Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
34. Tiểu Kinh Người Chăn Bò
(Cūḷagopālaka Sutta)
Cũng như bài kinh
trước tên bài kinh lấy từ thí dụ trong pháp thoại về hình ảnh của người chăn bò
khéo chăn dắt đàn bò. Bài khi nầy gọi là tiểu kinh vì có bài kinh trước cũng với
thí dụ người chăn bò nhưng dài hơn (đại kinh).
Trong một pháp thoại hằng ngày cho chư tỳ kheo khi Đức Thế Tôn đang ở xứ Vajjī Ngài đề cập tới hai hạng sa môn ở đời. Hạng thứ nhất như một người chăn bò vụng về chăn dắt đàn bò vượt sông mùa cạn nhưng vì thiếu sự hiểu biết chính xác nên đàn bò gặp nạn được ví dụ cho những sa môn tự mình không biết rõ dòng sông sanh tử lại dẫn dắt người khác để rồi tất cả làm mồi ngon của ác ma.
Ngược lại hạng sa
môn thứ hai khéo biết nông sâi của dòng samh tử nên đưa tất cả vượt thoát ma giới.
Như vầy tôi nghe.
Ngày xưa, này
các Tỷ-kheo, tại Magadha có người chăn bò có trí, vào cuối tháng
mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng,
sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia
tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được. Người đó đuổi đi đầu
những con bò đực già, những con đầu đàn. Những con này sau khi lội
cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi
người đó đưa qua những con bò đực lớn mạnh, những con bò đực có
được huấn luyện. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng,
qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi qua những con bò
đực con, lớn, những con bò cái con, lớn. Những con này sau khi lội
cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi
người đó đuổi qua những con bò con nhỏ, những con bò con còn bú.
Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một
cách an toàn. Này các Tỷ-kheo thời xưa ấy có con bò còn nhỏ mới
sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi
lội cắt ngang dòng sông Hằng, cũng qua bờ bên kia một cách an toàn.
Vì sao? Này các Tỷ- kheo, vì người chăn bò ở Magadha là người có
trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ
bên này sông Hằng, sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn
bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn khéo biết đối với đời này, khéo biết đối với đời sau, khéo biết ma giới, khéo biết phi ma giới, khéo biết tử thần giới, khéo biết phi tử thần giới. Những ai nghĩ rằng, cần phải nghe, cần phải tin những vị này, thì họ sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
155. Những hạng đệ tử đi theo sự dẫn dắt của Thế Tôn
Đó là những bậc A la hán, như con bò đầu đàn; A na hàm, như bò đực đã được huấn luyện; bậc Nhất lai, như bò con đã lớn; Dự lưu, như bò con còn bú; những bậc Tùy pháp hành, tùy tín hành, như bò con mới sinh còn chạy theo mẹ.
Này các
Tỷ-kheo, ví như những con bò đực già, đầu đàn, chúng đã lội cắt
ngang dòng sông Hằng và qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo là những bậc A-la-hán, đã đoạn trừ
các lậu hoặc, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt
gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, các hữu kiết sử đã hoàn
toàn bị đoạn diệt, đã được giải thoát nhờ chánh trí. Những vị
này, sau khi lội cắt ngang dòng sông của Ma vương, đã qua bờ bên kia
một cách an toàn.
Này các Tỷ-kheo, ví như những con bò đực lớn mạnh, những con bò đực có huấn luyện, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, ở tại đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại thế giới này nữa. Những vị ấy, sau khi lội cắt ngang dòng sông Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.
Ví như, này các Tỷ-kheo, những con bò đực con, lớn, những con bò cái con, lớn, những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo đã diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu tham, sân, si, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa, sẽ diệt tận khổ đau. Những vị ấy, sau khi lội cắt ngang dòng sông Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.
Ví như, này các Tỷ-kheo, những con bò con, nhỏ, những con bò con còn bú, những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ- kheo diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhất định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến chánh giác. Những vị này lội cắt ngang dòng sông Ma vương và sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.
Ví như, này các Tỷ-kheo, con bò con còn nhỏ, mới sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo tùy pháp hành, tùy tín hành, những vị này sau khi lội cắt ngang dòng sông của Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.
Này các Tỷ-kheo, nay Ta khéo biết đối với đời này, khéo biết đối với đời sau, khéo biết đối với ma giới, khéo biết đối với phi ma giới, khéo biết đối với tử thần giới, khéo biết đối với phi tử thần giới. Những ai nghĩ rằng, cần phải nghe, cần phải tin nơi Ta, thì họ sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sau khi Thiện Thệ nói vậy, bậc Ðạo Sư lại nói thêm bài kệ như sau:
Ðời này và đời sau,
Bậc Trí khéo trình bày,
Cảnh giới Ma đạt được,
Cảnh Tử Thần không đạt.
Bậc Chánh Giác, Trí Giả,
Biết rõ mọi thế giới,
Cửa bất tử rộng mở,
Ðạt an ổn Niết-bàn.
Dòng Ma bị chặt ngang,
Nát tan và hư hoại,
Hãy sống sung mãn hỷ,
Ðạt an ổn Niết-bàn,
(Này các Tỷ-kheo).
1. Những bậc A la hán như con bò đầu đàn
Phân đoạn & chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 34 [tóm tắt]
Tiểu Kinh Người Chăn Bò
(Cūḷagopālaka Sutta)
(M.i, 225)
Đức Phật lấy
ví dụ một người chăn bò ngu si, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa
gặt hái, không quan sát bờ bên này bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn
bò qua sông tại chỗ không lội qua được, và đàn bò gặp tai nạn
giữa dòng sông, vì người chăn bò ngu si. Cũng vậy, có những
Sa-môn, Bà- la-môn không khéo biết đời này, đời sau, ma giới, phi ma
giới, tử thần giới, phi tử thần giới, những ai nghe và tin những vị
này sẽ gặp bất hạnh đau khổ lâu dài.
Ví như người
chăn bò có trí, sau khi quán sát hai bờ sông Hằng cho đuổi đàn bò
qua sông tại chỗ lội qua được, đuổi các con bò đực lão thành,
những con bò đầu đàn đi đầu, những con này lội cắt ngang sông, qua
bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người ấy đưa các con bò đực lớn
mạnh, có huấn luyện, tiếp đến là các con bò con nhỏ, những con bò
còn bú, cuối cùng đến các con bò còn trẻ, mới sanh, chạy theo các
con bò mẹ. Tất cả đều lội cắt ngang sông, qua bờ bên kia một cách
an toàn. Vì rằng người chăn bò là người có trí. Cũng vậy, có
những Sa- môn, Bà-la-môn khéo biết đối với đời này, khéo biết đối
với đời sau, khéo biết ma giới (dục, sắc, vô sắc giới), khéo biết
phi ma giới (chín siêu thế pháp), khéo biết tử thần giới, khéo biết
phi tử thần giới. Những ai nghe và tin những vị này, sẽ được hạnh
phúc an lạc lâu dài.
Đức Phật ví
những con bò đực lão thành đầu đàn với những vị đã chứng quả
A-la-hán; ví những con bò đực lớn mạnh, những con bò đực có huấn
luyện với những Tỷ- kheo đã chứng quả Bất lai; ví những con bò đực
lớn, những con bò cái lớn với những Tỷ-kheo đã chứng quả Nhất lai;
ví những con bò con nhỏ còn bú với các vị Tỷ-kheo đã chứng quả Dự
lưu; ví những con bò con mới sanh chạy theo các con bò mẹ, vừa chạy
vừa kêu, với các vị Tỷ-kheo tùy pháp hành, tùy tín hành.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 34 [dàn ý]
Tiểu Kinh Người Chăn Bò
(Cūḷagopālaka Sutta)
(M.i, 225)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo
về
thuyết giảng.
B. Chánh kinh:
I. Ảnh dụ người
chăm bò:
1. Ví như có kẻ
chăn bò vô trí đuổi đàn bò qua chỗ nước không thể lội qua, có những Sa-môn,
Bà-la-môn ngu si, không khéo biết đời này, đời sau, ma giới. Bất hạnh và đau khổ
lâu dài cho những ai nghĩ cần phải nghe và tin theo những vị này.
2. Ví như có người
chăn bò có trí đuổi những con bò qua bờ bên kia một cách an toàn, có những
Sa-môn hay Bà-la-môn khéo biết đời này, đời sau, ma giới. Hạnh phúc và an lạc
lâu dài cho những ai nghĩ cần phải nghe và tin những vị này.
II. Các quả vị chứng
đắc khi đi theo con đường của bậc trí:
1. Những Tỷ-kheo
là những bậc A-la-hán.
2. Những Tỷ-kheo
sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử là những bậc Bất lai.
3. Những Tỷ-kheo
đã diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu tham, sân, si, chứng quả Nhất lai.
4. Những Tỷ-kheo
đã diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu.
5. Những Tỷ-kheo
là những vị tùy pháp hành, tùy tín hành.
C. Kết luận:
1. Lời hối hận
của Saccaka đã dám luận chiến với Sa-môn Gotama.
2. Saccaka mời
Thế Tôn đến dùng cơm tại nhà và nghe Thế Tôn thuyết pháp.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 34 [toát yếu]
Tiểu Kinh Người Chăn Bò
(Cūḷagopālaka Sutta)
(M.i, 225)
I. TOÁT YẾU
Cūlagopālaka
Sutta - The shorter discourse on the cowherd.
The Buddha
explains the types of of bhikkhus who "breast Māra's stream" and get
safely across to the further shore.
Bản kinh ngắn
về người chăn bò.
Phật giải thích
các hạng tỳ kheo "vượt qua được sông ma" để vượt qua bờ
kia một cách an ổn.
II. TÓM TẮT
Như kẻ chăn bò
vô trí không quan sát kỹ, lùa bò qua sông tại chỗ không thể lội
qua, đàn bò gặp tai nạn. Cũng thế, có những tu sĩ không khéo biết
đời này đời sau, không biết ma giới và phi ma giới, cảnh giới tử
thần và cảnh giới bất tử. Những ai nghe và tin theo những vị ấy sẽ
phải bất hạnh, đau khổ lâu dài. Phật như người chăn có trí, biết
rõ đời này,
đời sau, ma giới và phi ma giới, tử thần giới và phi tử thần giới,
nên Ngài đã đưa nhiều hạng người an toàn vượt qua dòng sông sinh
tử, cảnh giới của Ma: những bậc A-la-hán, như con bò đầu đàn; A na
hàm, như bò đực đã thuận; bậc Nhất lai, như bò con đã lớn; Dự
lưu, như bò con còn bú; những bậc Tùy pháp hành, tùy tín hành,
như bò con mới sinh còn chạy theo mẹ.
III. CHÚ GIẢI
A-la-hán có hai
hạng: Tâm giải thoát do lúc tu thiền về Định; Tuệ giải thoát do lúc
tu thiền về Tuệ.
A –a-hàm hay Bất
hoàn: trừ năm hạ phần kết sử. Tư-đà-hàm hay Nhất lai: trừ ba kết
sử và làm suy yếu tham, sân, si.
Tu-đà-hoàn hay
Dự lưu: trừ ba kết sử là thân kiến [chấp thân này là tôi, của
tôi], nghi [đối với Ba ngôi báu], và giới cấm thủ [giữ các khổ
hạnh không đưa đến giải thoát].
Tùy tín hành:
người đắc Dự lưu đạo tu nhờ tu quán vô thường. Từ đây trở đi cho
đến quả vị A-la-hán, vị ấy được gọi là bậc Tín giải thoát.
Tùy pháp hành:
người đắc Dự lưu đạo nhờ tu quán vô ngã. Ở các địa vị trên Dự
lưu đạo, gọi là bậc Kiến chí. Khi đắc A-la-hán quả, vị ấy được
gọi là bậc Tuệ giải thoát.
IV. PHÁP SỐ
Bốn quả sa môn.
V. KỆ TỤNG
Kẻ chăn bò vô
trí
Không quan sát
bờ sông
Lùa bò lội chỗ
hiểm
Đàn bò chết
giữa dòng.
Người chăn bò
có trí
Khéo quan sát
bờ sông
Lùa bò qua an ổn
Bò đực dẫn đầu đàn.
Bậc trí khéo
trình bày
Đời sau và đời
này
Cảnh giới của
ác ma
Và phi-ma cảnh
giới.
Bậc Chánh giác,
Trí giả
Biết rõ mọi
thế giới
Cửa bất tử rộng
mở
Hành lộ đến
Niết-bàn.
Những ai tin theo
Phật
Cắt đứt các
trói buộc
Vượt qua dòng
sinh tử
Được an lạc
dài lâu:
Hoặc thành bậc
La-hán
Như bò đực đầu
đàn;
Hoặc thành bậc
Bất hoàn
Như bò đực
khỏe mạnh;
Hoặc thành bậc
Nhất lai
Như bò tơ
đương độ;
Hoặc thành bậc
Dự lưu
Như bê con còn
bú.
Tất cả đệ tử Phật
Đều vượt thoát an toàn
Cắt ngang dòng
sông
Ma Đạt Niết-bàn
an ổn.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
34. Cūḷagopālakasuttaṃ [Mūla]
350. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā vajjīsu viharati ukkacelāyaṃ gaṅgāya nadiyā tīre. Tatra
kho Bhagavā bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū
bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca : ''bhūtapubbaṃ , bhikkhave, māgadhako
gopālako duppaññajātiko, vassānaṃ pacchime māse saradasamaye, asamavekkhitvā gaṅgāya
nadiyā orimaṃ tīraṃ, asamavekkhitvā pārimaṃ tīraṃ, atittheneva gāvo patāresi
uttaraṃ tīraṃ suvidehānaṃ. Atha kho, bhikkhave, gāvo majjhegaṅgāya nadiyā sote
āmaṇḍaliyaṃ karitvā tattheva anayabyasanaṃ āpajjiṃsu. Taṃ kissa hetu? tathā hi
so, bhikkhave, māgadhako gopālako duppaññajātiko, vassānaṃ pacchime māse
saradasamaye, asamavekkhitvā gaṅgāya nadiyā orimaṃ tīraṃ, asamavekkhitvā pārimaṃ
tīraṃ, atittheneva gāvo patāresi uttaraṃ tīraṃ suvidehānaṃ. Evameva kho,
bhikkhave, ye hi keci [ye keci (syā. kaṃ.)] samaṇā vā brāhmaṇā vā akusalā
imassa lokassa akusalā parassa lokassa, akusalā māradheyyassa akusalā
amāradheyyassa, akusalā maccudheyyassa akusalā amaccudheyyassa, tesaṃ ye
sotabbaṃ saddahātabbaṃ maññissanti, tesaṃ taṃ bhavissati dīgharattaṃ ahitāya
dukkhāya.
351. ''Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, māgadhako gopālako sappaññajātiko,
vassānaṃ pacchime māse saradasamaye,
samavekkhitvā gaṅgāya nadiyā orimaṃ tīraṃ, samavekkhitvā pārimaṃ tīraṃ,
tittheneva gāvo patāresi uttaraṃ tīraṃ suvidehānaṃ. So paṭhamaṃ patāresi ye te
usabhā gopitaro gopariṇāyakā. Te tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ chetvā sotthinā pāraṃ
agamaṃsu. Athāpare patāresi balavagāvo dammagāvo. Tepi tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ
chetvā sotthinā pāraṃ agamaṃsu. Athāpare patāresi vacchatare vacchatariyo. Tepi
tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ chetvā sotthinā pāraṃ agamaṃsu. Athāpare patāresi
vacchake kisābalake [kisabalake (sī. syā. pī.)]. Tepi tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ
chetvā sotthinā pāraṃ agamaṃsu. Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, vacchako taruṇako
tāvadeva jātako mātugoravakena vuyhamāno, sopi tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ chetvā
sotthinā pāraṃ agamāsi. Taṃ kissa hetu? tathā
hi so, bhikkhave, māgadhako gopālako sappaññajātiko , vassānaṃ pacchime
māse saradasamaye, samavekkhitvā gaṅgāya nadiyā orimaṃ tīraṃ, samavekkhitvā pārimaṃ tīraṃ,
tittheneva gāvo patāresi uttaraṃ tīraṃ suvidehānaṃ. Evameva kho, bhikkhave, ye
hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā kusalā imassa lokassa kusalā parassa lokassa,
kusalā māradheyyassa kusalā amāradheyyassa, kusalā maccudheyyassa kusalā
amaccudheyyassa, tesaṃ ye sotabbaṃ saddahātabbaṃ maññissanti, tesaṃ taṃ
bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāya.
352. ''Seyyathāpi , bhikkhave, ye te usabhā gopitaro gopariṇāyakā
te tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ chetvā sotthinā pāraṃ agamaṃsu, evameva kho,
bhikkhave, ye te bhikkhū arahanto khīṇāsavā vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā
anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaṃyojanā sammadaññā vimuttā, te tiriyaṃ
mārassa sotaṃ chetvā sotthinā pāraṃ gatā. ''Seyyathāpi te, bhikkhave,
balavagāvo dammagāvo tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ chetvā sotthinā pāraṃ agamaṃsu,
evameva kho, bhikkhave, ye te bhikkhū pañcannaṃ orambhāgiyānaṃ saṃyojanānaṃ
parikkhayā opapātikā tattha parinibbāyino anāvattidhammā tasmā lokā, tepi
tiriyaṃ mārassa sotaṃ chetvā sotthinā pāraṃ gamissanti. ''Seyyathāpi te,
bhikkhave, vacchatarā vacchatariyo tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ chetvā sotthinā pāraṃ
agamaṃsu, evameva kho, bhikkhave, ye te bhikkhū tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā
rāgadosamohānaṃ tanuttā sakadāgāmino sakiṃdeva imaṃ lokaṃ āgantvā dukkhassantaṃ
karissanti, tepi tiriyaṃ mārassa sotaṃ chetvā sotthinā pāraṃ gamissanti.
''Seyyathāpi te, bhikkhave, vacchakā kisābalakā tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ chetvā
sotthinā pāraṃ agamaṃsu, evameva kho, bhikkhave, ye te bhikkhū tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ
parikkhayā sotāpannā avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyanā, tepi tiriyaṃ
mārassa sotaṃ chetvā sotthinā pāraṃ gamissanti.
''Seyyathāpi so, bhikkhave, vacchako taruṇako tāvadeva jātako
mātugoravakena vuyhamāno tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ chetvā sotthinā pāraṃ agamāsi, evameva kho, bhikkhave, ye te
bhikkhū dhammānusārino saddhānusārino, tepi tiriyaṃ mārassa sotaṃ chetvā
sotthinā pāraṃ gamissanti. ''Ahaṃ kho pana, bhikkhave, kusalo imassa lokassa kusalo parassa lokassa, kusalo
māradheyyassa kusalo amāradheyyassa, kusalo maccudheyyassa kusalo
amaccudheyyassa. Tassa mayhaṃ, bhikkhave, ye sotabbaṃ saddahātabbaṃ
maññissanti, tesaṃ taṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyāti. Idamavoca Bhagavā.
Idaṃ vatvā sugato athāparaṃ etadavoca satthā :
''Ayaṃ loko paro loko, jānatā suppakāsito.
Yañca mārena sampattaṃ, appattaṃ yañca maccunā..
''Sabbaṃ lokaṃ abhiññāya, sambuddhena pajānatā.
Vivaṭaṃ amatadvāraṃ, khemaṃ nibbānapattiyā..
''Chinnaṃ pāpimato sotaṃ, viddhastaṃ vinaḷīkataṃ.
Pāmojjabahulā hotha, khemaṃ pattattha [patthetha (syā. kaṃ. ka. aṭṭhakathāyaṃ
saṃvaṇṇetabbapāṭho)] bhikkhavoti..
Cūḷagopālakasuttaṃ niṭṭhitaṃ catutthaṃ.
-ooOoo-
34.
Cūḷagopālakasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
350. Evaṃ me sutanti cūḷagopālakasuttaṃ. Tattha ukkacelāyanti evaṃnāmake
nagare. Tasmiṃ kira māpiyamāne rattiṃ gaṅgāsotato maccho thalaṃ patto. Manussā
celāni telapātiyaṃ temetvā ukkā katvā macchaṃ gaṇhiṃsu. Nagare niṭṭhite tassa
nāmaṃ karonte amhehi nagaraṭṭhānassa gahitadivase celukkāhi maccho gahitoti
ukkacelā-tvevassa nāmaṃ akaṃsu. Bhikkhū āmantesīti yasmiṃ ṭhāne nisinnassa
sabbā gaṅgā pākaṭā hutvā paññāyati, tādise vālikussade gaṅgātitthe
sāyanhasamaye mahābhikkhusaṅghaparivuto nisīditvā mahāgaṅgaṃ paripuṇṇaṃ
sandamānaṃ olokento, – ‘‘atthi nu kho imaṃ gaṅgaṃ nissāya koci pubbe vaḍḍhiparihāniṃ
patto’’ti āvajjitvā, pubbe ekaṃ bālagopālakaṃ nissāya anekasatasahassā gogaṇā
imissā gaṅgāya āvaṭṭe patitvā samuddameva paviṭṭhā, aparaṃ pana paṇḍitagopālakaṃ
nissāya anekasatasahassagogaṇassa sotthi jātā vaḍḍhi jātā ārogyaṃ jātanti
addasa. Disvā imaṃ kāraṇaṃ nissāya bhikkhūnaṃ dhammaṃ desessāmīti cintetvā
bhikkhū āmantesi.
Māgadhakoti magadharaṭṭhavāsī. Duppaññajātikoti nippaññasabhāvo dandho
mahājaḷo. Asamavekkhitvāti asallakkhetvā anupadhāretvā. Patāresīti tāretuṃ
ārabhi. Uttaraṃ tīraṃ suvidehānanti gaṅgāya orime tīre magadharaṭṭhaṃ, pārime
tīre videharaṭṭhaṃ, gāvo magadharaṭṭhato videharaṭṭhaṃ netvā rakkhissāmīti
uttaraṃ tīraṃ patāresi. Taṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘uttaraṃ tīraṃ suvidehāna’’nti.
Āmaṇḍalikaṃ karitvāti maṇḍalikaṃ katvā. Anayabyasanaṃ āpajjiṃsūti avaḍḍhiṃ
vināsaṃ pāpuṇiṃsu, mahāsamuddameva pavisiṃsu. Tena hi gopālakena gāvo
otārentena gaṅgāya orimatīre samatitthañca visamatitthañca oloketabbaṃ assa,
majjhe gaṅgāya gunnaṃ vissamaṭṭhānatthaṃ dve tīṇi vālikatthalāni
sallakkhetabbāni assu. Tathā pārimatīre tīṇi cattāri titthāni, imasmā titthā
bhaṭṭhā imaṃ titthaṃ gaṇhissanti, imasmā bhaṭṭhā imanti. Ayaṃ pana bālagopālako
orimatīre gunnaṃ otaraṇatitthaṃ samaṃ vā visamaṃ vā anoloketvāva majjhe gaṅgāya
gunnaṃ vissamaṭṭhānatthaṃ dve tīṇi vālikatthalānipi asallakkhetvāva paratīre
cattāri pañca uttaraṇatitthāni asamavekkhitvāva atittheneva gāvo otāresi.
Athassa mahāusabho javanasampannatāya ceva thāmasampannatāya ca tiriyaṃ gaṅgāya
sotaṃ chetvā pārimaṃ tīraṃ patvā chinnataṭañceva kaṇṭakagumbagahanañca disvā,
‘‘dubbiniviṭṭhameta’’nti ñatvā dhuragga-patiṭṭhānokāsampi alabhitvā paṭinivatti.
Gāvo mahāusabho nivatto mayampi nivattissāmāti nivattā. Mahato gogaṇassa
nivattaṭṭhāne udakaṃ chijjitvā majjhe gaṅgāya āvaṭṭaṃ uṭṭhapesi. Gogaṇo āvaṭṭaṃ
pavisitvā samuddameva patto. Ekopi goṇo arogo nāma nāhosi. Tenāha – ‘‘tattheva
anayabyasanaṃ āpajjiṃsū’’ti.
Akusalā imassa lokassāti idha loke khandhadhātāyatanesu akusalā achekā,
paralokepi eseva nayo. Māradheyyaṃ vuccati tebhūmakadhammā. Amāradheyyaṃ nava
lokuttaradhammā. Maccudheyyampi tebhūmakadhammāva. Amaccudheyyaṃ nava
lokuttaradhammā. Tattha akusalā achekā. Vacanatthato pana mārassa dheyyaṃ
māradheyyaṃ. Dheyyanti ṭhānaṃ vatthu nivāso gocaro. Maccudheyyepi eseva nayo.
Tesanti tesaṃ evarūpānaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ, iminā cha satthāro dassitāti
veditabbā.
351. Evaṃ kaṇhapakkhaṃ niṭṭhapetvā sukkapakkhaṃ dassento bhūtapubbaṃ,
bhikkhavetiādimāha. Tattha balavagāvoti dantagoṇe ceva dhenuyo ca. Dammagāvoti
dametabbagoṇe ceva avijātagāvo ca. Vacchatareti vacchabhāvaṃ taritvā ṭhite
balavavacche. Vacchaketi dhenupake taruṇavacchake. Kisābalaketi appamaṃsalohite
mandathāme. Tāvadeva jātakoti taṃdivase jātako. Mātugoravakena vuyhamānoti mātā
purato purato huṃhunti goravaṃ katvā saññaṃ dadamānā urena udakaṃ chindamānā
gacchati, vacchako tāya goravasaññāya dhenuyā vā urena chinnodakena gacchamāno
‘‘mātugoravakena vuyhamāno’’ti vuccati.
352. Mārassa sotaṃ chetvāti arahattamaggena mārassa taṇhāsotaṃ chetvā.
Pāraṃ gatāti mahāusabhā nadīpāraṃ viya saṃsārapāraṃ nibbānaṃ gatā. Pāraṃ agamaṃsūti
mahāusabhānaṃ pāraṅgatakkhaṇe gaṅgāya sotassa tayo koṭṭhāse atikkamma ṭhitā
mahāusabhe pāraṃ patte disvā tesaṃ gatamaggaṃ paṭipajjitvā pāraṃ agamaṃsu. Pāraṃ
gamissantīti catumaggavajjhānaṃ kilesānaṃ tayo koṭṭhāse khepetvā ṭhitā idāni
arahattamaggena avasesaṃ taṇhāsotaṃ chetvā balavagāvo viya nadīpāraṃ saṃsārapāraṃ
nibbānaṃ gamissantīti. Iminā nayena sabbavāresu attho veditabbo.
Dhammānusārino, saddhānusārinoti ime dve paṭhamamaggasamaṅgino.
Jānatāti sabbadhamme jānantena buddhena. Suppakāsitoti sukathito. Vivaṭanti
vivaritaṃ. Amatadvāranti ariyamaggo. Nibbānapattiyāti tadatthāya vivaṭaṃ. Vinaḷīkatanti
vigatamānanaḷaṃ kataṃ. Khemaṃ patthethāti kattukamyatāchandena arahattaṃ
patthetha, kattukāmā nibbattetukāmā hothāti attho. ‘‘Patta’tthā’’tipi pāṭho.
Evarūpaṃ satthāraṃ labhitvā tumhe pattāyeva nāmāti attho. Sesaṃ sabbattha
uttānameva. Bhagavā pana yathānusandhināva desanaṃ niṭṭhapesīti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Cūḷagopālakasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
No comments:
Post a Comment