Phạn ngữ Pàli – Lễ Phật - cách phát âm
Giảng Sư: TT Tuệ Siêu
Ngày 28.9.2020
Bài 8
Kinh văn: ĐẠO ĐẾ,
Học Phạn ngữ: Ngữ căn (dhātu) trong Pāli)
Đạo đế là con đường dẫn tới sự diệt khổ. Đó phương cách trị liệu căn bệnh trầm kha của kiếp nhân sinh. Bát chánh đạo còn được mô tả qua tam học (giới, định, tuệ) hoặc thất tịnh như bố cục của Thanh Tịnh Đạo. Mặc dù sự mô tả bát chánh đạo rất cô đọng, rõ ràng nhưng vẫn có những ngộ nhận lớn ngay cả trên phương diện ngôn từ.
DIỆT ĐẾKatamañca, bhikkhave, dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ?
Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo seyyathidaṃ—sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi.
Này các Tỷ kheo, thế nào là Khổ diệt đạo Thánh đế. Ðó là bát chi Thánh đạo, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. (Bản dịch của HT Thích Minh Châu)
Katama = là gì
ca = và
bhikkhave = này các tỳ khưu
dukkhanirodhagāminī = dukkha (đau khổ) + nirodha (đoạn diệt) +
gāmī (dẫn đến) = dẫn đến diệt khổ
paṭipadā = con đường, sự thực hành, phương pháp
ariyasaccaṃ = thánh đế, sự thật cao siêu
Ayameva = đó là, chính là
Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo = thánh đạo tám chi phần, thánh đạo tám ngành
seyyathidaṃ = như sau, gồm có:
sammādiṭṭhi = chánh kiến
sammāsaṅkappo = chánh tư duy
sammāvācā = chánh ngữ
sammākammanto = chánh nghiệp
sammāājīvo = chánh mạng
sammāvāyāmo = chánh tinh tấn
sammāsati = chánh niệm
sammāsamādhi = chánh định
Bá chánh đạo không phải là tám con đường chánh mà là thánh đạo tám chi phần (Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo) có nghĩa là phương pháp thực hành kết tinh tám yếu tố dẫn tới diệt khổ chứ không phải là có tám con đường riêng lẻ đều dẫn tới giác ngộ giải thoát.
Trong loạt bài của phần giới thiệt sơ lược về Phạn ngữ Pàli không thể thiếu phần đề cập về dhātu hay ngữ căn. Những “chữ gốc” nầy rất cần để hiểu rõ chính xác các động tự, danh từ, danh động từ. Trong Anh ngữ những danh từ chuyên môn thường có căn cội từ La Tinh hay Hy Lạp. Tiếng Việt thì có nhiều từ có gốc từ chữ Hán. Tuy vậy đôi khi sử dụng lâu ngày thành thói quen ít ai để ý tới. Có thể nói phần đông không có nhu cầu tra “Tầm Nguyên Từ Điển” hay “Chánh Tả Tự Vị” Học tiếng Pàli không thể không lưu tâm tới ngữ căn và sự kết nối của ngữ căn với tiếp đầu ngữ, tiếp vĩ ngữ luôn thách thức trí bén nhạy của người học. Biết ngữ căn thì thường làm sáng ý nghĩa các thuật ngữ.Sau đây là một số ngữ căn tiếng Pàli
√vand vandati = lễ bái
√bhās bhāsati = nói
√dhāv dhāvati = chạy
√yā yāti = đi đến
√vas vasati = sống, cư trú
√kīḷ kīḷati = chơi
√has hasati = cuời
√kas kasati = cày
√khād khādati = ăn
√labh labhati = đặng, được
√pac pacati = nấu
√pucch pucchati = hỏi
√sikkh sikkhati = học
√likkh likkhati = viết
√sar sarati = nhớ
√dhov dhovati = rửa
√ikkh ikkhati = thấy
√har harati = mang
√tar tarati = băng qua
√gaves gavesati = tìm kinế
√sup supati = ngủ
√pat patati = té, rớt
√ṭhā ṭhāti = đứng, trụ
https://suttacentral.net/dn-mahavagga
No comments:
Post a Comment