Trường Bộ Kinh - Dìgha Nikàya
Giảng Sư; TT Tuệ Quyền
22. Đại kinh Niệm xứ (Mahàsatipatthana sutta)
4.5 A. Quán Pháp - Quán Tứ Diệu Đế - Quán Khổ Diệu Đế
ĐẠI Ý
Tứ diệu đế là bốn sự thật vi diệu.Gọi như vậy vì những sự lãnh hội bốn sự thật nầy có công năng “chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc.” Cũng gọi là thánh đế hay sự thật trong cái nhìn của các bậc thánh đức.
Tứ đế là tổng quan của giáo pháp Phật Đà được thí dụ như dấu chân voi đủ lớn để dung nạp dấu chân những loài thú rừng khác. Tứ đế cũng là nội dung chính của bài pháp đầu tiên của Đức Phật.
Đặc điểm khác biệt của kinh Đại Niệm Xứ so với kinh Niệm Xứ trong Trung Bộ Kinh là sự quảng diễn sâu rộng về tứ đế trong pháp quán niệm xứ. Đây là đoạn kinh mô tả tứ đế chi tiết nhất trong Tam Tạng giáo điển.
Phần thứ nhất, khổ diệu đế, được trình bày rộng rãi qua thứ tự: sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, ghét phải gần, thương phải xa, muốn không được, và “nói chung là năm thủ uẩn”. (trong bản dịch thiếu hai đoạn nên có phần bổ túc). Đau bệnh không được nêu ở đây.
Đặc biệt của bài kinh nầy là mô tả những hiện tướng làm đối tượng của chánh niệm hơn là cảnh giới của tư duy. Những khúc mắc tâm lý như sầu, bi, khổ, ưu, ai được nhấn mạnh riêng biệt.
Hai đoạn tiếp theo (những buổi học kết tiếp) là sự thật vi diệu về nhân sanh khổ và sự diệt khổ là những trình bày có thể làm ngạc nhiên nhiều người trong giới học Phật.
CHÁNH KINH
386. “puna caparaṁ, bhikkhave, bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati catūsu ariyasaccesu. kathañca pana, bhikkhave, bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati catūsu ariyasaccesu? idha, bhikkhave, bhikkhu ‘idaṁ dukkhan’ti yathābhūtaṁ pajānāti, ‘ayaṁ dukkhasamudayo’ti yathābhūtaṁ pajānāti, ‘ayaṁ dukkhanirodho’ti yathābhūtaṁ pajānāti, ‘ayaṁ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṁ pajānāti.
17. Lại nữa này các Tỷ kheo, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Tứ Diệu Đế
Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Tứ Diệu Đế? Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo như thật biết rõ: "Ðây là khổ"; như thật biết rõ: "Ðây là khổ tập"; như thật biết rõ: "Ðây là khổ diệt"; như thật biết rõ: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt".
387. “katamañca , bhikkhave, dukkhaṁ ariyasaccaṁ? jātipi dukkhā, jarāpi dukkhā, maraṇampi dukkhaṁ, sokaparidevadukkhadomanassupāyāsāpi dukkhā, appiyehi sampayogopi dukkho, piyehi vippayogopi dukkho {appiyehi ... pe ... vippayogo dukkhotipāṭho ceva taṁniddeso ca katthaci na dissati, aṭṭhakathāyaṁpi taṁsaṁvaṇṇanā natthi}, yampicchaṁ na labhati tampi dukkhaṁ, saṅkhittena pañcupādānakkhandhā {pañcupādānakkhandhāpi (ka.)} dukkhā.
18. Và này các Tỷ kheo, thế nào Khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, chết là khổ, sầu, bi. khổ, ưu, não là khổ, ghét phải gần, thương phải xa, muốn không được là khổ, tóm lại Năm Thủ uẩn là khổ.
388. “katamā ca, bhikkhave, jāti? yā tesaṁ tesaṁ sattānaṁ tamhi tamhi sattanikāye jāti sañjāti okkanti abhinibbatti khandhānaṁ pātubhāvo āyatanānaṁ paṭilābho, ayaṁ vuccati, bhikkhave, jāti.
Này các Tỷ kheo thế nào là sanh? Mỗi mỗi hạng chúng sanh trong từng giới loại, sự xuất sản, xuất sanh, xuất thành, tái sanh của họ, sự xuất hiện các uẩn, sự hoạch đắc các căn. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là sanh.
389. “katamā ca, bhikkhave, jarā? yā tesaṁ tesaṁ sattānaṁ tamhi tamhi sattanikāye jarā jīraṇatā khaṇḍiccaṁ pāliccaṁ valittacatā āyuno saṁhāni indriyānaṁ paripāko, ayaṁ vuccati, bhikkhave, jarā.
Này các Tỷ kheo, thế nào là già? Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới hạn, sự niên lão, sự hủy hoại, trạng thái rụng răng, trạng thái tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ rút ngắn, các căn hủy hoại. Này các Tỷ kheo, như vậy là già.
390. “katamañca, bhikkhave, maraṇaṁ? yaṁ {aṭṭhakathā oloketabbā} tesaṁ tesaṁ sattānaṁ tamhā tamhā sattanikāyā cuti cavanatā bhedo antaradhānaṁ maccu maraṇaṁ kālakiriyā khandhānaṁ bhedo kaḷevarassa nikkhepo jīvitindriyassupacchedo, idaṁ vuccati, bhikkhave, maraṇaṁ.
Này các Tỷ kheo, thế nào là chết? Mỗi mỗi hạng chúng sanh trong từng giới loại, sự tạ thế, sự từ trần, thân hoại, sự diệt vong, sự chết, sự tử vong, thời đã đến, các uẩn đã tận diệt, sự vất bỏ tử thi. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là chết.
391. “katamo ca, bhikkhave, soko? yo kho, bhikkhave, aññataraññatarena byasanena samannāgatassa aññataraññatarena dukkhadhammena phuṭṭhassa soko socanā socitattaṁ antosoko antoparisoko, ayaṁ vuccati, bhikkhave, soko.
Này các Tỷ kheo, thế nào gọi là sầu? Này các Tỷ kheo, với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự sầu, sự sầu lo, sự sầu muộn, nội sầu, mọi khổ sầu của người ấy. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là sầu.
392. “katamo ca, bhikkhave, paridevo? yo kho, bhikkhave, aññataraññatarena byasanena samannāgatassa aññataraññatarena dukkhadhammena phuṭṭhassa ādevo paridevo ādevanā paridevanā ādevitattaṁ paridevitattaṁ, ayaṁ vuccati, bhikkhave paridevo.
Này các Tỷ kheo, thế nào là bi? Này các Tỷ kheo, với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác ; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự bi ai, sự bi thảm, sự than van, sự than khóc, sự bi thán, sự bi thống của người ấy. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là bi.
393. “katamañca , bhikkhave, dukkhaṁ? yaṁ kho, bhikkhave, kāyikaṁ dukkhaṁ kāyikaṁ asātaṁ kāyasamphassajaṁ dukkhaṁ asātaṁ vedayitaṁ, idaṁ vuccati, bhikkhave, dukkhaṁ.
Này các Tỷ kheo, thế nào là khổ? Này các Tỷ kheo, sự đau khổ về thân, sự không sảng khoái về thân, sự đau khổ do thân cảm thọ, sự không sảng khoái do thân cảm thọ. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là khổ.
394. “katamañca , bhikkhave, domanassaṁ? yaṁ kho, bhikkhave, cetasikaṁ dukkhaṁ cetasikaṁ asātaṁ manosamphassajaṁ dukkhaṁ asātaṁ vedayitaṁ, idaṁ vuccati, bhikkhave, domanassaṁ.
Này các Tỷ kheo, thế nào là ưu? Này các Tỷ kheo, sự đau khổ về tâm, sự không sảng khoái về tâm, sự đau khổ do tâm cảm thọ, sự không sảng khoái do tâm cảm thọ. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là ưu.
395. “katamo ca, bhikkhave, upāyāso? yo kho, bhikkhave, aññataraññatarena byasanena samannāgatassa aññataraññatarena dukkhadhammena phuṭṭhassa āyāso upāyāso āyāsitattaṁ upāyāsitattaṁ, ayaṁ vuccati, bhikkhave, upāyāso.
Này các Tỷ kheo, thế nào là não? Này các Tỷ kheo, với những ai gặp tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự áo não, sự bi não, sự thất vọng, sự tuyệt vọng của người ấy. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là não.
396. “katamo ca, bhikkhave, appiyehi sampayogo dukkho? idha yassa te honti aniṭṭhā akantā amanāpā rūpā saddā gandhā rasā phoṭṭhabbā dhammā, ye vā panassa te honti anatthakāmā ahitakāmā aphāsukakāmā ayogakkhemakāmā, yā tehi saddhiṁ saṅgati samāgamo samodhānaṁ missībhāvo, ayaṁ vuccati, bhikkhave, appiyehi sampayogo dukkho.
Này các Tỷ kheo, thế nào là ghét phải gần? Ở đây có những sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp đáng ghê sợ, nhờm gớm, gây bực phiền; có những người thù nghịch muốn tạo điều bất lợi, muốn gây tổn thương, gây phiền não, gây đe dọan đối với mình. Sự gặp gỡ, chung chạ, kết nối đối với người hay vật không ưa thích gọi là ghét phải gần.
397. “katamo ca, bhikkhave, piyehi vippayogo dukkho? idha yassa te honti iṭṭhā kantā manāpā rūpā saddā gandhā rasā phoṭṭhabbā dhammā, ye vā panassa te honti atthakāmā hitakāmā phāsukakāmā yogakkhemakāmā mātā vā pitā vā bhātā vā bhaginī vā mittā vā amaccā vā ñātisālohitā vā, yā tehi saddhiṁ asaṅgati asamāgamo asamodhānaṁ amissībhāvo, ayaṁ vuccati, bhikkhave, piyehi vippayogo dukkho.
Này các Tỷ kheo, thế nào là thương phải xa?Ở đây có những sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp khả lạc, khả ái, khả hỷ; có những người thân thương muốn tạo điều lợi ích, muốn giúp đỡ, an ủi, bảo vệ cho mình. Sự ngăn cách, vắng thiếu, chia lìa đối với người hay vật thân yêu gọi là thương phải xa.
398. “katamañca , bhikkhave, yampicchaṁ na labhati tampi dukkhaṁ? jātidhammānaṁ, bhikkhave, sattānaṁ evaṁ icchā uppajjati — ‘aho vata mayaṁ na jātidhammā assāma, na ca vata no jāti āgaccheyyā’ti. na kho panetaṁ icchāya pattabbaṁ, idampi yampicchaṁ na labhati tampi dukkhaṁ. jarādhammānaṁ, bhikkhave, sattānaṁ evaṁ icchā uppajjati — ‘aho vata mayaṁ na jarādhammā assāma, na ca vata no jarā āgaccheyyā’ti. na kho panetaṁ icchāya pattabbaṁ, idampi yampicchaṁ na labhati tampi dukkhaṁ. byādhidhammānaṁ, bhikkhave, sattānaṁ evaṁ icchā uppajjati ‘aho vata mayaṁ na byādhidhammā assāma, na ca vata no byādhi āgaccheyyā’ti. na kho panetaṁ icchāya pattabbaṁ, idampi yampicchaṁ na labhati tampi dukkhaṁ. maraṇadhammānaṁ, bhikkhave, sattānaṁ evaṁ icchā uppajjati ‘aho vata mayaṁ na maraṇadhammā assāma, na ca vata no maraṇaṁ āgaccheyyā’ti. na kho panetaṁ icchāya pattabbaṁ, idampi yampicchaṁ na labhati tampi dukkhaṁ. sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhammānaṁ, bhikkhave, sattānaṁ evaṁ icchā uppajjati ‘aho vata mayaṁ na sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhammā assāma, na ca vata no sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhammā āgaccheyyun’ti. na kho panetaṁ icchāya pattabbaṁ, idampi yampicchaṁ na labhati tampi dukkhaṁ.
Này các Tỷ kheo, thế nào là cầu bất đắc khổ? Này các Tỷ kheo, chúng sanh bị sanh chi phối, khởi sự mong cầu: "Mong rằng ta khỏi bị sanh chi phối, mong rằng ta khỏi phải đi thác sanh". Lời cầu mong ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là cầu bất đắc khổ! Này các Tỷ kheo, chúng sanh bị già chi phối... chúng sanh bị bệnh chi phối... chúng sanh bị chết chi phối.. chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối, khởi sự mong cầu: "Mong rằng ta khỏi bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối! Mong rằng ta khỏi đương chịu sầu, bi, khổ, ưu, não". Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy là cầu bất đắc khổ.
399. “katame ca, bhikkhave, saṅkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā? seyyathidaṁ — rūpupādānakkhandho, vedanupādānakkhandho, saññupādānakkhandho, saṅkhārupādānakkhandho, viññāṇupādānakkhandho. ime vuccanti, bhikkhave, saṅkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā. idaṁ vuccati, bhikkhave, dukkhaṁ ariyasaccaṁ.
Này các Tỷ kheo, như thế nào là tóm lại, Năm Thủ uẩn là khổ? Như Sắc thủ uẩn, Thọ thủ uẩn, Tưởng thủ uẩn, Hành thủ uẩn, Thức thủ uẩn. Này các Tỷ kheo, như vậy tóm lại Năm Thủ uẩn là khổ.
ÌI Thảo Luận: TT Tuệ Siêu điều hành
Thảo luận 1. Tại sao Quán Khổ Đế được Đức Phật đưa vào Quán Pháp Niệm Xứ? Quán khổ như vậy có tác dụng như thế nào để có lợi ích cho sự tu tập?. Hành thiền mà quán Khổ Đế có làm mất chánh niệm hay không? - TT Pháp Tân
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment