Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
43. Ðại Kinh Phương Quảng
(Mahāvedalla Sutta)
Chữ Vedalla trong Phạn ngữ có nghĩa đen là cái gì thuộc kinh
điển, nghĩa bóng là cái gì được giảng rộng nhờ phân tích. Trong cổ văn chữ Hán
phương là vuông vức, quảng là rộng lớn cộng lại chỉ cho cái gì được giải thích
rộng rãi.
Trong kinh điển Pāli thì chữ phương quảng dùng cho một trong
9 loại kinh điển mang hình thức vấn đáp. Trong trường hợp nầy chỉ cho sự giảng
giải rộng nghĩa qua hình thức câu hỏi và câu trả lời.
(Trong lịch sử Phật giáo từ thế kỷ 1 Tây lịch chữ
Phương Quảng cũng được dùng để chỉ cho Phật giáo Đại Thừa)
Bài kinh nầy gọi là đại kinh vì tiếp theo có bài kinh khác
cùng tên nhưng ngắn hơn.
Tôn giả Mahā Koṭṭhita là một trong những đại đệ tử Phật được Đức Thế Tôn xác chứng
là đệ nhất về tuệ phân tích (patisambhidappattānaṃ). Ngài xuất thân từ một gia
đình bà la môn giàu có danh giá tại Sāvatthī. Trước khi xuất gia theo Phật ngài
được biết là người bác lãm kinh điển Veda.
Tôn giả Sāriputta là một trong hai vị thượng thủ thinh văn.
Là bậc đệ nhất về trí tuệ trong các thánh đệ tử Phật. Chi tiết về Ngài đã được
đề cập nhiều lần trong các bài kinh trước đây.
192. Khi bậc thượng trí đàm luận về cái biết của trí
Mở đầu pháp đàm Ngài Mahā Koṭṭhita nêu lên câu hỏi về tuệ tri (pajānāti) :
Đây là sự hiểu biết gồm đủ cả bốn khía cạnh: Vấn đề đích thực
(khổ đế), nguyên nhân của vấn đề (tập đế), giải pháp đích thực (diệt đế) và
phương thức đạt đến giải pháp (đạo đế)
Theo Sớ giải thì tuệ tri ở trình độ trọn vẹn nhất là tuệ
trong tâm đạo của của bốn đạo, bốn quả.
Như vầy tôi
nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana,
tịnh xá ông Anathapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahā Koṭṭhita (Ðại
Câu-hy-la), vào buổi chiều, khi thiền định xong, đứng dậy, đi đến chỗ
Tôn giả Sāriputta ở, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sāriputta những
lời chào đón, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi
xuống một bên, Tôn giả Mahā Koṭṭhita nói với Tôn giả Sāriputta:
(Tuệ giác)
-- Này Hiền giả, liệt tuệ, liệt tuệ (Duppanna)
được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là liệt
tuệ?
-- Này Hiền giả, vì không tuệ tri, không
tuệ tri (Nappajanati), này Hiền giả nên được gọi là liệt tuệ. Không
tuệ tri gì? Không tuệ tri: đây là Khổ, không tuệ tri: đây là Khổ
tập, không tuệ tri: đây là Khổ diệt, không tuệ tri: đây là con
đường đưa đến Khổ diệt. Vì không tuệ tri, không tuệ tri, này Hiền
giả, nên được gọi là liệt tuệ.
--Lành thay, Hiền giả!
Tôn giả Mahā Koṭṭhita hoan hỷ, tín thọ lời
Tôn giả Sāriputta nói, rồi hỏi Tôn giả Sariputta một câu hỏi nữa:
-- Này Hiền giả, trí tuệ, trí tuệ được
gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào là được gọi là trí
tuệ?
-- Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả,
nên được gọi là trí tuệ. Có tuệ tri gì? Có tuệ tri: đây là Khổ,
có tuệ tri: đây là Khổ tập, có tuệ tri: đây là Khổ diệt, có tuệ
tri: đây là Con đường đưa đến Khổ diệt. Vì có tuệ tri, có tuệ tri,
này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ.
193. Cái biết của thức tri (không phải
tri thức)
Toàn bộ sự phân tích về tâm và trí trong bài kinh nầy được vấn
đáp trong phạm vi tâm thái của một hành giả trên hành trình tu tập. Đối với một
vị có kiến thức về A tỳ đàm và pháp hành chỉ, quán thì những phân tích ở đây đặc
biệt lợi ích.
Cái biết của thức hay thức tri là nhận biết của cảnh khổ, cảnh
lạc, cảnh bất khổ bất lạc. Cái biết của thức (thức tri) có thể có thể đi chung
hoặc tách rời cái biết của trí (tuệ tri). Tôn giả Sàriputta đưa ra dẫn chứng một
điểm cụ thể: Tuệ tri có thể được huân tu nhưng thức tri thì chỉ có thể nhận hiểu:
(Thức)
-- Thức, thức, này Hiền giả, được gọi là
như vậy, Này Hiền giả, như thế nào được gọi là thức?
-- Này Hiền giả, vì thức tri, thức tri, này
Hiền giả nên được gọi là có thức. Thức tri gì? Thức tri lạc, thức
tri khổ, thức tri bất khổ bất lạc. Vì thức tri, thức tri, này Hiền
giả, nên được gọi là có thức.
-- Nầy Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như
vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có thể
chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích
chúng nhiều lần?
-- Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như
vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp. Không
có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích
chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì tuệ tri được là thức tri
được, điều gì thức tri được là tuệ tri được. Do vậy, những pháp
này được kết hợp, không phải không kết hợp, và không có thể nêu
lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều
lần.
-- Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như
vậy, thế nào là sự sai khác giữa những pháp được kết hợp, không
phải không kết hợp này?
-- Này Hiền giả, Trí tuệ như vậy, thức như
vậy, giữa những pháp được kết hợp, không phải không được kết hợp
này, trí tuệ cần phải được tu tập (Bhavetabba), còn thức cần phải
được liễu tri (Parinneyyam) như vậy là sự sai khác giữa những pháp
này.
194. Cái
biết của thọ và cái biết của tưởng
Cái biết của thọ là cái biết của cảm giác (vedeti). Có ba thứ
cảm thọ là khổ thọ, lạc thọ, bất lạc bất khổ thọ. Cảm thọ trong Phật Pháp đơn
thuần là cảm biến đối với cảnh chứ không phải là phản ứng thích, không thích
hay thản nhiên. Sớ giải đặc biệt nhấn mạnh chỉ có cảm thọ chứ không có người cảm
thọ:
(Thọ)
-- Cảm thọ, cảm thọ, này Hiền giả, được
gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là cảm thọ?
-- Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ (Vedeti),
nên được gọi là cảm thọ. Và cảm thọ gì? Cảm thọ lạc, cảm thọ
khổ, cảm thọ bất khổ bất lạc thọ. Này Hiền giả, cảm thọ, cảm
thọ, nên được gọi là cảm thọ.
(Tưởng)
-- Này Hiền giả, tưởng, tưởng (Sanna) được
gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là tưởng?
-- Tưởng tri, tưởng tri (Sanjanati), này Hiền
giả, nên được gọi là tưởng, Và tưởng tri gì? Tưởng tri màu xanh,
tưởng tri màu vàng, tưởng tri màu đỏ, tưởng tri màu trắng. Tưởng
tri, tưởng tri, này Hiền giả, nên được gọi là tưởng.
-- Này Hiền giả, thọ như vậy, tưởng như
vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có thể
chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích
chúng nhiều lần?
-- Này Hiền giả, cảm thọ như vậy, tưởng
như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được kết
hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi
phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì cảm thọ được là
tưởng tri được, điều gì tưởng tri được là cảm thọ được. Do vậy,
những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp, và
không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân
tích chúng nhiều lần.
Cũng như cái biết của trí và cái biết của thức, đoạn nầy so
sánh cái biết của thọ và cái biết của tưởng có thể đi chung và có thể tách rời.
Trong tâm thiền có cái biết của cảm biến đối với cảnh (thọ) mà cũng có cái biết
của ấn tượng sắc màu (tưởng tri).
Sự phân tích ở đây rất quan trọng để hiểu về sự chứng đạt
cao tột của tâm giải thoát và tuệ giải thoát được đề cập sau nầy về “diệt thọ
tưởng định”
195. Cảnh giới vượt ngoài với năm trần cảnh
Đó là trình độ vượt khỏi dục giới và sắc giới đưa đến chứng
ngộ thiền vô sắc:
(Thắng tri)
-- Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không
liên hệ đến năm căn có thể đưa đến gì?
-- Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không
liên hệ đến năm căn, có thể đưa đến Hư không vô biên xứ; hư
không là vô biên, có thể đưa đến Thức vô biên xứ; thức là vô
biên, có thể đưa đến Vô sở hữu xứ, không có sự vật gì.
-- Này Hiền giả, pháp gì đưa đến nhờ gì
có thể tuệ tri được?
-- Này Hiền giả, nhờ tuệ nhãn, pháp được
đưa đến có thể tuệ tri.
-- Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa gì?
-- Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa là
thắng tri (Abhinnattha), có nghĩa là liễu tri (Parinnattha), có nghĩa
là đoạn tận (Pahanattha).
196. Chánh tri kiến do
nghe diệu pháp và như lý tác ý
Ngài Sāriputta trả lời rằng có hai yếu tố tạo nên chánh tri
kiến:
a. Được khai thi do bởi Đức Phật hay các đệ
tử Phật (thinh văn).
b. Thành tựu nhờ như lý tác ý.
(Chánh kiến)
-- Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên khiến
chánh tri kiến sanh khởi?
-- Này Hiền giả, có hai duyên khiến chánh
tri kiến sanh khởi: Tiếng của người khác và như lý tác ý. Này
Hiền giả, do hai duyên này, chánh tri kiến sanh khởi.
-- Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được
hỗ trợ bởi bao nhiêu chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải
thoát quả công đức, và tuệ giải thoát quả, tuệ giải thoát quả
công đức?
-- Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được
hỗ trợ bởi năm chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát
quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức.
Ở đây, này Hiền giả, chánh tri kiến có giới hỗ trợ, có văn (Suta)
hỗ trợ, có thảo luận hỗ trợ, có chỉ (Samatha) hỗ trợ, có quán
(Vipassana) hỗ trợ. Này Hiền giả, chánh tri kiến được hỗ trợ bởi
năm chi phần này để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả
công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức.
197. Sự
hiện hữu của chúng sanh
Đó là sự là pha trộn của nghiệp hữu (tạo tác) và sanh hữu (sự
hiện hữu do nghiệp quá khứ) trong vòng sinh hoá:
(Hữu)
-- Này Hiền giả, có bao nhiêu hữu (Bhava)?
-- Này Hiền giả có ba hữu: dục hữu, sắc
hữu, vô sắc hữu.
-- Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh
trong tương lai được xảy ra?
-- Này Hiền giả, bị vô minh ngăn che, bị tham
ái trói buộc, các loài hữu tình thích thú chỗ này chỗ kia, như
vậy, sự tái sinh trong tương lai được xảy ra.
-- Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh
trong tương lai không xảy ra?
-- Này Hiền giả, vô minh được xả ly, minh
khởi, tham ái được đoạn diệt, như vậy sự tái sanh trong tương lai
không xảy ra.
198. Sự chuyển hoá sanh hữu
Tôn giả Mahā Koṭṭhita hỏi một câu mới nghe dường như lạc đề
nhưng kỳ thật đây là điểm cho thấy sanh hữu không phải không chuyển hoá được.
Câu hỏi sau lấy một điểm chúng sanh trong cõi dục giới đi vào cảnh giới của thiền
sắc giới như thế nào:
(Thiền-na thứ nhất)
-- Này Hiền giả, thế nào là Thiền thứ
nhất?
-- Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo ly dục,
ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi
là Thiền thứ nhất.
-- Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có bao
nhiêu chi phần?
-- Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi
phần. Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất, có
tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có
năm chi phần như vậy.
-- Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ bao
nhiêu chi phần và thành tựu bao nhiêu chi phần?
- Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ năm
chi phần và thành tựu năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, vị
Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất từ bỏ tham dục, từ bỏ sân, từ bỏ
hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu tầm,
tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, như vậy Thiền thứ nhất từ
bỏ năm chi phần, và thành tựu năm chi phần.
199. nhận
thức ngoại giới đối với thiền giả
Năm giác quan nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân biết năm cảnh thường
được phàm nhân xem là toàn bộ sự sống. Kỳ thật thì mỗi giác quan có vai trò biệt
lập và một khi tu tập hạn chế sự hoạt động của các giác quan không nên xem là sự
sống chấm dứt:
(Năm căn)
-- Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới
khác nhau, có hành giới khác nhau, không có lẫn lộn cảnh giới, hành
giới với nhau. Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả,
giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác,
không có thọ lãnh cảnh giới, hành giới lẫn nhau, cái gì làm sở y
cho chúng, cái gì lãnh thọ cảnh giới, hành giới của chúng?
-- Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới
sai khác, có hành giới sai khác, không có lãnh thọ cảnh giới, hành
giới lẫn nhau, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả,
giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác,
không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau, ý làm sở y cho
chúng, và ý lãnh thọ cảnh giới và hành giới của chúng.
-- Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên gì mà chúng
an trú?
-- Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên tuổi thọ
(Ayu) mà chúng an trú.
-- Này Hiền
giả, tuổi thọ do duyên gì mà an trú?
-- Tuổi thọ do
duyên hơi nóng mà
-- Này Hiền giả, hơi nóng do duyên gì mà an
trú?
-- Hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.
-- Này Hiền giả, nay chúng tôi được biết từ
lời nói của Tôn giả Sariputta là tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an
trú. Nay chúng tôi lại được biết từ lời nói của Tôn giả Sāriputta
là hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú. Này Hiền giả, như thế
nào, cần phải hiểu ý nghĩa lời nói này?
-- Này Hiền giả, tôi sẽ cho một ví dụ. Nhờ
ví dụ, ở đây, một số người có trí sẽ hiểu ý nghĩa lời nói. Này
Hiền giả, ví như khi một cây đèn dầu được thắp sáng, duyên tim
đèn, ánh sáng được hiện ra, do duyên ánh sáng, tim đèn được thấy.
Cũng vậy này Hiền giả, tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú, và
hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.
200. Khác biệt giữa diệt thọ tưởng định và sự chết
Sự sống thường được quan niệm là xác thân có tri giác. Thật
ra hai điều nầy khác nhau đơn cử thí dụ là một vị nhập diệt thọ tưởng định sự sống
vẫn còn. Sự hoạt động của sự sống, ở đây theo Phật học, gồm có thân hành (hơi
thở), khẩu hành (tầm, tứ), ý hành (thọ, tưởng) là những định nghĩa ở cấp độ
tinh xác nhất đối với hành giả tu tập tam muội định. Cho dù cả ba thân hành, khẩu
hành, ý hành không còn nữa (do năng lực thiền định) thì sự sống vẫn còn:
(Pháp thọ hành)
-- Này Hiền giả, những pháp thọ hành
(Ayusankhara) này là những pháp được cảm thọ (Vedaniya) này, hay
những pháp thọ hành này khác với những pháp được cảm thọ này?
-- Này Hiền giả, những pháp thọ hành này
không phải là những pháp được cảm thọ này. Này Hiền giả, nếu
những pháp thọ hành này là những pháp được cảm thọ này thì không
thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ
tưởng định. Này Hiền giả, vì rằng những pháp thọ hành khác, những
pháp được cảm thọ khác nên có thể nêu rõ sự xuất khởi của vị
Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ tưởng định.
-- Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào
có bao nhiêu pháp được từ bỏ, thì thân này được nằm xuống, quăng
đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri?
-- Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào
ba pháp được từ bỏ: Tuổi thọ, hơi nóng và thức, thì thân này nằm
xuống, được quăng đi, vất bỏ như một khúc gỗ vô tri.
-- Này Hiền giả, có sự sai khác gì giữa
vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng
định?
-- Này Hiền giả, vật chết, mạng chung này,
thân hành của nó chấm dứt, dừng lại, khẩu hành chấm dứt, dừng
lại, tâm hành chấm dứt, dừng lại, tuổi thọ diệt tận, hơi nóng
tiêu diệt, các căn bị bại hoại. Còn vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ
tưởng định, thì thân hành của vị này được chấm dứt, được dừng
lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại, tâm hành được chấm
dứt, được dừng lại, nhưng tuổi thọ không diệt tận, hơi nóng không
tiêu diệt, các căn được sáng suốt. Này Hiền giả, như vậy là sự
sai khác giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu
Diệt thọ tưởng định.
201. Những
cảnh giới giải thoát
Sự giải thoát có nghĩa là vượt khỏi những hạn cuộc. Bốn giải
thoát ở đây là những đề tài lớn cả hai phương diện pháp học và pháp
hành: vô lượng, không, vô tướng, vô sở hữu. Ngay cả đối với các trạng
thái tâm giải thoát đều có đặc tính “xuất nhập tự tại”:
(Tâm giải thoát)
-- Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để
chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc?
-- Này Hiền giả, có bốn duyên để chứng
nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-
kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú
Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Hiền
giả, do bốn duyên này mà chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất
lạc.
-- Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để
chứng nhập vô tướng tâm giải thoát?
-- Này Hiền giả, có hai duyên để chứng nhập
vô tướng tâm giải thoát: không có tác ý nhất thiết tướng và tác
ý vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà chứng nhập vô
tướng tâm giải thoát.
-- Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để an
trú vô tướng tâm giải thoát?
-- Này Hiền giả, có ba duyên để an trú vô
tướng tâm giải thoát: không tác ý nhất thiết tướng, tác ý vô
tướng giới, và một sự sửa soạn trước. Này Hiền giả, do ba duyên
này mà an trú vô tướng tâm giải thoát.
-- Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để xuất
khởi vô tướng tâm giải thoát?
-- Này Hiền giả, có hai duyên để xuất khởi
vô tướng tâm giải thoát: tác ý nhất thiết tướng và không tác ý
vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà xuất khởi vô
tướng tâm giải thoát.
-- Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát
này, vô sở hữu tâm giải thoát này, không tâm giải thoát này và
vô tướng tâm giải thoát này, những pháp này nghĩa sai biệt và danh
sai biệt, hay nghĩa đồng nhất và danh sai biệt.
-- Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát,
vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát và vô tướng tâm
giải thoát này, có một pháp môn, này Hiền giả, do pháp môn này,
các pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này Hiền giả, lại
có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy có nghĩa đồng nhất
và danh sai biệt. Này Hiền giả, thế nào là có pháp môn, do pháp
môn này các pháp ấy có nghĩa sai khác và có danh sai khác?
[vô lượng tâm giải thoát]
Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo an trú
biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ
hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy,
cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ,
cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu
với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu
với bi... với tâm câu hữu với hỷ... an trú biến mãn một phương với
tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ
ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên,
dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị
ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên,
không hận, không sân. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô lượng tâm
giải thoát.
[vô sở hữu tâm giải thoát]
Và này Hiền giả, thế nào là vô sở hữu
tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo vượt lên mọi
Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì" chứng và
trú Vô sở hữu xứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Vô sở hữu tâm
giải thoát.
[không tâm giải thoát]
Và này Hiền giả, thế nào là không tâm
giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi
đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống và suy nghĩ như sau: "Ðây
trống không, không có tự ngã hay không có ngã sở". Như vậy,
này Hiền giả, gọi là không tâm giải thoát.
[vô tướng tâm giải thoát]
Và này Hiền giả, thế nào là vô tướng tâm
giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất
thiết tướng, đạt và an trú vô tướng tâm định. Như vậy, này Hiền
giả, gọi là vô tướng tâm giải thoát. Như vậy là có pháp môn và
do pháp môn này những pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt.
202. Cái đối lập với tâm giải thoát
Phiền não hay tham, sân, si đích thực là những pháp khiến
tâm bị đóng khung, do vậy, không thể tự tại giải thoát:
Và này Hiền
giả, thế nào là có pháp môn và do pháp môn này các pháp ấy có
nghĩa đồng nhất nhưng danh sai biệt. Tham, này Hiền giả, là nguyên
nhân của hạn lượng; sân là nguyên nhân của hạn lượng; si là
nguyên nhân của hạn lượng. Ðối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các
lậu hoặc và tham, sân, si này đã được chặt tận gốc như thân cây
tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương
lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô lượng, thì
bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm
giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát không có tham, không có
sân, không có si.
Tham, này Hiền giả, là một vật gì (chướng
ngại), sân là một vật gì (chướng ngại), si là một vật gì (chướng
ngại). Ðối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân,
si này đã được chặt tận gốc, như thân cây tala được chặt tận gốc,
khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi
nào các tâm giải thoát là vô sở hữu, thì bất động tâm giải thoát
được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất
động tâm giải thoát ấy không có tham, không có sân, không có si.
Tham, này Hiền giả, là nhân tạo ra tướng,
sân là nhân tạo ra tướng, si là nhân tạo ra tướng. Ðối với vị
Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân, si này được chặt
tận gốc, như thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không
thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải
thoát là vô tướng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối
thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát
này không có tham, không có sân, không có si. Như vậy, này Hiền
giả, là pháp môn này, những pháp ấy là đồng nghĩa nhưng danh sai
biệt.
Tôn giả Sāriputta thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Mahā Koṭṭhita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sāriputta dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 43 [tóm tắt]
Đại Kinh Phương Quảng
(Mahāvedalla Sutta)
(M.i, 292)
Đây là một cuộc đàm luận
về Chánh pháp giữa Tôn giả Mahākoṭṭhita và Tôn giả Sāriputta.
Trong đó, Tôn giả Mahākoṭṭhita hỏi và Tôn giả Sāriputta trả lời.
Những câu hỏi như sau:
1/ Sao được gọi là liệt tuệ?
2/ Thế nào là thức, thức và
tuệ được kết hợp hay không được kết hợp? Có sai khác không?
3/ Thế nào được gọi là
cảm thọ? Thế nào được gọi là tưởng? Thọ và tưởng được kết hợp
hay không? Có sự sai khác gì giữa hai pháp này?
4/ Ý thức thanh tịnh không
liên hệ đến năm căn có thể biết được gì? Nhờ gì biết được pháp có
thể biết? Trí tuệ có nghĩa gì?
5/ Có bao nhiêu duyên khiến
chánh trí sanh khởi?
6/ Có bao nhiêu hữu?
7/ Thế nào là sơ thiền?
8/ Cái gì làm sở y cho năm
căn?
9/ Năm căn này do duyên gì
chúng an trú?
10/ Những pháp thọ hành là
những pháp được cảm thọ hay sai khác?
11/ Có bao nhiêu duyên để
chứng được tâm giải thoát bất khổ bất lạc; chứng được an trú và
xuất khởi vô tướng tâm giải thoát?
12/ Vô lượng tâm giải
thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát, vô tướng tâm giải
thoát, nghĩa danh có sai biệt không?
Tất cả mười hai câu hỏi
trên được Tôn giả Sāriputta giải thích rõ ràng và cặn kẽ.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 43 [dàn ý]
Đại Kinh Phương Quảng
(Mahāvedalla Sutta)
(M.i, 292)
A.
Duyên khởi:
Tôn giả Mahkoṭṭhita
đến thăm Tôn giả Sāriputta và hỏi một số vấn đề liên quan đến chánh pháp. Tôn
giả Sāriputta đã trả lời với bài kinh này.
B.
Chánh kinh:
Cuộc đàm luận giữa
hai Tôn giả về một số vấn đề.
I. Liệt tuệ
và trí tuệ.
II. Thức và
trí tuệ.
III. Cảm thọ,
tưởng và thức.
IV. Ý căn
thanh tịnh, không liên hệ đến 5 căn đưa đến thiền chứng gì? Vai trò của tuệ
nhãn và 3 ý nghĩa của trí tuệ.
V. Chánh tri
kiến do hai duyên sanh khởi và được hỗ trợ bởi 5 chi phần.
VI. Có bao
nhiêu hữu. Sanh khởi và đoạn diệt của hữu.
VII. Thế nào
là sơ thiền. Sơ thiền loại bỏ 5 pháp gì và thành tựu 5 pháp gì.
VIII. Cảnh giới
và hành giới của 5 căn.
IX. 5 căn, tuổi
thọ và sức nóng.
X. Thọ hành
và các pháp được cảm thọ. Sự sai khác giữa người đã chết và vị chứng diệt thọ
tưởng định.
XI. Do bao
nhiêu duyên, chứng được tâm giải thoát, bất khổ, bất lạc, vô tướng tâm giải
thoát. Do bao nhiêu duyên an trú và xuất khởi vô tướng tâm giải thoát.
C. Kết
luận:
Tôn giả Mahākoṭṭhita hoan hỷ tín thọ lời
Tôn giả Sāriputta thuyết giảng.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 43 [toát yếu]
Đại Kinh Phương Quảng
(Mahāvedalla Sutta)
(M.i, 292)
I. TOÁT YẾU
Mahāvedalla Sutta - The greater
series of questions and answers.
These two discourses take form of
discussions on various subtle points of Dhamma, the former between the
venerable Mahā Kotthila and the venerable Sāriputta, the latter between the
bhikkhunì Dhammadinnā and the lay follower Visàkha.
Tập hợp lớn các vấn đáp.
Hai kinh 43 và 44 mang hình
thức đàm luận những điểm tế nhị về Pháp. Kinh trước là giữa hai
tôn giả Câu-thi-la và Xá- lợi-phất, kinh sau giữa tỳ kheo ni
Dhammadinnā và cư sĩ Visākha.
II. TÓM TẮT
Tôn giả Xá-lợi-phất luận
đàm với Ma-ha Câu-thi-la về các điểm:
1. Liệt tuệ và trí tuệ: Liệt
tuệ là không tuệ tri bốn chân lý; trí tuệ là có tuệ tri
4 chân lý. Trí tuệ là thắng tri, liễu tri và đoạn tận.
2. Khác nhau giữa Tuệ tri
và Thức tri: Tuệ tri là do tu tập và từ bỏ. Thức tri là
biết các cảm thọ lạc, khổ và trung tính. Giữa tuệ và thức có
tương quan, nghĩa là cái gì thức biết thì tuệ cũng biết, nên rất
khó phân biệt.
3. Giữa Thức, tưởng, thọ có
tương quan, nên rất khó phân biệt; vì cái gì được cảm tho, cũng
được nhận thức, và cái gì được nhận thức thì cũng được liễu
biệt.
4. Ý thức biệt lập 5
giác quan thì thế nào: có thể đưa đến Không vô biên xứ, Thức vô
biên xứ, Vô sở hữu xứ.
5. Các điều kiện [duyên]
cho chính tri kiến: có hai, là tiếng người khác, và như
lý tác ý. Làm thế nào để chính tri kiến đưa đến hai quả giải
thoát - tâm và tuệ giải thoát - cùng công đức của hai giải thoát
ấy: cần 5 yếu tố là Giới, Văn,
Thảo luận, Chỉ và Quán.
6. Có bao nhiêu hữu:
có ba, là dục, sắc và vô sắc.
7. Tái sinh tương lai xảy
ra thế nào: do vô minh và tham ái, thích thú chỗ này chỗ kia. Nếu
xả ly vô minh và tham ái thì tái sinh không xảy ra.
8. Thiền thứ nhất từ bỏ
gì, thành tựu gì: Ly dục, ly bất thiện pháp, từ bỏ 5 triền cái:
tham, sân, hôn trầm, trạo hối, và nghi; thành tựu 5 thiền chi là
tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.
9. Năm căn: có đối
tượng sai khác, có ý làm chỗ nương, ý lãnh thọ các cảnh giới
của 5 căn, 5 căn lại do duyên tuổi thọ mà trú. Tuổi thọ lại
do duyên hơi ấm, và hơi ấm do duyên tuổi thọ, cũng như do
ánh sáng mà thấy tim đèn, do tim đèn mà ánh sáng hiện.
10. Thọ hành và cảm
thọ là một hay khác: khác, vì nếu là một thì một vị chứng Diệt
thọ tưởng định sẽ chết luôn, nhưng sự thực là vị ấy có thể xuất
định và có cảm giác trở lại.
11. Sự chết: Lúc nào
thì thân xác được xem là đã chết: lúc ba pháp được từ bỏ: tuổi thọ,
hơi ấm và thức. Khác nhau giữa thây chết và tỳ kheo
nhập Diệt thọ tưởng định: nơi tỳ kheo nhập Diệt thọ tưởng định,
tuổi thọ và thức vẫn còn an trú nên còn hơi ấm, nơi người chết,
hai thứ ấy đã chấm dứt.
12. Điều kiện để chứng nhập tâm Giải
thoát bất khổ bất lạc có 4: xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã
cảm thọ trước, chứng trú thiền thứ tư với xả niệm thanh tịnh.
13. Điều kiện để chứng nhập tâm Giải
thoát Vô tướng: có hai, là tác ý vô tướng giới và không tác
ý tất cả pháp.
14. Vô lượng tâm giải thoát, vô
sở hữu tâm giải thoát,khôngtâm giải thoát vàvô tướngtâm
giải thoát: những pháp này có khi khác nghĩa, có khi đồng nghĩa.
Khác nghĩa khi nói về nhân tu, như:
Vô lượng tâm giải thoát là do tu bốn phạm trú từ bi hỷ xả; Vô sở hữu là do
vượt trên Thức vô biên xứ, chứng trú Vô sở hữu xứ; Không tâm
giải thoát là thiền quán về sự trống rỗng, không có ngã hay
ngã sở; Vô tướng tâm giải thoát là do không tác ý tất cả
tướng, an trú định vô tướng.
Cả bốn tâm giải thoát đồng nghĩa, vì nó là
đặc tính của quả chứng, tức tâm giải thoát bất động, không
bị động vì tham sân si. Tham sân si là nguyên nhân của giới hạn,
nên không tham sân si là tâm giải thoát vô lượng; tham sân si
là chướng ngại, nên không tham sân si là Không tâm giải thoát và
vô sở hữu tâm giải thoát; tham sân si là cái tạo ra các
tướng, nên không tham sân si gọi là giải thoát vô tướng.
III. CHÚ GIẢI
Tôn giả Ma-ha Câu-thi-la được Phật tuyên bố
là đệ nhất về trí phân tích, tài biện thuyết.
Trong thiền định, thân hànhlà hơi thở
ra vào; khẩu hành là tầm tứ; ý hành là thọ, tưởng.
Luận nói, bình thường, các căn bị ô nhiễm vì đối tượng giác
quan, như một tấm gương đặt tại ngã tư đường cái; nhưng các căn
của một vị ở trong Diệt định thì trong sáng như một tấm gương đặt
trong hộp.
Thọ hành, āyusankhārā, theo
Luận, chỉ sinh khí, khác với cảm thọ, vì nó giữ cho thân xác một
vị đã chứng Diệt thọ tưởng vẫn sống. Thiền chứng này, trong đó
mọi tâm hành đều ngưng, chỉ được chứng đắc bởi một vị đã đắc
quả Bất hoàn hay A-la-hán mà đồng thời cũng đã làm chủ tám thiền
về tịnh chỉ.
Vô tướng tâm giải thoát là quả chứng. Tướng là
sắc, vv.; vô tướng giới là Niết-bàn, trong đó vắng bóng mọi tướng
hữu vi sinh diệt. Luận giải Không tâm giải thoát, sunnatà
cetovimutti, là tuệ chứng nhân và pháp đều vô ngã, không tự
tính. Trong bốn tâm giải thoát, chỉ có Vô tướng giải thoát
là thuộc siêu thế. Ba giải thoát trước đấy, vô lượng là
Bốn phạm trú, Vô sở hữu là định vô sắc thứ ba trong bốn vô
sắc, và Không giải thoát - tuệ thấy rõ các hành là không -
đều thuộc thế gian.
Tham, sân, si làm nên những hạn lượng, pamānakarana,
vì chúng áp đặt giới hạn trên phạm vi và chiều sâu của tâm thức.
Nhưng theo Luận giải, vì nó khiến người ta đo lường một người nào
là phàm phu, Dự lưu, Nhất lai hay Bất
hoàn.
Luận nói có 12 tâm giải
thoát là: 4 phạm trú, 4 đạo, 4 quả. Tâm giải thoát bất động là quả
A-la-hán. Nói tâm trống rỗng tham, sân, si, là tâm giải thoát siêu
thế nhờ không tướng vì tham sân si tạo ra các tướng.
Có chín tâm giải thoát nhờ
không tướng: vô sở hữu xứ và 4 đạo, 4 quả.
Theo Luận, những cái tạo nên
tướng, nimittakarana, là tham sân si vì chúng dán nhãn hiệu lên một
người là phàm hay thánh, là tham hay sân hay si. Nhưng cũng có thể
hiểu rằng ô nhiễm tham sân si này khiến tâm gán cho sự vật các đặc
tính sai lạc như trường tồn, khả ái, có tự ngã, đẹp đẽ.
Luận giải: có 13 vô tướng tâm giải thoát
là: tuệ, vì nó tẩy trừ các tướng thường, lạc, ngã; 4 định vô
sắc, vì chúng không có tướng vật chất; và 4 đạo 4 quả, vì chúng
không có ô nhiễm.
Cả 4 tâm giải thoát đều đồng nghĩa vì
chúng đều ám chỉ quả A-la-hán, và vì bốn tên vô lượng, không,
vô tướng, vô sở hữu đều là tên khác của Niết-bàn.
IV. PHÁP SỐ
Ba thọ, bốn chân lý, bốn phạm trú, bốn
không, bốn tâm giải thoát, năm pháp trợ duyên
cho chánh kiến đưa đến giải thoát: giới, văn, thảo luận, chỉ, quán.
V. KỆ TỤNG
Tôn giả Xá-lợi-phất
Định nghĩa và phân biệt
Chỗ tế nhị các pháp
Với Đại Câu-thi-la.
Không biết bốn chân lý
Thị gọi là Liệt tuệ
Trí tuệ là thắng tri,
Liễu tri và đoạn tận.
Tuệ tri do tu tập
Thức tri biêt cảm thọ
Lạc, khổ và trung tính.
Tuệ, thức có tương quan.
Ý thức biệt lập căn:
Chứng Không vô biên xứ
Từ đấy Thức vô biên
Và Vô sở hữu xứ.
Có hai điều kiện này
Đưa đến chính tri kiến:
Là tiếng của người khác,
và như lý tác ý.
Đạt Tâm, tuệ giải thoát
Nhờ chánh kiến kèm thêm:
Giới, Văn, và Thảo luận,
Tịnh chỉ và Tuệ quán.
Tái sinh trong
tương lai
Do vô minh, tham ái,
Thích thú các khoái lạc
Ở chỗ kia chỗ này.
Thiền thứ nhất
bỏ gì:
Ác dục, bất thiện pháp,
Cùng với 5 triền cái
Tham sân ngủ hối nghi
Thành tựu 5 thiền chi
Tầm, tứ, hỷ, lạc, định.
Năm căn đối tượng khác
Nhưng cùng nương vào
Ý Do tuổi thọ mà trú
Tuổi thọ do hơi ấm,
Hai thứ duyên lẫn nhau
Như đèn với bấc, dầu.
Thọ hành khác cảm thọ:
Thọ hành là sinh mạng
Chứng Diệt thọ tưởng
định
Dứt cảm thọ, còn mạng
Nên không phải chết luôn
Xuất định, lại cảm giác.
Thân chết khi từ bỏ
Thọ mạng, hơi
ấm thức.
Muốn đạt tâm giải thoát
Vượt ngoài khổ và lạc
Phải xả lạc, xả khổ,
diệt hỷ ưu đã thọ,
chứng trú thiền thứ tư
với xả niệm thanh tịnh.
Muốn giải thoát Vô
tướng
Cần có hai điều kiện:
Tác ý vô tướng giới
Và không tác ý gì.
Bốn tâm giải thoát này
Khác nghĩa do nhân tu
Đồng nghĩa do quả chứng:
Vô lượng do phạm trú
Quán từ bi hỷ xả;
Vô sở hữu giải
thoát
Do quán Thức là không.
Đạt Không tâm giải thoát
Do quán ngã ngã sở
Trống rỗng, không có gì.
Vô tướng tâm
giải thoát
Do đắc định vô tướng.
Bốn tâm ấy đồng nghĩa
Chỉ quả vị La-hán
Vì ám chỉ bất động,
Không động tham sân si
Vì chính tham sân si
Mới làm nên hạn lượng,
Mới làm nên chướng ngại
Và tạo ra các tướng.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
43.
Mahāvedallasuttaṃ [Mūla]
449. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho
āyasmā mahākoṭṭhiko sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā sāriputto
tenupasaṅkami upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ
kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā
mahākoṭṭhiko āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca
: '''duppañño duppaññoti, āvuso, vuccati. Kittāvatā nu kho, āvuso,
duppaññoti vuccatīti? '''nappajānāti nappajānātīti kho, āvuso, tasmā duppaññoti
vuccati. ''Kiñca nappajānāti? 'idaṃ dukkhanti nappajānāti, 'ayaṃ
dukkhasamudayoti nappajānāti, 'ayaṃ dukkhanirodhoti nappajānāti, 'ayaṃ
dukkhanirodhagāminī paṭipadāti nappajānāti. 'Nappajānāti nappajānātīti kho,
āvuso, tasmā duppaññoti vuccatīti. '''Sādhāvusoti kho āyasmā mahākoṭṭhiko
āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ
uttariṃ pañhaṃ apucchi : '''paññavā paññavāti, āvuso, vuccati. Kittāvatā nu
kho, āvuso, paññavāti vuccatīti? '''pajānāti pajānātīti kho, āvuso, tasmā
paññavāti vuccati. ''Kiñca pajānāti? 'idaṃ dukkhanti pajānāti, 'ayaṃ
dukkhasamudayoti pajānāti, 'ayaṃ dukkhanirodhoti pajānāti, 'ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti
pajānāti. 'Pajānāti pajānātīti kho, āvuso, tasmā paññavāti vuccatīti. '''Viññāṇaṃ
viññāṇanti, āvuso, vuccati. Kittāvatā nu kho, āvuso, viññāṇanti vuccatīti?
'''vijānāti vijānātīti kho, āvuso, tasmā viññāṇanti vuccati. ''Kiñca vijānāti?
sukhantipi vijānāti, dukkhantipi vijānāti, adukkhamasukhantipi vijānāti.
'Vijānāti vijānātīti kho, āvuso, tasmā viññāṇanti vuccatīti. ''Yā cāvuso, paññā
yañca viññāṇaṃ : ime dhammā saṃsaṭṭhā udāhu visaṃsaṭṭhā? labbhā ca panimesaṃ
dhammānaṃ vinibbhujitvā [vinibbhujjitvā vinibbhujjitvā (ka.)] vinibbhujitvā
nānākaraṇaṃ paññāpetunti? ''yā cāvuso, paññā yañca viññāṇaṃ : ime dhammā saṃsaṭṭhā,
no visaṃsaṭṭhā. Na ca labbhā imesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā
nānākaraṇaṃ paññāpetuṃ. Yaṃ hāvuso [yañcāvuso (syā. kaṃ. ka.)], pajānāti taṃ
vijānāti, yaṃ vijānāti taṃ pajānāti. Tasmā
ime dhammā saṃsaṭṭhā, no visaṃsaṭṭhā. Na ca labbhā imesaṃ dhammānaṃ
vinibbhujitvā vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ paññāpetunti. ''Yā cāvuso, paññā yañca
viññāṇaṃ : imesaṃ dhammānaṃ saṃsaṭṭhānaṃ no visaṃsaṭṭhānaṃ kiṃ nānākaraṇanti?
''yā cāvuso, paññā yañca viññāṇaṃ : imesaṃ
dhammānaṃ saṃsaṭṭhānaṃ no visaṃsaṭṭhānaṃ paññā bhāvetabbā, viññāṇaṃ
pariññeyyaṃ. Idaṃ nesaṃ nānākaraṇanti.
450. '''Vedanā vedanāti, āvuso, vuccati. Kittāvatā nu kho, āvuso ,
vedanāti vuccatīti? '''vedeti vedetīti kho, āvuso, tasmā vedanāti vuccati.
''Kiñca vedeti? sukhampi vedeti,
dukkhampi vedeti, adukkhamasukhampi vedeti. 'Vedeti vedetīti kho, āvuso, tasmā
vedanāti vuccatīti. '''Saññā saññāti, āvuso, vuccati. Kittāvatā nu kho, āvuso,
saññāti vuccatīti? '''sañjānāti sañjānātīti kho, āvuso, tasmā saññāti vuccati.
''Kiñca sañjānāti? nīlakampi sañjānāti, pītakampi sañjānāti, lohitakampi
sañjānāti, odātampi sañjānāti. 'Sañjānāti sañjānātīti kho, āvuso, tasmā saññāti
vuccatīti. ''Yā cāvuso, vedanā yā ca saññā yañca viññāṇaṃ : ime dhammā saṃsaṭṭhā
udāhu visaṃsaṭṭhā? labbhā ca panimesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā
nānākaraṇaṃ paññāpetunti? ''yā cāvuso, vedanā yā ca saññā yañca viññāṇaṃ : ime
dhammā saṃsaṭṭhā, no visaṃsaṭṭhā. Na ca labbhā imesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā
vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ paññāpetuṃ. Yaṃ hāvuso [yañcāvuso (syā. kaṃ. ka.)],
vedeti taṃ sañjānāti, yaṃ sañjānāti taṃ vijānāti. Tasmā ime dhammā saṃsaṭṭhā no
visaṃsaṭṭhā. Na ca labbhā imesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ
paññāpetunti.
451. ''Nissaṭṭhena hāvuso [nissaṭṭhena panāvuso (?)], pañcahi indriyehi
parisuddhena manoviññāṇena kiṃ neyyanti? ''nissaṭṭhena āvuso, pañcahi indriyehi
parisuddhena manoviññāṇena 'ananto ākāsoti ākāsānañcāyatanaṃ neyyaṃ, 'anantaṃ viññāṇanti viññāṇañcāyatanaṃ
neyyaṃ, 'natthi kiñcīti ākiñcaññāyatanaṃ neyyanti. ''Neyyaṃ panāvuso, dhammaṃ
kena pajānātīti? ''neyyaṃ kho, āvuso,
dhammaṃ paññācakkhunā pajānātīti. ''Paññā panāvuso, kimatthiyāti? ''paññā kho,
āvuso, abhiññatthā pariññatthā pahānatthāti.
452. ''Kati panāvuso, paccayā
sammādiṭṭhiyā uppādāyāti? ''dve kho, āvuso, paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya :
parato ca ghoso, yoniso ca manasikāro. Ime kho, āvuso, dve paccayā sammādiṭṭhiyā
uppādāyāti. ''Katihi panāvuso, aṅgehi anuggahitā sammādiṭṭhi cetovimuttiphalā
ca hoti cetovimuttiphalānisaṃsā ca, paññāvimuttiphalā ca hoti
paññāvimuttiphalānisaṃsā cāti? ''pañcahi kho, āvuso, aṅgehi anuggahitā sammādiṭṭhi
cetovimuttiphalā ca hoti cetovimuttiphalānisaṃsā ca, paññāvimuttiphalā ca hoti
paññāvimuttiphalānisaṃsā ca. Idhāvuso, sammādiṭṭhi sīlānuggahitā ca hoti,
sutānuggahitā ca hoti, sākacchānuggahitā ca hoti, samathānuggahitā ca hoti,
vipassanānuggahitā ca hoti. Imehi kho, āvuso, pañcahaṅgehi anuggahitā sammādiṭṭhi
cetovimuttiphalā ca hoti cetovimuttiphalānisaṃsā ca, paññāvimuttiphalā ca hoti
paññāvimuttiphalānisaṃsā cāti.
453. ''Kati panāvuso, bhavāti? ''tayome, āvuso, bhavā : kāmabhavo ,
rūpabhavo, arūpabhavoti. ''Kathaṃ panāvuso, āyatiṃ punabbhavābhinibbatti
hotīti? ''avijjānīvaraṇānaṃ kho, āvuso,
sattānaṃ taṇhāsaṃyojanānaṃ tatratatrābhinandanā : evaṃ āyatiṃ
punabbhavābhinibbatti hotīti. ''Kathaṃ panāvuso, āyatiṃ punabbhavābhinibbatti
na hotīti? ''avijjāvirāgā kho, āvuso, vijjuppādā taṇhānirodhā : evaṃ āyatiṃ
punabbhavābhinibbatti na hotīti.
454. ''Katamaṃ panāvuso, paṭhamaṃ jhānanti? ''idhāvuso, bhikkhu
vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ
pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati : idaṃ vuccati, āvuso, paṭhamaṃ
jhānanti. ''Paṭhamaṃ panāvuso, jhānaṃ katiaṅgikanti? ''paṭhamaṃ kho, āvuso,
jhānaṃ pañcaṅgikaṃ. Idhāvuso, paṭhamaṃ jhānaṃ samāpannassa bhikkhuno vitakko ca
vattati, vicāro ca pīti ca sukhañca cittekaggatā ca. Paṭhamaṃ kho, āvuso, jhānaṃ
evaṃ pañcaṅgikanti. ''Paṭhamaṃ panāvuso, jhānaṃ kataṅgavippahīnaṃ kataṅgasamannāgatanti?
''paṭhamaṃ kho, āvuso, jhānaṃ pañcaṅgavippahīnaṃ, pañcaṅgasamannāgataṃ.
Idhāvuso, paṭhamaṃ jhānaṃ samāpannassa bhikkhuno kāmacchando pahīno hoti, byāpādo pahīno hoti, thīnamiddhaṃ
pahīnaṃ hoti, uddhaccakukkuccaṃ pahīnaṃ
hoti, vicikicchā pahīnā hoti vitakko ca vattati, vicāro ca pīti ca
sukhañca cittekaggatā ca. Paṭhamaṃ kho, āvuso, jhānaṃ evaṃ pañcaṅgavippahīnaṃ
pañcaṅgasamannāgatanti.
455. ''Pañcimāni , āvuso, indriyāni nānāvisayāni nānāgocarāni, na
aññamaññassa gocaravisayaṃ
paccanubhonti, seyyathidaṃ : cakkhundriyaṃ, sotindriyaṃ, ghānindriyaṃ,
jivhindriyaṃ, kāyindriyaṃ. Imesaṃ kho, āvuso, pañcannaṃ indriyānaṃ nānāvisayānaṃ
nānāgocarānaṃ, na aññamaññassa gocaravisayaṃ paccanubhontānaṃ, kiṃ paṭisaraṇaṃ,
ko ca nesaṃ gocaravisayaṃ paccanubhotīti? ''pañcimāni, āvuso, indriyāni nānāvisayāni
nānāgocarāni, na aññamaññassa gocaravisayaṃ paccanubhonti, seyyathidaṃ :
cakkhundriyaṃ, sotindriyaṃ, ghānindriyaṃ, jivhindriyaṃ, kāyindriyaṃ. Imesaṃ
kho, āvuso, pañcannaṃ indriyānaṃ nānāvisayānaṃ nānāgocarānaṃ, na aññamaññassa
gocaravisayaṃ paccanubhontānaṃ, mano paṭisaraṇaṃ, mano ca nesaṃ gocaravisayaṃ
paccanubhotīti.
456. ''Pañcimāni, āvuso, indriyāni, seyyathidaṃ : cakkhundriyaṃ,
sotindriyaṃ, ghānindriyaṃ, jivhindriyaṃ, kāyindriyaṃ. Imāni kho, āvuso,
pañcindriyāni kiṃ paṭicca tiṭṭhantīti? ''pañcimāni, āvuso, indriyāni,
seyyathidaṃ : cakkhundriyaṃ, sotindriyaṃ, ghānindriyaṃ, jivhindriyaṃ,
kāyindriyaṃ. Imāni kho, āvuso, pañcindriyāni āyuṃ paṭicca tiṭṭhantīti. ''Āyu
panāvuso, kiṃ paṭicca tiṭṭhatīti? ''āyu usmaṃ paṭicca tiṭṭhatīti. ''Usmā panāvuso,
kiṃ paṭicca tiṭṭhatīti? ''usmā āyuṃ paṭicca tiṭṭhatīti. ''Idāneva kho mayaṃ,
āvuso, āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ evaṃ ājānāma : 'āyu usmaṃ paṭicca tiṭṭhatīti. Idāneva pana mayaṃ,
āvuso, āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ
evaṃ ājānāma : 'usmā āyuṃ paṭicca tiṭṭhatīti. ''Yathā kathaṃ panāvuso, imassa
bhāsitassa attho daṭṭhabboti? ''tena hāvuso, upamaṃ te karissāmi
upamāyapidhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti. Seyyathāpi, āvuso,
telappadīpassa jhāyato acciṃ paṭicca ābhā paññāyati, ābhaṃ paṭicca acci
paññāyati evameva kho, āvuso, āyu usmaṃ paṭicca tiṭṭhati, usmā āyuṃ paṭicca tiṭṭhatīti.
457. ''Teva nu kho, āvuso, āyusaṅkhārā,
te vedaniyā dhammā udāhu aññe āyusaṅkhārā aññe vedaniyā dhammāti? ''na kho ,
āvuso, teva āyusaṅkhārā te vedaniyā dhammā. Te ca hāvuso, āyusaṅkhārā abhaviṃsu
te vedaniyā dhammā, na yidaṃ saññāvedayitanirodhaṃ samāpannassa bhikkhuno vuṭṭhānaṃ
paññāyetha. Yasmā ca kho, āvuso, aññe āyusaṅkhārā aññe vedaniyā dhammā, tasmā
saññāvedayitanirodhaṃ samāpannassa bhikkhuno vuṭṭhānaṃ paññāyatīti. ''Yadā nu
kho, āvuso, imaṃ kāyaṃ kati dhammā jahanti athāyaṃ kāyo ujjhito avakkhitto
seti, yathā kaṭṭhaṃ acetananti? ''yadā kho, āvuso, imaṃ kāyaṃ tayo dhammā
jahanti : āyu usmā ca viññāṇaṃ athāyaṃ kāyo ujjhito avakkhitto seti, yathā kaṭṭhaṃ
acetananti. ''Yvāyaṃ, āvuso, mato kālaṅkato, yo cāyaṃ bhikkhu
saññāvedayitanirodhaṃ samāpanno : imesaṃ kiṃ nānākaraṇanti? ''yvāyaṃ, āvuso,
mato kālaṅkato tassa kāyasaṅkhārā niruddhā paṭippassaddhā , vacīsaṅkhārā
niruddhā paṭippassaddhā, cittasaṅkhārā niruddhā paṭippassaddhā, āyu parikkhīṇo,
usmā vūpasantā, indriyāni paribhinnāni. Yo cāyaṃ bhikkhu saññāvedayitanirodhaṃ
samāpanno tassapi kāyasaṅkhārā niruddhā paṭippassaddhā, vacīsaṅkhārā niruddhā
paṭippassaddhā, cittasaṅkhārā niruddhā paṭippassaddhā, āyu na parikkhīṇo, usmā
avūpasantā, indriyāni vippasannāni. Yvāyaṃ, āvuso, mato kālaṅkato, yo cāyaṃ
bhikkhu saññāvedayitanirodhaṃ samāpanno : idaṃ nesaṃ nānākaraṇanti.
458. ''Kati panāvuso, paccayā
adukkhamasukhāya cetovimuttiyā samāpattiyāti? ''cattāro kho, āvuso, paccayā
adukkhamasukhāya cetovimuttiyā samāpattiyā. Idhāvuso, bhikkhu sukhassa ca
pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā
adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Ime kho, āvuso, cattāro paccayā adukkhamasukhāya cetovimuttiyā samāpattiyāti.
''Kati panāvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā samāpattiyāti? ''dve kho,
āvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā samāpattiyā : sabbanimittānañca amanasikāro, animittāya
ca dhātuyā manasikāro. Ime kho, āvuso, dve paccayā animittāya cetovimuttiyā
samāpattiyāti. ''Kati panāvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā ṭhitiyāti?
''tayo kho, āvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā ṭhitiyā
: sabbanimittānañca amanasikāro, animittāya ca dhātuyā manasikāro, pubbe
ca abhisaṅkhāro. Ime kho, āvuso, tayo paccayā animittāya cetovimuttiyā ṭhitiyāti.
''Kati panāvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā vuṭṭhānāyāti? ''dve kho,
āvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā vuṭṭhānāya : sabbanimittānañca
manasikāro, animittāya ca dhātuyā amanasikāro. Ime kho, āvuso, dve paccayā
animittāya cetovimuttiyā vuṭṭhānāyāti.
459. ''Yā cāyaṃ, āvuso, appamāṇā cetovimutti, yā ca ākiñcaññā
cetovimutti, yā ca suññatā cetovimutti, yā ca animittā cetovimutti : ime dhammā
nānātthā ceva nānābyañjanā ca udāhu ekatthā byañjanameva nānanti? ''yā cāyaṃ,
āvuso, appamāṇā cetovimutti, yā ca ākiñcaññā cetovimutti, yā ca suññatā
cetovimutti, yā ca animittā cetovimutti : atthi kho, āvuso, pariyāyo yaṃ
pariyāyaṃ āgamma ime dhammā nānātthā ceva nānābyañjanā ca atthi ca kho, āvuso,
pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā ekatthā, byañjanameva nānaṃ.
''Katamo cāvuso, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ
āgamma ime dhammā nānātthā ceva nānābyañjanā ca? ''idhāvuso, bhikkhu
mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ, tathā
tatiyaṃ, tathā catutthaṃ. Iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya
sabbāvantaṃ lokaṃ mettāsahagatena cetasā
vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharati. Karuṇāsahagatena
cetasā - pe - muditāsahagatena cetasā... upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ
pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ. Iti
uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya
sabbāvantaṃ lokaṃ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena
averena abyābajjhena pharitvā viharati. Ayaṃ vuccatāvuso, appamāṇā cetovimutti.
''Katamā cāvuso, ākiñcaññā cetovimutti? ''idhāvuso, bhikkhu sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ
samatikkamma natthi kiñcīti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ
vuccatāvuso, ākiñcaññā cetovimutti. ''Katamā cāvuso, suññatā cetovimutti?
''idhāvuso, bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati
: 'suññamidaṃ attena vā attaniyena vāti. Ayaṃ
vuccatāvuso, suññatā cetovimutti. ''Katamā cāvuso, animittā cetovimutti?
''idhāvuso, bhikkhu sabbanimittānaṃ amanasikārā animittaṃ cetosamādhiṃ
upasampajja viharati. Ayaṃ vuccatāvuso, animittā cetovimutti. Ayaṃ kho, āvuso,
pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā nānātthā ceva nānābyañjanā ca.
''Katamo cāvuso, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā ekatthā byañjanameva
nānaṃ? ''rāgo kho, āvuso, pamāṇakaraṇo, doso pamāṇakaraṇo, moho pamāṇakaraṇo.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā
ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā. Yāvatā
kho, āvuso, appamāṇā cetovimuttiyo, akuppā tāsaṃ cetovimutti aggamakkhāyati. Sā
kho panākuppā cetovimutti suññā rāgena, suññā dosena, suññā mohena. Rāgo kho,
āvuso, kiñcano, doso kiñcano, moho kiñcano. Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā
ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā. Yāvatā kho,
āvuso, ākiñcaññā cetovimuttiyo, akuppā tāsaṃ cetovimutti aggamakkhāyati. Sā kho
panākuppā cetovimutti suññā rāgena, suññā dosena , suññā mohena. Rāgo kho,
āvuso, nimittakaraṇo, doso nimittakaraṇo, moho nimittakaraṇo. Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā
tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā. Yāvatā kho, āvuso, animittā
cetovimuttiyo, akuppā tāsaṃ cetovimutti aggamakkhāyati. Sā kho panākuppā
cetovimutti suññā rāgena, suññā dosena, suññā mohena. Ayaṃ kho, āvuso, pariyāyo
yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā ekatthā byañjanameva nānanti. Idamavocāyasmā
sāriputto. Attamano āyasmā mahākoṭṭhiko āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ
abhinandīti.
Mahāvedallasuttaṃ niṭṭhitaṃ tatiyaṃ.
43.
Mahāvedallasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
449. Evaṃ me sutanti mahāvedallasuttaṃ. Tattha
āyasmāti sagāravasappatissavacanametaṃ. Mahākoṭṭhikoti tassa therassa nāmaṃ. Paṭisallānā
vuṭṭhitoti phalasamāpattito vuṭṭhito. Duppañño duppaññoti ettha paññāya duṭṭhaṃ
nāma natthi, appañño nippaññoti attho. Kittāvatā nu khoti kāraṇaparicchedapucchā,
kittakena nu kho evaṃ vuccatīti attho. Pucchā ca nāmesā adiṭṭhajotanāpucchā, diṭṭhasaṃsandanāpucchā,
vimaticchedanāpucchā, anumatipucchā, kathetukamyatāpucchāti pañcavidhā hoti.
Tāsamidaṃ nānākaraṇaṃ –
Katamā adiṭṭhajotanāpucchā? Pakatiyā lakkhaṇaṃ aññātaṃ hoti adiṭṭhaṃ
atulitaṃ atīritaṃ avibhūtaṃ avibhāvitaṃ, tassa ñāṇāya dassanāya tulanāya tīraṇāya
vibhūtāya vibhāvanatthāya pañhaṃ pucchati. Ayaṃ adiṭṭhajotanāpucchā.
Katamā diṭṭhasaṃsandanāpucchā? Pakatiyā lakkhaṇaṃ ñātaṃ hoti diṭṭhaṃ
tulitaṃ tīritaṃ vibhūtaṃ vibhāvitaṃ, aññehi paṇḍitehi saddhiṃ saṃsandanatthāya
pañhaṃ pucchati. Ayaṃ diṭṭhasaṃsandanāpucchā.
Katamā vimaticchedanāpucchā? Pakatiyā saṃsayapakkhando hoti
vimatipakkhando, dveḷhakajāto, ‘‘evaṃ nu kho, na nu kho, kiṃ nu kho, kathaṃ nu
kho’’ti, so vimaticchedanatthāya pañhaṃ pucchati. Ayaṃ vimaticchedanāpucchā
(mahāni. 150; cūḷani. puṇṇakamāṇavapucchāniddesa 12).
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vāti? Aniccaṃ,
bhante’’ti (mahāva. 21) evarūpā anumatiṃ gahetvā dhammadesanākāle pucchā
anumatipucchā nāma.
‘‘Cattārome, bhikkhave, satipaṭṭhānā, katame cattāro’’ti (saṃ. ni.
5.390) evarūpā bhikkhusaṅghaṃ sayameva pucchitvā sayameva vissajjetukāmassa
pucchā kathetukamyatāpucchā nāma. Tāsu idha diṭṭhasaṃsandanāpucchā adhippetā.
Thero hi attano divāṭṭhāne nisīditvā sayameva pañhaṃ samuṭṭhapetvā sayaṃ
vinicchinanto idaṃ suttaṃ ādito paṭṭhāya matthakaṃ pāpesi. Ekacco hi pañhaṃ
samuṭṭhāpetuṃyeva sakkoti na nicchetuṃ; ekacco nicchetuṃ sakkoti na samuṭṭhāpetuṃ;
ekacco ubhayampi na sakkoti; ekacco ubhayampi sakkoti. Tesu thero ubhayampi
sakkotiyeva. Kasmā? Mahāpaññatāya. Mahāpaññaṃ nissāya hi imasmiṃ sāsane
sāriputtatthero, mahākaccānatthero, puṇṇatthero, kumārakassapatthero,
ānandatthero, ayameva āyasmāti sambahulā therā visesaṭṭhānaṃ adhigatā. Na hi
sakkā yāya vā tāya vā appamattikāya paññāya samannāgatena bhikkhunā
sāvakapāramīñāṇassa matthakaṃ pāpuṇituṃ, mahāpaññena pana sakkāti mahāpaññatāya
sāriputtatthero taṃ ṭhānaṃ adhigato. Paññāya hi therena sadiso natthi. Teneva
naṃ bhagavā etadagge ṭhapesi – ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ
mahāpaññānaṃ yadidaṃ sāriputto’’ti (a. ni. 1.189).
Tathā na sakkā yāya vā tāya vā appamattikāya paññāya samannāgatena
bhikkhunā bhagavatā saṃkhittena bhāsitassa sabbaññutaññāṇena saddhiṃ saṃsanditvā
samānetvā vitthārena atthaṃ vibhajetuṃ, mahāpaññena pana sakkāti mahāpaññatāya
mahākaccānatthero tattha paṭibalo jāto, teneva naṃ bhagavā etadagge ṭhapesi –
‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ saṃkhittena bhāsitassa
vitthārena atthaṃ vibhajantānaṃ yadidaṃ mahākaccāno’’ti (a. ni. 1.197).
Tathā na sakkā yāya vā tāya vā appamattikāya paññāya samannāgatena
bhikkhunā dhammakathaṃ kathentena dasa kathāvatthūni āharitvā satta visuddhiyo
vibhajantena dhammakathaṃ kathetuṃ, mahāpaññena pana sakkāti mahāpaññatāya puṇṇatthero
catuparisamajjhe alaṅkatadhammāsane cittabījaniṃ gahetvā nisinno līḷāyanto puṇṇacando
viya dhammaṃ kathesi. Teneva naṃ bhagavā etadagge ṭhapesi – ‘‘etadaggaṃ,
bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ dhammakathikānaṃ yadidaṃ puṇṇo mantāṇiputto’’ti
(a. ni. 1.196).
Tathā yāya vā tāya vā appamattikāya paññāya samannāgato bhikkhu dhammaṃ
kathento ito vā etto vā anukkamitvā yaṭṭhikoṭiṃ gahetvā andho viya, ekapadikaṃ
daṇḍakasetuṃ āruḷho viya ca gacchati. Mahāpañño pana catuppadikaṃ gāthaṃ
nikkhipitvā upamā ca kāraṇāni ca āharitvā tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ gahetvā heṭṭhupariyaṃ
karonto kathesi. Mahāpaññatāya pana kumārakassapatthero catuppadikaṃ gāthaṃ
nikkhipitvā upamā ca kāraṇāni ca āharitvā tehi saddhiṃ yojento jātassare
pañcavaṇṇāni kusumāni phullāpento viya sinerumatthake vaṭṭisahassaṃ telapadīpaṃ
jālento viya tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ heṭṭhupariyaṃ karonto kathesi. Teneva naṃ
bhagavā etadagge ṭhapesi – ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ
cittakathikānaṃ yadidaṃ kumārakassapo’’ti (a. ni. 1.217).
Tathā yāya vā tāya vā appamattikāya paññāya samannāgato bhikkhu catūhi
māsehi catuppadikampi gāthaṃ gahetuṃ na sakkoti. Mahāpañño pana ekapade ṭhatvā
padasatampi padasahassampi gaṇhāti. Ānandatthero pana mahāpaññatāya
ekapaduddhāre ṭhatvā sakiṃyeva sutvā puna apucchanto saṭṭhi padasahassāni
pannarasa gāthāsahassāni valliyā pupphāni ākaḍḍhitvā gaṇhanto viya
ekappahāreneva gaṇhāti. Gahitagahitaṃ pāsāṇe khatalekhā viya, suvaṇṇaghaṭe
pakkhittasīhavasā viya ca gahitākāreneva tiṭṭhati. Teneva naṃ bhagavā etadagge ṭhapesi
– ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ gatimantānaṃ yadidaṃ
ānando, satimantānaṃ, dhitimantānaṃ, bahussutānaṃ, upaṭṭhākānaṃ yadidaṃ
ānando’’ti (a. ni. 1.219-223).
Na hi sakkā yāya vā tāya vā appamattikāya paññāya samannāgatena
bhikkhunā catupaṭisambhidāpabhedassa matthakaṃ pāpuṇituṃ. Mahāpaññena pana
sakkāti mahāpaññatāya mahākoṭṭhitatthero adhigamaparipucchāsavanapubbayogānaṃ
vasena anantanayussadaṃ paṭisambhidāpabhedaṃ patto. Teneva naṃ bhagavā etadagge
ṭhapesi – ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ paṭisambhidāpattānaṃ
yadidaṃ mahākoṭṭhito’’ti (a. ni. 1.218).
Iti thero mahāpaññatāya pañhaṃ samuṭṭhāpetumpi nicchetumpīti ubhayampi
sakkoti. So divāṭṭhāne nisīditvā sayameva sabbapañhe samuṭṭhapetvā sayaṃ
vinicchinanto idaṃ suttaṃ ādito paṭṭhāya matthakaṃ pāpetvā, ‘‘sobhanā vata ayaṃ
dhammadesanā, jeṭṭhabhātikena naṃ dhammasenāpatinā saddhiṃ saṃsandissāmi, tato
ayaṃ dvinnampi amhākaṃ ekamatiyā ekajjhāsayena ca ṭhapitā atigarukā bhavissati
pāsāṇacchattasadisā, caturoghanittharaṇatthikānaṃ titthe ṭhapitanāvā viya,
maggagamanatthikānaṃ sahassayuttaājaññaratho viya bahupakārā bhavissatī’’ti diṭṭhasaṃsandanatthaṃ
pañhaṃ pucchi. Tena vuttaṃ – ‘‘tāsu idha diṭṭhasaṃsandanāpucchā adhippetā’’ti.
Nappajānātīti ettha yasmā nappajānāti, tasmā duppaññoti vuccatīti
ayamattho. Esa nayo sabbattha. Idaṃ dukkhanti nappajānātīti idaṃ dukkhaṃ,
ettakaṃ dukkhaṃ, ito uddhaṃ natthīti dukkhasaccaṃ yāthāvasarasalakkhaṇato na
pajānāti. Ayaṃ dukkhasamudayoti ito dukkhaṃ samudetīti pavattidukkhapabhāvikā
taṇhā samudayasaccanti yāthāvasarasalakkhaṇato na pajānāti. Ayaṃ
dukkhanirodhoti idaṃ dukkhaṃ ayaṃ dukkhasamudayo ca idaṃ nāma ṭhānaṃ patvā
nirujjhatīti ubhinnaṃ appavatti nibbānaṃ nirodhasaccanti yāthāvasarasalakkhaṇato
na pajānāti. Ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti ayaṃ paṭipadā dukkhanirodhaṃ
gacchatīti maggasaccaṃ yāthāvasarasalakkhaṇato na pajānātīti. Anantaravārepi
imināva nayena attho veditabbo. Saṅkhepato panettha catusaccakammaṭṭhāniko
puggalo kathitoti veditabbo.
Ayañhi ācariyasantike cattāri saccāni savanato uggaṇhāti. Ṭhapetvā taṇhaṃ
tebhūmakā dhammā dukkhasaccaṃ, taṇhā samudayasaccaṃ, ubhinnaṃ appavatti nibbānaṃ
nirodhasaccaṃ, dukkhasaccaṃ parijānanto samudayasaccaṃ pajahanto nirodhapāpano
maggo maggasaccanti evaṃ uggahetvā abhinivisati. Tattha purimāni dve saccāni vaṭṭaṃ,
pacchimāni vivaṭṭaṃ, vaṭṭe abhiniveso hoti, no vivaṭṭe, tasmā ayaṃ
abhinivisamāno dukkhasacce abhinivisati.
Dukkhasaccaṃ nāma rūpādayo pañcakkhandhāti vavatthapetvā dhātukammaṭṭhānavasena
otaritvā, ‘‘cattāri mahābhūtāni catunnañca mahābhūtānaṃ upādāya rūpaṃ rūpa’’nti
vavatthapeti. Tadārammaṇā vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ nāmanti evaṃ
yamakatālakkhandhaṃ bhindanto viya ‘‘dveva ime dhammā nāmarūpa’’nti
vavatthapeti. Taṃ panetaṃ na ahetukaṃ sahetukaṃ sappaccayaṃ, ko cassa paccayo
avijjādayo dhammāti evaṃ paccaye ceva paccayuppannadhamme ca vavatthapetvā
‘‘sabbepi dhammā hutvā abhāvaṭṭhena aniccā’’ti aniccalakkhaṇaṃ āropeti, tato
udayavayappaṭipīḷanākārena dukkhā, avasavattanākārena anattāti tilakkhaṇaṃ
āropetvā vipassanāpaṭipāṭiyā sammasanto lokuttaramaggaṃ pāpuṇāti.
Maggakkhaṇe cattāri saccāni ekapaṭivedhena paṭivijjhati, ekābhisamayena
abhisameti. Dukkhaṃ pariññāpaṭivedhena paṭivijjhati. Samudayaṃ pahānapaṭivedhena,
nirodhaṃ sacchikiriyāpaṭivedhena, maggaṃ bhāvanāpaṭivedhena paṭivijjhati.
Dukkhaṃ pariññābhisamayena abhisameti, samudayaṃ pahānābhisamayena, nirodhaṃ
sacchikiriyābhisamayena, maggaṃ bhāvanābhisamayena abhisameti. So tīṇi saccāni
kiccato paṭivijjhati, nirodhaṃ ārammaṇato. Tasmiñcassa khaṇe ahaṃ dukkhaṃ
parijānāmi, samudayaṃ pajahāmi, nirodhaṃ sacchikaromi, maggaṃ bhāvemīti
ābhogasamannāhāramanasikārapaccavekkhaṇā natthi. Etassa pana pariggaṇhantasseva
maggo tīsu saccesu pariññādikiccaṃ sādhentova nirodhaṃ ārammaṇato paṭivijjhatīti.
Tasmā paññavāti vuccatīti ettha heṭṭhimakoṭiyā sotāpanno, uparimakoṭiyā
khīṇāsavo paññavāti niddiṭṭho. Yo pana tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ pāḷito ca
atthato ca anusandhito ca pubbāparato ca uggahetvā heṭṭhupariyaṃ karonto
vicarati, aniccadukkhānattavasena pariggahamattampi natthi, ayaṃ paññavā nāma,
duppañño nāmāti? Viññāṇacarito nāmesa, paññavāti na vattabbo. Atha yo tilakkhaṇaṃ
āropetvā vipassanāpaṭipāṭiyā sammasanto ajja ajjeva arahattanti carati, ayaṃ
paññavā nāma, duppañño nāmāti? Bhajāpiyamāno paññavāpakkhaṃ bhajati. Sutte pana
paṭivedhova kathito.
Viññāṇaṃ viññāṇanti idha kiṃ pucchati? Yena viññāṇena saṅkhāre
sammasitvā esa paññavā nāma jāto, tassa āgamanavipassanā viññāṇaṃ
kammakārakacittaṃ pucchāmīti pucchati. Sukhantipi vijānātīti sukhavedanampi
vijānāti. Uparipadadvayepi eseva nayo. Iminā thero ‘‘sukhaṃ vedanaṃ vedayamāno
sukhaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānātī’’tiādinā (ma. ni. 1.113; dī. ni. 2.380)
nayena āgatavedanāvasena arūpakammaṭṭhānaṃ kathesi. Tassattho satipaṭṭhāne
vuttanayeneva veditabbo.
Saṃsaṭṭhāti ekuppādādilakkhaṇena saṃyogaṭṭhena saṃsaṭṭhā, udāhu visaṃsaṭṭhāti
pucchati. Ettha ca thero maggapaññañca vipassanāviññāṇañcāti ime dve
lokiyalokuttaradhamme missetvā bhūmantaraṃ bhinditvā samayaṃ ajānanto viya
pucchatīti na veditabbo. Maggapaññāya pana maggaviññāṇena, vipassanāpaññāya ca
vipassanāviññāṇeneva saddhiṃ saṃsaṭṭhabhāvaṃ pucchatīti veditabbo. Theropissa
tamevatthaṃ vissajjento ime dhammā saṃsaṭṭhātiādimāha. Tattha na ca labbhā
imesaṃ dhammānanti imesaṃ lokiyamaggakkhaṇepi lokuttaramaggakkhaṇepi ekato
uppannānaṃ dvinnaṃ dhammānaṃ. Vinibbhujitvā vinibbhujitvāti visuṃ visuṃ katvā
vinivaṭṭetvā, ārammaṇato vā vatthuto vā uppādato vā nirodhato vā nānākaraṇaṃ
dassetuṃ na sakkāti attho. Tesaṃ tesaṃ pana dhammānaṃ visayo nāma atthi.
Lokiyadhammaṃ patvā hi cittaṃ jeṭṭhakaṃ hoti pubbaṅgamaṃ, lokuttaraṃ patvā
paññā.
Sammāsambuddhopi hi lokiyadhammaṃ pucchanto, ‘‘bhikkhu, tvaṃ katamaṃ
paññaṃ adhigato, kiṃ paṭhamamaggapaññaṃ, udāhu dutiya tatiya catuttha
maggapañña’’nti na evaṃ pucchati. Kiṃ phasso tvaṃ, bhikkhu, kiṃ vedano, kiṃ
sañño, kiṃ cetanoti na ca pucchati, cittavasena pana, ‘‘kiñcitto tvaṃ, bhikkhū’’ti
(pārā. 135) pucchati. Kusalākusalaṃ paññapentopi ‘‘manopubbaṅgamā dhammā,
manoseṭṭhā manomayā’’ti (dha. pa. 1, 2) ca, ‘‘katame dhammā kusalā? Yasmiṃ
samaye kāmāvacaraṃ kusalaṃ cittaṃ uppannaṃ hotī’’ti (dha. sa. 1) ca evaṃ
cittavaseneva paññāpeti. Lokuttaraṃ pucchanto pana kiṃ phasso tvaṃ bhikkhu, kiṃ
vedano, kiṃ sañño, kiṃ cetanoti na pucchati. Katamā te, bhikkhu, paññā
adhigatā, kiṃ paṭhamamaggapaññā, udāhu dutiyatatiyacatutthamaggapaññāti evaṃ
paññāvaseneva pucchati.
Indriyasaṃyuttepi ‘‘pañcimāni, bhikkhave, indriyāni. Katamāni pañca?
Saddhindriyaṃ vīriyindriyaṃ satindriyaṃ samādhindriyaṃ paññindriyaṃ. Kattha ca,
bhikkhave, saddhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ? Catūsu sotāpattiyaṅgesu ettha saddhindriyaṃ
daṭṭhabbaṃ. Kattha ca, bhikkhave, vīriyindriyaṃ daṭṭhabbaṃ? Catūsu
sammappadhānesu ettha vīriyindriyaṃ daṭṭhabbaṃ. Kattha ca, bhikkhave,
satindriyaṃ daṭṭhabbaṃ? Catūsu satipaṭṭhānesu ettha satindriyaṃ daṭṭhabbaṃ.
Kattha ca, bhikkhave, samādhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ? Catūsu jhānesu ettha
samādhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ. Kattha ca, bhikkhave, paññindriyaṃ daṭṭhabbaṃ?
Catūsu ariyasaccesu ettha paññindriyaṃ daṭṭhabba’’nti (saṃ. ni. 5.478). Evaṃ
savisayasmiṃyeva lokiyalokuttarā dhammā kathitā.
Yathā hi cattāro seṭṭhiputtā rājāti rājapañcamesu sahāyesu nakkhattaṃ kīḷissāmāti
vīthiṃ otiṇṇesu ekassa seṭṭhiputtassa gehaṃ gatakāle itare cattāro tuṇhī
nisīdanti, gehasāmikova, ‘‘imesaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ detha, gandhamālālaṅkārādīni
dethā’’ti gehe vicāreti. Dutiyassa tatiyassa catutthassa gehaṃ gatakāle itare
cattāro tuṇhī nisīdanti, gehasāmikova, ‘‘imesaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ detha,
gandhamālālaṅkārādīni dethā’’ti gehe vicāreti. Atha sabbapacchā rañño gehaṃ
gatakāle kiñcāpi rājā sabbattha issarova, imasmiṃ pana kāle attano geheyeva,
‘‘imesaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ detha, gandhamālālaṅkārādīni dethā’’ti vicāreti.
Evamevaṃ kho saddhāpañcamakesu indriyesu tesu sahāyesu ekato vīthiṃ otarantesu
viya ekārammaṇe uppajjamānesupi yathā paṭhamassa gehe itare cattāro tuṇhī
nisīdanti, gehasāmikova vicāreti, evaṃ sotāpattiyaṅgāni patvā adhimokkhalakkhaṇaṃ
saddhindriyameva jeṭṭhakaṃ hoti pubbaṅgamaṃ, sesāni tadanvayāni honti. Yathā
dutiyassa gehe itare cattāro tuṇhī nisīdanti, gehasāmikova vicāreti, evaṃ
sammappadhānāni patvā paggahaṇalakkhaṇaṃ vīriyindriyameva jeṭṭhakaṃ hoti pubbaṅgamaṃ,
sesāni tadanvayāni honti. Yathā tatiyassa gehe itare cattāro tuṇhī nisīdanti,
gehasāmikova vicāreti, evaṃ satipaṭṭhānāni patvā upaṭṭhānalakkhaṇaṃ
satindriyameva jeṭṭhakaṃ hoti pubbaṅgamaṃ, sesāni tadanvayāni honti. Yathā
catutthassa gehe itare cattāro tuṇhī nisīdanti, gehasāmikova vicāreti, evaṃ
jhānavimokkhe patvā avikkhepalakkhaṇaṃ samādhindriyameva jeṭṭhakaṃ hoti pubbaṅgamaṃ,
sesāni tadanvayāni honti. Sabbapacchā rañño gehaṃ gatakāle pana yathā itare
cattāro tuṇhī nisīdanti, rājāva gehe vicāreti, evameva ariyasaccāni patvā
pajānanalakkhaṇaṃ paññindriyameva jeṭṭhakaṃ hoti pubbaṅgamaṃ, sesāni
tadanvayāni honti.
Iti paṭisambhidāpattānaṃ agge ṭhapito mahākoṭṭhitatthero lokiyadhammaṃ
pucchanto cittaṃ jeṭṭhakaṃ cittaṃ pubbaṅgamaṃ katvā pucchi; lokuttaradhammaṃ
pucchanto paññaṃ jeṭṭhakaṃ paññaṃ pubbaṅgamaṃ katvā pucchi.
Dhammasenāpatisāriputtattheropi tatheva vissajjesīti.
Yaṃ hāvuso, pajānātīti yaṃ catusaccadhammamidaṃ dukkhantiādinā nayena
maggapaññā pajānāti. Taṃ vijānātīti maggaviññāṇampi tatheva taṃ vijānāti. Yaṃ
vijānātīti yaṃ saṅkhāragataṃ aniccantiādinā nayena vipassanāviññāṇaṃ vijānāti.
Taṃ pajānātīti vipassanāpaññāpi tatheva taṃ pajānāti. Tasmā ime dhammāti tena
kāraṇena ime dhammā. Saṃsaṭṭhāti ekuppādaekanirodhaekavatthukaekārammaṇatāya saṃsaṭṭhā.
Paññā bhāvetabbāti idaṃ maggapaññaṃ sandhāya vuttaṃ. Taṃsampayuttaṃ pana
viññāṇaṃ tāya saddhiṃ bhāvetabbameva hoti. Viññāṇaṃ pariññeyyanti idaṃ
vipassanāviññāṇaṃ sandhāya vuttaṃ. Taṃsampayuttā pana paññā tena saddhiṃ
parijānitabbāva hoti.
450. Vedanā vedanāti idaṃ kasmā pucchati? Vedanālakkhaṇaṃ pucchissāmīti
pucchati. Evaṃ santepi tebhūmikasammasanacāravedanāva adhippetāti
sallakkhetabbā. Sukhampi vedetīti sukhaṃ ārammaṇaṃ vedeti anubhavati. Parato
padadvayepi eseva nayo. ‘‘Rūpañca hidaṃ, mahāli, ekantadukkhaṃ abhavissa,
dukkhānupatitaṃ dukkhāvakkantaṃ anavakkantaṃ sukhena, nayidaṃ sattā rūpasmiṃ
sārajjeyyuṃ. Yasmā ca kho, mahāli, rūpaṃ sukhaṃ sukhānupatitaṃ sukhāvakkantaṃ
anavakkantaṃ dukkhena, tasmā sattā rūpasmiṃ sārajjanti, sārāgā saṃyujjanti, saṃyogā
saṃkilissanti. Vedanā ca hidaṃ… saññā… saṅkhārā… viññāṇañca hidaṃ, mahāli,
ekantadukkhaṃ abhavissa…pe… saṃkilissantī’’ti (saṃ. ni. 3.70) iminā hi
mahālisuttapariyāyena idha ārammaṇaṃ sukhaṃ dukkhaṃ adukkhamasukhanti kathitaṃ.
Apica purimaṃ sukhaṃ vedanaṃ ārammaṇaṃ katvā aparā sukhā vedanā vedeti; purimaṃ
dukkhaṃ vedanaṃ ārammaṇaṃ katvā aparā dukkhā vedanā vedeti; purimaṃ
adukkhamasukhaṃ vedanaṃ ārammaṇaṃ katvā aparā adukkhamasukhā vedanā vedetīti
evamettha attho daṭṭhabbo. Vedanāyeva hi vedeti, na añño koci veditā nāma
atthīti vuttametaṃ.
Saññā saññāti idha kiṃ pucchati? Sabbasaññāya lakkhaṇaṃ. Kiṃ
sabbatthakasaññāyāti? Sabbasaññāya lakkhaṇantipi sabbatthakasaññāya lakkhaṇantipi
ekamevetaṃ, evaṃ santepi tebhūmikasammasanacārasaññāva adhippetāti
sallakkhetabbā. Nīlakampi sañjānātīti nīlapupphe vā vatthe vā parikammaṃ katvā
upacāraṃ vā appanaṃ vā pāpento sañjānāti. Imasmiñhi atthe parikammasaññāpi
upacārasaññāpi appanāsaññāpi vaṭṭati. Nīle nīlanti uppajjanakasaññāpi vaṭṭatiyeva.
Pītakādīsupi eseva nayo.
Yā cāvuso, vedanāti ettha vedanā, saññā, viññāṇanti imāni tīṇi gahetvā
paññā kasmā na gahitāti? Asabbasaṅgāhikattā. Paññāya hi gahitāya paññāya
sampayuttāva vedanādayo labbhanti, no vippayuttā. Taṃ pana aggahetvā imesu
gahitesu paññāya sampayuttā ca vippayuttā ca antamaso dve pañcaviññāṇadhammāpi
labbhanti. Yathā hi tayo purisā suttaṃ suttanti vadeyyuṃ, catuttho
ratanāvutasuttanti. Tesu purimā tayo takkagatampi paṭṭivaṭṭakādigatampi yaṃkiñci
bahuṃ suttaṃ labhanti antamaso makkaṭakasuttampi. Ratanāvutasuttaṃ pariyesanto
mandaṃ labhati, evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ. Heṭṭhato vā paññā viññāṇena saddhiṃ
sampayogaṃ labhāpitā vissaṭṭhattāva idha na gahitāti vadanti. Yaṃ hāvuso,
vedetīti yaṃ ārammaṇaṃ vedanā vedeti, saññāpi tadeva sañjānāti. Yaṃ sañjānātīti
yaṃ ārammaṇaṃ saññā sañjānāti, viññāṇampi tadeva vijānātīti attho.
Idāni sañjānāti vijānāti pajānātīti ettha viseso veditabbo. Tattha
upasaggamattameva viseso. Jānātīti padaṃ pana aviseso. Tassāpi jānanatthe
viseso veditabbo. Saññā hi nīlādivasena ārammaṇaṃ sañjānanamattameva, aniccaṃ
dukkhaṃ anattāti lakkhaṇapaṭivedhaṃ pāpetuṃ na sakkoti. Viññāṇaṃ nīlādivasena
ārammaṇañceva sañjānāti, aniccādilakkhaṇapaṭivedhañca pāpeti, ussakkitvā pana
maggapātubhāvaṃ pāpetuṃ na sakkoti. Paññā nīlādivasena ārammaṇampi sañjānāti,
aniccādivasena lakkhaṇapaṭivedhampi pāpeti, ussakkitvā maggapātubhāvaṃ
pāpetumpi sakkoti.
Yathā hi heraññikaphalake kahāpaṇarāsimhi kate ajātabuddhi dārako
gāmikapuriso mahāheraññikoti tīsu janesu oloketvā ṭhitesu ajātabuddhi dārako
kahāpaṇānaṃ cittavicittacaturassamaṇḍalabhāvameva jānāti, idaṃ manussānaṃ
upabhogaparibhogaṃ ratanasammatanti na jānāti. Gāmikapuriso cittādibhāvañceva
jānāti, manussānaṃ upabhogaparibhogaratanasammatabhāvañca. ‘‘Ayaṃ kūṭo ayaṃ
cheko ayaṃ karato ayaṃ saṇho’’ti pana na jānāti. Mahāheraññiko cittādibhāvampi
ratanasammatabhāvampi kūṭādibhāvampi jānāti, jānanto ca pana naṃ rūpaṃ disvāpi
jānāti, ākoṭitassa saddaṃ sutvāpi, gandhaṃ ghāyitvāpi, rasaṃ sāyitvāpi,
hatthena garukalahukabhāvaṃ upadhāretvāpi asukagāme katotipi jānāti,
asukanigame asukanagare asukapabbatacchāyāya asukanadītīre katotipi,
asukācariyena katotipi jānāti. Evamevaṃ saññā ajātabuddhidārakassa kahāpaṇadassanaṃ
viya nīlādivasena ārammaṇamattameva sañjānāti. Viññāṇaṃ gāmikapurisassa kahāpaṇadassanaṃ
viya nīlādivasena ārammaṇampi sañjānāti, aniccādivasena lakkhaṇapaṭivedhampi
pāpeti. Paññā mahāheraññikassa kahāpaṇadassanaṃ viya nīlādivasena ārammaṇampi
sañjānāti, aniccādivasena lakkhaṇapaṭivedhampi pāpeti, ussakkitvā
maggapātubhāvampi pāpeti. So pana nesaṃ viseso duppaṭivijjho.
Tenāha āyasmā nāgaseno – ‘‘dukkaraṃ, mahārāja, bhagavatā katanti. Kiṃ,
bhante, nāgasena bhagavatā dukkaraṃ katanti? Dukkaraṃ, mahārāja, bhagavatā kataṃ,
imesaṃ arūpīnaṃ cittacetasikānaṃ dhammānaṃ ekārammaṇe pavattamānānaṃ vavatthānaṃ
akkhātaṃ, ayaṃ phasso, ayaṃ vedanā, ayaṃ saññā, ayaṃ cetanā, idaṃ citta’’nti
(mi. pa. 2.7.16). Yathā hi tilatelaṃ, sāsapatelaṃ, madhukatelaṃ, eraṇḍakatelaṃ,
vasātelanti imāni pañca telāni ekacāṭiyaṃ pakkhipitvā divasaṃ yamakamanthehi
manthetvā tato idaṃ tilatelaṃ, idaṃ sāsapatelanti ekekassa pāṭiyekkaṃ uddharaṇaṃ
nāma dukkaraṃ, idaṃ tato dukkarataraṃ. Bhagavā pana sabbaññutaññāṇassa suppaṭividdhattā
dhammissaro dhammarājā imesaṃ arūpīnaṃ dhammānaṃ ekārammaṇe pavattamānānaṃ
vavatthānaṃ akkhāsi. Pañcannaṃ mahānadīnaṃ samuddaṃ paviṭṭhaṭṭhāne, ‘‘idaṃ gaṅgāya
udakaṃ, idaṃ yamunāyā’’ti evaṃ pāṭiyekkaṃ udakauddharaṇenāpi ayamattho
veditabbo.
451. Nissaṭṭhenāti nissaṭena pariccattena vā. Tattha nissaṭenāti atthe
sati pañcahi indriyehīti nissakkavacanaṃ. Pariccattenāti atthe sati karaṇavacanaṃ
veditabbaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – pañcahi indriyehi nissaritvā manodvāre pavattena
pañcahi vā indriyehi tassa vatthubhāvaṃ anupagamanatāya pariccattenāti.
Parisuddhenāti nirupakkilesena. Manoviññāṇenāti rūpāvacaracatutthajjhānacittena.
Kiṃ neyyanti kiṃ jānitabbaṃ. ‘‘Yaṃkiñci neyyaṃ nāma atthi dhamma’’ntiādīsu
(mahāni. 69) hi jānitabbaṃ neyyanti vuttaṃ. Ākāsānañcāyatanaṃ neyyanti kathaṃ
rūpāvacaracatutthajjhānacittena arūpāvacarasamāpatti neyyāti?
Rūpāvacaracatutthajjhāne ṭhitena arūpāvacarasamāpattiṃ nibbattetuṃ sakkā hoti.
Ettha ṭhitassa hi sā ijjhati. Tasmā ‘‘ākāsānañcāyatanaṃ neyya’’ntiādimāha. Atha
nevasaññānāsaññāyatanaṃ kasmā na vuttanti? Pāṭiyekkaṃ abhinivesābhāvato. Tattha
hi kalāpato nayato sammasanaṃ labbhati, dhammasenāpatisadisassāpi hi bhikkhuno
pāṭiyekkaṃ abhiniveso na jāyati. Tasmā theropi, ‘‘evaṃ kirame dhammā ahutvā
sambhonti, hutvā paṭiventī’’ti (ma. ni. 3.94) kalāpato nayato sammasitvā
vissajjesīti. Bhagavā pana sabbaññutaññāṇassa hatthagatattā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyampi
paropaññāsa dhamme pāṭiyekkaṃ aṃguddhāreneva uddharitvā, ‘‘yāvatā
saññāsamāpattiyo, tāvatā aññāpaṭivedho’’ti āha.
Paññācakkhunā pajānātīti dassanapariṇāyakaṭṭhena cakkhubhūtāya paññāya
pajānāti. Tattha dve paññā samādhipaññā vipassanāpaññā ca. Samādhipaññāya
kiccato asammohato ca pajānāti. Vipassanāpaññāya lakkhaṇapaṭivedhena ārammaṇato
jānanaṃ kathitaṃ. Kimatthiyāti ko etissā attho. Abhiññatthātiādīsu abhiññeyye
dhamme abhijānātīti abhiññatthā. Pariññeyye dhamme parijānātīti pariññatthā.
Pahātabbe dhamme pajahatīti pahānatthā. Sā panesā lokiyāpi abhiññatthā ca
pariññatthā ca vikkhambhanato pahānatthā. Lokuttarāpi abhiññatthā ca
pariññatthā ca samucchedato pahānatthā. Tattha lokiyā kiccato asammohato ca
pajānāti, lokuttarā asammohato.
452. Sammādiṭṭhiyā uppādāyāti vipassanāsammādiṭṭhiyā ca maggasammādiṭṭhiyā
ca. Parato ca ghosoti sappāyadhammassavanaṃ. Yoniso ca manasikāroti attano
upāyamanasikāro. Tattha sāvakesu api dhammasenāpatino dve paccayā laddhuṃ vaṭṭantiyeva.
Thero hi kappasatasahassādhikaṃ ekaṃ asaṅkhyeyyaṃ pāramiyo pūretvāpi attano
dhammatāya aṇumattampi kilesaṃ pajahituṃ nāsakkhi. ‘‘Ye dhammā hetuppabhavā’’ti
(mahāva. 60) assajittherato imaṃ gāthaṃ sutvāvassa paṭivedho jāto.
Paccekabuddhānaṃ pana sabbaññubuddhānañca paratoghosakammaṃ natthi,
yonisomanasikārasmiṃyeva ṭhatvā paccekabodhiñca sabbaññutaññāṇañca nibbattenti.
Anuggahitāti laddhūpakārā. Sammādiṭṭhīti arahattamaggasammādiṭṭhi.
Phalakkhaṇe nibbattā cetovimutti phalaṃ assāti cetovimuttiphalā. Tadeva cetovimuttisaṅkhātaṃ
phalaṃ ānisaṃso assāti cetovimuttiphalānisaṃsā. Dutiyapadepi eseva nayo. Ettha
ca catutthaphalapaññā paññāvimutti nāma, avasesā dhammā cetovimuttīti
veditabbā. Sīlānuggahitātiādīsu sīlanti catupārisuddhisīlaṃ. Sutanti
sappāyadhammassavanaṃ. Sākacchāti kammaṭṭhāne khalanapakkhalanacchedanakathā.
Samathoti vipassanāpādikā aṭṭha samāpattiyo. Vipassanāti sattavidhā anupassanā.
Catupārisuddhisīlañhi pūrentassa, sappāyadhammassavanaṃ suṇantassa, kammaṭṭhāne
khalanapakkhalanaṃ chindantassa, vipassanāpādikāsu aṭṭhasamāpattīsu kammaṃ
karontassa, sattavidhaṃ anupassanaṃ bhāventassa arahattamaggo uppajjitvā phalaṃ
deti.
Yathā hi madhuraṃ ambapakkaṃ paribhuñjitukāmo ambapotakassa samantā
udakakoṭṭhakaṃ thiraṃ katvā bandhati. Ghaṭaṃ gahetvā kālena kālaṃ udakaṃ
āsiñcati. Udakassa anikkhamanatthaṃ mariyādaṃ thiraṃ karoti. Yā hoti samīpe
valli vā sukkhadaṇḍako vā kipillikapuṭo vā makkaṭakajālaṃ vā, taṃ apaneti. Khaṇittiṃ
gahetvā kālena kālaṃ mūlāni parikhaṇati. Evamassa appamattassa imāni pañca kāraṇāni
karoto so ambo vaḍḍhitvā phalaṃ deti. Evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ. Rukkhassa
samantato koṭṭhakabandhanaṃ viya hi sīlaṃ daṭṭhabbaṃ, kālena kālaṃ udakasiñcanaṃ
viya dhammassavanaṃ, mariyādāya thirabhāvakaraṇaṃ viya samatho, samīpe
valliādīnaṃ haraṇaṃ viya kammaṭṭhāne khalanapakkhalanacchedanaṃ, kālena kālaṃ
khaṇittiṃ gahetvā mūlakhaṇanaṃ viya sattannaṃ anupassanānaṃ bhāvanā. Tehi
pañcahi kāraṇehi anuggahitassa ambarukkhassa madhuraphaladānakālo viya imassa
bhikkhuno imehi pañcahi dhammehi anuggahitāya sammādiṭṭhiyā arahattaphaladānaṃ
veditabbaṃ.
453. Kati panāvuso, bhavāti idha kiṃ pucchati? Mūlameva gato anusandhi,
duppañño yehi bhavehi na uṭṭhāti, te pucchissāmīti pucchati. Tattha kāmabhavoti
kāmabhavūpagaṃ kammaṃ kammābhinibbattā upādinnakkhandhāpīti ubhayamekato katvā
kāmabhavoti āha. Rūpārūpabhavesupi eseva nayo. Āyatinti anāgate. Punabbhavassa
abhinibbattīti punabbhavābhinibbatti. Idha vaṭṭaṃ pucchissāmīti pucchati.
Tatrātatrābhinandanāti rūpābhinandanā saddābhinandanāti evaṃ tahiṃ tahiṃ
abhinandanā, karaṇavacane cetaṃ paccattaṃ. Tatratatrābhinandanāya
punabbhavābhinibbatti hotīti attho. Ettāvatā hi gamanaṃ hoti, āgamanaṃ hoti,
gamanāgamanaṃ hoti, vaṭṭaṃ vattatīti vaṭṭaṃ matthakaṃ pāpetvā dassesi. Idāni
vivaṭṭaṃ pucchanto ‘‘kathaṃ panāvuso’’tiādimāha. Tassa vissajjane
avijjāvirāgāti avijjāya khayanirodhena. Vijjuppādāti arahattamaggavijjāya
uppādena. Kiṃ avijjā pubbe niruddhā, atha vijjā pubbe uppannāti? Ubhayametaṃ na
vattabbaṃ. Padīpujjalanena andhakāravigamo viya vijjuppādena avijjā niruddhāva
hoti. Taṇhānirodhāti taṇhāya khayanirodhena. Punabbhavābhinibbatti na hotīti
evaṃ āyatiṃ punabbhavassa abhinibbatti na hoti, gamanaṃ āgamanaṃ gamanāgamanaṃ
upacchijjati, vaṭṭaṃ na vattatīti vivaṭṭaṃ matthakaṃ pāpetvā dassesi.
454. Katamaṃ panāvusoti idha kiṃ pucchati? Ubhatobhāgavimutto bhikkhu
kālena kālaṃ nirodhaṃ samāpajjati. Tassa nirodhapādakaṃ paṭhamajjhānaṃ
pucchissāmīti pucchati. Paṭhamaṃ jhānanti idha kiṃ pucchati? Nirodhaṃ
samāpajjanakena bhikkhunā aṅgavavatthānaṃ koṭṭhāsaparicchedo nāma jānitabbo,
idaṃ jhānaṃ pañcaṅgikaṃ caturaṅgikaṃ tivaṅgikaṃ duvaṅgikanti aṅgavavatthānaṃ koṭṭhāsaparicchedaṃ
pucchissāmīti pucchati. Vitakkotiādīsu pana abhiniropanalakkhaṇo vitakko,
anumajjanalakkhaṇo vicāro, pharaṇalakkhaṇā pīti, sātalakkhaṇaṃ sukhaṃ,
avikkhepalakkhaṇā cittekaggatāti ime pañca dhammā vattanti. Kataṅgavippahīnanti
idha pana kiṃ pucchati? Nirodhaṃ samāpajjanakena bhikkhunā upakārānupakārāni aṅgāni
jānitabbāni, tāni pucchissāmīti pucchati, vissajjanaṃ panettha pākaṭameva. Iti
heṭṭhā nirodhapādakaṃ paṭhamajjhānaṃ gahitaṃ, upari tassa anantarapaccayaṃ
nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiṃ pucchissati. Antarā pana cha samāpattiyo saṃkhittā,
nayaṃ vā dassetvā vissaṭṭhāti veditabbā.
455. Idāni viññāṇanissaye pañca pasāde pucchanto pañcimāni,
āvusotiādimāha. Tattha gocaravisayanti gocarabhūtaṃ visayaṃ. Aññamaññassāti
cakkhu sotassa sotaṃ vā cakkhussāti evaṃ ekekassa gocaravisayaṃ na
paccanubhoti. Sace hi nīlādibhedaṃ rūpārammaṇaṃ samodhānetvā sotindriyassa
upaneyya, ‘‘iṅgha tāva naṃ vavatthapehi vibhāvehi, kiṃ nāmetaṃ ārammaṇa’’nti.
Cakkhuviññāṇañhi vināpi mukhena attano dhammatāya evaṃ vadeyya – ‘‘are
andhabāla, vassasatampi vassasahassampi paridhāvamāno aññatra mayā kuhiṃ etassa
jānanakaṃ labhissasi, āhara naṃ cakkhupasāde upanehi, ahametaṃ ārammaṇaṃ
jānissāmi, yadi vā nīlaṃ yadi vā pītakaṃ, na hi eso aññassa visayo, mayheveso
visayo’’ti. Sesadvāresupi eseva nayo. Evametāni aññamaññassa gocaraṃ visayaṃ na
paccanubhonti nāma. Kiṃ paṭisaraṇanti etesaṃ kiṃ paṭisaraṇaṃ, kiṃ etāni paṭisarantīti
pucchati. Mano paṭisaraṇanti javanamano paṭisaraṇaṃ. Mano ca nesanti
manodvārikajavanamano vā pañcadvārikajavanamano vā etesaṃ gocaravisayaṃ
rajjanādivasena anubhoti. Cakkhuviññāṇañhi rūpadassanamattameva, ettha rajjanaṃ
vā dussanaṃ vā muyhanaṃ vā natthi. Etasmiṃ pana dvāre javanaṃ rajjati vā
dussati vā muyhati vā. Sotaviññāṇādīsupi eseva nayo.
Tatrāyaṃ upamā – pañca kira dubbalabhojakā rājānaṃ sevitvā kicchena
kasirena ekasmiṃ pañcakulike gāme parittakaṃ āyaṃ labhiṃsu. Tesaṃ tattha
macchabhāgo maṃsabhāgo yuttikahāpaṇo vā, bandhakahāpaṇo vā, māpahārakahāpaṇo
vā, aṭṭhakahāpaṇo vā, soḷasakahāpaṇo vā, bāttiṃsakahāpaṇo vā, catusaṭṭhikahāpaṇo
vā, daṇḍoti ettakamattameva pāpuṇāti. Satavatthukaṃ pañcasatavatthukaṃ
sahassavatthukaṃ mahābaliṃ rājāva gaṇhāti. Tattha pañcakulikagāmo viya pañca
pasādā daṭṭhabbā; pañca dubbalabhojakā viya pañca viññāṇāni; rājā viya javanaṃ;
dubbalabhojakānaṃ parittakaṃ āyapāpuṇanaṃ viya cakkhuviññāṇādīnaṃ
rūpadassanādimattaṃ. Rajjanādīni pana etesu natthi. Rañño mahābaliggahaṇaṃ viya
tesu dvāresu javanassa rajjanādīni veditabbāni.
456. Pañcimāni, āvusoti idha kiṃ pucchati? Antonirodhasmiṃ pañca pasāde.
Kiriyamayapavattasmiñhi vattamāne arūpadhammā pasādānaṃ balavapaccayā honti. Yo
pana taṃ pavattaṃ nirodhetvā nirodhasamāpattiṃ samāpanno, tassa antonirodhe
pañca pasādā kiṃ paṭicca tiṭṭhantīti idaṃ pucchissāmīti pucchati. Āyuṃ paṭiccāti
jīvitindriyaṃ paṭicca tiṭṭhanti. Usmaṃ paṭiccāti jīvitindriyaṃ kammajatejaṃ paṭicca
tiṭṭhati. Yasmā pana kammajatejopi jīvitindriyena vinā na tiṭṭhati, tasmā
‘‘usmā āyuṃ paṭicca tiṭṭhatī’’ti āha. Jhāyatoti jalato. Acciṃ paṭiccāti
jālasikhaṃ paṭicca. Ābhā paññāyatīti āloko nāma paññāyati. Ābhaṃ paṭicca accīti
taṃ ālokaṃ paṭicca jālasikhā paññāyati.
Evameva kho, āvuso, āyu usmaṃ paṭicca tiṭṭhatīti ettha jālasikhā viya kammajatejo.
Āloko viya jīvitindriyaṃ. Jālasikhā hi uppajjamānā ālokaṃ gahetvāva uppajjati.
Sā tena attanā janitaālokeneva sayampi aṇu thūlā dīghā rassāti pākaṭā hoti.
Tattha jālapavattiyā janitaālokena tassāyeva jālapavattiyā pākaṭabhāvo viya
usmaṃ paṭicca nibbattena kammajamahābhūtasambhavena jīvitindriyena usmāya
anupālanaṃ. Jīvitindriyañhi dasapi vassāni…pe… vassasatampi kammajatejapavattaṃ
pāleti. Iti mahābhūtāni upādārūpānaṃ nissayapaccayādivasena paccayāni hontīti
āyu usmaṃ paṭicca tiṭṭhati. Jīvitindriyaṃ mahābhūtāni pāletīti usmā āyuṃ paṭicca
tiṭṭhatīti veditabbā.
457. Āyusaṅkhārāti āyumeva. Vedaniyā dhammāti vedanā dhammāva. Vuṭṭhānaṃ
paññāyatīti samāpattito vuṭṭhānaṃ paññāyati. Yo hi bhikkhu arūpapavatte ukkaṇṭhitvā
saññañca vedanañca nirodhetvā nirodhaṃ samāpanno, tassa
yathāparicchinnakālavasena rūpajīvitindriyapaccayā arūpadhammā uppajjanti. Evaṃ
pana rūpārūpapavattaṃ pavattati. Yathā kiṃ? Yathā eko puriso jālāpavatte ukkhaṇṭhito
udakena paharitvā jālaṃ appavattaṃ katvā chārikāya aṅgāre pidhāya tuṇhī
nisīdati. Yadā panassa puna jālāya attho hoti, chārikaṃ apanetvā aṅgāre
parivattetvā upādānaṃ datvā mukhavātaṃ vā tālavaṇṭavātaṃ vā dadāti. Atha
jālāpavattaṃ puna pavattati. Evameva jālāpavattaṃ viya arūpadhammā. Purisassa
jālāpavatte ukkaṇṭhitvā udakappahārena jālaṃ appavattaṃ katvā chārikāya aṅgāre
pidhāya tuṇhībhūtassa nisajjā viya bhikkhuno arūpapavatte ukkaṇṭhitvā saññañca
vedanañca nirodhetvā nirodhasamāpajjanaṃ. Chārikāya pihitaaṅgārā viya
rūpajīvitindriyaṃ. Purisassa puna jālāya atthe sati chārikāpanayanādīni viya
bhikkhuno yathāparicchinnakālāpagamanaṃ. Aggijālāya pavatti viya puna
arūpadhammesu uppannesu rūpārūpapavatti veditabbā.
Āyu usmā ca viññāṇanti rūpajīvitindriyaṃ, kammajatejodhātu, cittanti ime
tayo dhammā yadā imaṃ rūpakāyaṃ jahanti, athāyaṃ acetanaṃ kaṭṭhaṃ viya
pathaviyaṃ chaḍḍito setīti attho. Vuttañcetaṃ –
‘‘Āyu usmā ca viññāṇaṃ, yadā kāyaṃ jahantimaṃ;
Apaviddho tadā seti, parabhattaṃ acetana’’nti. (saṃ. ni. 3.95);
Kāyasaṅkhārāti assāsapassāsā. Vacīsaṅkhārāti vitakkavicārā. Cittasaṅkhārāti
saññāvedanā. Āyūti rūpajīvitindriyaṃ. Paribhinnānīti upahatāni, vinaṭṭhānīti
attho. Tattha keci ‘‘nirodhasamāpannassa cittasaṅkhārāva niruddhā’’ti vacanato
cittaṃ aniruddhaṃ hoti, tasmā sacittakā ayaṃ samāpattīti vadanti. Te vattabbā –
‘‘vacīsaṅkhārāpissa niruddhā’’ti vacanato vācā aniruddhā hoti, tasmā nirodhaṃ
samāpannena dhammampi kathentena sajjhāyampi karontena nisīditabbaṃ siyā. ‘‘Yo
cāyaṃ mato kālaṅkato, tassāpi cittasaṅkhārā niruddhā’’ti vacanato cittaṃ
aniruddhaṃ bhaveyya, tasmā kālaṅkate mātāpitaro vā arahante vā jhāpayantena
anantariyakammaṃ kataṃ bhaveyya. Iti byañjane abhinivesaṃ akatvā ācariyānaṃ
naye ṭhatvā attho upaparikkhitabbo. Attho hi paṭisaraṇaṃ, na byañjanaṃ.
Indriyāni vippasannānīti kiriyamayapavattasmiñhi vattamāne bahiddhā
ārammaṇesu pasāde ghaṭṭentesu indriyāni kilamantāni upahatāni makkhitāni viya
honti, vātādīhi uṭṭhitena rajena catumahāpathe ṭhapitaādāso viya. Yathā pana
thavikāyaṃ pakkhipitvā mañjūsādīsu ṭhapito ādāso antoyeva virocati, evaṃ
nirodhaṃ samāpannassa bhikkhuno antonirodhe pañca pasādā ativirocanti. Tena
vuttaṃ ‘‘indriyāni vippasannānī’’ti.
458. Kati panāvuso, paccayāti idha kiṃ pucchati? Nirodhassa
anantarapaccayaṃ nevasaññānāsaññāyatanaṃ pucchissāmīti pucchati. Vissajjane
panassa sukhassa ca pahānāti cattāro apagamanapaccayā kathitā. Animittāyāti
idha kiṃ pucchati? Nirodhato vuṭṭhānakaphalasamāpattiṃ pucchissāmīti pucchati.
Avasesasamāpattivuṭṭhānañhi bhavaṅgena hoti, nirodhā vuṭṭhānaṃ pana
vipassanānissandāya phalasamāpattiyāti tameva pucchati. Sabbanimittānanti
rūpādīnaṃ sabbārammaṇānaṃ. Animittāya ca dhātuyā manasikāroti
sabbanimittāpagatāya nibbānadhātuyā manasikāro. Phalasamāpattisahajātaṃ
manasikāraṃ sandhāyāha. Iti heṭṭhā nirodhapādakaṃ paṭhamajjhānaṃ gahitaṃ,
nirodhassa anantarapaccayaṃ nevasaññānāsaññāyatanaṃ gahitaṃ, idha nirodhato vuṭṭhānakaphalasamāpatti
gahitāti.
Imasmiṃ ṭhāne nirodhakathā kathetabbā hoti. Sā, ‘‘dvīhi balehi
samannāgatattā tayo ca saṅkhārānaṃ paṭippassaddhiyā soḷasahi ñāṇacariyāhi
navahi samādhicariyāhi vasībhāvatāpaññā nirodhasamāpattiyā ñāṇa’’nti evaṃ paṭisambhidāmagge
(paṭi. ma. 1.83) āgatā. Visuddhimagge panassā sabbākārena vinicchayakathā
kathitā.
Idāni valañjanasamāpattiṃ pucchanto kati panāvuso, paccayātiādimāha.
Nirodhato hi vuṭṭhānakaphalasamāpattiyā ṭhiti nāma na hoti, ekaṃ dve
cittavārameva pavattitvā bhavaṅgaṃ otarati. Ayañhi bhikkhu satta divase
arūpapavattaṃ nirodhetvā nisinno nirodhavuṭṭhānakaphalasamāpattiyaṃ na ciraṃ tiṭṭhati.
Valañjanasamāpattiyaṃ pana addhānaparicchedova pamāṇaṃ. Tasmā sā ṭhiti nāma
hoti. Tenāha – ‘‘animittāya cetovimuttiyā ṭhitiyā’’ti. Tassā ciraṭṭhitatthaṃ
kati paccayāti attho. Vissajjane panassā pubbe ca abhisaṅkhāroti
addhānaparicchedo vutto. Vuṭṭhānāyāti idha bhavaṅgavuṭṭhānaṃ pucchati.
Vissajjanepissā sabbanimittānañca manasikāroti rūpādinimittavasena bhavaṅgasahajātamanasikāro
vutto.
459. Yā cāyaṃ, āvusoti idha kiṃ pucchati? Idha aññaṃ abhinavaṃ nāma
natthi. Heṭṭhā kathitadhammeyeva ekato samodhānetvā pucchāmīti pucchati. Kattha
pana te kathitā? ‘‘Nīlampi sañjānāti pītakampi, lohitakampi, odātakampi
sañjānātī’’ti (ma. ni. 1.450) etasmiñhi ṭhāne appamāṇā cetovimutti kathitā.
‘‘Natthi kiñcīti ākiñcaññāyatananti neyya’’nti (ma. ni. 1.451) ettha ākiñcaññaṃ.
‘‘Paññācakkhunā pajānātī’’ti (ma. ni. 1.451) ettha suññatā. ‘‘Kati panāvuso,
paccayā animittāya cetovimuttiyā ṭhitiyā vuṭṭhānāyā’’ti ettha animittā. Evaṃ heṭṭhā
kathitāva imasmiṃ ṭhāne ekato samodhānetvā pucchati. Taṃ pana paṭikkhipitvā etā
tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne niddiṭṭhāvāti vatvā aññe cattāro dhammā ekanāmakā atthi. Eko
dhammo catunāmako atthi, etaṃ pākaṭaṃ katvā kathāpetuṃ idha pucchatīti aṭṭhakathāyaṃ
sanniṭṭhānaṃ kataṃ. Tassā vissajjane ayaṃ vuccatāvuso, appamāṇā cetovimuttīti
ayaṃ pharaṇaappamāṇatāya appamāṇā nāma. Ayañhi appamāṇe vā satte pharati,
ekasmimpi vā satte asesetvā pharati.
Ayaṃ vuccatāvuso, ākiñcaññāti ārammaṇakiñcanassa abhāvato ākiñcaññā.
Attena vāti atta bhāvaposapuggalādisaṅkhātena attena suññaṃ. Attaniyena vāti
cīvarādiparikkhārasaṅkhātena attaniyena suññaṃ. Animittāti rāganimittādīnaṃ
abhāveneva animittā, arahattaphalasamāpattiṃ sandhāyāha. Nānatthā ceva
nānābyañjanā cāti byañjanampi nesaṃ nānā atthopi. Tattha byañjanassa nānatā
pākaṭāva. Attho pana, appamāṇā cetovimutti bhūmantarato mahaggatā eva hoti
rūpāvacarā; ārammaṇato satta paññattiārammaṇā. Ākiñcaññā bhummantarato
mahaggatā arūpāvacarā; ārammaṇato na vattabbārammaṇā. Suññatā bhummantarato
kāmāvacarā; ārammaṇato saṅkhārārammaṇā. Vipassanā hi ettha suññatāti adhippetā.
Animittā bhummantarato lokuttarā; ārammaṇato nibbanārammaṇā.
Rāgo kho, āvuso, pamāṇakaraṇotiādīsu yathā pabbatapāde pūtipaṇṇarasaudakaṃ
nāma hoti kāḷavaṇṇaṃ; olokentānaṃ byāmasatagambhīraṃ viya khāyati. Yaṭṭhiṃ vā
rajjuṃ vā gahetvā minantassa piṭṭhipādottharaṇamattampi na hoti. Evamevaṃ yāva
rāgādayo nuppajjanti, tāva puggalaṃ sañjānituṃ na sakkā honti, sotāpanno viya,
sakadāgāmī viya, anāgāmī viya ca khāyati. Yadā panassa rāgādayo uppajjanti,
tadā ratto duṭṭho mūḷhoti paññāyati. Iti ete ‘‘ettako aya’’nti puggalassa pamāṇaṃ
dassento viya uppajjantīti pamāṇakaraṇā nāma vuttā. Yāvatā kho, āvuso, appamāṇā
cetovimuttiyoti yattakā appamāṇā cetovimuttiyo. Kittakā pana tā? Cattāro
brahmavihārā, cattāro maggā, cattāri ca phalānīti dvādasa. Tattha brahmavihārā
pharaṇaappamāṇatāya appamāṇā. Sesā pamāṇakaraṇānaṃ kilesānaṃ abhāvena appamāṇā.
Nibbānampi appamāṇameva, cetovimutti pana na hoti, tasmā na gahitaṃ. Akuppāti
arahattaphalacetovimutti; sā hi tāsaṃ sabbajeṭṭhikā, tasmā aggamakkhāyatīti
vuttā. Rāgo kho, āvuso, kiñcanoti rāgo uppajjitvā puggalaṃ kiñcati maddati
palibundhati. Tasmā kiñcanoti vutto. Manussā kira goṇehi khalaṃ maddāpento
kiñcehi kapila, kiñcehi kāḷakāti vadanti. Evaṃ maddanattho kiñcanatthoti
veditabbo. Dosamohesupi eseva nayo. Ākiñcaññā cetovimuttiyo nāma nava dhammā
ākiñcaññāyatanañca maggaphalāni ca. Tattha ākiñcaññāyatanaṃ kiñcanaṃ ārammaṇaṃ
assa natthīti ākiñcaññaṃ. Maggaphalāni kiñcanānaṃ maddanānaṃ
palibundhanakilesānaṃ natthitāya ākiñcaññāni. Nibbānampi ākiñcaññaṃ,
cetovimutti pana na hoti, tasmā na gahitaṃ.
Rāgo kho, āvuso, nimittakaraṇotiādīsu yathā nāma dvinnaṃ kulānaṃ sadisā
dve vacchakā honti. Yāva tesaṃ lakkhaṇaṃ na kataṃ hoti, tāva ‘‘ayaṃ
asukakulassa vacchako, ayaṃ asukakulassā’’ti na sakkā honti jānituṃ. Yadā pana
tesaṃ sattisūlādīsu aññataraṃ lakkhaṇaṃ kataṃ hoti, tadā sakkā honti jānituṃ.
Evameva yāva puggalassa rāgo nuppajjati, tāva na sakkā hoti jānituṃ ariyo vā
puthujjano vāti. Rāgo panassa uppajjamānova sarāgo nāma ayaṃ puggaloti
sañjānananimittaṃ karonto viya uppajjati, tasmā ‘‘nimittakaraṇo’’ti vutto.
Dosamohesupi eseva nayo.
Animittā cetovimutti nāma terasa dhammā – vipassanā, cattāro āruppā,
cattāro maggā, cattāri ca phalānīti. Tattha vipassanā niccanimittaṃ
sukhanimittaṃ attanimittaṃ ugghāṭetīti animittā nāma. Cattāro āruppā
rūpanimittassa abhāvena animittā nāma. Maggaphalāni nimittakaraṇānaṃ kilesānaṃ
abhāvena animittāni. Nibbānampi animittameva, taṃ pana cetovimutti na hoti,
tasmā na gahitaṃ. Atha kasmā suññatā cetovimutti na gahitāti? Sā, ‘‘suññā
rāgenā’’tiādivacanato sabbattha anupaviṭṭhāva, tasmā visuṃ na gahitā. Ekatthāti
ārammaṇavasena ekatthā. Appamāṇaṃ ākiñcaññaṃ suññataṃ animittanti hi
sabbānetāni nibbānasseva nāmāni. Iti iminā pariyāyena ekatthā. Aññasmiṃ pana ṭhāne
appamāṇā honti, aññasmiṃ ākiñcaññā aññasmiṃ suññatā aññasmiṃ animittāti iminā
pariyāyena nānābyañjanā. Iti thero yathānusandhināva desanaṃ niṭṭhapesīti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahāvedallasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
No comments:
Post a Comment