Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 24/6/2020
8. Kinh Ðoạn Giảm (Sallekha Sutta)
Tên
kinh được gọi là Kinh Ðoạn Giảm vì Đức
Phật dạy về sự khác biệt giữa sallekha do Ngài giảng dạy so sánh với quan niệm
của ngoại giáo. Từ vựng sallekha là một danh từ khó chuyển ngữ. Người Ấn Độ xưa
cũng như nay thường dùng từ sallekha để chỉ cho pháp tu khổ hạnh hoặc thiền
định. Trong y khoa giống như chữ trị liệu (therapy). Trong Phật học dịch thoát
có thể là pháp tu hành để đoạn giảm phiền não. Tại chùa Kỳ Viên, Savatthi, Tôn
giả Maha Cunda đến bạch với Đức Phật về cạm bẩy chấp thủ đối với bản ngã và vũ
trụ. Tôn giả muốn hỏi rằng vị tỳ kheo với tác ý ban đầu có thể đoạn trừ sở kiến
ấy chăng. Câu trả lời của Đức Phật tương đối dài. Ngài dạy rằng nếu ở bất cứ
trường hợp nào, dù tiềm ẩn hay hiện hành, vì tỳ kheo tâm niệm "Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi" thời có thể đoạn trừ sở kiến ấy. Đức Phật cũng dạy thêm là sự chứng
đắc tám thiền chứng không hẳn là đoạn tận những phiền não. Sau đó Ngài dạy về
pháp đoạn giảm phiền não theo Phật Pháp.
030.
Những chấp thủ không phải được đoạn tận cuối hành trình tu tập mà phải buông bỏ
trong từng giai đoạn
Tôn
giả Mahà Cunda là một trong những đại đệ tử của Đức Phật. Ngài là em ruột Tôn
giả Sàriputta. Có lúc Ngài cũng làm thị giả ngắn hạn của Đức Phật. Là một vị có
trình độ cao về thiền chứng và thần thông. Sau khi Tôn giả Sàriputta viên tịch
tại sanh quán của mình chính Tôn giả Mahà Cunda là người mang xá lợi, y, bát và
đồ lọc nước của bậc thượng thủ thinh văn về chùa Kỳ Viên trình lên Đức Phật.
Trong
bài kinh nầy Tôn giả Cunda đã bạch hỏi Đức Phật ở giai đoạn nào chấp thủ được từ
bỏ:
Như vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn
ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahā Cunda, vào
buổi chiều từ chỗ độc cư Thiền tịnh đứng dậy, đến tại chỗ Thế
Tôn, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một
bên, Tôn giả Mahā Cunda bạch Thế Tôn:
-- Bạch
Thế Tôn, có những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên
hệ đến ngã luận, hoặc liên hệ đến thế giới luận. Bạch Thế Tôn,
đối với một Tỷ-kheo, có tác ý ngay từ ban đầu, thời có thể đoạn
trừ những sở kiến ấy hay không, có thể xả ly những sở kiến ấy hay
không?
-- Này
Cunda, những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ đến
ngã luận, hoặc liên hệ đến thế giới luận, - chỗ nào những sở kiến
này tiềm ẩn, và chỗ nào những sở kiến này hiện hành, chỉ có cách
như thật quán sát chúng với trí tuệ rằng: "Cái này không phải
của tôi, cái này không phải là tôi, cài này không phải tự ngã
của tôi", có vậy thời có sự đoạn trừ những sở kiến ấy, có sự
xả ly những sở kiến ấy.
031.
Những thiền chứng cần được tu tập để thành tựu nhưng để đi tới thì cũng đồng
nghĩa là phải bỏ lại
Bốn
thiền sắc giới:
Sơ
thiền sắc giới: ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ.
Nhị
thiền sắc giới: diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.
Tam
thiền sắc giới: ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các
bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú.
Tứ
thiền sắc giới: xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền
thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
[đối
với sở chứng mỗi tầng thiền sắc giới thì đây là cạm bẫy]
Vị ấy
có thể nghĩ "Ta sống với hạnh đoạn giảm". Này Cunda, các (quả chứng)
ấy không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là hiện
tại lạc trú (diṭṭhadhammasukhavihārā) trong giới luật của bậc Thánh.
Bốn
thiền vô sắc giới:
Không
vô biên xứ thuộc thiền vô sắc: vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại
tưởng, không tác ý đối với dị tưởng. Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô
biên", chứng và trú Không vô biên xứ.
Thức
vô biên xứ thuộc thiền vô sắc: vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng:
"Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ.
Vô sở
hữu thuộc thiền vô sắc: vượt lên mọi
Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu
xứ.
Phi
tưởng phi phi tưởng xứ thuộc vô sắc: vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú
Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
[đối
với sở chứng mỗi tầng thiền vô sắc giới thì đây là cạm bẫy]
Vị ấy
có thể nghĩ: "Ta sống với hạnh đoạn giảm". Này Cunda, các (quả chứng)
ấy không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là tịch
tịnh trú (Santā ete vihārā) trong giới luật của bậc Thánh.
Đây
là vấn đề cần nói rõ ràng:
a. Thiền chứng (jhàna) sắc giới và vô sắc
giới đối với căn nguyên phiền não được như “đá đè cỏ” không diệt được tận gốc.
(Chỉ có tuệ giác của bốn đạo mới đoạn tận kiết sử)
b. Thiền chỉ (samatha) trong Phật Pháp được
dạy đi chung với thiền quán (vipassana). Kinh Đoạn Giảm nêu rõ điểm nầy.
c. Đức Phật không phủ nhận giá trị của các
thiền chứng nhưng nhấn mạnh đó không phải là cứu cánh. Người học Phật phải rất
thận trọng.
Này
Cunda, sự kiện này xảy ra khi ở đây một Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện
pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, với tầm với tứ. Vị ấy có thể nghĩ: "Ta sống với hạnh
đoạn giảm". Này Cunda, các (quả chứng) ấy không gọi là đoạn
giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là hiện tại
lạc trú trong giới luật của bậc Thánh.
Này
Cunda, sự kiện này xảy ra khi ở đây, một Tỷ-kheo diệt tầm và tứ,
chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Vị ấy có thể nghĩ: "Ta
sống với hạnh đoạn giảm". Này Cunda, các (quả chứng) ấy không
gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là
hiện tại lạc trú trong giới luật của bậc Thánh.
Này
Cunda, sự kiện này xảy ra khi ở đây, một Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh
niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy có thể nghĩ
"Ta sống với hạnh đoạn giảm". Này Cunda, các (quả chứng) ấy
không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được
gọi là hiện tại lạc trú trong giới của bậc Thánh.
Này
Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ
ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không
lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy có thể nghĩ: "Ta sống với hạnh
đoạn giảm". Này Cunda, các (quả chứng) ấy không gọi là đoạn
giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là hiện tại
lạc trú trong giới luật của bậc Thánh.
Này
Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng,
diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng.
Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú
Không vô biên xứ. Vị ấy có thể tự nghĩ: "Ta sống với hạnh
đoạn giảm". Này Cunda, các (quả chứng) ấy không gọi là đoạn
giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là tịch tịnh
trú trong giới luật của bậc Thánh.
Này
Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô
biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức
vô biên xứ. Vị ấy có thể nghĩ: "Ta sống với hạnh đoạn
giảm". Này Cunda, các (quả chứng) ấy không gọi là đoạn giảm
trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là tịch tịnh trú
trong giới luật của bậc Thánh.
Này
Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô
biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng và trú Vô
sở hữu xứ. Vị ấy có thể nghĩ: "Ta sống với hạnh đoạn
giảm". Này Cunda, các (quả chứng) ấy không gọi là đoạn giảm
trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là tịch tịnh trú
trong giới luật của bậc Thánh.
Này
Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu
xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị ấy có thể nghĩ:
"Ta sống với hạnh đoạn giảm". Này Cunda, các (quả chứng) ấy
không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được
gọi là tịch tịnh trú trong giới luật của bậc Thánh.
032. Trong cuộc sống hằng ngày phải có thái độ dứt khoát từ
bỏ đối với các pháp bất thiện
Bài kinh nầy có bảng lược kê lớn nhất và tương đối đặc biệt
cấu uế gồm 44 pháp: 1. Tác hại; 2. Sát sinh; 3. Lấy của không cho; 4. Tà hạnh;
5. Nói dối; 6. Hai lưỡi; 7. Nói độc ác; 8. Nói phù phiếm; 9. Tham; 10. Sân; 11.
Tà kiến; 12. Tà tư duy; 13. Tà ngữ; 14. Tà nghiệp; 15. Tà mạng; 16. Tà tinh
tiến; 17. Tà niệm; 18. Tà định; 19. Tà trí; 20. Tà giải thoát; 21. Hôn trầm;
22. Trạo hối; 23. Nghi hoặc; 24. Phẫn nộ; 25. Oán hận; 26. Hư ngụy; 27. Não
hại; 28. Tật đố; 29. Xan tham; 30. Man trá; 31. Khi cuống; 32. Ngoan cố; 33. Manh
động; 34. Mạn; 35. Quá mạn; 36. Cang ngạnh; 37. Ác hữu; 38. Phóng dật; 39. Bất
tín; 40. Vô tàm; 41. Vô quý; 42. Dốt nát; 43. Biếng nhác; 44. Thất niệm; 45.
Liệt tuệ; 46. Nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, khó hành xả.
Phần lớn những pháp bất thiện nầy nầy trong thập ác, thập
tà, năm triền cái, mười sáu tuỳ phiền não, bảy pháp hạ liệt.
Có năm cách để đoạn giảm bất thiện pháp:
a. Quyết định tánh về thiện (sallekhapariyāyo)
b. “Phát bồ đề tâm” (cittuppādapariyāyo)
c. Thực hành pháp đối lập (parikkamanapariyāyo)
d. Hướng thượng (uparibhāgapariyāyo)
e. Tự giác mới có thể giác tha (parinibbānapariyāyo)
033.
Quyết định tánh về thiện (sallekhapariyāyo)?
Là sự
khẳng định không chấp nhận bất thiện pháp:
Này
Cunda, ở đây đoạn giảm được các Người thực hiện khi các Người
nghĩ:
(1) "Những kẻ khác
có thể là những người làm hại, chúng ta ở đây không thể là những
người làm hại", như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(2)
"Những kẻ khác có thể sát sanh, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ sát
sanh", như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(3)
"Những kẻ khác có thể lấy của không cho, chúng ta ở đây sẽ từ
bỏ lấy của không cho”, như vậy đoạn
giảm được thực hiện.
(4)
"Những kẻ khác có thể không phạm hạnh, chúng ta ở đây sẽ sống
phạm hạnh", như vậy như vậy đoạn giảm được thực
hiện.
(5)
"Những kẻ khác có thể nói láo, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói
láo. như
vậy đoạn giảm được thực hiện.
(6)
"Những kẻ khác có thể nói hai lưỡi, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ
nói hai lưỡi" như vậy đoạn giảm được thực
hiện.
(7)
"Những kẻ khác có thể nói lời độc ác", chúng ta ở đây sẽ
từ bỏ nói lời độc ác", như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(8)
"Những kẻ khác có thể nói lời phù phiếm, chúng ta ở đây sẽ
từ bỏ nói lời phù phiếm", như vậy đoạn
giảm được thực hiện.
(9)
"Những kẻ khác có thể tham dục, chúng ta ở đây không tham dục, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(10) "Những kẻ khác có thể có sân tâm,
chúng ta ở đây sẽ không có sân tâm, như vậy đoạn giảm được thực
hiện.
(11) "Những kẻ khác có thể có tà kiến,
chúng ta ở đây sẽ có chánh kiến, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(12)
"Những kẻ khác có thể có tà tư duy, chúng ta ở đây sẽ có chánh
tư duy", như vậy đoạn giảm được thực
hiện.
(13)
"Những kẻ khác có thể có tà ngữ, chúng ta ở đây sẽ có chánh
ngữ", như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(14)
"Những kẻ khác có thể có tà nghiệp, chúng ta ở đây sẽ có
chánh nghiệp”, như vậy đoạn giảm được thực
hiện.
(15)
"Những kẻ khác có thể có tà mạng, chúng ta ở đây sẽ có chánh
mạng", , như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(16)
"Những kẻ khác có thể có tà tinh tấn, chúng ta ở đây sẽ có
chánh tinh tấn, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(17)
"Những kẻ khác có thể có tà niệm, chúng ta ở đây sẽ có chánh
niệm, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(18)
"Những kẻ khác có thể có tà định, chúng ta ở đây sẽ có chánh
định”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(19)
"Những kẻ khác có thể có tà trí, chúng ta ở đây sẽ có chánh
trí, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(20)
"Những kẻ khác có thể có tà giải thoát, chúng ta ở đây sẽ có
chánh giải thoát”, như vậy đoạn giảm được thực
hiện.
(21)
"Những kẻ khác có thể bị hôn trầm thụy miên chi phối, chúng ta
ở đây sẽ không có hôn trầm thụy miên chi phối”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(22)
"Những kẻ khác có thể có trạo hối, chúng ta ở đây sẽ không
có trạo hối”, như vậy đoạn giảm được thực
hiện.
(23)
"Những kẻ khác có thể nghi hoặc, chúng ta ở đây sẽ trừ diệt
nghi hoặc”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(24)
"Những kẻ khác có thể phẫn nộ, chúng ta ở đây sẽ không có
phẫn nộ”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(25)
"Những kẻ khác có thể oán hận, chúng ta ở đây sẽ không có
oán hận”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(26)
"Những kẻ khác có thể hư ngụy, chúng ta ở đây sẽ không hư
ngụy”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(27)
"Những kẻ khác có thể não hại, chúng ta ở đây sẽ không não
hại”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(28)
"Những kẻ khác có thể tật đố, chúng ta ở đây sẽ không tật đố”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(29)
"Những kẻ khác có thể xan tham, chúng ta ở đây sẽ không xan tham”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(30)
"Những kẻ khác có thể man trá, chúng ta ở đây sẽ không man trá”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(31)
"Những kẻ khác có thể khi cuống, chúng ta ở đây sẽ không khi
cuống”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(32)
"Những kẻ khác có thể ngoan cố, chúng ta ở đây không thể ngoan
cố”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(33)
"Những kẻ khác có thể cấp tháo, chúng ta ở đây không thể cấp
tháo”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(34)
"Những kẻ khác có thể khó nói (nan thuyết), chúng ta ở đây sẽ
dễ nói”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(35)
"Những kẻ khác có thể là ác hữu, chúng ta ở đây sẽ là thiện
hữu”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(36)
"Những kẻ khác có thể phóng dật, chúng ta ở đây sẽ không
phóng dật”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(37)
"Những kẻ khác có thể là bất tín, chúng ta ở đây sẽ có tín
tâm”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(38)
"Những kẻ khác có thể không xấu hổ, chúng ta ở đây sẽ có xấu
hổ”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(39)
"Những kẻ khác có thể không sợ hãi, chúng ta ở đây sẽ có sợ
hãi”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(40)
"Những kẻ khác có thể nghe ít, chúng ta ở đây sẽ nghe nhiều”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(41)
"Những kẻ khác có thể biếng nhác, chúng ta ở đây sẽ siêng
năng”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(42)
"Những kẻ khác có thể thất niệm, chúng ta ở đây sẽ an trú
niệm”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(43)
"Những kẻ khác có thể liệt tuệ, chúng ta ở đây thành tựu tuệ”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(44)
"Những kẻ khác có thể nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh
khó hành xả, chúng ta ở đây sẽ không nhiễm thế tục, không cố chấp
tư kiến, tánh dễ hành xả" như vậy đoạn giảm được thực hiện.
034.
“Phát bồ đề tâm” (cittuppādapariyāyo)
Là sự
phát tâm dõng mãnh theo con đường thiện:
Này
Cunda, Ta nói rằng sự khởi tâm rất có lợi ích cho các thiện pháp,
còn nói gì thân nghiệp, khẩu nghiệp phù hợp (với tâm ý). Do vậy,
này Cunda:
(1)
"Những kẻ khác có thể làm hại, chúng ta ở đây sẽ không làm
hại", cần phải khởi tâm như vậy.
(2)
"Những kẻ khác có thể sát sanh, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ sát
sanh", cần phải khởi tâm như vậy...(như trên)...
(3) "Những
kẻ khác có thể lấy của không cho, chúng ta ở
đây sẽ từ bỏ lấy của không cho", cần phải
khởi tâm như vậy...(như trên)...
(4-43) "Những kẻ khác...(như trên)...
(44)
"Những kẻ khác có thể nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh
khó hành xả, chúng ta ở đây sẽ không nhiễm thế tục, không cố chấp
tư kiến, tánh dễ hành xả", cần phải phát tâm như vậy.
035.
Thực hành pháp đối lập (parikkamanapariyāyo)
Là sự
thực hành những pháp ngược lại với bất thiện pháp:
Này
Cunda, giống như một con đường không bằng phẳng, có một con đường
bằng phẳng khác đối trị. Này Cunda, giống như một bến nước không
bằng phẳng, có một bến nước bằng phẳng khác đối trị. Cũng vậy
này Cunda:
(1) Ðối với con
người làm hại, có sự không làm hại đối trị.
(2) Ðối với con
người sát sanh, có từ bỏ sát sanh đối trị.
(3) Ðối với con
người lấy của không cho, có từ bỏ lấy của không cho đối trị.
(4-43)
Ðối với con người không phạm hạnh, sống phạm hạnh...; đối với con
người nói láo, từ bỏ nói láo...; đối với con người nói hai lưỡi,
từ bỏ nói hai lưỡi...; đối với con người ác khẩu, từ bỏ nói ác
khẩu...; đối với con người nói phù phiếm, từ bỏ nói phù phiếm...;
đối với con người có tham dục, không tham dục...; đối với con người
có sân tâm, không sân tâm...; đối với con người có tà kiến, chánh
kiến...; đối với con người có tà tư duy, chánh tư duy...; đối với
con người có tà ngữ, chánh ngữ...; đối với con người có tà
nghiệp, chánh nghiệp...; đối với con người có tà mạng, chánh
mạng...; đối với con người có tà tinh tấn, chánh tinh tấn...; đối
với con người có tà niệm, chánh niệm...; đối với con người có tà
định, chánh định...; đối với con người có tà trí, chánh trí...;
đối với con người có tà giải thoát, chánh giải thoát...; đối với
con người bị hôn trầm thụy miên chi phối, không bị hôn trầm thụy
miên chi phối...; đối với con người trạo hối, không trạo hối...;
đối với con người nghi hoặc, không nghi hoặc...; đối với con người
phẫn nộ, không phẫn nộ...; đối với con người oán hận, không oán
hận...; đối với con người hư ngụy, không hư ngụy...; đối với con
người não hại, không não hại...; đối với con người tật đố, không
tật đố...; đối với con người xan tham, không xan tham...; đối với con
người man trá, không man trá...; đối với con người khi cuống, không
khi cuống...; đối với con người ngoan cố, không ngoan cố....; đối với
con người cấp tháo, không cấp tháo ...; đối với con người khó nói,
dễ nói...; đối với con người ác hữu, thiện hữu...; đối với con
người phóng dật, không phóng dật...; đối với con người bất tín,
tín tâm...; đối với con người không xấu hổ, có xấu hổ...; đối với
con người không sợ hãi, có sợ hãi...; đối với con người nghe ít,
nghe nhiều...; đối với con người biếng nhác, siêng năng...; đối với
con người thất niệm, an trú niệm...; đối với con người liệt tuệ,
thành tựu trí tuệ...
(44)
Ðối với con người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành
xả, có không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành
xả đối trị.
036.
Hướng thượng(uparibhāgapariyāyo)
Là
sống với chí hướng cao cả:
Này
Cunda, ví như các bất thiện pháp, tất cả đều hướng hạ, còn các
thiện pháp, tất cả đều hướng thượng. Cũng vậy, này Cunda:
(1) Ðối với con
người làm hại, có sự không làm hại đối trị.
(2) Ðối với con
người sát sanh, có từ bỏ sát sanh đối trị.
(3) Ðối với con
người lấy của không cho, có từ bỏ lấy của không cho đối trị.
(4-43)
Con người …(như trên)...
(44) Con
người không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành
xả, hướng thượng đối với người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến,
tánh khó hành xả.
037.
Tự giác mới có thể giác tha (parinibbānapariyāyo)
Là ý
thức rõ ràng nếu muốn tế độ chúng sanh khác thì tự mình phải giải thoát trước:
Này
Cunda, con người tự mình bị rơi vào bùn lầy có thể kéo lên một
người bị rơi vào bùn lầy, sự tình ấy không thể xảy ra. Này Cunda,
con người tự mình không rơi vào bùn lầy, có thể kéo lên một
người bị rơi vào bùn lầy, sự tình ấy có thể xảy ra. Này Cunda,
con người tự mình không được nhiếp phục, không được huấn luyện,
không được hoàn toàn giải thoát, tự mình có thể nhiếp phục, huấn
luyện và hoàn toàn giải thoát người khác, sự tình ấy không xảy
ra. Một người được nhiếp phục, được huấn luyện, được hoàn toàn
giải thoát, tự mình có thể nhiếp phục, huấn luyện, hoàn toàn giải
thoát người khác, sự tình ấy xảy ra. Cũng vậy, này Cunda:
(1) Ðối với con
người làm hại, có sự không làm hại đối trị.
(2) Ðối với con
người sát sanh, có từ bỏ sát sanh đối trị.
(3) Ðối với con
người lấy của không cho, có từ bỏ lấy của không cho đối trị.
(4-43)
Ðối với con người không phạm hạnh, sống phạm hạnh...; đối với con
người nói láo, từ bỏ nói láo...; đối với con người nói hai lưỡi,
từ bỏ nói hai lưỡi...; đối với con người ác khẩu, từ bỏ nói ác
khẩu...; đối với con người nói phù phiếm, từ bỏ nói phù phiếm...;
đối với con người có tham dục, không tham dục...; đối với con người
có sân tâm, không sân tâm...; đối với con người có tà kiến, chánh
kiến...; đối với con người có tà tư duy, chánh tư duy...; đối với
con người có tà ngữ, chánh ngữ...; đối với con người có tà
nghiệp, chánh nghiệp...; đối với con người có tà mạng, chánh
mạng...; đối với con người có tà tinh tấn, chánh tinh tấn...; đối
với con người có tà niệm, chánh niệm...; đối với con người có tà
định, chánh định...; đối với con người có tà trí, chánh trí...;
đối với con người có tà giải thoát, chánh giải thoát...; đối với
con người bị hôn trầm thụy miên chi phối, không bị hôn trầm thụy
miên chi phối...; đối với con người trạo hối, không trạo hối...;
đối với con người nghi hoặc, không nghi hoặc...; đối với con người
phẫn nộ, không phẫn nộ...; đối với con người oán hận, không oán
hận...; đối với con người hư ngụy, không hư ngụy...; đối với con
người não hại, không não hại...; đối với con người tật đố, không
tật đố...; đối với con người xan tham, không xan tham...; đối với con
người man trá, không man trá...; đối với con người khi cuống, không
khi cuống...; đối với con người ngoan cố, không ngoan cố....; đối với
con người cấp tháo, không cấp tháo ...; đối với con người khó nói,
dễ nói...; đối với con người ác hữu, thiện hữu...; đối với con
người phóng dật, không phóng dật...; đối với con người bất tín,
tín tâm...; đối với con người không xấu hổ, có xấu hổ...; đối với
con người không sợ hãi, có sợ hãi...; đối với con người nghe ít,
nghe nhiều...; đối với con người biếng nhác, siêng năng...; đối với
con người thất niệm, an trú niệm...; đối với con người liệt tuệ,
thành tựu trí tuệ...
(44)
Ðối với con người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành
xả, không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả,
đưa đến hoàn toàn giải thoát.
038.
Hãy nắm lấy cơ hội để tiến xa trên hành trình giác ngộ giải thoát
Lời
kêu gọi hàng đệ tử phát tâm tu tập từ ý
thức được cơ duyên hãn hữu:
Này
Cunda, như vậy Ta đã giảng pháp môn đoạn giảm, đã giảng pháp môn
khởi tâm, đã giảng pháp môn đối trị, đã giảng pháp môn hướng
thượng, đã giảng pháp môn giải thoát hoàn toàn.
Này
Cunda, những gì bậc Ðạo Sư phải làm, vì hạnh phúc, vì lòng thương
tưởng đệ tử, những việc ấy Ta đã làm, vì lòng thương tưởng cho
các Người. Này Cunda, đây là những gốc cây, đây là những nhà
không tịnh. Này Cunda, hãy Thiền định, chớ có phóng dật, chớ có
hối tiếc về sau. Ðó là lời giáo huấn của Ta cho các Người.
Thế
Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Mahā Cunda hoan hỷ, tín thọ lời
dạy của Thế Tôn.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân
đoạn & chú thích: Tỳ Kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 8 [tóm tắt]
Kinh Đoạn Giảm
(Sallekha Sutta)
(M.i, 40)
Tôn giả Mahā Cunda thưa với đức Phật: Có những sở kiến khởi lên ở đời,
hoặc thuộc tự ngã, hoặc thuộc thế giới, thời đối với vị Tỷ-kheo
có tác ý chân chánh từ khi ban đầu, có thể đoạn trừ xả ly các tà
kiến ấy không? Đức Phật nói, chỗ nào những sở kiến ấy khởi lên,
tiềm ẩn và hiện hành, cần phải như thật nhìn chúng với trí tuệ
là cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái
này không phải tự ngã của tôi, có vậy mới đoạn trừ các tà kiến.
Tà kiến có tất cả là hai mươi tám: hai mươi tà kiến thuộc năm
uẩn, mỗi uẩn có bốn; tám tà kiến về ngã và thế giới thường, vô
thường, thường và vô thường, không thường và không vô thường (Xem
kinh 1 (M.i) A. ii, 214, S.iii, 16, D.i, 14).
Khi vị Tỷ-kheo tu bốn thiền, như vậy không phải đoạn giảm, mà
chỉ là hiện tại lạc trú. Khi vị Tỷ-kheo tu bốn không, như vậy
không phải đoạn giảm (sallekha), mà chỉ là tịch tịnh trú (diṭṭha
dhammasukhavihārā; santā vihārā). Rồi đức Phật giảng pháp môn đoạn
giảm, pháp môn khởi tâm, pháp môn đối trị, pháp môn hướng
thượng, pháp môn giải thoát hoàn toàn.
1/ Pháp môn đoạn giảm:
Khi vị Tỷ-kheo nghĩ: “Kẻ khác có thể là những người làm
hại, chúng ta ở đây không thể là những người làm hại”, như vậy
đoạn giảm được thực hiện. Có tất cả ba mươi ba đề tài để vị
Tỷ-kheo nghĩ đến. Chữ Sallekha có nghĩa là một quyết định (của vị
Tỷ-kheo), không làm những điều người khác đã làm. Tự điển Pāli-Anh
giải thích Sallekha là tu khổ hạnh (sustera penana), còn bản dịch
tiếng Anh kinh này thời dùng chữ expunging, có nghĩa là loại trừ,
xóa bỏ. Bốn mươi bốn đề tài như sau: 1. Kẻ khác làm hại, ta sẽ
không làm hại, rồi đến mười điều ác, từ sát sanh đến tà kiến
(2-11); 12. Tà tư duy...; 13. Tà ngữ...; 14. Tà nghiệp...; 15. Tà
mạng...; 16. Tà tinh tấn...; 17. Tà niệm...; 18. Tà định...; 19. Tà
trí...; 20. Tà giải thoát...; 21. Thụy miên hôn trầm...; 22. Trạo
cử...; 23. Nghi hoặc...; 24. Phẫn nộ...; 25. Hiềm hận...; 26. Dèm
pha...; 27. Não hại...; 28. Tật đố...; 29. Xan tham...; 30. Man trá...;
31. Lừa đảo...; 32. Ngoan cố...; 33. Bồng bột...; 34. Khó nói...; 35.
Ác hữu...; 36. Phóng dật...; 37. Bất tín...; 38. Không xấu hổ...; 39.
Không sợ hãi...; 40. Nghe ít...; 41. Biếng nhác...; 42. Thất niệm...;
43. Liệt tuệ...; 44. Kẻ khác có thể nhiễm thế tục, cố chấp tư
kiến, tánh khó hành xả, chúng ta sẽ không nhiễm thế tục, sẽ không
cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả.
2/ Pháp môn khởi tâm (Cittuppādampariyāyo):
Khởi tâm có lợi ích cho thiện pháp, khi thân nghiệp, khẩu
nghiệp phù hợp với tâm ý. Những kẻ khác có thể làm hại, chúng ta
ở đây không có làm hại, cần phải khởi tâm như vậy (kể luôn cả 44
đề tài như trên).
3/ Pháp môn đối trị (Parikkamanapariyāyo):
Như con đường không bằng phẳng, có con đường bằng phẳng đối
trị; như một bến nước không bằng phẳng, có bến nước bằng phẳng
đối trị. Cũng vậy, đối với con người làm hại, có sự không làm
hại đối trị. Đối với con người sát sanh, có từ bỏ sát sanh đối
trị (kể luôn cả 44 đề tài như trên).
4/ Pháp môn hướng thượng (Uparibhāvapariyāyo):
Ví như các bất thiện pháp hướng hạ, còn các thiện pháp đều
hướng thượng. Cũng vậy, con người không làm hại hướng thượng
đối với người làm hại. Con người từ bỏ sát sanh hướng thượng
đối với người sát sanh... (kể cả 44 pháp).
5/ Pháp môn giải thoát hoàn toàn (Parinibhāna- pariyāyo):
Con người bị rơi vào bùn lầy không thể kéo lên một người
khác bị rơi vào bùn lầy. Một người tự mình không được nhiếp
phục, không được huấn luyện không có thể nhiếp phục, huấn luyện
người khác. Một người không giải thoát hoàn toàn, không có thể
giải thoát hoàn toàn cho người khác. Cũng vậy, đối với người làm
hại, không làm hại đưa đến hoàn toàn giải thoát. Đối với người
sát sanh, không sát sanh đưa đến hoàn toàn giải thoát... Cũng vậy,
đối với bốn mươi bốn đề tài như trên.
Đức Phật kết luận Ngài đã giảng năm pháp môn vì lòng
thương tưởng đệ tử, vì hạnh phúc cho các đệ tử. Rồi đức Phật
khuyên tu thiền ở những gốc cây, những căn nhà trống: “Hãy thiền
định, chớ có phóng dật để khỏi hối hận về sau”.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 8 [dàn ý]
Kinh Đoạn Giảm
(Sallekha Sutta)
(M.i, 40)
A. Duyên khởi:
Tôn giả Mahā Cunda hỏi làm thế nào đoạn trừ các
sở kiến về tự ngã và về thế giới được khởi lên, Thế Tôn trả lời cần phải như thật
chánh quán với trí tuệ là “Cái này không phải của tôi, không phải là tôi, không
phải là tự ngã của tôi”.
B. Chánh
kinh:
I. 4 thiền,
4 không, không phải là đoạn giảm, 4 thiền là hiện tại lạc trú, 4 không là tịch
tịnh trú.
II. Thế Tôn
giảng pháp môn đoạn giảm.
III. Thế Tôn
giảng pháp môn khởi tâm.
IV. Thế Tôn
giảng pháp môn đối trị.
V. Thế Tôn
giảng pháp môn hướng thượng.
VI. Thế Tôn
giảng pháp môn giải thoát hoàn toàn.
VII. Thế Tôn
đúc kết các pháp môn đã được thuyết giảng và khuyên hành thiền.
C. Kết luận:
Tôn giả Mahā Cunda hoan
hỷ tín thọ lời Thế Tôn thuyết giảng.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 8 [toát yếu]
Kinh Đoạn Giảm
(Sallekha Sutta)
(M.i, 40)
I. Toát yếu
Sallekha Sutta - Effacement.
The Buddha rejects the view that the mere
attainment of the mediative absorptions is effacement and explains how
effacement is properly practised in his teaching.
Viễn ly.
Phật bác bỏ quan điểm cho rằng chứng
đắc các thiền đã là viễn ly [hay đoạn giảm], và giải thích cách tu
tập đoạn giảm [đọan phiền não, giảm vô minh] thực sự trong giáo lý
Ngài.
II. Tóm tắt
Tôn giả Mahā Cunda
bạch Phật, trên đời có nhiều quan điểm liên hệ đến ngã hoặc thế
giới. Người mới tác ý có thể từ bỏ ngay những kiến chấp ấy
không?
Phật dạy, muốn diệt trừ kiến chấp
phải như thật quán sát năm uẩn "không phải của tôi, không
phải là tôi, không phải tự ngã của tôi."
Sau khi trả lời câu hỏi của tôn giả
Mahā Cunda, Phật nói đến những cách hiểu sai lạc về
đoạn giảm. Những vị chứng đắc bốn thiền tự cho thế là sạch cấu
uế, nhưng Phật dạy đấy gọi là "hiện tại lạc trú " chứ
không phải đoạn giảm trong giới luật của Ngài. Những vị chứng bốn
định vô sắc hay 4 không cũng tự cho là sạch cấu uế, nhưng đấy chỉ
là "tịch tịnh trú " trong giới luật Ngài, chưa phải là
đoạn giảm. Rồi Ngài dạy thế nào là đoạn giảm thật sự. Ðó là từ
bỏ 44 cấu uế (bản Anh ngữ không có 33, 34).
Muốn diệt trừ cấu uế, trước hết là
khởi tâm làm ngược lại các thói xấu đã kể trên, vì sự khởi tâm
rất có lợi cho các thiện pháp. Ðấy là pháp môn khởi tâm.
Mỗi thói ấy đều có một đức ngược
lại với nó, nên dùng đức ấy để đối trị, như lấy bố thí đối trị
xan tham. Ðấy là pháp môn đối trị. Trong khi tất cả bất thiện đều
hướng hạ, thì cái ngược lại với chúng là hướng thượng; ví dụ
với người xan tham thì có pháp bố thí để đưa mình đi lên. Ðấy là
pháp môn hướng thượng. Ðối với người làm hại, không làm hại đưa
đến hoàn toàn giải thoát [với tất cả cấu uế khác cũng vậy]. Ðấy
là pháp môn hoàn toàn giải thoát.
III. Chú giải
Ðoạn giảm: Từ Pali "Sallekha" -
đoạn giảm - nguyên nghĩa là khổ hạnh, trong kinh này có nghĩa là sự
từ bỏ hay tận diệt cấu uế, nhiễm ô.
Các quan điểm, đấy là 20 quan điểm về
ngã, được kể trong kinh số 44; 8 quan điểm về thế giới, như thường,
vô thường, hữu biên vô biên...
"Người mới tác ý" ở đây ám
chỉ người ở giai đoạn đầu của thiền quán, chưa vào Dự lưu đạo.
Sự từ bỏ đề cập ở đây là sự trừ
diệt tận gốc các kiến chấp khi đã đạt đến Dự lưu đạo.
Như thật quán sát năm uẩn "không
phải tôi, của tôi hay tự ngã của tôi" là tuệ quán đưa đến Dự
lưu đạo. 44 cấu uế: 1. Tác hại; 2. Sát sinh; 3. Lấy của không cho; 4.
Tà hạnh; 5. Nói dối; 6. Hai lưỡi; 7. Nói độc ác; 8. Nói phù phiếm;
9. Tham; 10. Sân; 11. Tà kiến; 12. Tà tư duy; 13. Tà ngữ; 14. Tà
nghiệp; 15. Tà mạng; 16. Tà tinh tấn; 17. Tà niệm; 18. Tà định; 19.
Tà trí; 20. Tà giải thoát; 21. Hôn trầm; 22. Trạo hối; 23. Nghi hoặc;
24. Phẫn nộ; 25. Oán hận; 26. Hư ngụy; 27. Não hại; 28. Tật đố; 29.
Xan tham; 30. Man trá; 31. Khi cuống; 32. Ngoan cố; 33. Cấp tháo; 34. Khó
nói; 35. Ác hữu; 36. Phóng dật; 37. Bất tín; 38. Vô tàm; 39. Vô quý;
40. Nghe ít; 41. Biếng nhác; 42. Thất niệm; 43. Liệt tuệ; 44. Nhiễm
thế tục, cố chấp tư kiến, khó hành xả.
Có thể tóm thâu 44 cấu
uế này vào sáu nhóm:
A. Mười bất thiện
nghiệp về thân khẩu ý (2-11);
B. Bảy chi cuối
của 8 phi thánh đạo (12-18), chi dầu tương đương với (11);
C. Tà trí, tà
giải thoát (19 - 20; tức ngược lại với hai chi cuối trong mười thánh
đạo);
D. Ba triền cái
cuối trong năm triền cái (21-23), hai triền cái đầu tiên tương
đương với (9) và (10);
E. Mười trong 16
cấu uế của tâm đã nói trong kinh số 7 (24-33);
F. Bảy thói xấu
(37-43) ngược lại với 7 đức là tín, tàm, quý, đa văn, tinh tấn,
niệm, tuệ nói trong kinh 53.
(1) và (44) xem như
không thuộc nhóm nào.
IV. Pháp số
Bốn thiền
Bốn không, hay bốn
vô sắc
Bốn pháp môn:
khởi tâm, đối trị, hướng thượng, giải thoát.
Năm triền cái
Bảy thánh tài:
tín, tàm, quý, đa văn, tinh tấn, niệm, tuệ. Mười bất thiện nghiệp:
gồm sát đạo dâm, 4 ngữ nghiệp và ba ý nghiệp là tham, sân, tà
kiến.
Mười thánh đạo,
tám chánh đạo thêm hai là chánh trí và chánh giải thoát.
V. Kệ tụng
1. Chẳng phải tu khổ hạnh
Mà gọi là đoạn giảm
Chẳng phải chứng bốn thiền
Chẳng phải chứng bốn thiền
Mà gọi là đoạn giảm
Chẳng phải chứng bốn
Không Mà gọi là đoạn
giảm
Bốn thiền trong pháp
Phật Gọi là "hiện
tại lạc"
Còn bốn định vô sắc
Gọi là "tịch tịnh trú".
Còn bốn định vô sắc
Gọi là "tịch tịnh trú".
Nghĩa của sự đoạn giảm
trong giáo pháp Như Lai
Là trừ tâm uế nhiễm
Ðể đoạn ác, giảm ngu.
2. Ðoạn giảm được thực
hiện
Khi bỏ mười bất thiện
Của thân, lời và ý;
Từ bỏ tám tà đạo
Của thân, lời và ý;
Từ bỏ tám tà đạo
Tà trí, tà giải thoát;
Bỏ hôn trầm, trạo cử
Từ bỏ nghi, bất tín
Vô tàm và vô quý
Vô tàm và vô quý
Nghe ít và biếng nhác
Thất niệm và đần độn
Phẫn nộ và oán hận;
Hư ngụy và não hại;
Tật đố và xan tham;
Man trá và khi cuống;
Ngoan cố và cấp tháo;
Mạn, quá mạn, khó nói
Ác hữu và phóng dật;
Nhiễm trước thói thế
tục
Cố chấp ý kiến mình
Và tính khó hành xả.
Và tính khó hành xả.
3. Người nào tâm hết
sạch
Tất cả ô nhiễm này
Dù có ăn vị ngon
Cũng không thành chướng ngại.
Cũng không thành chướng ngại.
Tâm biến mãn mười
phương
Với từ bi hỷ xả
Thoát khỏi các lậu hoặc
Sanh tận, phạm hạnh thành
Thoát khỏi các lậu hoặc
Sanh tận, phạm hạnh thành
4. Ấy gọi là tắm rửa
Bằng gột rửa nội tâm
Kẻ ngu tưởng tắm sông
Bằng gột rửa nội tâm
Kẻ ngu tưởng tắm sông
Tẩy trừ được tội lỗi
Nhưng sông nào rửa được
Những nghiệp ác đã làm
Ðừng mê tín dị đoan
Ðể tha hồ tạo ác.
5. Với người sống thanh
tịnh
Không tạo mười bất
thiện
Không cần sông tẩy tội
Ngày nào cũng tốt lành.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm
tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
8.
Sallekhasuttaṃ [Mūla]
81. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ
viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho āyasmā mahācundo
sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā mahācundo bhagavantaṃ etadavoca : ''yā
imā, bhante, anekavihitā diṭṭhiyo loke uppajjanti : attavādapaṭisaṃyuttā vā
lokavādapaṭisaṃyuttā vā : ādimeva nu kho, bhante, bhikkhuno manasikaroto
evametāsaṃ diṭṭhīnaṃ pahānaṃ hoti, evametāsaṃ diṭṭhīnaṃ paṭinissaggo hotīti?
82. ''Yā imā, cunda, anekavihitā diṭṭhiyo
loke uppajjanti : attavādapaṭisaṃyuttā vā lokavādapaṭisaṃyuttā vā : yattha cetā
diṭṭhiyo uppajjanti yattha ca anusenti yattha ca samudācaranti taṃ 'netaṃ mama,
nesohamasmi, na me so attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññā passato
evametāsaṃ diṭṭhīnaṃ pahānaṃ hoti, evametāsaṃ diṭṭhīnaṃ paṭinissaggo hoti. ''Ṭhānaṃ
kho panetaṃ, cunda, vijjati yaṃ idhekacco bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ
savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja vihareyya. Tassa
evamassa : 'sallekhena viharāmīti. Na kho panete, cunda, ariyassa vinaye
sallekhā vuccanti. Diṭṭhadhammasukhavihārā ete
ariyassa vinaye vuccanti. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, cunda, vijjati yaṃ
idhekacco bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso
ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja
vihareyya. Tassa evamassa : 'sallekhena viharāmīti. Na kho panete, cunda,
ariyassa vinaye sallekhā vuccanti. Diṭṭhadhammasukhavihārā ete ariyassa vinaye
vuccanti. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, cunda,
vijjati yaṃ idhekacco bhikkhu pītiyā ca virāgā upekkhako ca vihareyya, sato ca
sampajāno sukhañca kāyena paṭisaṃvedeyya, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti : 'upekkhako
satimā sukhavihārīti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja vihareyya. Tassa evamassa :
'sallekhena viharāmīti. Na kho panete, cunda, ariyassa vinaye sallekhā vuccanti. Diṭṭhadhammasukhavihārā ete
ariyassa vinaye vuccanti. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, cunda, vijjati yaṃ idhekacco
bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ
atthaṅgamā adukkhamasuṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ
catutthaṃ jhānaṃ upasampajja vihareyya. Tassa evamassa : 'sallekhena
viharāmīti. Na kho panete, cunda, ariyassa vinaye sallekhā vuccanti. Diṭṭhadhammasukhavihārā
ete ariyassa vinaye vuccanti. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, cunda, vijjati yaṃ
idhekacco bhikkhu sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamā, paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā,
nānattasaññānaṃ amanasikārā, 'ananto ākāsoti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja
vihareyya. Tassa evamassa : 'sallekhena viharāmīti. Na kho panete, cunda,
ariyassa vinaye sallekhā vuccanti. Santā ete vihārā ariyassa vinaye vuccanti.
''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, cunda, vijjati yaṃ idhekacco bhikkhu sabbaso
ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma 'anantaṃ viññāṇanti viññāṇañcāyatanaṃ
upasampajja vihareyya. Tassa evamassa : 'sallekhena viharāmīti. Na kho panete,
cunda, ariyassa vinaye sallekhā vuccanti. Santā ete vihārā ariyassa vinaye
vuccanti. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, cunda, vijjati yaṃ idhekacco bhikkhu sabbaso
viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma 'natthi kiñcīti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja
vihareyya. Tassa evamassa : 'sallekhena viharāmīti. Na kho panete, cunda,
ariyassa vinaye sallekhā vuccanti. Santā
ete vihārā ariyassa vinaye vuccanti. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, cunda, vijjati yaṃ
idhekacco bhikkhu sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma nevasaññānāsaññāyatanaṃ
upasampajja vihareyya. Tassa evamassa : 'sallekhena viharāmīti . Na kho panete, cunda, ariyassa vinaye sallekhā
vuccanti. Santā ete vihārā ariyassa vinaye vuccanti.
83. ''Idha kho pana vo, cunda,
sallekho karaṇīyo. 'Pare vihiṃsakā bhavissanti, mayamettha avihiṃsakā
bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare pāṇātipātī bhavissanti, mayamettha pāṇātipātā
paṭiviratā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare adinnādāyī bhavissanti,
mayamettha adinnādānā paṭiviratā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare abrahmacārī bhavissanti, mayamettha
brahmacārī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare musāvādī bhavissanti,
mayamettha musāvādā paṭiviratā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare pisuṇavācā
[pisuṇā vācā (sī. pī.)] bhavissanti, mayamettha pisuṇāya vācāya paṭiviratā
bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare pharusavācā [pharusā vācā (sī. pī.)]
bhavissanti, mayamettha pharusāya vācāya paṭiviratā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare samphappalāpī bhavissanti, mayamettha samphappalāpā paṭiviratā
bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare abhijjhālū bhavissanti, mayamettha
anabhijjhālū bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare byāpannacittā bhavissanti,
mayamettha abyāpannacittā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare micchādiṭṭhī
bhavissanti, mayamettha sammādiṭṭhī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare
micchāsaṅkappā bhavissanti, mayamettha
sammāsaṅkappā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare micchāvācā bhavissanti,
mayamettha sammāvācā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare micchākammantā
bhavissanti, mayamettha sammākammantā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare
micchāājīvā bhavissanti, mayamettha sammāājīvā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare micchāvāyāmā bhavissanti, mayamettha sammāvāyāmā bhavissāmāti sallekho
karaṇīyo. 'Pare micchāsatī bhavissanti, mayamettha sammāsatī bhavissāmāti
sallekho karaṇīyo. 'Pare micchāsamādhi bhavissanti, mayamettha sammāsamādhī
bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare micchāñāṇī bhavissanti, mayamettha
sammāñāṇī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare micchāvimuttī bhavissanti,
mayamettha sammāvimuttī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. '''Pare
thīnamiddhapariyuṭṭhitā bhavissanti, mayamettha vigatathīnamiddhā bhavissāmāti
sallekho karaṇīyo . 'Pare uddhatā bhavissanti, mayamettha anuddhatā
bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare vicikicchī [vecikicchī (sī. pī. ka.)]
bhavissanti, mayamettha tiṇṇavicikicchā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare
kodhanā bhavissanti, mayamettha akkodhanā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare
upanāhī bhavissanti, mayamettha anupanāhī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare makkhī bhavissanti , mayamettha
amakkhī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare
paḷāsī bhavissanti, mayamettha apaḷāsī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare issukī bhavissanti, mayamettha anissukī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare maccharī bhavissanti, mayamettha amaccharī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare saṭhā bhavissanti, mayamettha asaṭhā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare māyāvī bhavissanti, mayamettha amāyāvī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare thaddhā bhavissanti, mayamettha atthaddhā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare atimānī bhavissanti, mayamettha anatimānī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare dubbacā bhavissanti, mayamettha suvacā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare pāpamittā bhavissanti, mayamettha kalyāṇamittā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare pamattā bhavissanti, mayamettha appamattā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare assaddhā bhavissanti, mayamettha saddhā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare ahirikā bhavissanti, mayamettha hirimanā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
'Pare anottāpī [anottappī (ka.)] bhavissanti, mayamettha ottāpī bhavissāmāti
sallekho karaṇīyo. 'Pare appassutā bhavissanti, mayamettha bahussutā
bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare kusītā bhavissanti, mayamettha
āraddhavīriyā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare muṭṭhassatī bhavissanti,
mayamettha upaṭṭhitassatī bhavissāmāti
sallekho karaṇīyo. 'Pare duppaññā bhavissanti, mayamettha paññāsampannā
bhavissāmāti sallekho karaṇīyo. 'Pare sandiṭṭhiparāmāsī ādhānaggāhī duppaṭinissaggī
bhavissanti, mayamettha asandiṭṭhiparāmāsī anādhānaggāhī suppaṭinissaggī
bhavissāmāti sallekho karaṇīyo.
84. ''Cittuppādampi kho ahaṃ, cunda,
kusalesu dhammesu bahukāraṃ [bahūpakāraṃ (ka.)] vadāmi, ko pana vādo kāyena
vācāya anuvidhīyanāsu! tasmātiha, cunda, 'pare vihiṃsakā bhavissanti,
mayamettha avihiṃsakā bhavissāmāti cittaṃ uppādetabbaṃ. 'Pare pāṇātipātī bhavissanti,
mayamettha pāṇātipātā paṭiviratā
bhavissāmāti cittaṃ uppādetabbaṃ...'pare sandiṭṭhiparāmāsī ādhānaggāhī duppaṭinissaggī bhavissanti,
mayamettha asandiṭṭhiparāmāsī anādhānaggāhī suppaṭinissaggī bhavissāmāti cittaṃ
uppādetabbaṃ.
85. ''Seyyathāpi, cunda, visamo
maggo assa, tassa [maggo tassāssa (sī. syā. pī.)] añño samo maggo parikkamanāya
seyyathā vā pana, cunda, visamaṃ titthaṃ assa, tassa aññaṃ samaṃ titthaṃ
parikkamanāya evameva kho, cunda, vihiṃsakassa
purisapuggalassa avihiṃsā hoti parikkamanāya, pāṇātipātissa purisapuggalassa pāṇātipātā
veramaṇī hoti parikkamanāya, adinnādāyissa purisapuggalassa adinnādānā veramaṇī
hoti parikkamanāya, abrahmacārissa purisapuggalassa abrahmacariyā veramaṇī hoti
parikkamanāya , musāvādissa purisapuggalassa musāvādā veramaṇī hoti
parikkamanāya, pisuṇavācassa purisapuggalassa pisuṇāya vācāya veramaṇī hoti
parikkamanāya, pharusavācassa purisapuggalassa pharusāya vācāya veramaṇī hoti
parikkamanāya, samphappalāpissa purisapuggalassa samphappalāpā veramaṇī hoti
parikkamanāya, abhijjhālussa purisapuggalassa anabhijjhā hoti parikkamanāya,
byāpannacittassa purisapuggalassa abyāpādo hoti parikkamanāya, micchādiṭṭhissa
purisapuggalassa sammādiṭṭhi hoti parikkamanāya, micchāsaṅkappassa
purisapuggalassa sammāsaṅkappo hoti parikkamanāya, micchāvācassa
purisapuggalassa sammāvācā hoti parikkamanāya, micchākammantassa
purisapuggalassa sammākammanto hoti parikkamanāya, micchāājīvassa
purisapuggalassa sammāājīvo hoti parikkamanāya, micchāvāyāmassa
purisapuggalassa sammāvāyāmo hoti parikkamanāya, micchāsatissa purisapuggalassa
sammāsati hoti parikkamanāya, micchāsamādhissa purisapuggalassa sammāsamādhi
hoti parikkamanāya, micchāñāṇissa purisapuggalassa sammāñāṇaṃ hoti
parikkamanāya, micchāvimuttissa purisapuggalassa sammāvimutti hoti
parikkamanāya. ''Thīnamiddhapariyuṭṭhitassa purisapuggalassa
vigatathinamiddhatā hoti parikkamanāya, uddhatassa purisapuggalassa anuddhaccaṃ hoti parikkamanāya, vicikicchissa
purisapuggalassa tiṇṇavicikicchatā hoti parikkamanāya, kodhanassa purisapuggalassa akkodho hoti parikkamanāya, upanāhissa
purisapuggalassa anupanāho hoti parikkamanāya, makkhissa purisapuggalassa
amakkho hoti parikkamanāya, paḷāsissa purisapuggalassa apaḷāso hoti
parikkamanāya , issukissa purisapuggalassa anissukitā hoti parikkamanāya,
maccharissa purisapuggalassa amacchariyaṃ hoti parikkamanāya, saṭhassa
purisapuggalassa asāṭheyyaṃ hoti parikkamanāya, māyāvissa purisapuggalassa
amāyā [amāyāvitā (ka.)] hoti parikkamanāya, thaddhassa purisapuggalassa
atthaddhiyaṃ hoti parikkamanāya, atimānissa purisapuggalassa anatimāno hoti
parikkamanāya, dubbacassa purisapuggalassa sovacassatā hoti parikkamanāya,
pāpamittassa purisapuggalassa kalyāṇamittatā hoti parikkamanāya, pamattassa
purisapuggalassa appamādo hoti parikkamanāya, assaddhassa purisapuggalassa
saddhā hoti parikkamanāya, ahirikassa purisapuggalassa hirī hoti parikkamanāya,
anottāpissa purisapuggalassa ottappaṃ hoti parikkamanāya, appassutassa
purisapuggalassa bāhusaccaṃ hoti parikkamanāya, kusītassa purisapuggalassa
vīriyārambho hoti parikkamanāya, muṭṭhassatissa purisapuggalassa upaṭṭhitassatitā
hoti parikkamanāya, duppaññassa purisapuggalassa paññāsampadā hoti
parikkamanāya , sandiṭṭhiparāmāsi-ādhānaggāhi-duppaṭinissaggissa
purisapuggalassa asandiṭṭhiparāmāsianādhānaggāhi-suppaṭinissaggitā hoti
parikkamanāya.
86. ''Seyyathāpi, cunda, ye keci
akusalā dhammā sabbe te adhobhāgaṅgamanīyā [adhobhāvaṅgamanīyā (sī. syā. pī.)],
ye keci kusalā dhammā sabbe te uparibhāgaṅgamanīyā [uparibhāvaṅgamanīyā (sī.
syā. pī.)], evameva kho, cunda, vihiṃsakassa purisapuggalassa avihiṃsā hoti
uparibhāgāya [uparibhāvāya (sī. syā. ka.)], pāṇātipātissa purisapuggalassa pāṇātipātā
veramaṇī hoti uparibhāgāya - pe - sandiṭṭhiparāmāsi-ādhānaggāhi-duppaṭinissaggissa purisapuggalassa asandiṭṭhiparāmāsi-anādhānaggāhi-suppaṭinissaggitā
hoti uparibhāgāya.
87. ''So vata, cunda, attanā
palipapalipanno paraṃ palipapalipannaṃ uddharissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. So
vata, cunda, attanā apalipapalipanno paraṃ
palipapalipannaṃ uddharissatīti ṭhānametaṃ vijjati. So vata, cunda,
attanā adanto avinīto aparinibbuto paraṃ damessati vinessati parinibbāpessatīti
netaṃ ṭhānaṃ vijjati. So vata , cunda, attanā danto vinīto parinibbuto paraṃ
damessati vinessati parinibbāpessatīti ṭhānametaṃ vijjati. Evameva kho, cunda,
vihiṃsakassa purisapuggalassa avihiṃsā hoti parinibbānāya, pāṇātipātissa
purisapuggalassa pāṇātipātā veramaṇī hoti parinibbānāya. Adinnādāyissa
purisapuggalassa adinnādānā veramaṇī
hoti parinibbānāya. Abrahmacārissa purisapuggalassa abrahmacariyā veramaṇī
hoti parinibbānāya. Musāvādissa purisapuggalassa musāvādā veramaṇī hoti
parinibbānāya. Pisuṇavācassa purisapuggalassa pisuṇāya vācāya veramaṇī hoti
parinibbānāya. Pharusavācassa purisapuggalassa pharusāya vācāya veramaṇī hoti
parinibbānāya. Samphappalāpissa purisapuggalassa samphappalāpā veramaṇī hoti
parinibbānāya. Abhijjhālussa purisapuggalassa anabhijjhā hoti parinibbānāya.
Byāpannacittassa purisapuggalassa abyāpādo hoti parinibbānāya. Micchādiṭṭhissa
purisapuggalassa sammādiṭṭhi hoti parinibbānāya. Micchāsaṅkappassa
purisapuggalassa sammāsaṅkappo hoti parinibbānāya. Micchāvācassa
purisapuggalassa sammāvācā hoti parinibbānāya. Micchākammantassa
purisapuggalassa sammākammanto hoti parinibbānāya. Micchāājīvassa
purisapuggalassa sammāājīvo hoti parinibbānāya. Micchāvāyāmassa
purisapuggalassa sammāvāyāmo hoti parinibbānāya. Micchāsatissa purisapuggalassa
sammāsati hoti parinibbānāya. Micchāsamādhissa purisapuggalassa sammāsamādhi
hoti parinibbānāya. Micchāñāṇissa purisapuggalassa sammāñāṇaṃ hoti
parinibbānāya. Micchāvimuttissa purisapuggalassa sammāvimutti hoti parinibbānāya.
''Thīnamiddhapariyuṭṭhitassa
purisapuggalassa vigatathinamiddhatā hoti parinibbānāya. Uddhatassa
purisapuggalassa anuddhaccaṃ hoti parinibbānāya. Vicikicchissa purisapuggalassa
tiṇṇavicikicchatā hoti parinibbānāya. Kodhanassa purisapuggalassa akkodho hoti
parinibbānāya. Upanāhissa purisapuggalassa anupanāho hoti parinibbānāya.
Makkhissa purisapuggalassa amakkho hoti parinibbānāya. Paḷāsissa
purisapuggalassa apaḷāso hoti
parinibbānāya. Issukissa purisapuggalassa anissukitā hoti parinibbānāya. Maccharissa
purisapuggalassa amacchariyaṃ hoti parinibbānāya. Saṭhassa purisapuggalassa asāṭheyyaṃ
hoti parinibbānāya. Māyāvissa purisapuggalassa amāyā hoti parinibbānāya.
Thaddhassa purisapuggalassa atthaddhiyaṃ hoti parinibbānāya. Atimānissa
purisapuggalassa anatimāno hoti parinibbānāya. Dubbacassa purisapuggalassa
sovacassatā hoti parinibbānāya. Pāpamittassa purisapuggalassa kalyāṇamittatā
hoti parinibbānāya. Pamattassa purisapuggalassa appamādo hoti parinibbānāya. Assaddhassa
purisapuggalassa saddhā hoti parinibbānāya. Ahirikassa purisapuggalassa hirī
hoti parinibbānāya. Anottāpissa purisapuggalassa ottappaṃ hoti parinibbānāya.
Appassutassa purisapuggalassa bāhusaccaṃ hoti parinibbānāya. Kusītassa
purisapuggalassa vīriyārambho hoti parinibbānāya. Muṭṭhassatissa
purisapuggalassa upaṭṭhitassatitā hoti
parinibbānāya. Duppaññassa purisapuggalass
paññāsampadā hoti parinibbānāya. Sandiṭṭhiparāmāsi-ādhānaggāhi-duppaṭinissaggissa
purisapuggalassa asandiṭṭhiparāmāsi-anādhānaggāhi-suppaṭinissaggitā hoti
parinibbānāya.
88. ''Iti kho, cunda, desito mayā
sallekhapariyāyo, desito cittuppādapariyāyo, desito parikkamanapariyāyo, desito
uparibhāgapariyāyo, desito parinibbānapariyāyo. Yaṃ kho, cunda, satthārā karaṇīyaṃ
sāvakānaṃ hitesinā anukampakena anukampaṃ upādāya, kataṃ vo taṃ mayā. 'Etāni,
cunda, rukkhamūlāni, etāni suññāgārāni, jhāyatha, cunda, mā pamādattha, mā
pacchāvippaṭisārino ahuvattha : ayaṃ kho amhākaṃ anusāsanīti.
Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā mahācundo
bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.
Catuttālīsapadā vuttā, sandhayo pañca desitā.
Sallekho nāma suttanto, gambhīro
sāgarūpamoti..
Sallekhasuttaṃ niṭṭhitaṃ aṭṭhamaṃ.
-ooOoo-
8.
Sallekhasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
81. Evaṃ me sutanti sallekhasuttaṃ.
Tattha mahācundoti tassa therassa nāmaṃ. Sāyanhasamayanti sāyanhakāle. Paṭisallānā
vuṭṭhitoti ettha paṭisallānanti tehi tehi sattasaṅkhārehi paṭinivattitvā
sallānaṃ nilīyanaṃ, ekībhāvo pavivekoti vuttaṃ hoti. Yo tato vuṭṭhito, so paṭisallānā
vuṭṭhito nāma hoti. Ayaṃ pana yasmā paṭisallānānaṃ uttamato phalasamāpattito vuṭṭhāsi,
tasmā ‘‘paṭisallānā vuṭṭhito’’ti vutto. Bhagavantaṃ abhivādetvāti
samadasanakhujjalavibhūsitena sirasā bhagavantaṃ sakkaccaṃ vanditvā,
abhivādāpetvā vā ‘‘sukhī bhava, cundā’’ti evaṃ vacībhedaṃ kārāpetvā, bhagavā
pana kira vandito samāno suvaṇṇadundubhisadisaṃ gīvaṃ paggayha kaṇṇasukhaṃ
pemaniyaṃ amatābhisekasadisaṃ brahmaghosaṃ nicchārento ‘‘sukhī hohī’’ti tassa
tassa nāmaṃ gahetvā vadati, etaṃ āciṇṇaṃ tathāgatānaṃ. Tatridaṃ sādhakasuttaṃ,
‘‘sakko, bhante, devānamindo sāmacco saparijano bhagavato pāde sirasā
vandatīti, sukhī hotu pañcasikha sakko devānamindo sāmacco saparijano,
sukhakāmā hi devā manussā asurā nāgā gandhabbā, ye caññe santi puthukāyā’’ti.
Evañca pana tathāgatā evarūpe mahesakkhe yakkhe abhivadantīti.
Yā imāti idāni vattabbābhimukhaṃ karonto viya
āha. Anekavihitāti nānappakārā. Diṭṭhiyoti micchādiṭṭhiyo. Loke uppajjantīti
sattesu pātubhavanti. Attavādappaṭisaṃyuttāti ‘‘rūpaṃ attato samanupassatī’’tiādinayappavattena
attavādena paṭisaṃyuttā, tā vīsati bhavanti. Lokavādappaṭisaṃyuttāti ‘‘sassato
attā ca loko cā’’tiādinayappavattena lokavādena paṭisaṃyuttā, tā aṭṭha honti
sassato, asassato, sassato ca asassato ca, neva sassato nāsassato, antavā,
anantavā, antavā ca anantavā ca, nevantavā nānantavā attā ca loko cāti evaṃ
pavattattā.
Ādimevātiādīsu ayamattho kiṃ nu kho bhante
ādimeva manasikarontassa appatvāpi sotāpattimaggaṃ vipassanāmissakapaṭhamamanasikārameva
manasikarontassa bhikkhuno evametāsaṃ ettakeneva upāyena etāsaṃ diṭṭhīnaṃ
pahānañca paṭinissaggo ca hotīti. Idañca thero attanā anadhimānikopi samāno
adhimānikānaṃ adhimānappahānatthaṃ adhimāniko viya hutvā pucchatīti veditabbo.
Apare panāhu ‘‘therassa antevāsikā ādimanasikāreneva diṭṭhīnaṃ
samucchedappahānaṃ hotīti evaṃsaññinopi, samāpattivihārā sallekhavihārāti evaṃsaññinopi
atthi. So tesaṃ atthāya bhagavantaṃ pucchatī’’ti.
82. Athassa bhagavā tāsaṃ diṭṭhīnaṃ
pahānūpāyaṃ dassento yā imātiādimāha. Tattha yattha cetā diṭṭhiyo uppajjantītiādi
pañcakkhandhe sandhāya vuttaṃ. Etesu hi etā diṭṭhiyo uppajjanti. Yathāha ‘‘rūpe
kho, bhikkhave, sati rūpaṃ abhinivissa evaṃ diṭṭhi uppajjati, so attā so loko
so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo’’ti (saṃ. ni. 3.152)
vitthāro. Ārammaṇavasena pana ekavacanaṃ katvā yattha cāti āha, yasmiṃ ārammaṇe
uppajjantīti vuttaṃ hoti. Ettha ca uppajjanti anusenti samudācarantīti imesaṃ
evaṃ nānākaraṇaṃ veditabbaṃ. Jātivasena hi ajātā jāyamānā uppajjantīti
vuccanti. Punappunaṃ āsevitā thāmagatā appaṭivinītā anusentīti. Kāyavacīdvāraṃ
sampattā samudācarantīti, idametesaṃ nānākaraṇaṃ. Taṃ netaṃ mamātiādīsu taṃ
pañcakkhandhappabhedaṃ ārammaṇametaṃ mayhaṃ na hoti, ahampi eso na asmi, eso me
attāpi na hotīti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passatoti evaṃ tāva
padattho veditabbo.
Yasmā pana ettha etaṃ mamāti taṇhāgāho, tañca
gaṇhanto aṭṭhasatataṇhāvicaritappabhedaṃ taṇhāpapañcaṃ gaṇhāti. Esohamasmīti
mānagāho, tañca gaṇhanto navappabhedaṃ mānapapañcaṃ gaṇhāti. Eso me attāti diṭṭhigāho,
tañca gaṇhanto dvāsaṭṭhidiṭṭhigatappabhedaṃ diṭṭhipapañcaṃ gaṇhāti. Tasmā netaṃ
mamāti vadanto bhagavā yathāvuttappabhedaṃ taṇhāpapañcaṃ paṭikkhipati.
Nesohamasmīti mānapapañcaṃ. Na meso attāti diṭṭhipapañcaṃ. Diṭṭhekaṭṭhāyeva
cettha taṇhāmānā veditabbā. Evametanti evaṃ ‘‘netaṃ mamā’’tiādinā ākārena etaṃ
khandhapañcakaṃ. Yathābhūtanti yathā sabhāvaṃ, yathā atthīti vuttaṃ hoti.
Khandhapañcakañhi eteneva ākārena atthi. Mamantiādinā pana gayhamānampi
tenākārena nevatthīti adhippāyo. Sammappaññāya passatoti sotāpattimaggapaññāpariyosānāya
vipassanāpaññāya suṭṭhu passantassa. Evametāsanti etena upāyena etāsaṃ. Pahānaṃ
paṭinissaggoti ubhayampetaṃ samucchedappahānassevādhivacanaṃ.
Evaṃ bhagavā ādimanasikāreneva diṭṭhīnaṃ
pahānaṃ hoti nu kho noti āyasmatā mahācundena adhimānikānaṃ vasena pañhaṃ puṭṭho
sotāpattimaggena diṭṭhippahānaṃ dassetvā idāni sayameva adhimānikānaṃ jhānaṃ
vibhajanto ṭhānaṃ kho panetantiādimāha. Tattha adhimānikā nāma yesaṃ appatte
pattasaññāya adhimāno uppajjati, svāyaṃ uppajjamāno neva lokavaṭṭānusārīnaṃ bālaputhujjanānaṃ
uppajjati, na ariyasāvakānaṃ. Na hi sotāpannassa ‘‘sakadāgāmī aha’’nti adhimāno
uppajjati, na sakadāgāmissa ‘‘anāgāmī aha’’nti, na anāgāmino ‘‘arahā aha’’nti,
kārakasseva pana samathavasena vā vipassanāvasena vā vikkhambhitakilesassa
niccaṃ yuttapayuttassa āraddhavipassakassa uppajjati. Tassa hi
samathavikkhambhitānaṃ vā vipassanāvikkhambhitānaṃ vā kilesānaṃ samudācāraṃ
apassato ‘‘sotāpanno ahanti vā, sakadāgāmī, anāgāmī, arahā aha’’nti vā adhimāno
uppajjati, talaṅgaratissapabbatavāsidhammadinnattherena ovādiyamānattherānaṃ
viya.
Therassa kira acirūpasampannasseva ovāde ṭhatvā
bahū bhikkhū visesaṃ adhigacchiṃsu. Taṃ pavattiṃ sutvā tissamahāvihāravāsī
bhikkhusaṅgho ‘‘na aṭṭhānaniyojako theroti theraṃ ānethā’’ti sambahule bhikkhū
pāhesi. Te gantvā, ‘‘āvuso, dhammadinna bhikkhusaṅgho taṃ pakkosāpetī’’ti āhaṃsu.
So āha ‘‘kiṃ pana tumhe, bhante, attānaṃ gavesatha para’’nti? Attānaṃ
sappurisāti, so tesaṃ kammaṭṭhānamadāsi, sabbeva arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Bhikkhusaṅgho
puna aññe bhikkhū pāhesi, evaṃ yāvatatiyaṃ pahitā sabbepi tattheva arahattaṃ
patvā vihariṃsu.
Tato saṅgho gatagatā nāgacchantīti aññataraṃ
vuḍḍhapabbajitaṃ pāhesi. So gantvā ca, ‘‘bhante, dhammadinna tikkhattuṃ
tissamahāvihāravāsī bhikkhusaṅgho tuyhaṃ santike pesesi, tvaṃ nāma saṅghassa āṇaṃ
garuṃ na karosi, nāgacchasī’’ti āha. Thero kimetanti paṇṇasālaṃ appavisitvāva
pattacīvaraṃ gāhāpetvā tāvadeva nikkhami, so antarāmagge haṅkanavihāraṃ pāvisi.
Tattha ceko mahāthero saṭṭhivassātīto adhimānena arahattaṃ paṭijānāti. Thero taṃ
upasaṅkamitvā vanditvā paṭisanthāraṃ katvā adhigamaṃ pucchi. Thero āha ‘‘āma
dhammadinna, yaṃ pabbajitena kātabbaṃ, cirakataṃ taṃ mayā, atītasaṭṭhivassomhi
etarahī’’ti. Kiṃ, bhante, iddhimpi vaḷañjethāti. Āma dhammadinnāti. Sādhu vata,
bhante, hatthiṃ tumhākaṃ paṭimukhaṃ āgacchantaṃ māpethāti. Sādhāvusoti thero
sabbasetaṃ sattappatiṭṭhaṃ tidhāpabhinnaṃ naṅguṭṭhaṃ bījayamānaṃ soṇḍaṃ mukhe
pakkhipitvā dvīhi dantehi vijjhitukāmaṃ viya paṭimukhaṃ āgacchantaṃ mahāhatthiṃ
māpesi. So taṃ attanāyeva māpitaṃ hatthiṃ disvā bhīto palāyituṃ ārabhi. Tadāva
attānaṃ ‘‘nāhaṃ arahā’’ti ñatvā dhammadinnassa pādamūle ukkuṭikaṃ nisīditvā
‘‘patiṭṭhā me hohi, āvuso’’ti āha. Dhammadinno ‘‘mā, bhante, soci, mā
anattamano ahosi, kārakānaṃyeva adhimāno uppajjatī’’ti theraṃ samassāsetvā
kammaṭṭhānamadāsi. Thero tassovāde ṭhatvā arahattaṃ pāpuṇi.
Cittalapabbatepi tādisova thero vasati.
Dhammadinno tampi upasaṅkamitvā tatheva pucchi. Sopi tatheva byākāsi. Tato naṃ
dhammadinno kiṃ, bhante, iddhimpi vaḷañjethāti āha. Āmāvusoti. Sādhu vata,
bhante, ekaṃ pokkharaṇiṃ māpethāti. Thero māpesi. Ettha, bhante, padumagumbaṃ
māpethāti. Tampi māpesi. Padumagumbe mahāpadumaṃ māpethāti. Tampi māpesi.
Etasmiṃ padumagumbe ṭhatvā madhurassarena gāyantaṃ naccantañca ekaṃ
itthiviggahaṃ māpethāti. Tampi māpesi. So etaṃ, bhante, punappunaṃ
upanijjhāyathāti vatvā sayaṃ pāsādaṃ pāvisi. Therassa taṃ upanijjhāyato saṭṭhivassāni
vikkhambhitakilesā caliṃsu, so tadā attānaṃ ñatvā purimatthero viya
dhammadinnattherassa santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā arahattaṃ pāpuṇi.
Dhammadinnopi anupubbena tissamahāvihāraṃ
agamāsi. Tasmiñca samaye therā cetiyaṅgaṇaṃ sammajjitvā buddhārammaṇaṃ pītiṃ
uppādetvā nisinnā honti, etaṃ kira tesaṃ vattaṃ. Tena nesaṃ ekopi ‘‘idha
pattacīvaraṃ ṭhapehī’’ti dhammadinnaṃ vattā pucchitāpi nāhosi. Dhammadinno eso
bhaveyyāti ñatvā pana pañhaṃ pucchiṃsu. So pucchitapañhe tiṇhena asinā kumudanāḷakalāpaṃ
viya chinditvā pādaṅguliyā mahāpathaviṃ pahari. Bhante ayaṃ acetanā
mahāpathavīpi dhammadinnassa guṇaṃ jānāti. Tumhe pana na jānitthāti ca vatvā
imaṃ gāthamāha –
‘‘Acetanāyaṃ pathavī, vijānāti guṇāguṇaṃ;
Sacetanātha kho bhante, na jānātha guṇāguṇa’’nti.
Tāvadeva ca ākāse abbhuggantvā talaṅgaratissapabbatameva
agamāsi. Evaṃ kārakasseva adhimāno uppajjati. Tasmā bhagavā tādisānaṃ bhikkhūnaṃ
vasena jhānaṃ vibhajanto ṭhānaṃ kho panetantiādimāha.
Tassattho, atthetaṃ kāraṇaṃ, no natthi. Yena
idhekacco bhikkhu bāhiraparibbājakehi sādhāraṇaṃ vivicceva kāmehi…pe… paṭhamaṃ
jhānaṃ upasampajja vihareyya, yaṃ pana tassa evamassa sallekhena viharāmīti, yaṃ
paṭipattividhānaṃ kilese saṃlikhati, tenāhaṃ viharāmīti, taṃ na yujjati, na hi
adhimānikassa bhikkhuno jhānaṃ sallekho vā sallekhapaṭipadā vā hoti. Kasmā?
Avipassanāpādakattā. Na hi so jhānaṃ samāpajjitvā tato vuṭṭhāya saṅkhāre
sammasati, jhānaṃ panassa cittekaggamattaṃ karoti, diṭṭhadhammasukhavihāro
hoti. Tasmā tamatthaṃ dassento bhagavā ‘‘na kho panete, cunda, ariyassa vinaye
sallekhā vuccanti, diṭṭhadhammasukhavihārā ete ariyassa vinaye vuccantī’’ti
āha.
Tattha eteti jhānadhammavasena bahuvacanaṃ
veditabbaṃ, ete paṭhamajjhānadhammāti vuttaṃ hoti. Samāpattivasena vā, ekampi
hi paṭhamajjhānaṃ punappunaṃ samāpattivasena pavattattā bahuttaṃ gacchati.
Ārammaṇavasena vā, ekampi hi paṭhamajjhānaṃ pathavīkasiṇādīsu pavattivasena
bahuttaṃ gacchatīti. Esa nayo dutiyatatiyacatutthajjhānesu. Āruppajhānesu pana
ārammaṇabhedābhāvato purimakāraṇadvayavaseneva bahuvacanaṃ veditabbaṃ.
Yasmā cetesaṃ aṅgānipi santāni ārammaṇānipi,
nibbutāni ceva sukhumāni cāti vuttaṃ hoti, tasmā tāni santā ete vihārāti evaṃ
vuttānīti veditabbāni. Ayaṃ tāva tesaṃ catunnampi sādhāraṇā vaṇṇanā. Visesavaṇṇanā
pana ‘‘sabbaso rūpasaññāna’’ntiādipadānusārato vattabbā siyā. Sā visuddhimagge
sabbākārena vuttāyeva.
83. Evaṃ yasmā adhimānikassa
bhikkhuno jhānavihāro avipassanāpādakattā sallekhavihāro na hoti, na hi so
jhānaṃ samāpajjitvā tato vuṭṭhāya saṅkhāre sammasati, cittekaggakaro diṭṭhadhamme
sukhavihāro panassa hoti, tasmā tamatthaṃ dassento rūpajjhānāni ca
arūpajjhānāni ca vibhajitvā idāni ca yattha sallekho kātabbo catucattālīsāya
ākārehi, tañca vatthuṃ tañca sallekhaṃ dassento idha kho pana votiādimāha.
Kasmā pana ‘‘aṭṭhahi samāpattīhi avihiṃsādayo
sallekhā’’ti vuttā? Lokuttarapādakattā. Bāhirakānañhi aṭṭha samāpattiyo vaṭṭapādakāyeva.
Sāsane saraṇagamanampi lokuttarapādakaṃ, pageva avihiṃsādayo. Imināyeva ca
suttena veditabbaṃ ‘‘yathā bāhirakassa aṭṭhasamāpattilābhino pañcābhiññassāpi
dinnadānato sāsane tisaraṇagatassa dinnadānaṃ mahapphalataraṃ hotī’’ti. Idañhi
sandhāya dakkhiṇāvisuddhisutte ‘‘bāhirake kāmesu vītarāge dānaṃ datvā koṭisatasahassaguṇā
pāṭikaṅkhitabbā. Sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanne dānaṃ datvā asaṅkheyyā
appameyyā dakkhiṇā pāṭikaṅkhitabbā, ko pana vādo sotāpanne’’ti vuttaṃ (ma. ni.
3.379). Saraṇagamanato paṭṭhāya hi tattha sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno
adhippetoti, ayaṃ tāvettha pāḷiyojanā.
Anupadavaṇṇanāyaṃ pana idhāti vihiṃsādivatthudīpanametaṃ.
Kho panāti nipātamattaṃ. Voti karaṇatthe sāmivacanaṃ, ayaṃ pana saṅkhepattho,
yadetaṃ ‘‘pare vihiṃsakā bhavissantī’’tiādinā nayena vihiṃsādivatthuṃ vadāma.
Idha, cunda, tumhehi sallekho kātabboti.
Evaṃ saṅkhepato vatvā idāni vitthārento
‘‘pare vihiṃsakā bhavissanti, mayamettha avihiṃsakā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo’’tiādimāha.
Tattha pareti ye keci imaṃ
sallekhamananuyuttā. Vihiṃsakā bhavissantīti pāṇinā vā leḍḍunā vātiādīhi sattānaṃ
vihesakā bhavissanti. Mayamettha avihiṃsakā bhavissāmāti mayaṃ pana yattheva
vatthusmiṃ pare evaṃ vihiṃsakā bhavissanti, ettheva avihiṃsakā bhavissāma,
avihiṃsaṃ uppādetvā viharissāma. Iti sallekho karaṇīyoti evaṃ tumhehi sallekho
kātabbo. Sallekhoti ca idha avihiṃsāva veditabbā. Avihiṃsā hi vihiṃsaṃ
sallekhati, taṃ chindati, tasmā sallekhoti vuccati. Esa nayo sabbattha. Ayaṃ
pana viseso. Pare micchādiṭṭhīti ettha kammapathānaṃ antamicchādiṭṭhiñca
micchattānaṃ ādimicchādiṭṭhiñca missetvā diṭṭhi vuttāti veditabbā. Tathā
mayamettha sammādiṭṭhīti vuttaṭṭhāne sammādiṭṭhi. Ettha ca kammapathakathā
vitthārato sammādiṭṭhisutte āvi bhavissati. Micchattesu micchādiṭṭhiādayo
dvedhāvitakke.
Ayaṃ panettha saṅkhepo, pāṇaṃ atipātentīti pāṇātipātī
pāṇaghātakāti attho. Adinnaṃ ādiyantīti adinnādāyī, parassa hārinoti attho.
Abrahmaṃ hīnaṃ lāmakadhammaṃ carantīti abrahmacārī, methunadhammappaṭisevakāti
attho. Brahmaṃ seṭṭhaṃ paṭipadaṃ carantīti brahmacārī, methunā paṭiviratāti
attho. Ettha ca brahmacariyaṃ sallekhoti veditabbaṃ. Brahmacariyañhi
abrahmacariyaṃ sallekhati. Musā vadantīti musāvādī, paresaṃ atthabhañjanakaṃ
tucchaṃ alikaṃ vācaṃ bhāsitāroti attho. Pisuṇā vācā etesanti pisuṇavācā. Paresaṃ
mammacchedikā pharusā vācā etesanti pharusavācā. Samphaṃ niratthakavacanaṃ
palapantīti samphappalāpī. Abhijjhāyantīti abhijjhālū, parabhaṇḍalubbhanasīlāti
attho. Byāpannaṃ pūtibhūtaṃ cittametesanti byāpannacittā. Micchā pāpikā
viññugarahitā etesaṃ diṭṭhīti micchādiṭṭhī, kammapathapariyāpannāya natthi
dinnantiādivatthukāya, micchattapariyāpannāya aniyyānikadiṭṭhiyā ca
samannāgatāti attho. Sammā sobhanā viññuppasatthā etesaṃ diṭṭhīti sammādiṭṭhī,
kammapathapariyāpannāya atthi dinnantiādikāya kammassakatādiṭṭhiyā,
sammattapariyāpannāya maggadiṭṭhiyā ca samannāgatāti attho.
Micchāsaṅkappāti ayāthāvaaniyyānikaakusalasaṅkappā.
Esa nayo micchāvācātiādīsu. Ayaṃ pana viseso, micchāsaṅkappādayo viya hi
micchāsati nāma pāṭiekko koci dhammo natthi, atītaṃ pana cintayato pavattānaṃ
catunnampi akusalakkhandhānametaṃ adhivacanaṃ. Yampi vuttaṃ bhagavatā –
‘‘atthesā, bhikkhave, anussati, nesā natthīti vadāmi, puttalābhaṃ vā,
bhikkhave, anussarato, dhanalābhaṃ vā, bhikkhave, anussarato, yasalābhaṃ vā,
bhikkhave, anussarato’’ti, tampi taṃ taṃ cintentassa satipatirūpakena uppattiṃ
sandhāya vuttanti veditabbaṃ. Micchāñāṇīti ettha ca micchāñāṇanti pāpakiriyāsu
upāyacintāvasena pāpaṃ katvā ‘‘sukataṃ mayā’’ti paccavekkhaṇākārena ca uppanno
moho veditabbo, tena samannāgatā puggalā micchāñāṇī. Sammāñāṇīti ettha pana
ekūnavīsatibhedaṃ paccavekkhaṇāñāṇaṃ ‘‘sammāñāṇa’’nti vuccati, tena samannāgatā
puggalā sammāñāṇī. Micchāvimuttīti avimuttāyeva samānā ‘‘vimuttā maya’’nti evaṃsaññino,
avimuttiyaṃ vā vimuttisaññino. Tatrāyaṃ vacanattho, micchā pāpikā viparītā
vimutti etesaṃ atthīti micchāvimuttī. Micchāvimuttīti ca yathāvuttenākārena
pavattānaṃ akusalakkhandhānametaṃ adhivacanaṃ. Phalasampayuttāni pana sammādiṭṭhiādīni
aṭṭhaṅgāni ṭhapetvā sesadhammā sammāvimuttīti veditabbā. Sā ca micchāvimuttiṃ
sallikhitvā ṭhitattā sallekhoti veditabbā. Tattha niyojento āha ‘‘mayamettha
sammāvimuttī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo’’ti.
Ito parāni tīṇi nīvaraṇavasena vuttāni.
Abhijjhālū byāpannacittāti evaṃ kammapathesu vuttattā panettha paṭhamāni dve
nīvaraṇāni na vuttānīti veditabbāni. Tattha thinamiddhena pariyuṭṭhitā
abhibhūtāti thinamiddhapariyuṭṭhitā. Uddhaccena samannāgatāti uddhatā.
Vicinantā kicchanti na sakkonti sanniṭṭhānaṃ kātunti vicikicchī. Kodhanātiādīni
dasa cittassa upakkilesavasena vuttāni. Tattha kodhādīsu yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ
sabbaṃ dhammadāyādavatthasuttesu vuttaṃ. Ayaṃ panettha vacanattho – kodhanāti
kujjhanasīlā. Upanāhīti upanāhanasīlā, upanāho vā etesaṃ atthīti upanāhī. Tathā
makkhī palāsī ca. Issantīti issukī. Maccharāyantīti maccharī, maccheraṃ vā
etesaṃ atthīti maccharī. Saṭhayantīti saṭhā, na sammā bhāsantīti vuttaṃ hoti,
kerāṭikayuttānametaṃ adhivacanaṃ. Māyā etesaṃ atthīti māyāvī. Thambhasamaṅgitāya
thaddhā. Atimānayogena atimānī. Vuttapaccanīkanayena sukkapakkho veditabbo.
Dubbacāti vattuṃ dukkhā kiñci vuccamānā na
sahanti. Tabbiparītā suvacā. Devadattādisadisā pāpakā mittā etesanti pāpamittā.
Buddhā vā sāriputtādisadisā vā kalyāṇā mittā etesanti kalyāṇamittā.
Kāyaduccaritādīsu cittavossaggavasena pamattā. Viparītā appamattāti veditabbā.
Imāni tīṇi pakiṇṇakavasena vuttāni. Assaddhātiādīni satta asaddhammavasena.
Tattha tīsu vatthūsu saddhā etesaṃ natthīti assaddhā. Sukkapakkhe saddahantīti
saddhā, saddhā vā etesaṃ atthītipi saddhā. Natthi etesaṃ hirīti ahirikā,
akusalasamāpattiyā ajigucchamānānametaṃ adhivacanaṃ. Hirī etesaṃ mane, hiriyā
vā yuttamanāti hirimanā. Na ottappantīti anottappī, akusalasamāpattiyā na
bhāyantīti vuttaṃ hoti. Tabbiparītā ottappī. Appaṃ sutametesanti appassutā,
appanti ca thokanti na gahetabbaṃ, natthīti gahetabbaṃ. ‘‘Appassutā’’ti hi
nissutā sutavirahitā vuccanti. Bahu sutametesanti bahussutā, tathāgatabhāsitaṃ
ekampi gāthaṃ yāthāvato ñatvā anurūpapaṭipannānametaṃ adhivacanaṃ. Kucchitā
sīdantīti kusītā, hīnavīriyānametaṃ adhivacanaṃ. Āraddhaṃ vīriyametesanti
āraddhavīriyā, sammappadhānayuttānametaṃ adhivacanaṃ, muṭṭhā sati etesanti muṭṭhassatī,
naṭṭhassatīti vuttaṃ hoti. Upaṭṭhitā sati etesanti upaṭṭhitassatī, niccaṃ
ārammaṇābhimukhappavattasatīnametaṃ adhivacanaṃ. Duṭṭhā paññā etesanti
duppaññā, naṭṭhapaññāti vuttaṃ hoti. Paññāya sampannāti paññāsampannā, paññāti
ca idha vipassanāpaññā veditabbā. Vipassanāsambhāro hi paripūro imasmiṃ ṭhāne
āgato, tasmā vipassanāpaññāva ayanti porāṇānaṃ āṇā.
Idāni ekameva lokuttaraguṇānaṃ antarāyakaraṃ
aniyyānikadiṭṭhiṃ tīhākārehi dassento sandiṭṭhiparāmāsītiādimāha. Tattha sandiṭṭhiṃ
parāmasantīti sandiṭṭhiparāmāsī. Ādhānaṃ gaṇhantīti ādhānaggāhī, ādhānanti daḷhaṃ
vuccati, daḷhaggāhīti attho. Yuttakāraṇaṃ disvāva laddhiṃ paṭinissajjantīti paṭinissaggī,
dukkhena kicchena kasirena bahumpi kāraṇaṃ dassetvā na sakkā paṭinissaggaṃ
kātunti duppaṭinissaggī, ye attano uppannaṃ diṭṭhiṃ idameva saccanti daḷhaṃ gaṇhitvā
api buddhādīhi kāraṇaṃ dassetvā vuccamānā na paṭinissajjanti, tesametaṃ
adhivacanaṃ. Tādisā hi puggalā yaṃ yadeva dhammaṃ vā adhammaṃ vā gaṇhanti, taṃ
sabbaṃ ‘‘evaṃ amhākaṃ ācariyehi kathitaṃ, evaṃ amhehi suta’’nti kummova aṅgāni
sake kapāle antoyeva samodahanti, kumbhīlaggāhaṃ gaṇhanti na vissajjanti.
Vuttavipariyāyena sukkapakkho veditabbo.
84. Evaṃ catucattālīsāya ākārehi
sallekhaṃ dassetvā idāni tasmiṃ sallekhe cittuppādassāpi bahūpakārataṃ dassetuṃ
cittuppādampi kho ahantiādimāha.
Tassattho, ahaṃ, cunda, kusalesu dhammesu
cittuppādampi bahūpakāraṃ vadāmi, yā panetā kāyena ca vācāya ca anuvidhiyanā,
yathā paṭhamaṃ cittaṃ uppannaṃ, tatheva tesaṃ dhammānaṃ kāyena karaṇaṃ, vācāya
ca ‘‘karothā’’ti āṇāpanaṃ vā, uggahaparipucchādīni vā, tattha vādoyeva ko,
ekantabahūpakārāyeva hi tā anuvidhiyanāti dasseti. Kasmā panettha cittuppādopi
bahūpakāroti? Ekantahitasukhāvahattā anuvidhiyanānaṃ hetuttā ca.
‘‘Dānaṃ dassāmī’’ti hi cittuppādo sayampi
ekantahitasukhāvaho anuvidhiyanānampi hetu, evañhi uppannacittattāyeva
dutiyadivase mahāvīthiṃ pidahitvā mahāmaṇḍapaṃ katvā bhikkhusatassa vā
bhikkhusahassassa vā dānaṃ deti, ‘‘bhikkhusaṅghaṃ nimantetha pūjetha
parivisathā’’ti parijane āṇāpeti. Evaṃ ‘‘saṅghassa cīvaraṃ senāsanaṃ bhesajjaṃ
dassāmī’’ti cittuppādo sayampi ekantahitasukhāvaho anuvidhiyanānampi hetu, evaṃ
uppannacittattāyeva hi cīvarādīni abhisaṅkharoti deti dāpeti ca. Esa nayo saraṇagamanādīsu.
‘‘Saraṇaṃ gacchāmī’’ti hi cittaṃ uppādetvāva
pacchā kāyena vā vācāya vā saraṇaṃ gaṇhāti. Tathā ‘‘pañcaṅgaṃ aṭṭhaṅgaṃ dasaṅgaṃ
vā sīlaṃ samādiyissāmī’’ti cittaṃ uppādetvā kāyena vā vācāya vā samādiyati, ‘‘pabbajitvā
catūsu sīlesu patiṭṭhahissāmī’’ti ca cittaṃ uppādetvā kāyena vācāya ca
pūretabbaṃ sīlaṃ pūreti. ‘‘Buddhavacanaṃ uggahessāmī’’ti cittaṃ uppādetvāva ekaṃ
vā nikāyaṃ dve vā tayo vā cattāro vā pañca vā nikāye vācāya uggaṇhāti. Evaṃ
dhutaṅgasamādāna-kammaṭṭhānuggaha-kasiṇaparikamma-jhānasamāpattivipassanāmaggaphala-
paccekabodhi-sammāsambodhivasena netabbaṃ.
‘‘Buddho bhavissāmī’’ti hi cittuppādo sayampi
ekantahitasukhāvaho anuvidhiyanānampi hetu, evañhi uppannacittattāyeva aparena
samayena kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkheyyāni kāyena vācāya ca pāramiyo
pūretvā sadevakaṃ lokaṃ tārento vicarati. Evaṃ sabbattha cittuppādopi
bahūpakāro. Kāyavācāhi pana anuvidhiyanā atibahūpakārāyevāti veditabbā.
Evaṃ kusalesu dhammesu cittuppādassāpi
bahūpakārataṃ dassetvā idāni tattha niyojento ‘‘tasmā tiha cundā’’tiādimāha. Taṃ
atthato pākaṭameva.
85. Evaṃ catucattālīsāya ākārehi
dassite sallekhe cittuppādassāpi bahūpakārataṃ dassetvā idāni tasseva
sallekhassa hitādhigamāya maggabhāvaṃ dassento seyyathāpītiādimāha.
Tassattho, yathā nāma, cunda, khāṇukaṇṭakapāsāṇādīhi
visamo maggo bhaveyya, tassa parikkamanāya parivajjanatthāya añño
suparikammakato viya bhūmibhāgo samo maggo bhaveyya, yathā ca rukkhamūlapāsāṇapapātakumbhīlamakarādi
paribyākulaṃ visamaṃ titthamassa, tassa parikkamanāya parivajjanatthāya aññaṃ
avisamaṃ anupubbagambhīraṃ sopānaphalakasadisaṃ titthaṃ bhaveyya, yaṃ paṭipanno
sukheneva taṃ nadiṃ vā taḷākaṃ vā ajjhogāhetvā nhāyeyya vā uttareyya vā,
evameva kho, cunda, visamamaggavisamatitthasadisāya vihiṃsāya samannāgatassa
vihiṃsakapuggalassa samamaggasamatitthasadisā avihiṃsā hoti parikkamanāya.
Yatheva hi visamamaggatitthaparivajjanatthāya samo maggo ca titthañca paṭiyattaṃ,
evaṃ vihiṃsāparivajjanatthāya avihiṃsā paṭiyattā, yaṃ paṭipanno sukheneva manussagatiṃ
vā devagatiṃ vā ajjhogāhetvā sampattiṃ vā anubhaveyya uttareyya vā lokā.
Eteneva upāyena sabbapadāni yojetabbāni.
86. Evaṃ tasseva hitādhigamāya
maggabhāvaṃ dassetvā idāni uparibhāgaṅgamanīyataṃ dassento,
seyyathāpītiādimāha.
Tassattho, yathā nāma, cunda, ye keci akusalā
dhammā paṭisandhiyā janakā vā ajanakā vā, dinnāyapi paṭisandhiyā vipākajanakā
vā ajanakā vā, sabbe te jātivasena adhobhāgaṅgamanīyāti evaṃnāmāva honti,
vipākakāle aniṭṭhākantavipākattā. Yathā ca ye keci kusalā dhammā paṭisandhiyā
janakā vā ajanakā vā dinnāyapi paṭisandhiyā vipākajanakā vā ajanakā vā, sabbe
te jātivasena uparibhāgaṅgamanīyāti evaṃnāmāva honti, vipākakāle iṭṭhakantavipākattā,
evameva kho, cunda, vihiṃsakassa…pe… uparibhāgāyāti. Tatrāyaṃ opammasaṃsandanā
– yathā sabbe akusalā adhobhāgaṅgamanīyā, evaṃ vihiṃsakassa ekā vihiṃsāpi.
Yathā ca sabbe kusalā uparibhāgaṅgamanīyā, evaṃ avihiṃsakassa ekā avihiṃsāpi.
Eteneva upāyena akusalaṃ akusalena kusalañca kusalena upametabbaṃ, ayaṃ
kirettha adhippāyoti.
87. Evaṃ tasseva sallekhassa
uparibhāgaṅgamanīyataṃ dassetvā idāni parinibbāpane samatthabhāvaṃ dassetuṃ so
vata cundātiādimāha. Tattha soti vuttappakārapuggalaniddeso. Tassa yoti imaṃ
uddesavacanaṃ āharitvā yo attanā palipapalipanno, so vata, cunda, paraṃ
palipapalipannaṃ uddharissatīti evaṃ sabbapadesu sambandho veditabbo.
Palipapalipannoti gambhīrakaddame nimuggo vuccati, no ca kho ariyassa vinaye.
Ariyassa pana vinaye palipanti pañca kāmaguṇā vuccanti. Palipannoti tattha
nimuggo bālaputhujjano, tasmā evamettha atthayojanā veditabbā. Yathā, cunda,
koci puriso yāva nāsikaggā gambhīre kaddame nimuggo aparaṃ tattheva nimuggaṃ
hatthe vā sīse vā gahetvā uddharissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati, na hi taṃ kāraṇamatthi,
yena so taṃ uddharitvā thale patiṭṭhapeyya, evameva yo attanā pañcakāmaguṇapalipe
palipanno, so vata paraṃ tatheva palipapalipannaṃ uddharissatīti netaṃ ṭhānaṃ
vijjati.
Tattha siyā ayuttametaṃ, puthujjanānampi
bhikkhubhikkhunīupāsakaupāsikānaṃ dhammadesanaṃ sutvā hontiyeva dhammaṃ
abhisametāro, tasmā palipapalipanno uddharatīti, taṃ na tathā daṭṭhabbaṃ.
Bhagavāyeva hi tattha uddharati, pasaṃsāmattameva pana dhammakathikā labhanti
raññā pahitalekhavācako viya. Yathā hi rañño paccantajanapade pahitaṃ lekhaṃ
tattha manussā lekhaṃ vācetuṃ ajānantā yo vācetuṃ jānāti, tena vācāpetvā
tamatthaṃ sutvā ‘‘rañño āṇā’’ti ādarena sampādenti, na ca nesaṃ hoti
‘‘lekhavācakassa ayaṃ āṇā’’ti. Lekhavācako pana ‘‘vissaṭṭhāya vācāya vācesi
anelagaḷāyā’’ti pasaṃsāmattameva labhati, evameva kiñcāpi sāriputtapabhutayo
dhammakathikā dhammaṃ desenti, atha kho likhitapaṇṇavācako viya te honti.
Bhagavatoyeva pana sā dhammadesanā rañño āṇā viya. Ye ca taṃ sutvā dhammaṃ
abhisamenti, te bhagavāyeva uddharatīti veditabbā. Dhammakathikā pana ‘‘vissaṭṭhāya
vācāya dhammaṃ desenti anelagaḷāyā’’ti pasaṃsāmattameva labhantīti. Tasmā
yuttamevetanti. Vuttavipariyāyena sukkapakkho veditabbo.
Adanto avinīto aparinibbutoti ettha pana
anibbisatāya adanto. Asikkhitavinayatāya avinīto. Anibbutakilesatāya
aparinibbutoti veditabbo. So tādiso paraṃ damessati, nibbisaṃ karissati,
vinessati vā tisso sikkhā sikkhāpessati, parinibbāpessati vā tassa kilese
nibbāpessatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Vuttavipariyāyena sukkapakkho veditabbo.
Evameva kho, cunda, vihiṃsakassa…pe…
parinibbānāyāti ettha pana evamattho veditabbo – yathā hi attanā
apalipapalipanno paraṃ palipapalipannaṃ uddharissati, danto damessati, vinīto
vinessati, parinibbuto parinibbāpessatīti ṭhānametaṃ vijjatīti. Kiṃ pana tanti?
Apalipapalipannattaṃ, dantattaṃ vinītattaṃ parinibbutattañca, evameva kho,
cunda, vihiṃsakassa purisapuggalassa avihiṃsā hoti parinibbānāya. Kiṃ vuttaṃ
hoti? Yo attanā avihiṃsako, tassa yā avihiṃsā, ayaṃ yā esā vihiṃsakassa parassa
vihiṃsā, tassā parinibbānāya hoti, attanā hi avihiṃsako parassa vihiṃsācetanaṃ
nibbāpessatīti ṭhānametaṃ vijjati. Kiṃ pana tanti? Avihiṃsakattameva. Yañhi
yena attanā adhigataṃ hoti, so paraṃ tadatthāya samādapetuṃ sakkotīti.
Atha vā yathā attanā apalipanno danto vinīto
parinibbuto paraṃ palipapalipannaṃ adantaṃ avinītaṃ aparinibbutañca
uddharissati damessati vinessati parinibbāpessatīti ṭhānametaṃ vijjati, evameva
vihiṃsakassa purisapuggalassa vihiṃsāpahānāya maggaṃ bhāvayato uppannā avihiṃsā
hoti parinibbānāya. Parinibbuto viya hi aparinibbutaṃ avihiṃsācetanāva vihiṃsācetanaṃ
parinibbāpetuṃ samatthā. Etamatthaṃ dassento ‘‘evameva kho, cundā’’tiādimāhāti
evamettha attho daṭṭhabbo. Yathā cettha, evaṃ sabbapadesu. Ativitthārabhayena
pana anupadayojanā na katāti.
88. Evaṃ tassa parinibbāpane
samatthabhāvaṃ dassetvā idāni taṃ desanaṃ nigametvā dhammapaṭipattiyaṃ niyojetuṃ
iti kho, cundātiādimāha. Tattha sallekhapariyāyoti sallekhakāraṇaṃ. Esa nayo
sabbattha ettha avihiṃsādayo eva vihiṃsādīnaṃ sallekhanato sallekhakāraṇaṃ.
Tesaṃ vasena cittassa uppādetabbato cittupādakāraṇaṃ, vihiṃsādi, parikkamanassa
hetuto parikkamanakāraṇaṃ, uparibhāganipphādanato uparibhāgakāraṇaṃ, vihiṃsādīnaṃ
parinibbāpanato parinibbānakāraṇanti veditabbā. Hitesināti hitaṃ esantena.
Anukampakenāti anukampamānena. Anukampaṃ upādāyāti anukampaṃ cittena
pariggahetvā, pariccātipi vuttaṃ hoti. Kataṃ vo taṃ mayāti taṃ mayā ime pañca
pariyāye dassentena tumhākaṃ kataṃ. Ettakameva hi anukampakassa satthu kiccaṃ,
yadidaṃ aviparītadhammadesanā. Ito paraṃ pana paṭipatti nāma sāvakānaṃ kiccaṃ.
Tenāha etāni, cunda, rukkhamūlāni…pe… amhākaṃ anusāsanīti.
Tattha ca rukkhamūlānīti iminā
rukkhamūlasenāsanaṃ dasseti. Suññāgārānīti iminā janavivittaṭṭhānaṃ. Ubhayenāpi
ca yogānurūpasenāsanamācikkhati, dāyajjaṃ niyyāteti. Jhāyathāti ārammaṇūpanijjhānena
aṭṭhatiṃsārammaṇāni, lakkhaṇūpanijjhānena ca aniccādito khandhāyatanādīni
upanijjhāyatha, samathañca vipassanañca vaḍḍhethāti vuttaṃ hoti. Mā
pamādatthāti mā pamajjittha. Mā pacchā vippaṭisārino ahuvatthāti ye hi pubbe
daharakāle, ārogyakāle, sattasappāyādisampattikāle, satthu sammukhībhāvakāle ca
yonisomanasikāravirahitā rattindivaṃ maṅgulabhattā hutvā seyyasukhaṃ
middhasukhamanubhontā pamajjanti, te pacchā jarākāle, rogakāle, maraṇakāle,
vipattikāle, satthu parinibbutakāle ca taṃ pubbe pamādavihāraṃ anussarantā,
sappaṭisandhikālakiriyañca bhāriyaṃ sampassamānā vippaṭisārino honti, tumhe
pana tādisā mā ahuvatthāti etamatthaṃ dassento āha ‘‘mā pacchā vippaṭisārino
ahuvatthā’’ti. Ayaṃ vo amhākaṃ anusāsanīti ayaṃ amhākaṃ santikā ‘‘jhāyatha mā
pamādatthā’’ti tumhākaṃ anusāsanī, ovādoti vuttaṃ hoti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Sallekhasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1.Những suy nghĩ của một người tu tập được đề cập trong bài kinh này có thuộc về như lý tác ý ? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Sự buông xã có thể thực hiện thế nào trong từng bước trên hành trình tu tập ? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 3. Làm sao để cảm nhận sự hướng thượng của thiện pháp ? - TT Pháp Tân
Thảo luận 2. Sự buông xã có thể thực hiện thế nào trong từng bước trên hành trình tu tập ? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 3. Làm sao để cảm nhận sự hướng thượng của thiện pháp ? - TT Pháp Tân
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment