃ - pe - catutthaṃ jhānaṃ
upasampajja viharati.
414. ''So cakkhunā rūpaṃ disvā piyarūpe rūpe na sārajjati,
appiyarūpe rūpe na byāpajjati, upaṭṭhitakāyasati ca viharati appamāṇacetaso.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti : yatthassa te pāpakā
akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti. So evaṃ anurodhavirodhavippahīno yaṃ kiñci vedanaṃ vedeti, sukhaṃ vā dukkhaṃ
vā adukkhamasukhaṃ vā, so taṃ vedanaṃ nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati.
Tassa taṃ vedanaṃ anabhinandato anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato yā vedanāsu
nandī sā nirujjhati. Tassa nandīnirodhā upādānanirodho, upādānanirodhā
bhavanirodho, bhavanirodhā jātinirodho, jātinirodhā jarāmaraṇaṃ
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā nirujjhanti. Evametassa kevalassa
dukkhakkhandhassa nirodho hoti. Sotena saddaṃ sutvā - pe - ghānena gandhaṃ ghāyitvā
- pe - jivhāya rasaṃ sāyitvā - pe - kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā - pe - manasā
dhammaṃ viññāya piyarūpe dhamme na
sārajjati, appiyarūpe dhamme na byāpajjati, upaṭṭhitakāyasati ca viharati
appamāṇacetaso, tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti :
yatthassa te pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti. So evaṃ
anurodhavirodhavippahīno yaṃ kiñci vedanaṃ vedeti, sukhaṃ vā dukkhaṃ vā
adukkhamasukhaṃ vā, so taṃ vedanaṃ nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati. Tassa taṃ vedanaṃ
anabhinandato anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato yā vedanāsu nandī sā
nirujjhati. Tassa nandīnirodhā upādānanirodho, upādānanirodhā bhavanirodho,
bhavanirodhā jātinirodho, jātinirodhā jarāmaraṇaṃ
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā nirujjhanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa
nirodho hoti. Imaṃ kho me tumhe, bhikkhave, saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ
dhāretha, sātiṃ pana bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ
mahātaṇhājālataṇhāsaṅghāṭappaṭimukkanti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te
bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Mahātaṇhāsaṅkhayasuttaṃ niṭṭhitaṃ
aṭṭhamaṃ.
38.
Mahātaṇhāsaṅkhayasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
396. Evaṃ me sutanti mahātaṇhāsaṅkhayasuttaṃ. Tattha diṭṭhigatanti
alagaddūpamasutte laddhimattaṃ diṭṭhigatanti vuttaṃ, idha sassatadiṭṭhi. So ca
bhikkhu bahussuto, ayaṃ appassuto, jātakabhāṇako bhagavantaṃ jātakaṃ kathetvā,
‘‘ahaṃ, bhikkhave, tena samayena vessantaro ahosiṃ, mahosadho, vidhurapaṇḍito,
senakapaṇḍito, mahājanako rājā ahosi’’nti samodhānentaṃ suṇāti. Athassa
etadahosi – ‘‘ime rūpavedanāsaññāsaṅkhārā tattha tattheva nirujjhanti, viññāṇaṃ
pana idhalokato paralokaṃ, paralokato imaṃ lokaṃ sandhāvati saṃsaratī’’ti
sassatadassanaṃ uppannaṃ. Tenāha – ‘‘tadevidaṃ viññāṇaṃ sandhāvati saṃsarati
anañña’’nti.
Sammāsambuddhena pana, ‘‘viññāṇaṃ paccayasambhavaṃ, sati paccaye
uppajjati, vinā paccayaṃ natthi viññāṇassa sambhavo’’ti vuttaṃ. Tasmā ayaṃ
bhikkhu buddhena akathitaṃ katheti, jinacakke pahāraṃ deti, vesārajjañāṇaṃ paṭibāhati,
sotukāmaṃ janaṃ visaṃvādeti, ariyapathe tiriyaṃ nipatitvā mahājanassa ahitāya
dukkhāya paṭipanno. Yathā nāma rañño rajje mahācoro uppajjamāno mahājanassa
ahitāya dukkhāya uppajjati, evaṃ jinasāsane coro hutvā mahājanassa ahitāya
dukkhāya uppannoti veditabbo. Sambahulā bhikkhūti janapadavāsino piṇḍapātikabhikkhū.
Tenupasaṅkamiṃsūti ayaṃ parisaṃ labhitvā sāsanampi antaradhāpeyya, yāva pakkhaṃ
na labhati, tāvadeva naṃ diṭṭhigatā vivecemāti sutasutaṭṭhānatoyeva aṭṭhatvā
anisīditvā upasaṅkamiṃsu.
398. Katamaṃ taṃ sāti viññāṇanti sāti yaṃ tvaṃ viññāṇaṃ sandhāya vadesi,
katamaṃ taṃ viññāṇanti? Yvāyaṃ, bhante, vado vedeyyo tatra tatra kalyāṇapāpakānaṃ
kammānaṃ vipākaṃ paṭisaṃvedetīti, bhante, yo ayaṃ vadati vedayati, yo cāyaṃ
tahiṃ tahiṃ kusalākusalakammānaṃ vipākaṃ paccanubhoti. Idaṃ, bhante, viññāṇaṃ,
yamahaṃ sandhāya vademīti. Kassa nu kho nāmāti kassa khattiyassa vā brāhmaṇassa
vā vessasuddagahaṭṭhapabbajitadevamanussānaṃ vā aññatarassa.
399. Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesīti kasmā āmantesi? Sātissa kira
evaṃ ahosi – ‘‘satthā maṃ ‘moghapuriso’ti vadati, na ca moghapurisoti vuttamatteneva
maggaphalānaṃ upanissayo na hoti. Upasenampi hi vaṅgantaputtaṃ, ‘atilahuṃ kho
tvaṃ moghapurisa bāhullāya āvatto’ti (mahāva. 75) bhagavā moghapurisavādena
ovadi. Thero aparabhāge ghaṭento vāyamanto cha abhiññā sacchākāsi. Ahampi
tathārūpaṃ vīriyaṃ paggaṇhitvā maggaphalāni nibbattessāmī’’ti. Athassa bhagavā
chinnapaccayo ayaṃ sāsane aviruḷhadhammoti dassento bhikkhū āmantesi.
Usmīkatotiādi heṭṭhā vuttādhippāyameva. Atha kho bhagavāti ayampi pāṭiyekko
anusandhi. Sātissa kira etadahosi – ‘‘bhagavā mayhaṃ maggaphalānaṃ upanissayo
natthīti vadati, kiṃ sakkā upanissaye asati kātuṃ? Na hi tathāgatā
saupanissayasseva dhammaṃ desenti, yassa kassaci desentiyeva. Ahaṃ buddhassa
santikā sugatovādaṃ labhitvā saggasampattūpagaṃ kusalaṃ karissāmī’’ti. Athassa
bhagavā, ‘‘nāhaṃ, moghapurisa, tuyhaṃ ovādaṃ vā anusāsaniṃ vā demī’’ti
sugatovādaṃ paṭippassambhento imaṃ desanaṃ ārabhi. Tassattho heṭṭhā
vuttanayeneva veditabbo. Idāni parisāya laddhiṃ sodhento, ‘‘idhāhaṃ bhikkhū paṭipucchissāmī’’tiādimāha.
Taṃ sabbampi heṭṭhā vuttanayeneva veditabbaṃ.
400. Idāni viññāṇassa sappaccayabhāvaṃ dassetuṃ yaṃ yadeva,
bhikkhavetiādimāha. Tattha manañca paṭicca dhamme cāti sahāvajjanena bhavaṅgamanañca
tebhūmakadhamme ca paṭicca. Kaṭṭhañca paṭiccātiādi opammanidassanatthaṃ vuttaṃ.
Tena kiṃ dīpeti? Dvārasaṅkantiyā abhāvaṃ. Yathā hi kaṭṭhaṃ paṭicca jalamāno
aggi upādānapaccaye satiyeva jalati, tasmiṃ asati paccayavekallena tattheva
vūpasammati, na sakalikādīni saṅkamitvā sakalikaggītiādisaṅkhyaṃ gacchati,
evameva cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppannaṃ viññāṇaṃ tasmiṃ dvāre
cakkhurūpaālokamanasikārasaṅkhāte paccayamhi satiyeva uppajjati, tasmiṃ asati
paccayavekallena tattheva nirujjhati, na sotādīni saṅkamitvā sotaviññāṇantiādisaṅkhyaṃ
gacchati. Esa nayo sabbavāresu. Iti bhagavā nāhaṃ viññāṇappavatte dvārasaṅkantimattampi
vadāmi, ayaṃ pana sāti moghapuriso bhavasaṅkantiṃ vadatīti sātiṃ niggahesi.
401. Evaṃ viññāṇassa sappaccayabhāvaṃ dassetvā idāni pana pañcannampi
khandhānaṃ sappaccayabhāvaṃ dassento, bhūtamidantiādimāha. Tattha bhūtamidanti
idaṃ khandhapañcakaṃ jātaṃ bhūtaṃ nibbattaṃ, tumhepi taṃ bhūtamidanti,
bhikkhave, passathāti. Tadāhārasambhavanti taṃ panetaṃ khandhapañcakaṃ
āhārasambhavaṃ paccayasambhavaṃ, sati paccaye uppajjati evaṃ passathāti
pucchati. Tadāhāranirodhāti tassa paccayassa nirodhā. Bhūtamidaṃ nossūti bhūtaṃ
nu kho idaṃ, na nu kho bhūtanti. Tadāhārasambhavaṃ nossūti taṃ bhūtaṃ
khandhapañcakaṃ paccayasambhavaṃ nu kho, na nu khoti. Tadāhāranirodhāti tassa
paccayassa nirodhā. Nirodhadhammaṃ nossūti taṃ dhammaṃ nirodhadhammaṃ nu kho,
na nu khoti. Sammappaññāya passatoti idaṃ khandhapañcakaṃ jātaṃ bhūtaṃ
nibbattanti yāthāvasarasalakkhaṇato vipassanāpaññāya sammā passantassa. Paññāya
sudiṭṭhanti vuttanayeneva vipassanāpaññāya suṭṭhu diṭṭhaṃ. Evaṃ ye ye taṃ
pucchaṃ sallakkhesuṃ, tesaṃ tesaṃ paṭiññaṃ gaṇhanto pañcannaṃ khandhānaṃ
sappaccayabhāvaṃ dasseti.
Idāni yāya paññāya tehi taṃ sappaccayaṃ sanirodhaṃ khandhapañcakaṃ sudiṭṭhaṃ,
tattha nittaṇhabhāvaṃ pucchanto imaṃ ce tumhetiādimāha. Tattha diṭṭhinti
vipassanāsammādiṭṭhiṃ. Sabhāvadassanena parisuddhaṃ. Paccayadassanena
pariyodātaṃ. Allīyethāti taṇhādiṭṭhīhi allīyitvā vihareyyātha. Kelāyethāti taṇhādiṭṭhīhi
kīḷamānā vihareyyātha. Dhanāyethāti dhanaṃ viya icchantā gedhaṃ āpajjeyyātha.
Mamāyethāti taṇhādiṭṭhīhi mamattaṃ uppādeyyātha. Nittharaṇatthāya no gahaṇatthāyāti
yo so mayā caturoghanittharaṇatthāya kullūpamo dhammo desito, no nikantivasena
gahaṇatthāya. Api nu taṃ tumhe ājāneyyāthāti. Vipariyāyena sukkapakkho
veditabbo.
402. Idāni tesaṃ khandhānaṃ paccayaṃ dassento, cattārome, bhikkhave,
āhārātiādimāha, tampi vuttatthameva. Yathā pana eko imaṃ jānāsīti vutto, ‘‘na
kevalaṃ imaṃ, mātarampissa jānāmi, mātu mātarampī’’ti evaṃ paveṇivasena jānanto
suṭṭhu jānāti nāma. Evamevaṃ bhagavā na kevalaṃ khandhamattameva jānāti,
khandhānaṃ paccayampi tesampi paccayānaṃ paccayanti evaṃ sabbapaccayaparamparaṃ
jānāti. So taṃ, buddhabalaṃ dīpento idāni paccayaparamparaṃ dassetuṃ, ime ca,
bhikkhave, cattāro āhārātiādimāha. Taṃ vuttatthameva. Iti kho, bhikkhave,
avijjāpaccayā saṅkhārā…pe… dukkhakkhandhassa samudayo hotīti ettha pana paṭiccasamuppādakathā
vitthāretabbā bhaveyya, sā visuddhimagge vitthāritāva.
404. Imasmiṃ sati idaṃ hotīti imasmiṃ avijjādike paccaye sati idaṃ saṅkhārādikaṃ
phalaṃ hoti. Imassuppādā idaṃ uppajjatīti imassa avijjādikassa paccayassa
uppādā idaṃ saṅkhārādikaṃ phalaṃ uppajjati, tenevāha – ‘‘yadidaṃ avijjāpaccayā
saṅkhārā…pe… samudayo hotī’’ti. Evaṃ vaṭṭaṃ dassetvā idāni vivaṭṭaṃ dassento,
avijjāya tveva asesavirāganirodhātiādimāha. Tattha avijjāya tvevāti avijjāya
eva tu. Asesavirāganirodhāti virāgasaṅkhātena maggena asesanirodhā
anuppādanirodhā. Saṅkhāranirodhoti saṅkhārānaṃ anuppādanirodho hoti, evaṃ
niruddhānaṃ pana saṅkhārānaṃ nirodhā viññāṇanirodho hoti, viññāṇādīnañca
nirodhā nāmarūpādīni niruddhāniyeva hontīti dassetuṃ saṅkhāranirodhā viññāṇanirodhotiādiṃ
vatvā evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotīti vuttaṃ. Tattha
kevalassāti sakalassa, suddhassa vā, sattavirahitassāti attho.
Dukkhakkhandhassāti dukkharāsissa. Nirodho hotīti anuppādo hoti.
406. Imasmiṃ asatītiādi vuttapaṭipakkhanayena veditabbaṃ.
407. Evaṃ vaṭṭavivaṭṭaṃ kathetvā idāni imaṃ dvādasaṅgapaccayavaṭṭaṃ saha
vipassanāya maggena jānantassa yā paṭidhāvanā pahīyati, tassā abhāvaṃ pucchanto
api nu tumhe, bhikkhavetiādimāha. Tattha evaṃ jānantāti evaṃ sahavipassanāya
maggena jānantā. Evaṃ passantāti tasseva vevacanaṃ. Pubbantanti purimakoṭṭhāsaṃ,
atītakhandhadhātuāyatanānīti attho. Paṭidhāveyyāthāti taṇhādiṭṭhivasena paṭidhāveyyātha.
Sesaṃ sabbāsavasutte vitthāritameva.
Idāni nesaṃ tattha niccalabhāvaṃ pucchanto, api nu tumhe, bhikkhave, evaṃ
jānantā evaṃ passantā evaṃ vadeyyātha, satthā no garūtiādimāha. Tattha garūti
bhāriko akāmā anuvattitabbo. Samaṇoti buddhasamaṇo. Aññaṃ satthāraṃ
uddiseyyāthāti ayaṃ satthā amhākaṃ kiccaṃ sādhetuṃ na sakkotīti api nu evaṃsaññino
hutvā aññaṃ bāhirakaṃ satthāraṃ uddiseyyātha. Puthusamaṇabrāhmaṇānanti evaṃsaññino
hutvā puthūnaṃ titthiyasamaṇānaṃ ceva brāhmaṇānañca. Vatakotūhalamaṅgalānīti
vatasamādānāni ca diṭṭhikutūhalāni ca diṭṭhasutamutamaṅgalāni ca. Tāni sārato
paccāgaccheyyāthāti etāni sāranti evaṃsaññino hutvā paṭiāgaccheyyātha. Evaṃ
nissaṭṭhāni ca puna gaṇheyyāthāti attho. Sāmaṃ ñātanti sayaṃ ñāṇena ñātaṃ. Sāmaṃ
diṭṭhanti sayaṃ paññācakkhunā diṭṭhaṃ. Sāmaṃ viditanti sayaṃ vibhāvitaṃ pākaṭaṃ
kataṃ. Upanītā kho me tumheti mayā, bhikkhave, tumhe iminā sandiṭṭhikādisabhāvena
dhammena nibbānaṃ upanītā, pāpitāti attho. Sandiṭṭhikotiādīnamattho
visuddhimagge vitthārito. Idametaṃ paṭicca vuttanti etaṃ vacanamidaṃ tumhehi
sāmaṃ ñātādibhāvaṃ paṭicca vuttaṃ.
408. Tiṇṇaṃ kho pana, bhikkhaveti kasmā ārabhi? Nanu heṭṭhā vaṭṭavivaṭṭavasena
desanā matthakaṃ pāpitāti? Āma pāpitā. Ayaṃ pana pāṭiekko anusandhi, ‘‘ayañhi
lokasannivāso paṭisandhisammūḷho, tassa sammohaṭṭhānaṃ viddhaṃsetvā pākaṭaṃ
karissāmī’’ti imaṃ desanaṃ ārabhi. Apica vaṭṭamūlaṃ avijjā, vivaṭṭamūlaṃ
buddhuppādo, iti vaṭṭamūlaṃ avijjaṃ vivaṭṭamūlañca buddhuppādaṃ dassetvāpi,
‘‘puna ekavāraṃ vaṭṭavivaṭṭavasena desanaṃ matthakaṃ pāpessāmī’’ti imaṃ desanaṃ
ārabhi. Tattha sannipātāti samodhānena piṇḍabhāvena. Gabbhassāti gabbhe
nibbattanakasattassa. Avakkanti hotīti nibbatti hoti. Katthaci hi gabbhoti
mātukucchi vutto. Yathāha –
‘‘Yamekarattiṃ paṭhamaṃ, gabbhe vasati māṇavo;
Abbhuṭṭhitova so yāti, sa gacchaṃ na nivattatī’’ti. (jā. 1.15.363);
Katthaci gabbhe nibbattanasatto. Yathāha – ‘‘yathā kho, panānanda, aññā
itthikā nava vā dasa vā māse gabbhaṃ kucchinā pariharitvā vijāyantī’’ti (ma.
ni. 3.205). Idha satto adhippeto, taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘gabbhassa avakkanti
hotī’’ti.
Idhāti imasmiṃ sattaloke. Mātā ca utunī hotīti idaṃ utusamayaṃ sandhāya
vuttaṃ. Mātugāmassa kira yasmiṃ okāse dārako nibbattati, tattha mahatī lohitapīḷakā
saṇṭhahitvā bhijjitvā paggharati, vatthu suddhaṃ hoti, suddhe vatthumhi
mātāpitūsu ekavāraṃ sannipatitesu yāva satta divasāni khettameva hoti. Tasmiṃ
samaye hatthaggāhaveṇiggāhādinā aṅgaparāmasanenapi dārako nibbattatiyeva.
Gandhabboti tatrūpagasatto. Paccupaṭṭhito hotīti na mātāpitūnaṃ sannipātaṃ
olokayamāno samīpe ṭhito paccupaṭṭhito nāma hoti. Kammayantayantito pana eko
satto tasmiṃ okāse nibbattanako hotīti ayamettha adhippāyo. Saṃsayenāti ‘‘arogo
nu kho bhavissāmi ahaṃ vā, putto vā me’’ti evaṃ mahantena jīvitasaṃsayena.
Lohitañhetaṃ, bhikkhaveti tadā kira mātulohitaṃ taṃ ṭhānaṃ sampattaṃ
puttasinehena paṇḍaraṃ hoti. Tasmā evamāha. Vaṅkakanti gāmadārakānaṃ kīḷanakaṃ
khuddakanaṅgalaṃ. Ghaṭikā vuccati dīghadaṇḍena rassadaṇḍakaṃ paharaṇakīḷā.
Mokkhacikanti samparivattakakīḷā, ākāse vā daṇḍakaṃ gahetvā bhūmiyaṃ vā sīsaṃ ṭhapetvā
heṭṭhupariyabhāvena parivattanakīḷananti vuttaṃ hoti. Ciṅgulakaṃ vuccati tālapaṇṇādīhi
kataṃ vātappahārena paribbhamanacakkaṃ. Pattāḷhakaṃ vuccati paṇṇanāḷikā, tāya
vālikādīni minantā kīḷanti. Rathakanti khuddakarathaṃ. Dhanukampi
khuddakadhanumeva.
409. Sārajjatīti rāgaṃ uppādeti. Byāpajjatīti byāpādaṃ uppādeti. Anupaṭṭhitakāyasatīti
kāye sati kāyasati, taṃ anupaṭṭhapetvāti attho. Parittacetasoti akusalacitto.
Yatthassa te pāpakāti yassaṃ phalasamāpattiyaṃ ete nirujjhanti, taṃ na jānāti
nādhigacchatīti attho. Anurodhavirodhanti rāgañceva dosañca. Abhinandatīti taṇhāvasena
abhinandati, taṇhāvaseneva aho sukhantiādīni vadanto abhivadati. Ajjhosāya tiṭṭhatīti
taṇhāajjhosānagahaṇena gilitvā pariniṭṭhapetvā gaṇhāti. Sukhaṃ vā
adukkhamasukhaṃ vā abhinandatu, dukkhaṃ kathaṃ abhinandatīti? ‘‘Ahaṃ dukkhito
mama dukkha’’nti gaṇhanto abhinandati nāma. Uppajjati nandīti taṇhā uppajjati.
Tadupādānanti sāva taṇhā gahaṇaṭṭhena upādānaṃ nāma. Tassa upādānapaccayā
bhavo…pe… samudayo hotīti, idañhi bhagavatā puna ekavāraṃ dvisandhi tisaṅkhepaṃ
paccayākāravaṭṭaṃ dassitaṃ.
410-4. Idāni vivaṭṭaṃ dassetuṃ idha, bhikkhave, tathāgato loke
uppajjatītiādimāha. Tattha appamāṇacetasoti appamāṇaṃ lokuttaraṃ ceto assāti
appamāṇacetaso, maggacittasamaṅgīti attho. Imaṃ kho me tumhe, bhikkhave, saṃkhittena
taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ dhārethāti, bhikkhave, imaṃ saṃkhittena desitaṃ mayhaṃ,
taṇhāsaṅkhayavimuttidesanaṃ tumhe niccakālaṃ dhāreyyātha mā pamajjeyyātha.
Desanā hi ettha vimuttipaṭilābhahetuto vimuttīti vuttā. Mahātaṇhājālataṇhāsaṅghāṭapaṭimukkanti
taṇhāva saṃsibbitaṭṭhena mahātaṇhājālaṃ, saṅghaṭitaṭṭhena saṅghāṭanti vuccati;
iti imasmiṃ mahātaṇhājāle taṇhāsaṅghāṭe ca imaṃ sātiṃ bhikkhuṃ kevaṭṭaputtaṃ paṭimukkaṃ
dhāretha. Anupaviṭṭho antogadhoti naṃ dhārethāti attho. Sesaṃ sabbattha
uttānatthamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahātaṇhāsaṅkhayasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
No comments:
Post a Comment