Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 14/6/2020
152.
Kinh Căn Tu Tập
(Indriyabhāvanā
Sutta)
Chữ indriya dịch là
căn ở đây chỉ cho các giác quan như nhãn căn, nhĩ căn…. Bà la môn Uttara đến diện
kiến Đức Phật. Khi được hỏi thầy của Uttara dạy thế nào về sự tu tập các căn
thì vị nầy trả lời là không thấy, không nghe…. Sau đó Đức Phật đã dạy về sự tu
tập đối với các căn trong Phật Pháp. Pháp
thoại chứa đựng sự phân tích chi tiết về sự quán chiếu chánh niệm đối với các sáu
căn. Đây là bài kinh cuối cùng của Trung Bộ và chứa đựng nhiều hướng dẫn về pháp
hành.
1201. Chỉ đơn thuần
đóng kín các căn môn không phải là phương cách tu tập
Đôi khi người ta cũng
đồng ý là các giác quan là cửa ngõ của phiền não hệ luỵ nhưng không phải vì vậy
mà đưa ra phương cách tốt để tự chế:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn
ở Kajangalā, tại Mukheluvana. Rồi thanh niên Bà-la-môn Uttara, đệ tử của
Pāsāriya đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào
đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
liền ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với thanh niên Bà-la-môn Uttara, đệ
tử của Pāsāriya đang ngồi một bên:
-- Này Uttara,
Bà-la-môn Pāsāriya có thuyết về căn tu tập cho các đệ tử không?
-- Thưa Tôn giả
Gotama, Bà-la-môn Pasariya có thuyết về căn tu tập cho các đệ tử.
-- Nhưng này Uttara,
Bà-la-môn Pāsāriya thuyết về căn tu tập cho các đệ tử như thế nào?
-- Ở đây, thưa Tôn
giả Gotama, không nên thấy sắc với mắt, không nên nghe tiếng với tai.
Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Pāsāriya thuyết căn tu tập cho
các đệ tử.
-- Nếu là như vậy,
này Uttara, theo như lời nói của Bà-la-môn Pāsāriya, người mù sẽ là
người có căn tu tập, người điếc sẽ là người có căn tu tập. Này
Uttara, người mù không thấy sắc với mắt, người điếc không nghe tiếng
với tai.
Khi được nói vậy,
thanh niên Bà-la-môn Uttara đệ tử của Pāsāriya ngồi im lặng, hổ thẹn,
thụt vai, mặt cúi gầm xuống, trầm ngâm, không nói năng gì.
1202. Muốn nhiếp hộ
các căn phải hiểu rõ các căn
Một viên tướng giỏi
giữa thành không đơn giản là khoá kín các cổng ra vào mà còn phải hiểu nhiều về
chiến lược, chiến thuật phòng thủ:
Rồi Thế Tôn, sau
khi biết được Uttara, đệ tử của Pāsāriya im lặng, hổ thẹn, thụt vai,
mặt cúi gầm xuống, trầm ngâm, không nói năng gì, liền gọi Tôn giả Ānanda
và nói:
-- Này Ānanda,
Bà-la-môn Pāsāriya thuyết cho các đệ tử căn tu tập một cách khác; nhưng
trong giới luật các bậc Thánh, vô thượng căn tu tập khác như vậy.
-- Bạch Thế Tôn,
nay đã đến thời ! Bạch Thiện Thệ nay đã đến thời để Thế Tôn thuyết vô
thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh. Sau khi nghe Thế Tôn, các
vị Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
-- Vậy này Ānanda,
hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng. -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ānanda vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Này Ānanda, thế
nào là vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh? Ở đây, này Ānanda,
vị Tỷ- kheo, mắt thấy sắc, khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi
lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: "Khả ý này khởi lên
nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này
khởi lên, vì là hữu vị nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù
diệu, tức là xả". Cho nên, dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất
khả ý hay khả ý và bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và
xả tồn tại. Này Ānanda, như một người có mắt, sau khi mở mắt, lại
nhắm mắt lại, hay sau khi nhắm mắt, lại mở mắt ra; cũng vậy, như vậy
là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với
cái gì đã khởi lên, khả ý bất khả ý hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều
đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh,
này Ānanda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các sắc do
mắt nhận thức.
Lại nữa, này Ānanda,
Tỷ-kheo tai nghe tiếng khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên
khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: "Khả ý này khởi lên nơi
ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi
lên, vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu,
tức là xả". Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý,
hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn
tại. Này Ananda, như một người lực sĩ có thể búng tay một cách dễ
dàng; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy
là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý
bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn tại.
Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu
tập đối với các tiếng do tai nhận thức.
Lại nữa, này Ānanda,
Tỷ-kheo do mũi ngửi hương khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi
lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: "Khả ý này khởi lên
nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả này khởi lên. Cái này
khởi lên, vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù
diệu, tức là xả". Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất
khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả
tồn tại. Này Ānanda, như những giọt nước mưa chảy trượt đi, không có
đọng lại trên một lá sen hơi chúc xuống; cũng vậy, như vậy là tốc độ,
như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi
lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt
(trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ānanda,
như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các hương do mũi nhận
thức.
Lại nữa, này Ānanda,
Tỷ-kheo lưỡi nếm vị khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên
khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: "Khả ý này khởi lên nơi
ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi
lên, vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tinh, cái này là thù diệu,
tức là xả". Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý,
hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn
tại. Này Ānanda, như một người lực sĩ có thể nhổ ra một cách dễ dàng
cục đờm đọng lại trên đầu lưỡi; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như
vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên,
khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong
vị ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ānanda, như vậy
gọi là vô thượng căn tu tập đối với các vị do lưỡi nhận thức.
Lại nữa, này Ānanda,
Tỷ-kheo thân cảm xúc khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả
ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: "Khả ý này khởi lên nơi ta,
bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên,
vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức
là xả". Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý hay khả
ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này
Ānanda, ví như một người có thể co duỗi cánh tay được co lại của
mình, hay co lại cánh tay duỗi ra của mình; cũng vậy, như vậy là tốc độ,
như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi
lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt
(trong vị ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ānanda,
như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các xúc do thân nhận
thức.
Lại nữa, này Ānanda,
Tỷ-kheo, ý nhận thức các pháp khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý. Khởi
lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: "khả ý này khởi lên
nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này
khởi lên, vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù
diệu, tức là xả". Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất
khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và
xả tồn tại. Này Ānanda, như một người cho nhỏ hai ba giọt nước trong
một cái chậu bằng sắt đun nóng mỗi ngày, này Ānanda, các giọt nước rơi
rất chậm nhưng chúng bị tiêu diệt, biến đi rất mau, cũng vậy, như vậy
là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với
cái gì đã khởi lên khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều
đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này
Ānanda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các pháp do ý nhận
thức.
Như vậy, này Ānanda,
là vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh.
1203. Sự tu tập các
căn của bậc thánh hữu học
Các bậc thánh sơ quả,
nhị quả, tam quả tuy không còn bị sa đoạ bởi căn cảnh nhưng vẫn còn thích, không
thích trong một số trường hợp (…) dù vậy các ngài có tàm quý và nhàm chán đối với
sự giao động của tâm:
Và này Ānanda, thế
nào là đạo lộ của vị hữu học? Ở đây, này Ānanda, Tỷ-kheo mắt thấy
sắc khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vì
rằng có khả ý khởi lên, có bất khả ý khởi lên, có khả ý bất khả ý
khởi lên, vị ấy ưu não, tàm quý, ghét bỏ. Sau khi tai nghe tiếng..., mũi
ngửi hương..., lưỡi nếm vị..., thân cảm xúc..., sau khi ý nhận thức
pháp, vị ấy khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất
khả ý . Vì rằng có khả ý khởi lên, có bất khả ý khởi lên, có khả ý bất
khả ý khởi lên, vị ấy ưu não, tàm quý, ghét bỏ. Như vậy, này Ānanda là
đạo lộ của vị hữu học.
1204. Một vị đã tu tập
viên mãn (A la hán) đối với các căn môn
Theo
Patiṣambhidāmagga (Vô Ngại Giải Đạo)
giải thích sự phân biệt cảnh khả ý, không khả ý của các bậc lậu tận A la hán có
năm trường hợp gọi là năng lực siêu nhiên của bậc thánh (ariya
iddhi): 1. phân biệt khả ý, không khả ý khi khởi sanh từ tâm (mong cho
chúng sanh được những điều khả ý). 2. Phân biệt khả ý, không khả ý khi quán sát
tánh vô thường (như khi thấy chúng sanh lúc trẻ đẹp, lúc già nua). 3.
Quán sát vui khổ để
thấy sự nhất thể của cảm thọ. 4. Quán sát sự sanh diệt của hiện tượng tương phản
nhưng cùng bản chất. 5. Quán sát vui khổ, khả ý và bất khả ý để thể nhập không
tánh. Tất cả những cảm nhận nầy hết sức tế nhị và tuỳ tâm chứ không do chi phối
bởi căn cảnh:
Và này Ānanda, thế
nào là bậc Thánh, các căn được tu tập? Ở đây, này Ānanda, sau khi mắt
thấy sắc, vị Tỷ-kheo khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên
khả ý bất khả ý. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: "Mong rằng tôi an
trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật) yếm ly", thời ở
đây, vị ấy an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước
muốn: "Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm ly đối với (sự vật)
không yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu
vị ấy khởi lên ước muốn; "Mong rằng tôi an trú với tưởng không
yếm ly đối với (sự vật) yếm ly và (sự vật) không yếm ly", thời
ở đây, vị ấy an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước
muốn: "Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm ly", đối với (sự vật)
không yếm ly và (sự vật) yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với
tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: "Mong rằng tôi sau
khi từ bỏ cả hai yếm ly và không yếm ly, an trú xả, chánh niệm, tỉnh
giác ", thời ở đây, vị ấy an trú xả chánh niệm, tỉnh giác.
Lại nữa, này Ānanda,
Tỷ-kheo sau khi tai nghe tiếng..., mũi ngửi hương..., lưỡi nếm vị...,
thân cảm xúc..., ý nhận thức pháp, vị Tỷ-kheo khởi lên khả ý, khởi lên
bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn:
"Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật)
yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng không yếm ly. Nếu
vị ấy khởi lên ước muốn: "Mong rằng ta an trú với tưởng yếm ly
(đối với sự vật) không yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với
tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: "Mong rằng tôi an
trú với tưởng không yếm ly (đối với sự vật) yếm ly và (sự vật) không
yếm ly", thời ở đây, vị ấy sống an trú với tưởng không yếm ly.
Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: "Mong rằng tôi an trú với tưởng
yếm ly (đối với sự vật) không yếm ly và sự vật yếm ly", thời ở
đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn:
"Mong rằng tôi, sau khi từ bỏ cả hai yếm ly và không yếm ly, an trú
xả, chánh niệm, tỉnh giác", thời ở đây, vị ấy an trú xả, chánh niệm,
tỉnh giác.
Như vậy, này Ānanda,
là bậc Thánh, các căn được tu tập.
1205. Đức Phật giảng
dạy cặn kẽ giáo pháp với mục đích duy nhất: vì lợi ích cho các đệ tử.
Đức Thế Tôn không để
lại kho tàng giáo pháp to lớn vì ưa chuộng triết lý hay vì muốn thu thập đông đảo
tín đồ mà duy nhất vì tâm đại từ, đại bi với chúng sanh:
Như vậy, này Ānanda,
Ta đã giảng vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh, đã giảng
đạo lộ của bậc hữu học, đã giảng bậc Thánh, các căn được tu tập.
Này Ānanda, những gì một bậc Ðạo sư phải làm, vì lòng từ mẫn, mưu cầu
hạnh phúc cho các đệ tử, những điều ấy Ta đã làm cho các Ông. Này Ānanda,
đây là những gốc cây, đây là những chỗ trống. Này Ānanda, hãy Thiền tư,
chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau. Ðây là những lời giáo giới
của Ta cho các Ông.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 152 [tóm
tắt]
Kinh Căn Tu Tập
(Indriyabhāvanā Sutta)
(M.iii,
298)
Đức Thế Tôn hỏi
Bà-la-môn Uttara về cách tu tập các căn trong đạo Bà-la-môn. Sau khi được
thanh niên Uttara trả lời rằng không nên thấy sắc với mắt, nghe tiếng
với tai, đức Phật dạy, vậy thì người mù, người điếc cũng được gọi
là những bậc tu hành trong đạo Bà-la- môn, vì chúng không nghe, không thấy.
Rồi Thế Tôn giảng thế nào là căn tu tập trong giáo pháp của Ngài.
Khi mắt thấy sắc,
khởi lên vui hoặc khổ, hoặc không vui không khổ, vị ấy biết rằng cái
gì khởi lên đều thuộc hữu vi, thô tướng, chỉ có một cái thù diệu là
xả. Do đó, trong khi vị ấy chỉ có xả tồn tại. Khi tai nghe tiếng, mũi
ngửi, lưỡi nếm... cũng vậy. Đó gọi là vô thượng căn tu tập.
Đạo lộ của một
vị hữu học là khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng,... có khả ý, bất khả
ý khởi lên, vị ấy ưu não, tàm quý, ghét bỏ.Đối với bậc Thánh, các căn
được tu tập là khi mắt thấy sắc... khởi lên khả ý, vị ấy có thể an
trú với tưởng không chán ghét đối với vật không đáng chán, chán ghét đối
với vật không đáng chán, hoặc từ bỏ cả hai, chán và không chán, an trú
xả, chánh niệm tỉnh giác. Vị ấy có thể thực hành được điều này một
cách như ý muốn, không có khó khăn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 152 [dàn
ý]
Kinh Căn Tu Tập
(Indriyabhāvanā Sutta)
(M.iii,
298)
A.
Duyên khởi:
Không thỏa mãn với
pháp môn căn tu tập của Bà-la-môn Prsariya, Thế Tôn tuyên bố pháp môn vô thượng
căn tu tập trong giới luật của bậc Thánh, khác xa với pháp môn của Bà-la-môn.
Theo lời yêu cầu của Tôn giả nanda, Thế Tôn thuyết giảng vô thượng căn tu tập
trong giáo pháp của Ngài.
B. Chánh kinh:
I. Vô thượng căn tu tập
trong giới luật của bậc Thánh.
II. Thế nào là đạo lộ
của vị hữu học.
III. Thế nào là bậc
Thánh các căn được tu tập.
IV. Sau khi giảng các
đề tài trên, Thế Tôn khuyên Tôn giả Ānanda và các Tỷ-kheo tu tập thiền định, chớ
có phóng dật.
C. Kết luận:
Tôn giả Ānanda hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 152 [toát
yếu]
Kinh Căn Tu Tập
(Indriyabhāvanā Sutta)
(M.iii,
298)
I. Toát yếu
The Development of
the Faculties.
The Buddha explains
the supreme development of the control over the sense faculties and the
arahants’ mastery over his perceptions.
Sự tu tập các giác
quan. Phật giải thích cách tu tập tối thượng là kiểm soát các giác quan và làm
chủ các tưởng (nhận thức) nơi vị A-la-hán.
II. Tóm tắt
Thanh niên Uttara đệ
tử của bà-la-môn Pāsāriya đi đến hầu thăm Phật. Phật hỏi thầy anh dạy đệ tử tu
tập căn như thế nào. Thanh niên đáp, mắt đừng thấy sắc, tai đừng nghe tiếng...
Bà-la-môn thuyết giảng về tu tập căn như vậy. Phật dạy nếu thế thì hóa ra mù và
điếc là những người tu tập căn cả sao. Thanh niên cúi đầu hổ thẹn vì không trả
lời được.
Khi ấy Phật gọi tôn
giả A-nan mà dạy rằng, trong giới luật của các bậc thánh, vô thượng căn tu tập
không phải như vậy. Tôn giả xin Phật thuyết giảng. Phật dạy vô thượng căn tu tập
là khi mắt thấy sắc, ý khởi lên hoặc vui, khổ, hoặc khổ, hoặc dửng dưng vị ấy đều
biết rõ nhưng cũng biết thêm rằng, cái gì có khởi lên vì là hữu vi nên thô. Chỉ
có cái này là thực, thù diệu, đó là xả. Cho nên dù khởi lên bất cứ cảm thọ nào
trong ba loại ấy, tất cả đều đoạn diệt chỉ tồn tại xả. Khi tai nghe, mũi ngửi,
lưỡi nếm, thân xúc, ý nhận thức cũng đều như vậy, tất cả cảm thọ đều đoạn diệt
nơi vị ấy, chỉ còn lại xả, như nước không đọng trên lá sen chúc xuống.
Ðạo lộ của bậc hữu học
là, mỗi khi các căn xúc tiếp với trần cảnh tự thấy mình còn khởi một trong ba
loại cảm thọ ấy mà không xả bỏ, thì lấy làm hổ thẹn. Còn bậc thánh thì, khi muốn
an trú tưởng yểm ly (đối với vật khả ái) hoặc tưởng không yểm ly (như khởi tâm
từ trước sự vật đáng chán ghét) hoặc tưởng xả, đều có thể làm được như ý muốn.
Ðây là sự tu tập căn đối với bậc thánh. Vậy, này A-nan, Ta đã giảng thế nào là
vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc thánh, thế nào là đạo lộ bậc hữu học,
thế nào là các căn đã được tu tập nơi bậc thánh. Ðây là những gốc cây, chỗ trống,
các người hãy thiền tư chớ phóng dật mà phải hối hận về sau.
III. Chú giải
Kinh này phân biệt giữa
lối tu tập còn chấp tướng và lối tu vô tướng. Chấp tướng là lối tu nhắm mắt
bưng tai, không dám tiếp xúc với đời vì sợ nổi tham, sân... vì quan niệm nhiễm
ô là do ngoại cảnh. Phật dạy kinh này cốt cho thấy cách ấy sai. Vì ô nhiễm là ở
tâm, không phải ở nơi con mắt hay sắc đẹp. Cho nên Phật nhấn mạnh lối tu có trí
tuệ, là khi mắt thấy sắc, phải ý thức sự ưa, ghét, hay dửng dưng đang khởi lên,
lại rõ biết ba loại cảm thọ ấy vô thường vì sẽ thay đổi, chấm dứt. Như vậy thì
không đến nỗi yêu mê man tàn tật hay ghét cay ghét đắng. Thái độ quá khích này
là do vô ý thức. Khi có ý thức thì chỉ chứng kiến tất cả nhưng cái tôi không
can dự. Ấy gọi là giải thoát nhờ tuệ, không cần tránh né sắc thanh, không cần
trốn đời để vào trong núi. Ðấy là tu tập giác quan cách cao nhất.
Bất cứ gì cũng không
thể khuấy động người ấy, như nước không đọng lại trên lá sen, lá môn. Tu tập
theo kiểu ấy khi chưa thành tựu (có khi cũng còn nổi ưa ghét) thì gọi là hữu học,
vì còn phải tự chế, tự tri. Khi đã thành tựu, hoàn toàn làm chủ yêu ghét thì gọi
là tự tại, thái độ của một bậc A-la-hán vô học. Khi cần yêu, vị ấy yêu. Như gặp
ai làm hại mình, đánh giết mình, vị ấy có thể khởi lên niềm thương yêu lai
láng, như thái độ của chúa Giê su khi bị đóng đinh. Khi cần chán ghét, vị ấy
chán ghét. Ấy là khi sắc đẹp tiếng hay muốn đến dẫn dụ mình, thì khởi chán ghét
để dù thấy nghe cũng như không.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Phật hỏi Ut-ta-ra
Ðệ tử bà-la-môn
Thầy anh dạy những gì
Về các căn tu tập?
Thanh niên đáp lời rằng
Con mắt chớ thấy sắc,
Tai đừng nghe âm
thanh...
Tu tập căn là vậy.
Phật dạy nếu thế thì
Hóa ra mù và điếc
Lại chính là những
người
Tu tập căn tối thượng?
Thanh niên không đáp
được
Phật bèn gọi A-nan
Dạy cách tu tập căn
Trong giới luật bậc
thánh:
Khi con mắt thấy sắc,
Ý có thể khởi lên
Vui, khổ, hoặc dửng
dưng
Vị ấy đều biết rõ.
Nhưng cũng biết thêm
rằng,
Cái gì có khởi lên
Vì hữu vi nên thô.
Chỉ là xả thù diệu.
Cho nên dù khởi lên
Bất cứ cảm thọ nào
Tất cả đều đoạn diệt
Chỉ tồn tại tâm xả.
Khi tai nghe, mũi ngửi,
Lưỡi nếm, thân xúc
giác,
Ý nhận thức các pháp
Cũng đều như vậy cả
Ðoạn diệt mọi cảm thọ
Chỉ còn duy nhất xả,
Như nước không đọng lại
Trên lá sen chúc xuống.
Một vị hữu học đạo
Mỗi khi căn xúc cảnh
Tự thấy mình còn khởi
Một trong ba cảm thọ
Mà không xả bỏ liền,
Thì lấy làm hổ thẹn.
Còn đối với bậc thánh
Thì có thể tùy nghi:
Hoặc trú tưởng yểm ly
(đối với vật khả ái)
Hoặc tưởng không yểm
ly
(như là khởi tâm từ
trước sự vật đáng
chán)
Hoặc ý tưởng xả bỏ,
Không gì không thể
làm.
Ðây là tu tập căn
Ở nơi một bậc thánh.
Vậy, này hỡi A-nan,
Vô thượng căn tu tập
Trong giới luật bậc
thánh,
Ðã được Ta giảng dạy
Đạo lộ tu tập căn
Hữu học và vô học,
Ta cũng đã nói xong.
Hãy đến nơi gốc cây,
Hoặc chỗ nào vắng vẻ,
Mà tư duy tu tập
Chớ phóng dật buông
lung
Ðể về sau hối hận.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
152. Indriyabhāvanāsuttaṃ
[Mūla]
453. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā gajaṅgalāyaṃ
[kajaṅgalāyaṃ (sī. pī.), kajjaṅgalāyaṃ (syā. kaṃ.)] viharati suveḷuvane [veḷuvane
(syā. kaṃ.), mukheluvane (sī. pī.)]. Atha kho uttaro māṇavo pārāsiviyantevāsī
[pārāsariyantevāsī (sī. pī.), pārāsiriyantevāsī (syā. kaṃ.)] yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ
sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ
nisinnaṃ kho uttaraṃ māṇavaṃ pārāsiviyantevāsiṃ Bhagavā etadavoca :
''deseti, uttara, pārāsiviyo brāhmaṇo sāvakānaṃ indriyabhāvananti? ''deseti,
bho gotama, pārāsiviyo brāhmaṇo sāvakānaṃ indriyabhāvananti. ''Yathā kathaṃ
pana, uttara, deseti pārāsiviyo brāhmaṇo sāvakānaṃ indriyabhāvananti? ''idha,
bho gotama, cakkhunā rūpaṃ na passati, sotena saddaṃ na suṇāti : evaṃ kho, bho
gotama, deseti pārāsiviyo brāhmaṇo sāvakānaṃ indriyabhāvananti. ''Evaṃ sante
kho, uttara, andho bhāvitindriyo bhavissati, badhiro bhāvitindriyo bhavissati
yathā pārāsiviyassa brāhmaṇassa vacanaṃ. Andho hi, uttara, cakkhunā rūpaṃ na
passati, badhiro sotena saddaṃ na suṇātīti. Evaṃ vutte, uttaro māṇavo
pārāsiviyantevāsī tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto
appaṭibhāno nisīdi. Atha kho Bhagavā uttaraṃ māṇavaṃ pārāsiviyantevāsiṃ
tuṇhībhūtaṃ maṅkubhūtaṃ pattakkhandhaṃ
adhomukhaṃ pajjhāyantaṃ appaṭibhānaṃ viditvā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi :
''aññathā kho, ānanda, deseti pārāsiviyo brāhmaṇo sāvakānaṃ indriyabhāvanaṃ,
aññathā ca panānanda, ariyassa vinaye anuttarā indriyabhāvanā hotīti. ''Etassa,
Bhagavā, kālo etassa, sugata, kālo yaṃ Bhagavā ariyass vinaye anuttaraṃ indriyabhāvanaṃ deseyya.
Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantīti. ''Tenahānanda, suṇāhi, sādhukaṃ manasi
karohi bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhanteti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi.
Bhagavā etadavoca :
454. ''Kathañcānanda,
ariyassa vinaye anuttarā indriyabhāvanā hoti? idhānanda, bhikkhuno cakkhunā
rūpaṃ disvā uppajjati manāpaṃ, uppajjati amanāpaṃ, uppajjati manāpāmanāpaṃ. So
evaṃ pajānāti : 'uppannaṃ kho me idaṃ manāpaṃ, uppannaṃ amanāpaṃ, uppannaṃ
manāpāmanāpaṃ . Tañca kho saṅkhataṃ oḷārikaṃ paṭiccasamuppannaṃ. Etaṃ santaṃ
etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ : upekkhāti. Tassa taṃ uppannaṃ manāpaṃ uppannaṃ amanāpaṃ
uppannaṃ manāpāmanāpaṃ nirujjhati upekkhā saṇṭhāti. Seyyathāpi, ānanda,
cakkhumā puriso ummīletvā vā nimīleyya, nimīletvā vā ummīleyya evameva kho,
ānanda, yassa kassaci evaṃsīghaṃ evaṃtuvaṭaṃ
evaṃappakasirena uppannaṃ manāpaṃ uppannaṃ amanāpaṃ uppannaṃ
manāpāmanāpaṃ nirujjhati, upekkhā saṇṭhāti : ayaṃ vuccatānanda, ariyassa vinaye anuttarā indriyabhāvanā
cakkhuviññeyyesu rūpesu.
455. ''Puna caparaṃ,
ānanda, bhikkhuno sotena saddaṃ sutvā uppajjati manāpaṃ, uppajjati amanāpaṃ,
uppajjati manāpāmanāpaṃ. So evaṃ pajānāti : 'uppannaṃ kho me idaṃ manāpaṃ,
uppannaṃ amanāpaṃ, uppannaṃ manāpāmanāpaṃ. Tañca kho saṅkhataṃ oḷārikaṃ paṭiccasamuppannaṃ.
Etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ : upekkhāti. Tassa taṃ uppannaṃ manāpaṃ
uppannaṃ amanāpaṃ uppannaṃ manāpāmanāpaṃ nirujjhati upekkhā saṇṭhāti.
Seyyathāpi, ānanda, balavā puriso appakasireneva accharaṃ [accharikaṃ (syā. kaṃ.
pī. ka.)] pahareyya evameva kho, ānanda, yassa kassaci evaṃsīghaṃ evaṃtuvaṭaṃ
evaṃappakasirena uppannaṃ manāpaṃ uppannaṃ amanāpaṃ uppannaṃ manāpāmanāpaṃ
nirujjhati, upekkhā saṇṭhāti : ayaṃ vuccatānanda, ariyassa vinaye anuttarā
indriyabhāvanā sotaviññeyyesu saddesu.
456. ''Puna caparaṃ,
ānanda, bhikkhuno ghānena gandhaṃ ghāyitvā uppajjati manāpaṃ, uppajjati amanāpaṃ,
uppajjati manāpāmanāpaṃ. So evaṃ pajānāti : 'uppannaṃ kho me idaṃ manāpaṃ,
uppannaṃ amanāpaṃ, uppannaṃ manāpāmanāpaṃ. Tañca kho saṅkhataṃ oḷārikaṃ paṭiccasamuppannaṃ.
Etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ : upekkhāti. Tassa taṃ uppannaṃ manāpaṃ
uppannaṃ amanāpaṃ uppannaṃ manāpāmanāpaṃ nirujjhati upekkhā saṇṭhāti.
Seyyathāpi, ānanda , īsakaṃpoṇe [īsakapoṇe (sī. syā. kaṃ. pī.), īsakaphaṇe (sī.
aṭṭha0), ''majjhe uccaṃ hutvāti ṭīkāya saṃsanditabbā] padumapalāse [paduminipatte (sī. syā. kaṃ. pī.)]
udakaphusitāni pavattanti, na saṇṭhanti evameva kho, ānanda, yassa kassaci evaṃsīghaṃ
evaṃtuvaṭaṃ evaṃappakasirena uppannaṃ manāpaṃ uppannaṃ amanāpaṃ uppannaṃ
manāpāmanāpaṃ nirujjhati, upekkhā saṇṭhāti : ayaṃ vuccatānanda, ariyassa vinaye
anuttarā indriyabhāvanā ghānaviññeyyesu gandhesu.
457. ''Puna caparaṃ,
ānanda, bhikkhuno jivhāya rasaṃ sāyitvā uppajjati manāpaṃ, uppajjati amanāpaṃ, uppajjati manāpāmanāpaṃ. So evaṃ
pajānāti : 'uppannaṃ kho me idaṃ manāpaṃ, uppannaṃ amanāpaṃ, uppannaṃ
manāpāmanāpaṃ. Tañca kho saṅkhataṃ oḷārikaṃ paṭiccasamuppannaṃ. Etaṃ santaṃ etaṃ
paṇītaṃ yadidaṃ : upekkhāti. Tassa taṃ uppannaṃ manāpaṃ uppannaṃ amanāpaṃ
uppannaṃ manāpāmanāpaṃ nirujjhati upekkhā saṇṭhāti . Seyyathāpi, ānanda, balavā
puriso jivhagge kheḷapiṇḍaṃ saṃyūhitvā appakasirena vameyya [sandhameyya (ka.)]
evameva kho, ānanda, yassa kassaci evaṃsīghaṃ evaṃtuvaṭaṃ evaṃappakasirena
uppannaṃ manāpaṃ uppannaṃ amanāpaṃ uppannaṃ manāpāmanāpaṃ nirujjhati, upekkhā
saṇṭhāti : ayaṃ vuccatānanda, ariyassa vinaye anuttarā indriyabhāvanā
jivhāviññeyyesu rasesu.
458. ''Puna caparaṃ,
ānanda, bhikkhuno kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā uppajjati manāpaṃ, uppajjati
amanāpaṃ, uppajjati manāpāmanāpaṃ. So evaṃ pajānāti : 'uppannaṃ kho me idaṃ
manāpaṃ, uppannaṃ amanāpaṃ, uppannaṃ
manāpāmanāpaṃ. Tañca kho saṅkhataṃ oḷārikaṃ paṭiccasamuppannaṃ. Etaṃ
santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ : upekkhāti. Tassa taṃ uppannaṃ manāpaṃ uppannaṃ
amanāpaṃ uppannaṃ manāpāmanāpaṃ nirujjhati upekkhā saṇṭhāti. Seyyathāpi,
ānanda, balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ
samiñjeyya evameva kho, ānanda, yassa kassaci evaṃsīghaṃ evaṃtuvaṭaṃ evaṃappakasirena
uppannaṃ manāpaṃ uppannaṃ amanāpaṃ uppannaṃ manāpāmanāpaṃ nirujjhati, upekkhā
saṇṭhāti : ayaṃ vuccatānanda, ariyassa vinaye anuttarā indriyabhāvanā
kāyaviññeyyesu phoṭṭhabbesu.
459. ''Puna caparaṃ,
ānanda, bhikkhuno manasā dhammaṃ viññāya uppajjati manāpaṃ, uppajjati amanāpaṃ,
uppajjati manāpāmanāpaṃ. So evaṃ pajānāti : 'uppannaṃ kho me idaṃ manāpaṃ,
uppannaṃ amanāpaṃ, uppannaṃ manāpāmanāpaṃ. Tañca kho saṅkhataṃ oḷārikaṃ paṭiccasamuppannaṃ.
Etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ : upekkhāti. Tassa taṃ uppannaṃ manāpaṃ
uppannaṃ amanāpaṃ uppannaṃ manāpāmanāpaṃ nirujjhati upekkhā saṇṭhāti.
Seyyathāpi, ānanda, balavā puriso divasaṃsantatte [divasasantette (sī.)] ayokaṭāhe
dve vā tīṇi vā udakaphusitāni nipāteyya. Dandho, ānanda, udakaphusitānaṃ
nipāto, atha kho naṃ khippameva parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya evameva kho,
ānanda, yassa kassaci evaṃsīghaṃ evaṃtuvaṭaṃ evaṃappakasirena uppannaṃ manāpaṃ
uppannaṃ amanāpaṃ uppannaṃ manāpāmanāpaṃ
nirujjhati, upekkhā saṇṭhāti : ayaṃ vuccatānanda, ariyassa vinaye anuttarā
indriyabhāvanā manoviññeyyesu dhammesu. Evaṃ kho, ānanda, ariyassa vinaye
anuttarā indriyabhāvanā hoti.
460. ''Kathañcānanda ,
sekho hoti pāṭipado? idhānanda, bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā uppajjati manāpaṃ,
uppajjati amanāpaṃ, uppajjati manāpāmanāpaṃ. So
tena uppannena manāpena uppannena amanāpena uppannena manāpāmanāpena aṭṭīyati
harāyati jigucchati. Sotena saddaṃ sutvā
- pe - ghānena gandhaṃ ghāyitvā..., jivhāya rasaṃ sāyitvā... kāyena phoṭṭhabbaṃ
phusitvā... manasā dhammaṃ viññāya uppajjati manāpaṃ, uppajjati amanāpaṃ,
uppajjati manāpāmanāpaṃ. So tena uppannena manāpena uppannena amanāpena
uppannena manāpāmanāpena aṭṭīyati harāyati jigucchati. Evaṃ kho, ānanda, sekho
hoti pāṭipado.
461. ''Kathañcānanda,
ariyo hoti bhāvitindriyo? idhānanda, bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā uppajjati
manāpaṃ, uppajjati amanāpaṃ, uppajjati manāpāmanāpaṃ. So sace ākaṅkhati : 'paṭikūle
[paṭikkūle (sabbattha)] appaṭikūlasaññī vihareyyanti, appaṭikūlasaññī tattha
viharati. Sace ākaṅkhati : 'appaṭikūle paṭikūlasaññī vihareyyanti, paṭikūlasaññī
tattha viharati. Sace ākaṅkhati : 'paṭikūle ca appaṭikūle ca appaṭikūlasaññī vihareyyanti, appaṭikūlasaññī tattha
viharati. Sace ākaṅkhati : 'appaṭikūle ca paṭikūle ca paṭikūlasaññī
vihareyyanti, paṭikūlasaññī tattha viharati. Sace ākaṅkhati : 'paṭikūlañca appaṭikūlañca
tadubhayaṃ abhinivajjetvā upekkhako vihareyyaṃ sato sampajānoti, upekkhako
tattha viharati sato sampajāno.
462. ''Puna caparaṃ,
ānanda, bhikkhuno sotena saddaṃ sutvā - pe - ghānena gandhaṃ ghāyitvā...
jivhāya rasaṃ sāyitvā... kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā... manasā dhammaṃ viññāya
uppajjati manāpaṃ, uppajjati amanāpaṃ, uppajjati manāpāmanāpaṃ. So sace ākaṅkhati
: 'paṭikūle appaṭikūlasaññī vihareyyanti, appaṭikūlasaññī tattha viharati. Sace
ākaṅkhati : 'appaṭikūle paṭikūlasaññī vihareyyanti, paṭikūlasaññī tattha
viharati. Sace ākaṅkhati : 'paṭikūle ca appaṭikūle ca appaṭikūlasaññī
vihareyyanti, appaṭikūlasaññī tattha viharati. Sace ākaṅkhati : 'appaṭikūle ca
paṭikūle ca paṭikūlasaññī vihareyyanti, paṭikūlasaññī tattha viharati. Sace ākaṅkhati
: 'paṭikūlañca appaṭikūlañca tadubhayampmppi
abhinivajjetvā upekkhako vihareyyaṃ sato sampajānoti, upekkhako tattha
viharati sato sampajāno. Evaṃ kho, ānanda, ariyo hoti bhāvitindriyo.
463. ''Iti kho, ānanda, desitā mayā ariyassa vinaye
anuttarā indriyabhāvanā, desito sekho pāṭipado, desito ariyo bhāvitindriyo . Yaṃ
kho, ānanda, satthārā karaṇīyaṃ sāvakānaṃ hitesinā anukampakena anukampaṃ
upādāya, kataṃ vo taṃ mayā. Etāni, ānanda, rukkhamūlāni, etāni suññāgārāni,
jhāyathānanda, mā pamādattha, mā pacchā vippaṭisārino ahuvattha. Ayaṃ vo amhākaṃ
anusāsanīti. Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā ānando bhagavato bhāsitaṃ
abhinandīti.
Indriyabhāvanāsuttaṃ
niṭṭhitaṃ dasamaṃ.
Saḷāyatanavaggo niṭṭhito
pañcamo.
Tassuddānaṃ :
Anāthapiṇḍiko channo,
puṇṇo nandakarāhulā.
Chachakkaṃ saḷāyatanikaṃ,
nagaravindeyyasuddhikā.
Indriyabhāvanā cāpi,
vaggo ovādapañcamoti..
Idaṃ vaggānamuddānaṃ
:
Devadahonupado ca,
suññato ca vibhaṅgako.
Saḷāyatanoti vaggā,
uparipaṇṇāsake ṭhitāti..
Uparipaṇṇāsakaṃ
samattaṃ.
Tīhi paṇṇāsakehi paṭimaṇḍito
sakalo
Majjhimanikāyo samatto.
-ooOoo-
152.
Indriyabhāvanāsuttavaṇṇanā [Atthakathā]
453. Evaṃ me sutanti
indriyabhāvanāsuttaṃ. Tattha gajaṅgalāyanti evaṃnāmake nigame. Suveḷuvaneti
suveḷu nāma ekā rukkhajāti, tehi sañchanno mahāvanasaṇḍo, tattha viharati. Cakkhunā
rūpaṃ na passati, sotena saddaṃ na suṇātīti cakkhunā rūpaṃ na passitabbaṃ,
sotena saddo na sotabboti evaṃ desetīti adhippāyena vadati.
Aññathā ariyassa
vinayeti iminā bhagavā
attano sāsane asadisāya indriyabhāvanāya kathanatthaṃ ālayaṃ akāsi. Athāyasmā
ānando – ‘‘satthā ālayaṃ dasseti, handāhaṃ imissaṃ parisati bhikkhusaṅghassa
indriyabhāvanākathaṃ kāremī’’ti satthāraṃ yācanto etassa bhagavātiādimāha.
Athassa bhagavā indriyabhāvanaṃ kathento tena hānandātiādimāha.
454. Tatha yadidaṃ upekkhāti
yā esā vipassanupekkhā nāma, esā santā esā paṇītā, atappikāti attho. Iti ayaṃ
bhikkhu cakkhudvāre rūpārammaṇampi iṭṭhe ārammaṇe manāpaṃ, aniṭṭhe amanāpaṃ,
majjhatte manāpāmanāpañca cittaṃ, tassa rajjituṃ vā dussituṃ vā muyhituṃ vā
adatvāva pariggahetvā vipassanaṃ majjhatte ṭhapeti. Cakkhumāti
sampannacakkhuvisuddhanetto. Cakkhābādhikassa hi uddhaṃ ummīlananimmīlanaṃ na
hoti, tasmā so na gahito.
456. Īsakaṃpoṇeti rathīsā viya
uṭṭhahitvā ṭhite.
461. Paṭikūle appaṭikūlasaññītiādīsu
paṭikūle mettāpharaṇena vā dhātuso upasaṃhārena vā appaṭikūlasaññī viharati.
Appaṭikūle asubhapharaṇena vā aniccato upasaṃhārena vā paṭikūlasaññī viharati.
Sesapadesupi eseva nayo. Tadubhayaṃ abhinivajjetvāti majjhatto hutvā
viharitukāmo kiṃ karotīti? Iṭṭhāniṭṭhesu āpāthagatesu neva somanassiko na
domanassiko hoti. Vuttañhetaṃ –
‘‘Kathaṃ paṭikūle
appaṭikūlasaññī viharati? Aniṭṭhasmiṃ vatthusmiṃ mettāya vā pharati, dhātuto vā
upasaṃharati, evaṃ paṭikūle appaṭikūlasaññī viharati. Kathaṃ appaṭikūle paṭikūlasaññī
viharati? Iṭṭhasmiṃ vatthusmiṃ asubhāya vā pharati, aniccato vā upasaṃharati,
evaṃ appaṭikūle paṭikūlasaññī viharati. Kathaṃ paṭikūle ca appaṭikūle ca appaṭikūlasaññī
viharati? Aniṭṭhasmiñca iṭṭhasmiñca vatthusmiṃ mettāya vā pharati, dhātuto vā
upasaṃharati. Evaṃ paṭikūle ca appaṭikūle ca appaṭikūlasaññī viharati. Kathaṃ
appaṭikūle ca paṭikūle ca paṭikūlasaññī viharati? Iṭṭhasmiñca aniṭṭhasmiñca
vatthusmiṃ asubhāya vā pharati, aniccato vā upasaṃharati, evaṃ appaṭikūle ca paṭikūle
ca paṭikūlasaññī viharati. Kathaṃ paṭikūle ca appaṭikūle ca tadubhayaṃ
abhinivajjetvā upekkhako viharati sato sampajāno? Idha bhikkhu cakkhunā rūpaṃ
disvā neva sumano hoti na dummano, upekkhako viharati sato sampajāno…pe… manasā
dhammaṃ viññāya neva sumano hoti na dummano, upekkhako viharati sato sampajāno.
Evaṃ paṭikūle ca appaṭikūle ca tadubhayaṃ abhinivajjetvā upekkhako viharati
sato sampajāno’’ti.
Imesu ca tīsu nayesu
paṭhamanaye manāpaṃ amanāpaṃ manāpāmanāpanti saṃkilesaṃ vaṭṭati, nikkilesaṃ vaṭṭati.
Dutiyanaye saṃkilesaṃ, tatiyanaye saṃkilesanikkilesaṃ vaṭṭati. Puna vuttaṃ –
‘‘paṭhamaṃ saṃkilesaṃ vaṭṭati, dutiyaṃ saṃkilesampi nikkilesampi, tatiyaṃ
nikkilesameva vaṭṭatī’’ti. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Indriyabhāvanāsuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
Pañcamavaggavaṇṇanā
niṭṭhitā.
Uparipaṇṇāsaṭṭhakathā
niṭṭhitā.
Yo cāyaṃ
‘‘sabbadhammamūlapariyāyaṃ vo, bhikkhave, desissāmī’’ti āraddhattā ādikalyāṇo,
majjhe ‘‘suttaṃ geyyaṃ veyyākaraṇaṃ gāthā udānaṃ itivuttakaṃ jātakaṃ
abbhutadhammaṃ vedalla’’nti vacanato majjhekalyāṇo, sanniṭṭhāne ‘‘ariyo
bhāvitindriyo’’ti vacanato pariyosānakalyāṇoti tividhakalyāṇo
majjhimanikāyo ‘‘mahāvipassanā nāmāya’’nti vutto, so vaṇṇanāvasena samatto
hoti.
Nigamanakathā
Ettāvatā ca –
Āyācito sumatinā
therena bhadantabuddhamittena,
Pubbe mayūradūtapaṭṭanamhi
saddhiṃ nivasantena.
Paravādavidhaṃsanassa
majjhimanikāyaseṭṭhassa,
Yamahaṃ papañcasūdanimaṭṭhakathaṃ
kātumārabhiṃ.
Sā hi mahāaṭṭhakathāya
sāramādāya niṭṭhitā esā,
Sattuttarasatamattāya
pāḷiyā bhāṇavārehi.
Ekūnasaṭṭhimatto
visuddhimaggopi bhāṇavārehi,
Atthappakāsanatthāya
āgamānaṃ kato yasmā.
Tasmā tena sahā’yaṃ
gāthāgaṇanānayena aṭṭhakathā,
Samadhikachasaṭṭhisatamiti
viññeyyā bhāṇavārānaṃ.
Samadhikachasaṭṭhisatapamāṇamiti
bhāṇavārato esā,
Samayaṃ pakāsayantī
mahāvihārādhivāsīnaṃ.
Mūlaṭṭhakathāsāraṃ
ādāya mayā imaṃ karontena,
Yaṃ paññamupacitaṃ
tena hotu loko sadā sukhitoti.
Paramavisuddhasaddhābuddhivīriyappaṭimaṇḍitena
sīlācārajjavamaddavādiguṇasamudayasamuditena
sakasamayasamayantaragahanajjhogāhanasamatthena paññāveyyattiyasamannāgatena
tipiṭakapariyattippabhede sāṭṭhakathe satthu sāsane appaṭihatañāṇappabhāvena
mahāveyyākaraṇena karaṇasampattijanitasukhaviniggatamadhurodāravacanalāvaṇṇayuttena
yuttamuttavādinā vādīvarena mahākavinā pabhinnapaṭisambhidāparivāre chaḷabhiññādippabhedaguṇappaṭimaṇḍite
uttarimanussadhamme suppatiṭṭhitabuddhīnaṃ theravaṃsappadīpānaṃ therānaṃ
mahāvihāravāsīnaṃ vaṃsālaṅkārabhūtena vipulavisuddhabuddhinā buddhaghosoti
garūhi gahitanāmadheyyena therena katā ayaṃ papañcasūdanī nāma
majjhimanikāyaṭṭhakathā –
Tāva tiṭṭhatu lokasmiṃ,
lokanittharaṇesinaṃ;
Dassentī kulaputtānaṃ,
nayaṃ diṭṭhivisuddhiyā.
Buddhoti nāmampi,
suddhacittassa tādino;
Lokamhi lokajeṭṭhassa,
pavattati mahesinoti.
Papañcasūdanī nāma
Majjhimanikāyaṭṭhakathā sabbākārena niṭṭhitā.
-ooOoo-
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment