Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Quyền
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 16/6/2020
2. Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc
(Sabbāsava Sutta)
Gọi là Kinh Tất Cả Lậu Hoặc vì là pháp thoại của Đức
Phật có nội dung dạy và bảy phương cách đối trị lậu hoặc. Chữ “tất cả” nói lên
tánh cách toàn diện. Bài kinh ghi lại lời Đức Phật hướng dẫn bảy cách áp chế
phiền não ô nhiễm trong tâm. Không phải tất cả lậu hoặc đều giống nhau. Mỗi bệnh
có cách trị liệu riêng. Có lậu hoặc phải do tri kiến đoạn trừ. Có lậu hoặc phải
do phòng hộ đoạn trừ. Có lậu hoặc phải do thọ dụng đoạn trừ. Có lậu hoặc phải
do kham nhẫn đoạn trừ. Có lậu hoặc phải do tránh né đoạn trừ. Có lậu hoặc phải
do diệt tận đoạn trừ. Có lậu hoặc phải do tu tập đoạn trừ.
005. Lậu hoặc được nói theo chiều kích rộng lớn toàn
diện
Khi phiền não trở thành nhân tố của trầm luân sanh tử
được gọi là lậu hoặc. Lậu hoặc thuộc phiền não nhưng không phải tất cả phiền
não đều là lậu hoặc. Chữ lậu hoặc có nghĩa là những ô nhiễm mang tính lây lan dẫn
tới trầm luân sanh tử. Cũng giống như bệnh có thứ truyền nhiễm có thứ không. Lậu
hoặc đa dạng và sanh khởi do nhiều nguyên nhân. Chính vì vậy phương pháp ngăn
ngừa và đoạn tận lậu hoặc cũng có nhiều phương cách:
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn
ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anāthapiṇḍika
(Cấp Cô Ðộc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này
các Tỷ-kheo!" --"Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng
đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho
các Người pháp môn phòng hộ tất cả lậu hoặc". Hãy nghe và
khéo tác ý. Ta sẽ nói". --"Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Thế Tôn nói như sau:
(
-- Này các
Tỷ-kheo, Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho
người thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho
người biết, cho người thấy: có như lý tác ý và không như lý tác
ý. Này các Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh
được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này
các Tỷ-kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh
khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt. Này các Tỷ-kheo, có
những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu hoặc
phải do phòng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ
dụng được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn
trừ, có những lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ, có những
lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải
do tu tập được đoạn trừ.
006. Các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ
Đó là những hoang tưởng, ngã chấp do băn khoăn về sự hiện hữu ở quá khứ,
vị lai, tại. Đặc câu hỏi sai chỗ thì dẫn đến điên đảo vọng tưởng. Tri kiến có
khả năng đoạn trừ những lậu hoặc nầy là hiểu biết thực tiễn khổ, nhân sanh khổ,
sự diệt khổ, con đường đưa đến diệt khổ.
Này các Tỷ-kheo,
và thế nào là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ? Này
các Tỷ-kheo, ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các
bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp
các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhơn, không thuần
thục pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn,
không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, không tuệ tri các pháp
không cần phải tác ý; vị này vì không tuệ tri các pháp cần phải
tác ý, vì không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý nên tác ý
các pháp không cần phải tác ý và không tác ý các pháp cần phải
tác ý.
Này các Tỷ-kheo,
và thế nào là các pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý?
Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu
chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay
hữu lậu chưa sanh được sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được tăng
trưởng, hay vô minh lậu chưa sanh được sanh khởi, hay vô minh lậu đã
sanh được tăng trưởng. Những pháp ấy là những pháp không cần phải
tác ý mà vị ấy tác ý. Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp
cần phải tác ý mà vị ấy không tác ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là
các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay
dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh
khởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sanh
không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt. Những pháp
ấy là những pháp cần phải tác ý mà các vị ấy không tác ý. Do vị
ấy tác ý các pháp không nên tác ý, do vị ấy không tác ý các
pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi,
và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng.
Vị ấy không như
lý tác ý như sau: "Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta không
có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế
nào? Ta có mặt trong thời quá khứ hình vóc như thế nào? Trước kia
ta là gì và ta đã có mặt như thế nào trong thời quá khứ? Ta sẽ có
mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ
có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị
lai, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như
thế nào trong thời vị lai?" Hay nay vị ấy có nghi ngờ về mình
trong thời hiện tại: "Ta có mặt hay ta không có mặt? Ta có mặt
như thế nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào? Chúng sanh này từ
đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?".
Với người không
như lý tác ý như vậy, một trong sáu tà kiến này khởi lên: "Ta
có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như
chơn; "Ta không có tự ngã", tà kiến này khởi lên với
người ấy như thật như chơn; "Do tự mình, ta tưởng tri ta có
tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như
chơn; "Do tự mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã", tà
kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. "Không do
tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với
người ấy như thật, như chơn; hay tà kiến này khởi lên với người
ấy: "Chính tự ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo
các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngã ấy của
ta là thường trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ
vĩnh viễn tồn tại". Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là tà kiến,
kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến
kiết phược. Này các Tỷ-kheo, trói buộc bởi kiến kiết sử, kẻ phàm
phu ít nghe không được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ,
ưu, não. Ta nói kẻ ấy không thoát khỏi khổ đau.
Này các Tỷ-kheo,
và vị Thánh đệ tử nghe nhiều, được thấy các bậc Thánh, thuần thục
pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh; được thấy các bậc
Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc
Chơn nhơn, tuệ tri các pháp cần phải tác ý, tuệ tri các pháp không
cần phải tác ý. Vị này, nhờ tuệ tri các pháp cần phải tác ý, nhờ
tuệ tri các pháp không cần phải tác ý, nên không tác ý các pháp
không cần phải tác ý và tác ý các pháp cần phải tác ý.
Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các pháp không cần phải tác ý và vị này
không tác ý? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do vị ấy tác ý mà
dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng
trưởng; hay hữu lậu chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa
sanh được khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Ðó là
những pháp không nên tác ý và vị ấy không tác ý. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý? Này
các Tỷ-kheo, những pháp nào do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh
không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu
chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi,
hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt, đó là những pháp cần phải
tác ý và vị ấy tác ý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần
phải tác ý, tác ý các pháp cần phải tác ý nên các lậu hoặc chưa
sanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.
Vị ấy như lý tác
ý: "Ðây là khổ", như lý tác ý: "Ðây là khổ
tập", như lý tác ý: "Ðây là khổ diệt", như lý tác
ý: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Nhờ vị ấy tác ý
như vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới cấm thủ.
Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tri
kiến được đoạn trừ.
007. Các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ
Đó là những lậu hoặc
sanh khởi do sáu căn tiếp xúc sáu cảnh. Trong bản dịch chữ saṁvara dịch là
phòng hộ thật ra mang ý nghĩa là sự chế ngự đối với lậu hoặc chưa sanh hoặc
đang có. Khi sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với các cảnh cần có
sự chế ngự bằng ý thức mạnh mẽ về hệ luỵ
do sự chi phối mang lại.
Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ?
Ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, sống phòng hộ với sự phòng hộ
mắt. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không phòng hộ với sự
phòng hộ mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên.
Nếu sống phòng hộ với sự phòng hộ mắt, các lậu hoặc tàn hại và
nhiệt não ấy không còn nữa. Vị ấy như lý giác sát, sống phòng hộ
với sự phòng hộ lỗ tai... (như trên)... sống phòng hộ với sự phòng
hộ lỗ mũi... (như trên)... sống phòng hộ với sự phòng hộ lưỡi...
(như trên)... sống như lý giác sát phòng hộ với sự phòng hộ
thân... (như trên)... sống như lý giác sát phòng hộ với sự phòng
hộ ý. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không phòng hộ với sự
phòng hộ ý, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi
lên. Nếu sống phòng hộ ý, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy
không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu
hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ.
008. Các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ
Thọ dụng những nhu
yếu y phục, thực phẩm, chỗ ở, thuốc trị bệnh thường tạo nên lậu hoặc ham muốn,
thủ đắc. Người tu tập cần biết thọ dụng thế nào để đáp ứng nhu cầu cuộc sống
nhưng không tạo thêm phiền não.
Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát, thọ dụng y phục,
chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của
ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát, chỉ với mục
đích che đậy sự trần truồng.
Vị ấy như lý
giác sát, thọ dụng món ăn khất thực không phải để vui đùa, không
phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp
mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để (thân
này) khỏi bị thương hại, để hổ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng:
"Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên
các cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an
ổn".
Vị ấy như lý
giác sát, thọ dụng sàng tọa, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa
nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt
trời, các loại bò sát, chỉ để giải trừ nguy hiểm của thời tiết,
chỉ với mục đích sống độc cư an tịnh.
Vị ấy như lý
giác sát thọ dụng dược phẩm trị bệnh, chỉ để ngăn chận các cảm
giác khổ thống đã sanh, để được ly khổ hoàn toàn.
Này các Tỷ-kheo,
nếu vị ấy không thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt
não có thể khởi lên. Nếu vị ấy thọ dụng như vậy, các lậu hoặc
tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp
ấy được gọi là các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ.
009. Các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ
Không ai trong đời có thể tránh được những nghịch cảnh hay những chuyện
trái ý nghịch lòng. Phản ứng thông thường là bực bội, phẫn nộ nên từ đó khiến
nhiều lậu hoặc tăng trưởng. Kham nhẫn trước những điều trái ý là một bản lãnh
giúp người tu tập đoạn trừ những lậu hoặc đó.
Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, kham nhẫn
lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng
mặt trời, các loài bò sát; kham nhẫn những cách nói mạ lị phỉ
báng. Vị ấy có tánh kham nhẫn các cảm thọ về thân, những cảm thọ
thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, không sung sướng, không
thích thú, chết điếng người. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không kham
nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên.
Nếu vị ấy kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não
ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các
lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ.
010. Các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ
Có những lậu hoặc
phiền não đến từ những nguy hiểm, phiền phức, tai bay hoạ gởi lẽ ra có thể
tránh được nếu cẩn trọng đó là lậu hoặc do tránh né đoạn trừ.
Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát tránh né voi dữ,
tránh né ngựa dữ, tránh né bò dữ, tránh né chó dữ, rắn, khúc
cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước nhớp, vũng nước. Có những
chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những trú xứ không nên lai vãng,
những bạn bè ác độc mà nếu giao du thì bị các vị đồng phạm hạnh
có trí nghi ngờ, khinh thường; vị ấy như lý giác sát tránh né chỗ
ngồi không xứng đáng ấy, trú xứ không nên lai vãng ấy và các bạn
độc ác ấy. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tránh né như vậy,
các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy
tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn
nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải
do tránh né được đoạn trừ.
011. Các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ
Đó là những lậu hoặc
cần áp đảo tiêu trừ ngay lúc mới sanh khởi bằng thái độ dứt khoá không chấp
nhận. Những ý nghĩ bất thiện nầy nếu không xua tan lập tức thì sẽ nhanh chóng
lớn mạnh hướng cuộc sống vào những hệ luỵ khó lường.
Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát không có chấp
nhận dục niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho
tồn tại (dục niệm ấy); không có chấp nhận sân niệm đã khởi lên,
từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (sân niệm ấy); không
có chấp nhận hại niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không
cho tồn tại (hại niệm ấy); không chấp nhận các ác bất thiện pháp
luôn luôn khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại
(các ác bất thiện pháp ấy). Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không trừ
diệt như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi
lên. Nếu vị ấy trừ diệt như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt
não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là
các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn diệt.
012. Các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ
Ái chấp, vô minh là những lậu hoặc phải được đoạn bằng tuệ giác. Giác ngộ
chân tướng vạn pháp, cắt đứt kiết sử là mục tiêu cao cả của đời sống phạm hạnh.
Để thành tựu đích điểm nầy bảy giác chi cần được tu tập.
Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ- kheo như lý giác sát tu tập niệm giác
chi, niệm giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến
từ bỏ; như lý giác sát tu tập trạch pháp giác chi... (như trên)...
tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác chi... tu tập khinh an giác
chi... tu tập định giác chi... tu tập xả giác chi; xả giác chi này y
viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các Tỷ-kheo,
nếu vị ấy không tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt
não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy tu tập như vậy, các lậu hoặc
tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp
ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.
013. Sự giải thoát trong ý nghĩa cụ thể
Giác ngộ giải thoát
không phải là khái niệm trừu tượng triết lý mà là sự đoạn tận lậu hoặc, chấm dứt
sanh tử:
Này các Tỷ-kheo,
đối với Tỷ-kheo những lậu hoặc nào phải do tri kiến được đoạn trừ
đã được tri kiến đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do phòng hộ
được đoạn trừ đã được phòng hộ đoạn trừ, những lậu hoặc nào
phải do thọ dụng được đoạn trừ đã được thọ dụng đoạn trừ, những
lậu hoặc nào phải do kham nhẫn được đoạn trừ đã được kham nhẫn
đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tránh né được đoạn trừ đã
được tránh né đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do trừ diệt được
đoạn trừ đã được trừ diệt đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tu
tập được đoạn trừ đã được tu tập đoạn trừ; này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy được gọi là đã sống phòng hộ với sự phòng hộ tất cả
lậu hoặc, đã đoạn diệt khát ái, đã thoát ly kiết sử, đã chánh
quán kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau.
Như vậy Thế Tôn
thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh
số 2 [tóm tắt]
Kinh
Tất Cả Các Lậu Hoặc
(Sabbāsava
Sutta)
(M.i,
7)
Đức Phật giảng
pháp môn chế ngự tất cả lậu hoặc (sabbāsavasamvarapariyāyam) cho
người thấy, cho người biết, không phải cho người không thấy, không
biết, vì rằng có như lý tác ý và phi như lý tác ý. Do phi như lý tác ý,
các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh được
tăng trưởng. Do như lý tác ý (yoniso manasikara) các lậu hoặc
chưa sanh không sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh được đoạn diệt. Có bảy
phương pháp đoạn trừ lậu hoặc: có lậu hoặc được đoạn trừ do tri
kiến, do chế ngự, do thọ dụng, do kham nhẫn, do tránh né, do trừ diệt,
do tu tập.
1. Các lậu hoặc do
tri kiến (dassanā) được đoạn trừ:
Kẻ phàm phu không
quán tri (pajānanti) các pháp cần phải tác ý, không quán tri các pháp
không cần phải tác ý, nên tác ý các pháp không cần phải tác ý và không tác
ý các pháp cần phải tác ý. Do vậy các lậu hoặc –dục lậu, hữu lậu, vô
minh lậu– chưa sanh được sanh khởi và đã sanh được tăng trưởng.
Người ấy phi như lý tác ý như sau:
- Về quá khứ có 4:
Ta có mặt hay không có mặt? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt hình vóc
như thế nào? Cao hay thấp, trắng hay đen? Trước kia ta đã là gì, và ta đã
có mặt trong thời quá khứ?
- Về vị lai có 4:
Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay không có mặt? Ta sẽ có mặt trong
thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hình vóc như
thế nào? Trước kia ta là gì, và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị
lai?
- Về hiện tại có
4: Trong hiện tại, người ấy có nghi ngờ về mình: Ta có mặt hay ta không
có mặt? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào? Hữu tình
này từ đâu đến và sẽ đi đâu?
Với người phi như
lý tác ý, như vậy một trong sáu tà kiến này khởi lên, như thật, như
chân:
a/ Ta có tự ngã.
b/ Ta không có tự
ngã.
c/ Do tự ngã, ta
tưởng tri tự ngã.
d/ Do tự ngã, ta tưởng tri
không có tự ngã,
e/ Không do tự ngã, ta tưởng
tưởng tri tự ngã.
f/ Chính tự ngã này của ta nói
cảm thọ hưởng thọ quả dị thục các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này
chỗ kia. Chính tự ngã ấy thường hằng, thường còn, thường trú, không
biến chuyển.
Do bị trói buộc
bởi kiến kiết sử này, kẻ vô văn phàm phu không thoát khỏi đau khổ.
Thái độ của bậc
Thánh đệ tử nghe nhiều trái hẳn với kẻ phàm phu, tác ý các pháp cần
phải tác ý, không tác ý các pháp không cần tác ý. Do vậy các dục lậu, hữu
lậu, vô minh lậu, đã sanh được trừ diệt. Vị ấy như lý tác ý: Đây là
khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là con đường đưa đến khổ diệt.
Nhờ vậy ba kiết sử được trừ diệt: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ.
Như vậy là các lậu hoặc do tri kiến được đoạn diệt.
2. Các lậu hoặc do
phòng hộ được đoạn trừ:
Vị Tỷ-kheo như lý
giác sát, sống phòng hộ sáu căn, nhờ vậy các lậu hoặc tàn hại và nhiệt
não không khởi lên.
3. Các lậu hoặc do
thọ dụng được đoạn trừ:
Tỷ-kheo như lý giác
sát, thọ dụng y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, được phẩm trị bệnh,
để ngăn ngừa lạnh nóng, để bảo dưỡng thân này, giải trừ nguy hiểm
của thời tiết, để ngăn chận các cảm giác thống khổ do bệnh sanh. Nhờ
thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại nhiệt não được trừ diệt.
4. Các lậu hoặc do
kham nhẫn được đoạn trừ:
Tỷ-kheo như lý giác
sát, kham nhẫn nóng, lạnh, đói, khát, mạ lỵ phỉ báng, các cảm thọ khốc
liệt về thân. Nhờ kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại nhiệt não
không còn nữa.
5. Các lậu hoặc do
tránh né được đoạn trừ:
Vị Tỷ-kheo như lý
giác sát tránh voi dữ, ngựa dữ, gai góc, khúc cây, tránh né những chỗ
ngồi không đáng ngồi, những trú xứ không đáng lai vãng, những bạn bè độc
ác. Nhờ tránh né như vậy nên các lậu hoặc tàn hại nhiệt não được đoạn
trừ.
6. Các lậu hoặc do
trừ diệt được đoạn trừ:
Vị Tỷ-kheo như lý
giác sát trừ diệt các dục niệm, sân niệm, hại niệm, các bất thiện
pháp. Nhờ trừ diệt như vậy nên các lậu hoặc tàn hại nhiệt não được
đoạn trừ.
7. Các lậu hoặc do
tu tập được đoạn trừ:
Vị Tỷ-kheo như lý
giác sát tu tập bảy giác chi (niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an,
định, xả), y viễn ly, y ly tham, y diệt tận. Nhờ vậy các lậu hoặc tàn
hại nhiệt não được đoạn trừ.
Vị Tỷ-kheo nào đã
đoạn trừ các lậu hoặc do bảy phương pháp này được gọi là sống phòng
hộ với sự phòng hộ tất cả các lậu hoặc, đã đoạn diệt khát ái, đã
thoát ly kiết sử, đã chánh quán kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 2 [dàn
ý]
Kinh
Tất Cả Các Lậu Hoặc
(Sabbāsava
Sutta)
(M.i,
7)
A.
Duyên khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo
và nói sẽ giảng pháp môn phòng hộ tất cả lậu hoặc.
B.
Chánh kinh:
I. Thế Tôn tuyên bố chỉ người biết
người thấy, mới đoạn trừ tất cả lậu hoặc, và nói các lậu hoặc được đoạn trừ do
7 pháp môn khác nhau.
II. Các lậu hoặc do tri kiến được đoạn
trừ.
1. Thái độ của kẻ
phàm phu đưa đến già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
a. Đối với bậc chân
nhân và pháp bậc chân nhân, đối với bậc Thánh và pháp bậc Thánh.
b. Không tuệ tri các
pháp cần phải tác ý, các pháp không cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh
được sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng.
c. 12 phi như lý tác
ý về quá khứ, vị lai, hiện tại.
d. 6 tà kiến.
2. Thái độ của bậc
Thánh đệ tử, đưa đến đoạn tận các lậu hoặc.
a. Thái độ đối với bậc
chân nhân và pháp của bậc chân nhân, đối với bậc Thánh và pháp của bậc Thánh.
b. Tuệ tri các pháp cần
phải tác ý và các pháp không cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh không
sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh đi đến đoạn diệt.
c. Như lý tác ý khổ tập
diệt đạo, nên các lậu hoặc được đoạn trừ, chứng được quả Dự lưu.
III. Các lậu hoặc do phòng hộ được đoạn
trừ: Như lý giác sát sự phòng hộ của 6 căn.
IV. Các lậu hoặc do thọ dụng được đoạn
trừ: Như lý giác sát khi thọ dụng y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm
trị bịnh.
V. Các lậu hoặc do kham nhẫn được
đoạn trừ Kham nhẫn lạnh nóng, đói khát, xúc chạm ruồi muỗi, gió, sức nóng, các
loài bò sát, lời nói mạ lỵ phỉ báng, các khổ thọ về thân.
VI. Các lậu hoặc do tránh né được đoạn
trừ: Tránh né các thú dữ, gai góc, hố sâu, những chỗ ngồi, những trú xứ không xứng
đáng, những bạn bè độc ác.
VII. Các lậu hoặc do trừ diệt được đoạn
trừ: Đoạn trừ dục niệm, sân niệm, hại niệm, các ác bất thiện pháp.
VIII. Các lậu hoặc do tu tập được đoạn
trừ: Tu tập 7 giác chi.
IX. Vị Tỷ-kheo y theo 7 pháp môn này
đoạn diệt các lậu hoặc, được xem là đã giải thoát, đoạn tận khổ đau.
C.
Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 2 [toát yếu]
Kinh
Tất Cả Các Lậu Hoặc
(Sabbāsava
Sutta)
(M.i,
7)
I.
Toát yếu
Sabbāsava Sutta -
All the taints.
The Buddha teaches
the Bhikkhus seven methods for restraining and abandoning the taints, the
fundamental defilements that maintain bondage to the round of birth and death.
Tất cả nhiễm ô.
Phật dạy các tỷ
kheo bảy phương pháp để chế ngự và từ bỏ ô nhiễm, tức những
phiền não căn bản cứ tiếp tục trói buộc con người vào chu kỳ sinh
tử.
II.
Tóm tắt
Có hai cách tác ý
các pháp (hay để tâm suy tư về một việc gì): Như lý và không như
lý. Như lý là khi tác ý, lậu hoặc chưa sinh không sinh, đã sinh
được trừ diệt. Không như lý tác ý là khiến cho lậu hoặc chưa sinh
phát sinh ra, lậu hoặc đã sinh thì tăng trưởng.
Bảy cách đoạn trừ
là: bằng tri kiến, bằng phòng hộ, bằng thọ dụng, bằng kham nhẫn,
bằng tránh né, bằng trừ diệt, bằng tu tập.
III.
Chú giải
Lậu hoặc hay
ô nhiễm gồm ba loại: dục lậu, hữu lậu, và vô minh lậu. Loại 1 trói
buộc con người vào khoái lạc giác quan, loại 2 vào tư tưởng quan
niệm, và loại 3 vào sinh tử luân hồi nói chung.
Ðoạn trừ bằng Tri
kiến là không để ý chuyện không đáng để ý, và chỉ tác ý những gì cần tác ý. Pháp của Như Lai dạy
là cốt cho người biết tác ý như lý và thấy rõ những
gì không đáng tác ý. Không đáng tác ý là những vấn đề liên hệ
đến bản ngã trong quá khứ, hiện tại, vị lai, nguồn gốc của sáu tà
kiến như sau:
1. "Ta có tự
ngã " - "self exists for me": thuyết duy linh, thuộc thường
kiến.
2. "Ta không
có tự ngã " - "no self exists for me": thuyết duy
vật, cho chỉ có thể xác, chết là hết.
3. "Do tự
mình, ta tưởng tri ta có tự ngã " - "I perceive self with
self": chấp "ngã " gồm cả hai, linh hồn và thể xác.
4. "Do tự
mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã " - "I perceive
not-self with self": chấp "ngã " chỉ là phần hồn.
5. "Không do
tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã " - "I perceive self
with not-self": chấp "ngã " chỉ là phần xác.
6. "Chính tự
ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác
đã làm chỗ này chỗ kia, chính tự ngã ấy của ta là thường trú
không chuyển biến": "It is this self of mine that speaks and
feels and experiences here and there the result of good and bad actions; but
this self of mine is permanent... no subject to change" Một dạng
hoàn toàn chấp hữu, chấp thường.
Bị trói buộc bởi
những tà kiến ấy, phàm phu không thoát khỏi sinh già chết sầu bi
khổ ưu não. Ngược lại, thánh đệ tử nhờ tác ý như lý "đây
là khổ", “đây là nguyên nhân khổ”, "đây là khổ diệt",
"đây là con đường đưa đến diệt khổ"... mà ba kiết sử
được trừ diệt là thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Ðấy gọi là đoạn
trừ bằng tri kiến.
Ðoạn trừ bằng
phòng hộ là giữ gìn chánh niệm khi sáu căn tiếp xúc
sáu trần.
Ðoạn
trừ bằng thọ dụng là biết đủ đối với bốn vật
dụng ăn mặc ở bệnh.
Ðoạn
trừ bằng kham nhẫn là hoan hỷ chịu đựng những
cảm giác khó chịu về thân tâm.
Ðoạn
trừ bằng tránh né là tránh những người, vật,
nơi chốn nguy hiểm, có thể làm phát sinh phiền não.
Ðoạn
trừ bằng trừ diệt là không chấp nhận cho dục
niệm, sân niệm, hại niệm khởi lên, diệt trừ chúng ngay trong mầm
mộng.
Ðoạn
trừ bằng tu tập là thường tu tập bảy giác chi: niệm, trạch
pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả. Trong bảy pháp, niệm hay chánh
niệm cần luôn luôn có, sáu pháp còn lại thuộc vào hai nhóm: trạch
pháp tinh tấn hỷ thuộc "động", khinh an định xả thuộc
"tĩnh". Khi tâm lừ đừ, nên tu tập các pháp động, khi tâm
quá hăng, nên tu các pháp tĩnh để châm chước, như thợ luyện vàng.
IV. Pháp
số
Hai
cách tác ý: như lý và phi như lý.
Hai
nhẫn: nhẫn sự chịu khó về thân và về tâm.
Ba
lậu hoặc: [lậu: lọt; hoặc: mê lầm] dục, hữu, vô minh.
Bốn
vật dụng: về ăn mặc ở bệnh.
Sáu
căn môn: mắt tai mũi lưỡi thân ý.
Bảy
cách trừ hoặc: tri kiến, phòng hộ, thọ dụng, kham nhẫn, tránh né,
trừ diệt, tu tập.
Bảy
giác chi: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả.
V. Kệ
tụng
Muốn
tận trừ nhiễm ô
Phải
biết rõ thấy rõ:
Biết
tác ý như lý
Thấy gì "không như lý".
Thấy gì "không như lý".
"Như
lý" là cách nghĩ
Khiến
ô nhiễm không sinh
Lại
có thể diệt trừ
Nhiễm ô đã sinh khởi.
Nhiễm ô đã sinh khởi.
Có
bảy cách trừ mê:
Tri kiến và phòng hộ
Tri kiến và phòng hộ
Thọ
dụng và kham nhẫn
Tránh
né và trừ diệt
Giác
chi là thứ bảy.
Đoạn
trừ bằng tri kiến
Là
bỏ mọi tư duy
Liên
hệ đến bản ngã
Và
như lý tác ý
Về khổ, tập, diệt, đạo.
Về khổ, tập, diệt, đạo.
Diệt
trừ ba kiết sử:
Giới thủ, thân kiến, nghi.
Giới thủ, thân kiến, nghi.
Ðoạn
trừ nhờ phòng hộ
Là
gìn giữ sáu căn
Tức giữ gìn cửa "ý"
Khi tiếp xúc sáu trần.
Tức giữ gìn cửa "ý"
Khi tiếp xúc sáu trần.
Ðoạn
trừ bằng thọ dụng
Là
biết đủ không tham
Bốn
vật dụng cần dùng
Cốt
vượt qua biển khổ.
Ðoạn
trừ bằng kham nhẫn:
Những
thống khổ khốc liệt
Do
người, vật gây nên
Vui
nhận không than oán.
Ðoạn
trừ nhờ tránh né
Tránh
mạo hiểm du hành
Tránh
giao du bất đáng
Thì
phiền não không sinh.
Ðoạn
trừ bằng trừ diệt
Những
ý xấu khởi lên
Liên
hệ dục, sân, hại
Tỳ
kheo phải dứt liền.
Tu
tập bảy giác chi
Hướng
ly tham, từ bỏ
Ðoạn
trừ các ô nhiễm
Là
diệt tận khổ đau.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
2.
Sabbāsavasuttaṃ [Mūla]
14. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca : ''sabbāsavasaṃvarapariyāyaṃ vo, bhikkhave, desessāmi. Taṃ
suṇātha , sādhukaṃ manasi karotha,
bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhanteti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā
etadavoca :
15. ''Jānato ahaṃ,
bhikkhave, passato āsavānaṃ khayaṃ vadāmi, no ajānato no apassato. Kiñca,
bhikkhave, jānato kiñca passato āsavānaṃ khayaṃ vadāmi? yoniso ca manasikāraṃ
ayoniso ca manasikāraṃ. Ayoniso, bhikkhave, manasikaroto anuppannā ceva āsavā
uppajjanti, uppannā ca āsavā pavaḍḍhanti yoniso ca kho, bhikkhave, manasikaroto
anuppannā ceva āsavā na uppajjanti, uppannā ca āsavā pahīyanti.
16. ''Atthi, bhikkhave,
āsavā dassanā pahātabbā, atthi āsavā saṃvarā pahātabbā, atthi āsavā paṭisevanā
pahātabbā, atthi āsavā adhivāsanā pahātabbā, atthi āsavā parivajjanā pahātabbā,
atthi āsavā vinodanā pahātabbā, atthi āsavā bhāvanā pahātabbā.
Dassanā pahātabbāsavā
17. ''Katame ca,
bhikkhave, āsavā dassanā pahātabbā? idha, bhikkhave , assutavā puthujjano :
ariyānaṃ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto, sappurisānaṃ
adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto : manasikaraṇīye
dhamme nappajānāti, amanasikaraṇīye dhamme nappajānāti. So manasikaraṇīye
dhamme appajānanto amanasikaraṇīye dhamme appajānanto, ye dhammā na manasikaraṇīyā,
te dhamme manasi karoti, ye dhammā manasikaraṇīyā te dhamme na manasi karoti.
''Katame ca, bhikkhave, dhammā na
manasikaraṇīyā ye dhamme manasi karoti? yassa, bhikkhave, dhamme manasikaroto
anuppanno vā kāmāsavo uppajjati, uppanno vā kāmāsavo pavaḍḍhati anuppanno vā
bhavāsavo uppajjati, uppanno vā bhavāsavo pavaḍḍhati anuppanno vā avijjāsavo
uppajjati, uppanno vā avijjāsavo pavaḍḍhati : ime dhammā na manasikaraṇīyā ye
dhamme manasi karoti. ''Katame ca,
bhikkhave, dhammā manasikaraṇīyā ye dhamme na manasi karoti? yassa, bhikkhave,
dhamme manasikaroto anuppanno vā kāmāsavo na uppajjati, uppanno vā kāmāsavo
pahīyati anuppanno vā bhavāsavo na uppajjati, uppanno vā bhavāsavo pahīyati
anuppanno vā avijjāsavo na uppajjati, uppanno vā avijjāsavo pahīyati : ime
dhammā manasikaraṇīyā ye dhamme na manasi karoti. ''Tassa amanasikaraṇīyānaṃ dhammānaṃ manasikārā manasikaraṇīyānaṃ
dhammānaṃ amanasikārā anuppannā ceva āsavā uppajjanti uppannā ca āsavā pavaḍḍhanti.
18. ''So evaṃ
ayoniso manasi karoti : 'ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhānaṃ? na nu kho ahosiṃ
atītamaddhānaṃ? kiṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ? kathaṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ?
kiṃ hutvā kiṃ ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhānaṃ? bhavissāmi nu kho ahaṃ
anāgatamaddhānaṃ? na nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ? kiṃ nu kho bhavissāmi
anāgatamaddhānaṃ? kathaṃ nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ? kiṃ hutvā kiṃ
bhavissāmi nu kho ahaṃ anāgatamaddhānanti? etarahi vā paccuppannamaddhānaṃ
[paccuppannamaddhānaṃ ārabbha (syā.)] ajjhattaṃ kathaṃkathī hoti : 'ahaṃ nu
khosmi? no nu khosmi? kiṃ nu khosmi? kathaṃ nu khosmi? ayaṃ nu kho satto kuto
āgato? so kuhiṃ gāmī bhavissatīti?
19. ''Tassa evaṃ
ayoniso manasikaroto channaṃ diṭṭhīnaṃ aññatarā diṭṭhi uppajjati. 'Atthi me
attāti vā assa [vāssa (sī. syā. pī.)] saccato thetato diṭṭhi uppajjati 'natthi
me attāti vā assa saccato thetato diṭṭhi uppajjati 'attanāva attānaṃ
sañjānāmīti vā assa saccato thetato diṭṭhi
uppajjati 'attanāva anattānaṃ sañjānāmīti vā assa saccato thetato diṭṭhi
uppajjati 'anattanāva attānaṃ sañjānāmīti vā assa saccato thetato diṭṭhi
uppajjati atha vā panassa evaṃ diṭṭhi hoti : 'yo me ayaṃ attā vado vedeyyo
tatra tatra kalyāṇapāpakānaṃ kammānaṃ vipākaṃ paṭisaṃvedeti so kho pana me ayaṃ
attā nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo
sassatisamaṃ tatheva ṭhassatīti. Idaṃ vuccati, bhikkhave , diṭṭhigataṃ
diṭṭhigahanaṃ diṭṭhikantāraṃ diṭṭhivisūkaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaṃyojanaṃ.
Diṭṭhisaṃyojanasaṃyutto, bhikkhave, assutavā puthujjano na parimuccati jātiyā
jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi 'na
parimuccati dukkhasmāti vadāmi.
20. ''Sutavā ca
kho, bhikkhave, ariyasāvako : ariyānaṃ dassāvī ariyadhammassa kovido
ariyadhamme suvinīto, sappurisānaṃ dassāvī sappurisadhammassa kovido
sappurisadhamme suvinīto : manasikaraṇīye dhamme pajānāti amanasikaraṇīye
dhamme pajānāti. So manasikaraṇīye dhamme pajānanto amanasikaraṇīye dhamme
pajānanto ye dhammā na manasikaraṇīyā te
dhamme na manasi karoti, ye dhammā manasikaraṇīyā te dhamme manasi karoti.
''Katame ca, bhikkhave, dhammā na manasikaraṇīyā ye dhamme na manasi karoti?
yassa, bhikkhave, dhamme manasikaroto anuppanno vā kāmāsavo uppajjati, uppanno
vā kāmāsavo pavaḍḍhati anuppanno vā bhavāsavo uppajjati, uppanno vā bhavāsavo
pavaḍḍhati anuppanno vā avijjāsavo uppajjati, uppanno vā avijjāsavo pavaḍḍhati
: ime dhammā na manasikaraṇīyā, ye dhamme na manasi karoti. ''Katame ca,
bhikkhave, dhammā manasikaraṇīyā ye dhamme manasi karoti? yassa, bhikkhave,
dhamme manasikaroto anuppanno vā kāmāsavo na uppajjati, uppanno vā kāmāsavo
pahīyati anuppanno vā bhavāsavo na uppajjati , uppanno vā bhavāsavo pahīyati
anuppanno vā avijjāsavo na uppajjati, uppanno vā avijjāsavo pahīyati : ime
dhammā manasikaraṇīyā ye dhamme manasi karoti. ''Tassa amanasikaraṇīyānaṃ
dhammānaṃ amanasikārā manasikaraṇīyānaṃ dhammānaṃ manasikārā anuppannā ceva
āsavā na uppajjanti, uppannā ca āsavā pahīyanti.
21. ''So 'idaṃ dukkhanti yoniso manasi karoti, 'ayaṃ
dukkhasamudayoti yoniso manasi karoti, 'ayaṃ dukkhanirodhoti yoniso manasi karoti, 'ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti
yoniso manasi karoti. Tassa evaṃ yoniso manasikaroto tīṇi saṃyojanāni pahīyanti
: sakkāyadiṭṭhi, vicikicchā, sīlabbataparāmāso. Ime vuccanti, bhikkhave, āsavā
dassanā pahātabbā.
Saṃvarā pahātabbāsavā
22. ''Katame ca,
bhikkhave, āsavā saṃvarā pahātabbā? idha, bhikkhave, bhikkhu paṭisaṅkhā yoniso
cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto viharati. Yañhissa, bhikkhave, cakkhundriyasaṃvaraṃ
asaṃvutassa viharato uppajjeyyuṃ āsavā vighātapariḷāhā, cakkhundriyasaṃvaraṃ saṃvutassa
viharato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā na honti. Paṭisaṅkhā yoniso
sotindriyasaṃvarasaṃvuto viharati - pe - ghānindriyasaṃvarasaṃvuto viharati -
pe - jivhindriyasaṃvarasaṃvuto viharati - pe - kāyindriyasaṃvarasaṃvuto
viharati - pe - manindriyasaṃvarasaṃvuto viharati. Yañhissa, bhikkhave ,
manindriyasaṃvaraṃ asaṃvutassa viharato uppajjeyyuṃ āsavā vighātapariḷāhā,
manindriyasaṃvaraṃ saṃvutassa viharato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā na
honti. ''Yañhissa, bhikkhave, saṃvaraṃ asaṃvutassa viharato uppajjeyyuṃ āsavā
vighātapariḷāhā , saṃvaraṃ saṃvutassa viharato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā
na honti. Ime vuccanti, bhikkhave, āsavā saṃvarā pahātabbā.
Paṭisevanā pahātabbāsavā
23. ''Katame ca,
bhikkhave, āsavā paṭisevanā pahātabbā? idha, bhikkhave, bhikkhu paṭisaṅkhā
yoniso cīvaraṃ paṭisevati : 'yāvadeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya,
ḍaṃsamakasavātātapasarīṃsapa- [siriṃsapa (sī. syā. pī.)] samphassānaṃ paṭighātāya,
yāvadeva hirikopīnappaṭicchādanatthaṃ. ''Paṭisaṅkhā yoniso piṇḍapātaṃ paṭisevati
: 'neva davāya, na madāya, na maṇḍanāya, na
vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya, vihiṃsūparatiyā,
brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me
bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro ca [cāti (sī.)]. ''Paṭisaṅkhā yoniso
senāsanaṃ paṭisevati : 'yāvadeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, ḍaṃsamakasavātātapasarīṃsapasamphassānaṃ
paṭighātāya, yāvadeva utuparissayavinodanapaṭisallānārāmatthaṃ. ''Paṭisaṅkhā
yoniso gilānappaccayabhesajjaparikkhāraṃ paṭisevati : 'yāvadeva uppannānaṃ
veyyābādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya, abyābajjhaparamatāya
[abyāpajjhaparamatāya (sī. syā. pī.), abyāpajjaparamatāya (ka.)]. ''Yañhissa,
bhikkhave, appaṭisevato uppajjeyyuṃ āsavā
vighātapariḷāhā, paṭisevato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā na honti.
Ime vuccanti, bhikkhave, āsavā paṭisevanā pahātabbā.
Adhivāsanā pahātabbāsavā
24. ''Katame ca,
bhikkhave, āsavā adhivāsanā pahātabbā? idha, bhikkhave, bhikkhu paṭisaṅkhā
yoniso khamo hoti sītassa uṇhassa, jighacchāya pipāsāya. ḍAṃsamakasavātātapasarīṃsapasamphassānaṃ,
duruttānaṃ durāgatānaṃ vacanapathānaṃ, uppannānaṃ sārīrikānaṃ vedanānaṃ
dukkhānaṃ tibbānaṃ [tippānaṃ (sī. syā. pī.)] kharānaṃ kaṭukānaṃ asātānaṃ
amanāpānaṃ pāṇaharānaṃ adhivāsakajātiko hoti. ''Yañhissa, bhikkhave,
anadhivāsayato uppajjeyyuṃ āsavā vighātapariḷāhā, adhivāsayato evaṃsa te āsavā
vighātapariḷāhā na honti. Ime vuccanti, bhikkhave, āsavā adhivāsanā pahātabbā.
Parivajjanā pahātabbāsavā
25. ''Katame ca,
bhikkhave, āsavā parivajjanā pahātabbā? idha, bhikkhave, bhikkhu paṭisaṅkhā yoniso caṇḍaṃ hatthiṃ parivajjeti,
caṇḍaṃ assaṃ parivajjeti, caṇḍaṃ goṇaṃ parivajjeti, caṇḍaṃ kukkuraṃ
parivajjeti, ahiṃ khāṇuṃ kaṇṭakaṭṭhānaṃ
sobbhaṃ papātaṃ candanikaṃ oḷigallaṃ. Yathārūpe anāsane nisinnaṃ yathārūpe agocare carantaṃ yathārūpe pāpake
mitte bhajantaṃ viññū sabrahmacārī pāpakesu ṭhānesu okappeyyuṃ, so tañca
anāsanaṃ tañca agocaraṃ te ca pāpake
mitte paṭisaṅkhā yoniso parivajjeti. ''Yañhissa, bhikkhave, aparivajjayato
uppajjeyyuṃ āsavā vighātapariḷāhā, parivajjayato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā
na honti. Ime vuccanti, bhikkhave, āsavā parivajjanā pahātabbā.
Vinodanā pahātabbāsavā
26. ''Katame ca,
bhikkhave, āsavā vinodanā pahātabbā? idha, bhikkhave, bhikkhu paṭisaṅkhā yoniso
uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ
gameti, uppannaṃ byāpādavitakkaṃ - pe - uppannaṃ vihiṃsāvitakkaṃ - pe -
uppannuppanne pāpake akusale dhamme nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti
anabhāvaṃ gameti. ''Yañhissa, bhikkhave, avinodayato uppajjeyyuṃ āsavā
vighātapariḷāhā, vinodayato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā na honti. Ime
vuccanti, bhikkhave, āsavā vinodanā pahātabbā.
Bhāvanā pahātabbāsavā
27. ''Katame ca,
bhikkhave, āsavā bhāvanā pahātabbā? idha, bhikkhave, bhikkhu paṭisaṅkhā yoniso
satisambojjhaṅgaṃ bhāveti vivekanissitaṃ virāganissitaṃ nirodhanissitaṃ
vossaggapariṇāmiṃ paṭisaṅkhā yoniso dhammavicayasambojjhaṅgaṃ bhāveti - pe -
vīriyasambojjhaṅgaṃ bhāveti... pītisambojjhaṅgaṃ bhāveti... passaddhisambojjhaṅgaṃ bhāveti...
samādhisambojjhaṅgaṃ bhāveti... upekkhāsambojjhaṅgaṃ bhāveti vivekanissitaṃ
virāganissitaṃ nirodhanissitaṃ vossaggapariṇāmiṃ.
''Yañhissa, bhikkhave , abhāvayato uppajjeyyuṃ āsavā
vighātapariḷāhā, bhāvayato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā na honti. Ime
vuccanti, bhikkhave, āsavā bhāvanā pahātabbā.
28. ''Yato kho, bhikkhave, bhikkhuno ye āsavā
dassanā pahātabbā te dassanā pahīnā honti, ye āsavā saṃvarā pahātabbā te saṃvarā pahīnā honti, ye āsavā paṭisevanā
pahātabbā te paṭisevanā pahīnā honti, ye āsavā adhivāsanā pahātabbā te
adhivāsanā pahīnā honti, ye āsavā parivajjanā pahātabbā te parivajjanā pahīnā honti, ye āsavā
vinodanā pahātabbā te vinodanā pahīnā honti, ye āsavā bhāvanā pahātabbā te
bhāvanā pahīnā honti ayaṃ vuccati, bhikkhave : 'bhikkhu sabbāsavasaṃvarasaṃvuto
viharati, acchecchi [acchejji (ka.)] taṇhaṃ, vivattayi [vāvattayi (sī. pī.)] saṃyojanaṃ,
sammā mānābhisamayā antamakāsi dukkhassāti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā
te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Sabbāsavasuttaṃ niṭṭhitaṃ dutiyaṃ.
-ooOoo-
2. Sabbāsavasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
14. Evaṃ me sutaṃ…pe…
sāvatthiyanti sabbāsavasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā – sāvatthīti
savatthassa isino nivāsaṭṭhānabhūtā nagarī, yathā kākandī mākandī kosambīti evaṃ
tāva akkharacintakā. Aṭṭhakathācariyā pana bhaṇanti ‘‘yaṃkiñci manussānaṃ
upabhogaparibhogaṃ sabbamettha atthīti sāvatthī. Satthasamāyoge ca kiṃ bhaṇḍamatthīti
pucchite sabbamatthī’’ti vacanamupādāya sāvatthī.
‘‘Sabbadā sabbūpakaraṇaṃ, sāvatthiyaṃ samohitaṃ;
Tasmā sabbamupādāya, sāvatthīti pavuccati.
Kosalānaṃ puraṃ rammaṃ, dassaneyyaṃ manoramaṃ;
Dasahi saddehi avivittaṃ, annapānasamāyutaṃ.
Vuddhiṃ vepullataṃ pattaṃ, iddhaṃ phītaṃ manoramaṃ;
Aḷakamandāva devānaṃ, sāvatthipuramuttama’’nti.
Tassaṃ sāvatthiyaṃ. Jetavaneti ettha attano
paccatthikajanaṃ jinātīti jeto, raññā vā attano paccatthikajane jite jātoti
jeto, maṅgalakamyatāya vā tassa evaṃnāmameva katanti jeto, jetassa vanaṃ
jetavanaṃ. Tañhi jetena rājakumārena ropitaṃ saṃvaddhitaṃ paripālitaṃ, so ca
tassa sāmī ahosi. Tasmā jetavananti vuccati, tasmiṃ jetavane. Anāthapiṇḍikassa
ārāmeti ettha sudatto nāma so gahapati mātāpitūhi katanāmavasena.
Sabbakāmasamiddhitāya pana vigatamalamaccheratāya karuṇādiguṇasamaṅgitāya ca
niccakālaṃ anāthānaṃ piṇḍamadāsi, tena anāthapiṇḍikoti saṅkhaṃ gato. Āramanti
ettha pāṇino visesena vā pabbajitāti ārāmo, tassa pupphaphalādisobhāya
nātidūranaccāsannatādipañcavidhasenāsanaṅgasampattiyā ca tato tato āgamma
ramanti abhiramanti anukkaṇṭhitā hutvā nivasantīti attho. Vuttappakārāya vā
sampattiyā tattha tattha gatepi attano abbhantaraṃyeva ānetvā rametīti ārāmo.
So hi anāthapiṇḍikena gahapatinā jetassa rājakumārassa hatthato aṭṭhārasahi
hiraññakoṭīhi koṭisantharena kīṇitvā aṭṭhārasahi hiraññakoṭīhi senāsanāni
kārāpetvā aṭṭhārasahi hiraññakoṭīhi vihāramahaṃ niṭṭhāpetvā evaṃ
catupaññāsahiraññakoṭipariccāgena buddhappamukhassa saṅghassa niyyādito. Tasmā
‘‘anāthapiṇḍikassa ārāmo’’ti vuccati. Tasmiṃ anāthapiṇḍikassa ārāme.
Ettha ca ‘‘jetavane’’ti vacanaṃ purimasāmiparikittanaṃ.
‘‘Anāthapiṇḍikassa ārāme’’ti pacchimasāmiparikittanaṃ. Kimetesaṃ parikittane
payojananti. Puññakāmānaṃ diṭṭhānugatiāpajjanaṃ. Tatra hi dvārakoṭṭhakapāsādamāpane
bhūmivikkayaladdhā aṭṭhārasa hiraññakoṭiyo anekakoṭiagghanakā rukkhā ca jetassa
pariccāgo, catupaññāsa koṭiyo anāthapiṇḍikassa. Iti tesaṃ parikittanena evaṃ
puññakāmā puññāni karontīti dassento āyasmā ānando aññepi puññakāme tesaṃ diṭṭhānugatiāpajjane
niyojeti.
Sabbāsavasaṃvarapariyāyaṃ vo, bhikkhaveti kasmā idaṃ suttamabhāsi? Tesaṃ bhikkhūnaṃ upakkilesavisodhanaṃ ādiṃ
katvā āsavakkhayāya paṭipattidassanatthaṃ. Tattha sabbāsavasaṃvarapariyāyanti
sabbesaṃ āsavānaṃ saṃvarakāraṇaṃ saṃvarabhūtaṃ kāraṇaṃ, yena kāraṇena te saṃvaritā
pidahitā hutvā anuppādanirodhasaṅkhātaṃ khayaṃ gacchanti pahīyanti
nappavattanti, taṃ kāraṇanti attho. Tattha āsavantīti āsavā,
cakkhutopi…pe… manatopi sandanti pavattantīti vuttaṃ hoti. Dhammato yāva
gotrabhuṃ okāsato yāva bhavaggaṃ savantīti vā āsavā, ete dhamme etañca okāsaṃ
anto karitvā pavattantīti attho. Antokaraṇattho hi ayaṃ ākāro. Cirapārivāsiyaṭṭhena
madirādayo āsavā, āsavā viyātipi āsavā. Lokasmiñhi cirapārivāsikā madirādayo
āsavāti vuccanti. Yadi ca cirapārivāsiyaṭṭhena āsavā, eteyeva bhavitumarahanti.
Vuttañhetaṃ ‘‘purimā, bhikkhave, koṭi na paññāyati avijjāya, ito pubbe avijjā
nāhosī’’tiādi (a. ni. 10.61). Āyataṃ vā saṃsāradukkhaṃ savanti pasavantītipi
āsavā. Purimāni cettha nibbacanāni yattha kilesā āsavāti āgacchanti, tattha
yujjanti, pacchimaṃ kammepi. Na kevalañca kammakilesāyeva āsavā, apica kho
nānappakārakā uppaddavāpi. Suttesu hi ‘‘nāhaṃ, cunda, diṭṭhadhammikānaṃyeva
āsavānaṃ saṃvarāya dhammaṃ desemī’’ti (dī. ni. 3.182) ettha vivādamūlabhūtā
kilesā āsavāti āgatā.
‘‘Yena devūpapatyassa, gandhabbo vā vihaṅgamo;
Yakkhattaṃ yena gaccheyyaṃ, manussattañca abbaje;
Te mayhaṃ āsavā khīṇā, viddhastā vinaḷīkatā’’ti. (a.
ni. 4.36); –
Ettha tebhūmakañca kammaṃ avasesā ca akusalā dhammā.
‘‘Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāyā’’ti
(pārā. 39) ettha parūpavādavippaṭisāravadhabandhādayo ceva apāyadukkhabhūtā ca
nānappakārā upaddavā. Te panete āsavā yattha yathā āgatā, tattha tathā
veditabbā.
Ete hi vinaye tāva ‘‘diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya,
samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāyā’’ti dvedhā āgatā. Saḷāyatane ‘‘tayome āvuso
āsavā, kāmāsavo bhavāsavo avijjāsavo’’ti (a. ni. 6.63) tidhā āgatā. Aññesu ca
suttantesu abhidhamme ca teyeva diṭṭhāsavena saha catudhā āgatā.
Nibbedhikapariyāye – ‘‘atthi, bhikkhave, āsavā nirayagāminiyā, atthi āsavā
tiracchānayonigāminiyā, atthi āsavā pettivisayagāminiyā, atthi āsavā
manussalokagāminiyā, atthi āsavā devalokagāminiyā’’ti (a. ni. 6.63) pañcadhā
āgatā. Chakkanipāte – ‘‘atthi, bhikkhave, āsavā saṃvarā pahātabbā’’tiādinā
nayena chadhā āgatā. Imasmiṃ pana sutte teyeva dassanāpahātabbehi saddhiṃ
sattadhā āgatāti. Ayaṃ tāva āsavapade vacanattho ceva pabhedo ca.
Saṃvarapade pana saṃvarayatīti saṃvaro,
pidahati nivāreti pavattituṃ na detīti attho. Tathā hi ‘‘anujānāmi, bhikkhave,
divā paṭisallīyantena dvāraṃ saṃvaritvā paṭisallīyitu’’nti (pārā. 77), ‘‘sotānaṃ
saṃvaraṃbraūmi, paññāyete pidhīyare’’ti (su. ni. 1041) ca ādīsu pidhānaṭṭhena
saṃvaramāha. Svāyaṃ saṃvaro pañcavidho hoti sīlasaṃvaro satiñāṇa khanti
vīriyasaṃvaroti. Tattha ‘‘iminā pātimokkhasaṃvarena upeto’’ti (vibha. 511) ayaṃ
sīlasaṃvaro. Pātimokkhasīlañhi ettha saṃvaroti vuttaṃ. ‘‘Cakkhundriye saṃvaramāpajjatī’’tiādīsu
(dī. ni. 1.213) satisaṃvaro. Sati hettha saṃvaroti vuttā. ‘‘Sotānaṃ saṃvaraṃ
brūmi, paññāyete pidhīyare’’ti ayaṃ ñāṇasaṃvaro. Ñāṇañhettha pidhīyareti iminā
pidhānaṭṭhena saṃvaroti vuttaṃ. ‘‘Khamo hoti sītassa…pe…, uppannaṃ kāmavitakkaṃ
nādhivāsetī’’tiādinā (ma. ni. 1.24-26) pana nayena idheva khantivīriyasaṃvarā
āgatā. Tesañca ‘‘sabbāsavasaṃvarapariyāya’’nti iminā uddesena saṅgahitattā saṃvarabhāvo
veditabbo.
Apica pañcavidhopi ayaṃ saṃvaro idha āgatoyeva, tattha
khantivīriyasaṃvarā tāva vuttāyeva. ‘‘So tañca anāsanaṃ tañca agocara’’nti (ma.
ni. 1.25) ayaṃ panettha sīlasaṃvaro. ‘‘Paṭisaṅkhā yoniso cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto’’ti
(ma. ni. 1.22) ayaṃ satisaṃvaro. Sabbattha paṭisaṅkhā ñāṇasaṃvaro.
Aggahitaggahaṇena pana dassanaṃ paṭisevanā bhāvanā ca ñāṇasaṃvaro. Pariyāyanti
etena dhammāti pariyāyo, uppattiṃ nirodhaṃ vā gacchantīti vuttaṃ hoti. Ettāvatā
‘‘sabbāsavasaṃvarapariyāya’’nti ettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ vuttaṃ hoti.
15. Idāni jānato ahantiādīsu
jānatoti jānantassa. Passatoti passantassa. Dvepi padāni
ekatthāni, byañjanameva nānaṃ. Evaṃ santepi jānatoti ñāṇalakkhaṇaṃ upādāya
puggalaṃ niddisati, jānanalakkhaṇañhi ñāṇaṃ. Passatoti ñāṇappabhāvaṃ upādāya,
passanappabhāvañhi ñāṇaṃ. Ñāṇasamaṅgī puggalo cakkhumā viya cakkhunā rūpāni ñāṇena
vivaṭe dhamme passati. Apica yonisomanasikāraṃ uppādetuṃ jānato,
ayonisomanasikāro yathā na uppajjati, evaṃ passatoti ayamettha sāro. Keci
panācariyā bahū papañce bhaṇanti, te imasmiṃ atthe na yujjanti.
Āsavānaṃ khayanti
āsavappahānaṃ āsavānaṃ accantakkhayasamuppādaṃ khīṇākāraṃ natthibhāvanti
ayameva hi imasmiñca sutte, ‘‘āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimutti’’ntiādīsu
(ma. ni. 1.438) ca āsavakkhayattho. Aññattha pana maggaphalanibbānānipi
āsavakkhayoti vuccanti. Tathā hi –
‘‘Sekhassa sikkhamānassa, ujumaggānusārino;
Khayasmiṃ paṭhamaṃ ñāṇaṃ, tato aññā anantarā’’ti.
(itivu. 62) –
Ādīsu maggo āsavakkhayoti vutto,
‘‘Āsavānaṃ khayā samaṇo hotī’’tiādīsu (ma. ni. 1.438)
phalaṃ.
‘‘Paravajjānupassissa, niccaṃ ujjhānasaññino;
Āsavā tassa vaḍḍhanti, ārā so āsavakkhayā’’ti. (dha.
pa. 253) –
Ādīsu nibbānaṃ ‘‘āsavakkhayo’’ti vuttaṃ.
No ajānato no apassatoti yo pana na jānāti na passati, tassa no vadāmīti attho. Etena ye
ajānato apassatopi saṃvarādīhiyeva suddhiṃ vadanti, te paṭikkhittā honti.
Purimena vā padadvayena upāyo vutto, iminā anupāyapaṭisedho. Saṅkhepena cettha
ñāṇaṃ āsavasaṃvarapariyāyoti dassitaṃ hoti.
Idāni yaṃ jānato āsavānaṃ khayo hoti, taṃ dassetukāmo kiñca,
bhikkhave, jānatoti pucchaṃ ārabhi, tattha jānanā bahuvidhā. Dabbajātiko
eva hi koci bhikkhu chattaṃ kātuṃ jānāti, koci cīvarādīnaṃ aññataraṃ, tassa
īdisāni kammāni vattasīse ṭhatvā karontassa sā jānanā maggaphalānaṃ padaṭṭhānaṃ
na hotīti na vattabbā. Yo pana sāsane pabbajitvā vejjakammādīni kātuṃ jānāti,
tassevaṃ jānato āsavā vaḍḍhantiyeva, tasmā yaṃ jānato passato ca āsavānaṃ khayo
hoti, tadeva dassento āha yoniso ca manasikāraṃ ayoniso ca manasikāranti.
Tattha yoniso manasikāro nāma upāyamanasikāro
pathamanasikāro, aniccādīsu aniccanti ādinā eva nayena saccānulomikena vā
cittassa āvaṭṭanā anvāvaṭṭanā ābhogo samannāhāro manasikāro, ayaṃ vuccati
yoniso manasikāroti.
Ayoniso manasikāroti
anupāyamanasikāro uppathamanasikāro. Anicce niccanti dukkhe sukhanti anattani
attāti asubhe subhanti ayoniso manasikāro uppathamanasikāro. Saccappaṭikulena
vā cittassa āvaṭṭanā anvāvaṭṭanā ābhogo samannāhāro manasikāro, ayaṃ vuccati
ayoniso manasikāroti. Evaṃ yoniso manasikāraṃ uppādetuṃ jānato, ayoniso
manasikāro ca yathā na uppajjati, evaṃ passato āsavānaṃ khayo hoti.
Idāni imassevatthassa yuttiṃ dassento āha ayoniso,
bhikkhave…pe… pahīyantīti. Tena kiṃ vuttaṃ hoti, yasmā ayoniso manasikaroto
āsavā uppajjanti, yoniso manasikaroto pahīyanti, tasmā jānitabbaṃ yoniso
manasikāraṃ uppādetuṃ jānato, ayoniso manasikāro ca yathā na uppajjati, evaṃ
passato āsavānaṃ khayo hotīti, ayaṃ tāvettha saṅkhepavaṇṇanā.
Ayaṃ pana vitthāro – tattha ‘‘yoniso ayoniso’’ti imehi
tāva dvīhi padehi ābaddhaṃ hoti upari sakalasuttaṃ. Vaṭṭavivaṭṭavasena hi upari
sakalasuttaṃ vuttaṃ. Ayoniso manasikāramūlakañca vaṭṭaṃ, yoniso
manasikāramūlakañca vivaṭṭaṃ. Kathaṃ? Ayoniso manasikāro hi vaḍḍhamāno dve
dhamme paripūreti avijjañca bhavataṇhañca. Avijjāya ca sati ‘‘avijjāpaccayā saṅkhārā…pe…
dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Taṇhāya sati taṇhāpaccayā upādānaṃ…pe…
samudayo hotī’’ti. Evaṃ ayaṃ ayoniso manasikārabahulo puggalo vātavegābhighātena
vippanaṭṭhanāvā viya gaṅgāvaṭṭe patitagokulaṃ viya cakkayante yuttabalibaddo
viya ca punappunaṃ bhavayonigativiññāṇaṭṭhitisattāvāsesu āvaṭṭaparivaṭṭaṃ
karoti, evaṃ tāva ayoniso manasikāramūlakaṃ vaṭṭaṃ.
Yoniso manasikāro pana vaḍḍhamāno – ‘‘yoniso manasikārasampannassetaṃ,
bhikkhave, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṃ, ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bhāvessati, ariyaṃ
aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bahulīkarissatī’’ti (saṃ. ni. 5.55) vacanato sammādiṭṭhipamukhaṃ
aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ paripūreti. Yā ca sammādiṭṭhi, sā vijjāti tassa vijjuppādā
avijjānirodho, ‘‘avijjānirodhā saṅkhāranirodho…pe… evaṃ etassa kevalassa
dukkhakkhandhassa nirodho hotī’’ti (mahāva. 1) evaṃ yoniso manasikāramūlakaṃ
vivaṭṭaṃ veditabbaṃ. Evaṃ imehi dvīhi padehi ābaddhaṃ hoti upari sakalasuttaṃ.
Evaṃ ābaddhe cettha yasmā pubbe āsavappahānaṃ dassetvā
pacchā uppatti vuccamānā na yujjati. Na hi pahīnā puna uppajjanti. Uppannānaṃ
pana pahānaṃ yujjati, tasmā uddesapaṭilomatopi ‘‘ayoniso, bhikkhave,
manasikaroto’’tiādimāha.
Tattha ayoniso manasikarototi vuttappakāraṃ
ayoniso manasikāraṃ uppādayato. Anuppannā ceva āsavā uppajjantīti ettha
ye pubbe appaṭiladdhapubbaṃ cīvarādiṃ vā paccayaṃ upaṭṭhākasaddhivihārikaantevāsikānaṃ
vā aññataraṃ manuññaṃ vatthuṃ paṭilabhitvā, taṃ subhaṃ sukhanti ayoniso
manasikaroto, aññataraññataraṃ vā pana ananubhūtapubbaṃ ārammaṇaṃ yathā vā
tathā vā ayoniso manasikaroto āsavā uppajjanti, te anuppannā uppajjantīti
veditabbā, aññathā hi anamatagge saṃsāre anuppannā nāma āsavā na santi.
Anubhūtapubbepi ca vatthumhi ārammaṇe vā yassa pakatisuddhiyā vā
uddesaparipucchāpariyattinavakammayonisomanasikārānaṃ vā aññataravasena pubbe
anuppajjitvā pacchā tādisena paccayena sahasā uppajjanti, imepi anuppannā
uppajjantīti veditabbā. Tesuyeva pana vatthārammaṇesu punappunaṃ uppajjamānā
uppannā pavaḍḍhantīti vuccanti. Ito aññathā hi paṭhamuppannānaṃ vaḍḍhi nāma
natthi.
Yoniso ca kho,
bhikkhaveti ettha pana yassa pakatisuddhiyā vā seyyathāpi āyasmato
mahākassapassa bhaddāya ca kāpilāniyā, uddesaparipucchādīhi vā kāraṇehi āsavā
nuppajjanti, so ca jānāti ‘‘na kho me āsavā maggena samugghātaṃ gatā, handa
nesaṃ samugghātāya paṭipajjāmī’’ti. Tato maggabhāvanāya sabbe samugghāteti.
Tassa te āsavā anuppannā na uppajjantīti vuccanti. Yassa pana kārakasseva sato
satisammosena sahasā āsavā uppajjanti, tato saṃvegamāpajjitvā yoniso padahanto
te āsave samucchindati, tassa uppannā pahīyantīti vuccanti maṇḍalārāmavāsīmahātissabhūtattherassa
viya. So kira tasmiṃyeva vihāre uddesaṃ gaṇhāti, athassa gāme piṇḍāya carato
visabhāgārammaṇe kileso uppajji, so taṃ vipassanāya vikkhambhetvā vihāraṃ
agamāsi. Tassa supinantepi taṃ ārammaṇaṃ na upaṭṭhāsi. So ‘‘ayaṃ kileso vaḍḍhitvā
apāyasaṃvattaniko hotī’’ti saṃvegaṃ janetvā ācariyaṃ āpucchitvā vihārā
nikkhamma mahāsaṅgharakkhitattherassa santike rāgapaṭipakkhaṃ asubhakammaṭṭhānaṃ
gahetvā gumbantaraṃ pavisitvā paṃsukūlacīvaraṃ santharitvā nisajja
anāgāmimaggena pañcakāmaguṇikarāgaṃ chinditvā uṭṭhāya ācariyaṃ vanditvā
punadivase uddesamaggaṃ pāpuṇi. Ye pana vattamānuppannā, tesaṃ paṭipattiyā
pahānaṃ nāma natthi.
16. Idāni ‘‘uppannā ca āsavā
pahīyantī’’ti idameva padaṃ gahetvā ye te āsavā pahīyanti, tesaṃ nānappakārato
aññampi pahānakāraṇaṃ āvikātuṃ desanaṃ vitthārento atthi, bhikkhave, āsavā
dassanā pahātabbātiādimāha yathā taṃ desanāpabhedakusalo dhammarājā. Tattha
dassanā pahātabbāti dassanena pahātabbā. Esa nayo sabbattha.
Dassanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
17. Idāni tāni padāni
anupubbato byākātukāmo ‘‘katame ca, bhikkhave, āsavā dassanā pahātabbā’’ti
pucchaṃ katvā mūlapariyāyavaṇṇanāyaṃ vuttanayeneva ‘‘idha, bhikkhave, assutavā
puthujjano’’ti puggalādhiṭṭhānaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha manasikaraṇīye
dhamme nappajānātīti āvajjitabbe samannāharitabbe dhamme na pajānāti. Amanasikaraṇīyeti
tabbiparīte. Esa nayo sesapadesupi. Yasmā pana ime dhammā manasikaraṇīyā, ime
amanasikaraṇīyāti dhammato niyamo natthi, ākārato pana atthi. Yenā ākārena
manasikariyamānā akusaluppattipadaṭṭhānā honti, tenākārena na manasikātabbā.
Yena kusaluppattipadaṭṭhānā honti, tenākārena manasikātabbā. Tasmā ‘‘ya’ssa,
bhikkhave, dhamme manasikaroto anuppanno vā kāmāsavo’’tiādimāha.
Tattha ya’ssāti ye assa assutavato
puthujjanassa. Manasikarototi āvajjayato samannāharantassa. Anuppanno
vā kāmāsavoti ettha samuccayattho vāsaddo, na vikappattho. Tasmā yathā
‘‘yāvatā, bhikkhave, sattā apadā vā dvipadā vā…pe… tathāgato tesaṃ
aggamakkhāyatī’’ti (itivu. 90) vutte apadā ca dvipadā cāti attho, yathā ca ‘‘bhūtānaṃ
vā sattānaṃ ṭhitiyā sambhavesīnaṃ vā anuggahāyā’’ti (ma. ni. 1.402) vutte
bhūtānañca sambhavesīnañcāti attho, yathā ca ‘‘aggito vā udakato vā
mithubhedato vā’’ti (udā. 76) vutte aggito ca udakato ca mithubhedato cāti
attho, evamidhāpi anuppanno ca kāmāsavo uppajjati, uppanno ca kāmāsavo pavaḍḍhatīti
attho daṭṭhabbo. Evaṃ sesesu.
Ettha ca kāmāsavoti pañcakāmaguṇiko rāgo. Bhavāsavoti
rupārūpabhave chandarāgo, jhānanikanti ca sassatucchedadiṭṭhisahagatā. Evaṃ diṭṭhāsavopi
bhavāsave eva samodhānaṃ gacchati. Avijjāsavoti catūsu saccesu aññāṇaṃ.
Tattha kāmaguṇe assādato manasikaroto anuppanno ca kāmāsavo uppajjati, uppanno
ca pavaḍḍhati. Mahaggatadhamme assādato manasikaroto anuppanno ca bhavāsavo
uppajjati, uppanno ca pavaḍḍhati. Tīsu bhūmīsu dhamme catuvipallāsapadaṭṭhānabhāvena
manasikaroto anuppanno ca avijjāsavo uppajjati, uppanno ca pavaḍḍhatīti
veditabbo. Vuttanayapaccanīkato sukkapakkho vitthāretabbo.
Kasmā pana tayo eva āsavā idha vuttāti. Vimokkhapaṭipakkhato.
Appaṇihitavimokkhapaṭipakkho hi kāmāsavo,. Animittasuññatavimokkhapaṭipakkhā
itare. Tasmā ime tayo āsave uppādentā tiṇṇaṃ vimokkhānaṃ abhāgino honti,
anuppādentā bhāginoti etamatthaṃ dassentena tayo eva vuttāti veditabbā. Diṭṭhāsavopi
vā ettha vutto yevāti vaṇṇitametaṃ.
Tassa amanasikaraṇīyānaṃ
dhammānaṃ manasikārāti manasikārahetu, yasmā te dhamme manasi karoti,
tasmāti vuttaṃ hoti. Esa nayo dutiyapadepi. ‘‘Anuppannā ceva āsavā uppajjanti,
uppannā ca āsavā pavaḍḍhantī’’ti heṭṭhā vuttaāsavānaṃyeva abhedato nigamanametaṃ.
18. Ettāvatā yo ayaṃ
puggalādhiṭṭhānāya desanāya dassanā pahātabbe āsave niddisituṃ assutavā
puthujjano vutto, so yasmā ‘‘ayoniso, bhikkhave, manasikaroto anuppannā ceva
āsavā uppajjantī’’ti evaṃ sāmaññato vuttānaṃ ayoniso manasikārapaccayānaṃ
kāmāsavādīnampi adhiṭṭhānaṃ, tasmā tepi āsave teneva puggalena dassetvā idāni
dassanā pahātabbe āsave dassento so evaṃ ayoniso manasi karoti, ahosiṃ nu
kho ahantiādimāha. Vicikicchāsīsena cettha diṭṭhāsavampi dassetuṃ imaṃ
desanaṃ ārabhi.
Tassattho, yassa te iminā vuttanayena āsavā uppajjanti,
so puthujjano, yo cāyaṃ ‘‘assutavā’’tiādinā nayena vutto, so puthujjano evaṃ
ayoniso anupāyena uppathena manasi karoti. Kathaṃ? Ahosiṃ nu kho…pe…so kuhiṃ
gāmī bhavissatīti. Kiṃ vuttaṃ hoti, so evaṃ ayoniso manasi karoti, yathāssa
‘‘ahaṃ ahosiṃ nu kho’’tiādinā nayena vuttā soḷasavidhāpi vicikicchā
uppajjatīti.
Tattha ahosiṃ nu kho nanu khoti sassatākārañca
adhiccasamuppattiākārañca nissāya atīte attano vijjamānataṃ avijjamānatañca kaṅkhati.
Kiṃ kāraṇanti na vattabbaṃ. Ummattako viya hi bālaputhujjano yathā vā tathā vā
pavattati. Apica ayoniso manasikāroyevettha kāraṇaṃ. Evaṃ ayoniso manasikārassa
pana kiṃ kāraṇanti. Sveva puthujjanabhāvo ariyānaṃ adassanādīni vā. Nanu ca
puthujjanopi yoniso manasi karotīti. Ko vā evamāha na manasi karotīti. Na pana
tattha puthujjanabhāvo kāraṇaṃ, saddhammassavanakalyāṇamittādīni tattha kāraṇāni.
Na hi macchamaṃsādīni attano attano pakatiyā sugandhāni, abhisaṅkhārapaccayā
pana sugandhānipi honti.
Kiṃ nu kho ahosinti
jātiliṅgūpapattiyo nissāya khattiyo nu kho ahosiṃ, brāhmaṇavessasuddagahaṭṭhapabbajitadevamanussānaṃ
aññataroti kaṅkhati.
Kathaṃ nu khoti saṇṭhānākāraṃ
nissāya dīgho nu kho ahosiṃ, rassaodātakaṇhappamāṇikaappamāṇikādīnaṃ aññataroti
kaṅkhati. Keci pana issaranimmānādiṃ nissāya kena nu kho kāraṇena ahosinti
hetuto kaṅkhatīti vadanti.
Kiṃ hutvā kiṃ ahosinti
jātiādīni nissāya khattiyo hutvā nu kho brāhmaṇo ahosiṃ…pe… devo hutvā
manussoti attano paramparaṃ kaṅkhati. Sabbattheva pana addhānanti
kālādhivacanametaṃ.
Bhavissāmi nu kho nanu
khoti sassatākārañca ucchedākārañca nissāya anāgate attano vijjamānataṃ
avijjamānatañca kaṅkhati. Sesamettha vuttanayameva.
Etarahi vā paccuppannamaddhānanti idāni vā paṭisandhiṃ ādiṃ katvā cutipariyantaṃ sabbampi
vattamānakālaṃ gahetvā. Ajjhattaṃ kathaṃkathī hotīti attano khandhesu
vicikiccho hoti. Ahaṃ nu khosmīti attano atthibhāvaṃ kaṅkhati. Yuttaṃ
panetanti? Yuttaṃ ayuttanti kā ettha cintā. Apicettha idaṃ vatthumpi
udāharanti. Cūḷamātāya kira putto muṇḍo, mahāmātāya putto amuṇḍo, taṃ puttaṃ muṇḍesuṃ.
So uṭṭhāya ahaṃ nu kho cūḷamātāya puttoti cintesi. Evaṃ ahaṃ nu khosmīti kaṅkhā
hoti.
No nu khosmīti attano
natthibhāvaṃ kaṅkhati. Tatrāpi idaṃ vatthu – eko kira macche gaṇhanto udake
ciraṭṭhānena sītibhūtaṃ attano ūruṃ macchoti cintetvā pahari. Aparo susānapasse
khettaṃ rakkhanto bhīto saṅkuṭito sayi. So paṭibujjhitvā attano jaṇṇukāni dve
yakkhāti cintetvā pahari. Evaṃ no nu khosmīti kaṅkhati.
Kiṃ nu khosmīti khattiyova
samāno attano khattiyabhāvaṃ kaṅkhati. Esa nayo sesesu. Devo pana samāno
devabhāvaṃ ajānanto nāma natthi. Sopi pana ‘‘ahaṃ rūpī nu kho arūpī nu
kho’’tiādinā nayena kaṅkhati. Khattiyādayo kasmā na jānantīti ce. Apaccakkhā
tesaṃ tattha tattha kule uppatti. Gahaṭṭhāpi ca potthalikādayo
pabbajitasaññino. Pabbajitāpi ‘‘kuppaṃ nu kho me kamma’’ntiādinā nayena gahaṭṭhasaññino.
Manussāpi ca rājāno viya attani devasaññino honti.
Kathaṃ nu khosmīti
vuttanayameva. Kevalañcettha abbhantare jīvo nāma atthīti gahetvā tassa saṇṭhānākāraṃ
nissāya dīgho nu khosmi, rassacaturaṃsachaḷaṃsaaṭṭhaṃsasoḷasaṃsādīnaṃ
aññatarappakāroti kaṅkhanto kathaṃ nu khosmīti kaṅkhatīti veditabbo. Sarīrasaṇṭhānaṃ
pana paccuppannaṃ ajānanto nāma natthi.
Kuto āgato, so
kuhiṃ gāmī bhavissatīti attabhāvassa āgatigatiṭṭhānaṃ kaṅkhati.
19. Evaṃ soḷasappabhedaṃ
vicikicchaṃ dassetvā idāni yaṃ iminā vicikicchāsīsena diṭṭhāsavaṃ dassetuṃ ayaṃ
desanā āraddhā. Taṃ dassento tassa evaṃ ayoniso manasikaroto channaṃ diṭṭhīnantiādimāha.
Tattha tassa puggalassa yathā ayaṃ vicikicchā uppajjati, evaṃ ayoniso
manasikaroto tasseva savicikicchassa ayoniso manasikārassa thāmagatattā channaṃ
diṭṭhīnaṃ aññatarā diṭṭhi uppajjatīti vuttaṃ hoti. Tattha sabbapadesu vāsaddo
vikappattho, evaṃ vā evaṃ vā diṭṭhi uppajjatīti vuttaṃ hoti. Atthi me attāti
cettha sassatadiṭṭhi sabbakālesu attano atthitaṃ gaṇhāti. Saccato thetatoti
bhūtato ca thirato ca, ‘‘idaṃ sacca’’nti bhūtato suṭṭhu daḷhabhāvenāti vuttaṃ
hoti. Natthi me attāti ayaṃ pana ucchedadiṭṭhi, sato sattassa tattha
tattha vibhavaggahaṇato. Atha vā purimāpi tīsu kālesu atthīti gahaṇato
sassatadiṭṭhi, paccuppannameva atthīti gaṇhanto ucchedadiṭṭhi. Pacchimāpi
atītānāgatesu natthīti gahaṇato bhasmantāhutiyoti gahitadiṭṭhikānaṃ viya,
ucchedadiṭṭhi. Atīte eva natthīti gaṇhanto adhiccasamuppattikasseva sassatadiṭṭhi.
Attanāva attānaṃ sañjānāmīti saññākkhandhasīsena khandhe attāti gahetvā saññāya avasesakkhandhe
sañjānato iminā attanā imaṃ attānaṃ sañjānāmīti hoti. Attanāva anattānanti
saññākkhandhaṃyeva attāti gahetvā, itare cattāropi anattāti gahetvā saññāya
tesaṃ jānato evaṃ hoti. Anattanāva attānanti saññākkhandhaṃ anattāti.
Itare cattāro attāti gahetvā saññāya tesaṃ jānato evaṃ hoti, sabbāpi
sassatucchedadiṭṭhiyova.
Vado vedeyyotiādayo pana
sassatadiṭṭhiyā eva abhinivesākārā. Tattha vadatīti vado, vacīkammassa
kārakoti vuttaṃ hoti. Vedayatīti vedeyyo, jānāti anubhavati cāti vuttaṃ
hoti. Kiṃ vedetīti, tatra tatra kalyāṇapāpakānaṃ kammānaṃ vipākaṃ paṭisaṃvedeti.
Tatra tatrāti tesu tesu yonigatiṭṭhitinivāsanikāyesu ārammaṇesu vā. Niccoti
uppādavayarahito. Dhuvoti thiro sārabhūto. Sassatoti sabbakāliko.
Avipariṇāmadhammoti attano pakatibhāvaṃ avijahanadhammo, kakaṇṭako viya
nānappakārataṃ nāpajjati. Sassatisamanti
candasūriyasamuddamahāpathavīpabbatā lokavohārena sassatiyoti vuccanti.
Sassatīhi samaṃ sassatisamaṃ. Yāva sassatiyo tiṭṭhanti, tāva tatheva ṭhassatīti
gaṇhato evaṃdiṭṭhi hoti.
Idaṃ vuccati, bhikkhave, diṭṭhigatantiādīsu. Idanti idāni vattabbassa paccakkhanidassanaṃ. Diṭṭhigatasambandhena
ca idanti vuttaṃ, na diṭṭhisambandhena. Ettha ca diṭṭhiyeva diṭṭhigataṃ,
gūthagataṃ viya. Diṭṭhīsu vā gatamidaṃ dassanaṃ dvāsaṭṭhidiṭṭhiantogadhattātipi
diṭṭhigataṃ. Diṭṭhiyā vā gataṃ diṭṭhigataṃ. Idañhi atthi me attātiādi diṭṭhiyā
gamanamattameva, natthettha attā vā nicco vā kocīti vuttaṃ hoti. Sā cāyaṃ diṭṭhi
dunniggamanaṭṭhena gahanaṃ. Duratikkamaṭṭhena sappaṭibhayaṭṭhena ca kantāro,
dubbhikkhakantāravāḷakantārādayo viya. Sammādiṭṭhiyā vinivijjhanaṭṭhena
vilomanaṭṭhena vā visūkaṃ. Kadāci sassatassa, kadāci ucchedassa gahaṇato
virūpaṃ phanditanti vipphanditaṃ. Bandhanaṭṭhena saṃyojanaṃ.
Tenāha ‘‘diṭṭhigahanaṃ…pe… diṭṭhisaṃyojana’’nti. Idānissa tameva bandhanatthaṃ
dassento diṭṭhisaṃyojanasaṃyuttotiādimāha. Tassāyaṃ saṅkhepattho. Iminā
diṭṭhisaṃyojanena saṃyutto puthujjano etehi jātiādīhi na parimuccatīti. Kiṃ vā
bahunā, sakalavaṭṭadukkhatopi na muccatīti.
20. Evaṃ chappabhedaṃ diṭṭhāsavaṃ
dassetvā yasmā sīlabbataparāmāso kāmāsavādivacaneneva dassito hoti.
Kāmasukhatthañhi bhavasukhabhavavisuddhiatthañca avijjāya abhibhūtā ito
bahiddhā samaṇabrāhmaṇā sīlabbatāni parāmasanti, tasmā taṃ adassetvā diṭṭhiggahaṇena
vā tassa gahitattāpi taṃ adassetvāva idāni yo puggalo dassanā pahātabbe āsave
pajahati, taṃ dassetvā tesaṃ āsavānaṃ pahānaṃ dassetuṃ pubbe vā ayoniso
manasikaroto puthujjanassa tesaṃ uppattiṃ dassetvā idāni tabbiparītassa pahānaṃ
dassetuṃ sutavā ca kho, bhikkhavetiādimāha.
Tassattho, yāva ‘‘so idaṃ dukkha’’nti āgacchati, tāva
heṭṭhā vuttanayena ca vuttapaccanīkato ca veditabbo. Paccanīkato ca sabbākārena
ariyadhammassa akovidāvinītapaccanīkato ayaṃ ‘‘sutavā ariyasāvako
ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto’’ti veditabbo. Apica kho
sikhāpattavipassanato pabhuti yāva gotrabhu, tāva tadanurūpena atthena ayaṃ
ariyasāvakoti veditabbo.
21. ‘‘So idaṃ dukkhanti yoniso
manasi karotī’’tiādīsu pana ayaṃ atthavibhāvanā, so catusaccakammaṭṭhāniko
ariyasāvako taṇhāvajjā tebhūmakā khandhā dukkhaṃ, taṇhā dukkhasamudayo,
ubhinnaṃ appavatti nirodho, nirodhasampāpako maggoti evaṃ pubbeva
ācariyasantike uggahitacatusaccakammaṭṭhāno aparena samayena vipassanāmaggaṃ
samāruḷho samāno te tebhūmake khandhe idaṃ dukkhanti yoniso manasi karoti,
upāyena pathena samannāharati ceva vipassati ca. Ettha hi yāva sotāpattimaggo,
tāva manasikārasīseneva vipassanā vuttā. Yā panāyaṃ tasseva dukkhassa samuṭṭhāpikā
pabhāvikā taṇhā, ayaṃ samudayoti yoniso manasi karoti. Yasmā pana
dukkhañca samudayo ca idaṃ ṭhānaṃ patvā nirujjhanti nappavattanti, tasmā yadidaṃ
nibbānaṃ nāma, ayaṃ dukkhanirodhoti yoniso manasi karoti.
Nirodhasampāpakaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti
yoniso manasi karoti, upāyena pathena samannāharati ceva vipassati ca.
Tatrāyaṃ upāyo, abhiniveso nāma vaṭṭe hoti, vivaṭṭe
natthi. Tasmā ‘‘ayaṃ atthi imasmiṃ kāye pathavīdhātu, āpodhātū’’tiādinā nayena
sakasantatiyaṃ cattāri bhūtāni tadanusārena upādārūpāni ca pariggahetvā ayaṃ
rūpakkhandhoti vavatthapeti. Taṃ vavatthāpayato uppanne tadārammaṇe
cittacetasike dhamme ime cattāro arūpakkhandhāti vavatthapeti. Tato ime
pañcakkhandhā dukkhanti vavatthapeti. Te pana saṅkhepato nāmañca rūpañcāti dve
bhāgāyeva honti. Idañca nāmarūpaṃ sahetu sappaccayaṃ uppajjati. Tassa ayaṃ hetu
ayaṃ paccayoti avijjābhavataṇhākammāhārādike hetupaccaye vavatthapeti. Tato
tesaṃ paccayānañca paccayuppannadhammānañca yāthāvasarasalakkhaṇaṃ
vavatthapetvā ime dhammā ahutvā hontīti aniccalakkhaṇaṃ āropeti, udayabbayapīḷitattā
dukkhāti dukkhalakkhaṇaṃ āropeti. Avasavattanato anattāti anattalakkhaṇaṃ
āropeti. Evaṃ tīṇi lakkhaṇāni āropetvā paṭipāṭiyā vipassanaṃ pavattento
sotāpattimaggaṃ pāpuṇāti.
Tasmiṃ khaṇe cattāri saccāni ekapaṭivedheneva paṭivijjhati,
ekābhisamayena abhisameti. Dukkhaṃ pariññāpaṭivedhena paṭivijjhati, samudayaṃ
pahānapaṭivedhena, nirodhaṃ sacchikiriyāpaṭivedhena, maggaṃ bhāvanāpaṭivedhena.
Dukkhañca pariññābhisamayena abhisameti…pe… maggaṃ bhāvanābhisamayena
abhisameti, no ca kho aññamaññena ñāṇena. Ekañāṇeneva hi esa nirodhaṃ ārammaṇato,
sesāni kiccato paṭivijjhati ceva abhisameti ca. Na hissa tasmiṃ samaye evaṃ
hoti – ‘‘ahaṃ dukkhaṃ parijānāmī’’ti vā…pe… ‘‘maggaṃ bhāvemī’’ti vā. Apica
khvassa ārammaṇaṃ katvā paṭivedhavasena nirodhaṃ sacchikaroto evaṃ taṃ ñāṇaṃ
dukkhapariññākiccampi samudayapahānakiccampi maggabhāvanākiccampi karotiyeva.
Tassevaṃ upāyena yoniso manasikaroto tīṇi saṃyojanāni pahīyanti, vīsativatthukā
sakkāyadiṭṭhi, aṭṭhavatthukā vicikicchā, ‘‘sīlena suddhi vatena suddhī’’ti
sīlabbatānaṃ parāmasanato sīlabbataparāmāsoti. Tattha catūsu āsavesu sakkāyadiṭṭhisīlabbataparāmāsā
diṭṭhāsavena saṅgahitattā āsavā ceva saṃyojanā ca. Vicikicchā saṃyojanameva, na
āsavo. ‘‘Dassanā pahātabbā āsavā’’ti ettha pariyāpannattā pana āsavāti.
‘‘Ime vuccanti…pe… pahātabbā’’ti ime sakkāyadiṭṭhiādayo
dassanā pahātabbā nāma āsavāti dassento āha. Atha vā yā ayaṃ channaṃ diṭṭhīnaṃ
aññatarā diṭṭhi uppajjatīti evaṃ sarūpeneva sakkāyadiṭṭhi vibhattā. Taṃ
sandhāyāha ‘‘ime vuccanti, bhikkhave’’ti. Sā ca yasmā sahajātapahānekaṭṭhehi
saddhiṃ pahīyati. Diṭṭhāsave hi pahīyamāne taṃsahajāto catūsu diṭṭhisampayuttacittesu
kāmāsavopi avijjāsavopi pahīyati. Pahānekaṭṭho pana catūsu diṭṭhivippayuttesu
nāgasupaṇṇādisamiddhipatthanāvasena uppajjamāno bhavāsavo. Teneva sampayutto
avijjāsavopi, dvīsu domanassacittesu pāṇātipātādinibbattako avijjāsavopi, tathā
vicikicchācittasampayutto avijjāsavopīti evaṃ sabbathāpi avasesā tayopi āsavā
pahīyanti. Tasmā bahuvacananiddeso katoti evamettha attho veditabbo. Esa porāṇānaṃ
adhippāyo.
Dassanā pahātabbāti dassanaṃ
nāma sotāpattimaggo, tena pahātabbāti attho. Kasmā sotāpattimaggo dassanaṃ? Paṭhamaṃ
nibbānadassanato. Nanu gotrabhu paṭhamataraṃ passatīti? No na passati. Disvā
kattabbakiccaṃ pana na karoti saṃyojanānaṃ appahānato. Tasmā passatīti na
vattabbo. Yattha katthaci rājānaṃ disvāpi paṇṇākāraṃ datvā kiccanipphattiyā adiṭṭhattā
‘‘ajjāpi rājānaṃ na passāmī’’ti vadanto gāmavāsī puriso cettha nidassanaṃ.
Dassanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
niṭṭhitā.
Saṃvarāpahātabbaāsavavaṇṇanā
22. Evaṃ dassanena pahātabbe
āsave dassetvā idāni tadanantaruddiṭṭhe saṃvarā pahātabbe dassetuṃ, katame
ca, bhikkhave, āsavā saṃvarā pahātabbāti āha. Evaṃ sabbattha sambandho
veditabbo. Ito parañhi atthamattameva vaṇṇayissāma.
Nanu ca dassanena bhāvanāyāti imehi dvīhi appahātabbo
āsavo nāma natthi, atha kasmā visuṃ saṃvarādīhi pahātabbe dassetīti. Saṃvarādīhi
pubbabhāge vikkhambhitā āsavā catūhi maggehi samugghātaṃ gacchanti, tasmā tesaṃ
maggānaṃ pubbabhāge imehi pañcahākārehi vikkhambhanappahānaṃ dassento evamāha.
Tasmā yo cāyaṃ vutto paṭhamo dassanamaggoyeva, idāni bhāvanānāmena vuccissanti
tayo maggā, tesaṃ sabbesampi ayaṃ pubbabhāgapaṭipadāti veditabbā.
Tattha idhāti imasmiṃ sāsane. Paṭisaṅkhāti
paṭisaṅkhāya. Tatthāyaṃ saṅkhāsaddo ñāṇakoṭṭhāsapaññattigaṇanāsu dissati. ‘‘Saṅkhāyekaṃ
paṭisevatī’’tiādīsu (ma. ni. 2.168) hi ñāṇe dissati. ‘‘Papañcasaññāsaṅkhā
samudācarantī’’tiādīsu (ma. ni. 1.201) koṭṭhāse. ‘‘Tesaṃ tesaṃ dhammānaṃ saṅkhā
samaññā’’tiādīsu (dha. sa. 1313) paññattiyaṃ. ‘‘Na sukaraṃ saṅkhātu’’ntiādīsu
(saṃ. ni. 2.128) gaṇanāyaṃ. Idha pana ñāṇe daṭṭhabbo.
Paṭisaṅkhā yonisoti hi
upāyena pathena paṭisaṅkhāya ñatvā paccavekkhitvāti attho. Ettha ca asaṃvare
ādīnavapaṭisaṅkhā yoniso paṭisaṅkhāti veditabbā. Sā cāyaṃ ‘‘varaṃ, bhikkhave,
tattāya ayosalākāya ādittāya sampajjalitāya sajotibhūtāya cakkhundriyaṃ
sampalimaṭṭhaṃ, na tveva cakkhuviññeyyesu rūpesu anubyañjanaso
nimittaggāho’’tiādinā (saṃ. ni. 4.235) ādittapariyāyanayena veditabbā. Cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto
viharatīti ettha cakkhumeva indriyaṃ cakkhundriyaṃ, saṃvaraṇato saṃvaro,
pidahanato thakanatoti vuttaṃ hoti. Satiyā etaṃ adhivacanaṃ. Cakkhundriye saṃvaro
cakkhundriyasaṃvaro. Titthakāko āvāṭakacchapo vanamahiṃsotiādayo viya.
Tattha kiñcāpi cakkhundriye saṃvaro vā asaṃvaro vā
natthi. Na hi cakkhupasādaṃ nissāya sati vā muṭṭhasaccaṃ vā uppajjati. Apica
yadā rūpārammaṇaṃ cakkhussa āpāthaṃ āgacchati, tadā bhavaṅge dvikkhattuṃ
uppajjitvā niruddhe kiriyamanodhātu āvajjanakiccaṃ sādhayamānā uppajjitvā
nirujjhati, tato cakkhuviññāṇaṃ dassanakiccaṃ, tato vipākamanodhātu sampaṭicchanakiccaṃ,
tato vipākāhetukamanoviññāṇadhātu santīraṇakiccaṃ, tato kiriyāhetukamanoviññāṇadhātu
voṭṭhabbanakiccaṃ sādhayamānā uppajjitvā nirujjhati. Tadanantaraṃ javanaṃ
javati.
Tatthapi neva bhavaṅgasamaye, na āvajjanādīnaṃ
aññatarasamaye saṃvaro vā asaṃvaro vā atthi. Javanakkhaṇe pana sace dussīlyaṃ
vā muṭṭhasaccaṃ vā aññāṇaṃ vā akkhanti vā kosajjaṃ vā uppajjati, ayaṃ asaṃvaro
hoti. Evaṃ hontopi so cakkhundriye asaṃvaroti vuccati. Kasmā? Tasmiñhi sati
dvārampi aguttaṃ hoti, bhavaṅgampi āvajjanādīni vīthicittānipi. Yathā kiṃ,
yathā nagare catūsu dvāresu asaṃvutesu kiñcāpi anto gharakoṭṭhakagabbhādayo
susaṃvutā, tathāpi antonagare sabbaṃ bhaṇḍaṃ arakkhitaṃ agopitameva hoti.
Nagaradvārena hi pavisitvā corā yadicchanti, taṃ kareyyuṃ, evameva javane
dussīlyādīsu uppannesu, tasmiṃ asaṃvare sati dvārampi aguttaṃ hoti, bhavaṅgampi
āvajjanādīni vīthicittānipīti.
Tasmiṃ pana sīlādīsu uppannesu dvārampi guttaṃ hoti,
bhavaṅgampi āvajjanādīni vīthicittānipi. Yathā kiṃ? Yathā nagaradvāresu susaṃvutesu
kiñcāpi anto gharādayo asaṃvutā, tathāpi antonagare sabbaṃ bhaṇḍaṃ surakkhitaṃ
sugopitameva hoti. Nagaradvāresu hi pihitesu corānaṃ paveso natthi, evameva
javane sīlādīsu uppannesu dvārampi suguttaṃ hoti, bhavaṅgampi āvajjanādīni
vīthicittānipi. Tasmā javanakkhaṇe uppajjamānopi cakkhundriye saṃvaroti vutto.
Idha cāyaṃ satisaṃvaro adhippetoti veditabbo. Cakkhundriyasaṃvarena saṃvuto cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto,
upetoti vuttaṃ hoti. Tathā hi, pātimokkhasaṃvarasaṃvutoti imassa vibhaṅge
‘‘iminā pātimokkhasaṃvarena upeto hoti…pe… samannāgato’’ti (vibha. 511) vuttaṃ.
Taṃ ekajjhaṃ katvā cakkhundriyasaṃvarena saṃvutoti evamattho veditabbo.
Atha vā saṃvarīti saṃvuto, thakesi pidahīti vuttaṃ
hoti. Cakkhundriye saṃvarasaṃvuto cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto, cakkhundriyasaṃvarasaññitaṃ
satikavāṭaṃ cakkhudvāre, gharadvāre kavāṭaṃ viya saṃvari thakesi pidahīti vuttaṃ
hoti. Ayameva cettha attho sundarataro. Tathā hi ‘‘cakkhundriyasaṃvaraṃ asaṃvutassa
viharato saṃvutassa viharato’’ti etesu padesu ayameva attho dissati.
Viharatīti evaṃ
cakkhundriyasaṃvarasaṃvuto yena kenaci iriyāpathavihārena viharati. Yañhissātiādimhi
yaṃ cakkhundriyasaṃvaraṃ assa bhikkhuno asaṃvutassa athaketvā apidahitvā
viharantassāti evamattho veditabbo. Atha vā, ye-kārassa yanti ādeso. Hikāro
ca padapūraṇo, ye assāti attho.
Uppajjeyyunti nibbatteyyuṃ.
Āsavā vighātapariḷāhāti cattāro āsavā ca aññe ca vighātakarā kilesapariḷāhā
vipākapariḷāhā ca. Cakkhudvāre hi iṭṭhārammaṇaṃ āpāthagataṃ kāmassādavasena
assādayato abhinandato kāmāsavo uppajjati, īdisaṃ aññasmimpi sugatibhave
labhissāmīti bhavapatthanāya assādayato bhavāsavo uppajjati, sattoti vā
sattassāti vā gaṇhantassa diṭṭhāsavo uppajjati, sabbeheva sahajātaṃ aññāṇaṃ
avijjāsavoti cattāro āsavā uppajjanti. Tehi sampayuttā apare kilesā vighātapariḷāhā,
āyatiṃ vā tesaṃ vipākā. Tepi hi asaṃvutasseva viharato uppajjeyyunti vuccanti.
Evaṃsa teti evaṃ assa te.
Evaṃ etena upāyena na honti, no aññathāti vuttaṃ hoti. Esa nayo paṭisaṅkhā
yoniso sotindriyasaṃvarasaṃvutotiādīsu.
Ime vuccanti, bhikkhave, āsavā saṃvarā pahātabbāti ime chasu dvāresu cattāro cattāro katvā catuvīsati āsavā saṃvarena
pahātabbāti vuccanti. Sabbattheva cettha satisaṃvaro eva saṃvaroti veditabbo.
Saṃvarāpahātabbaāsavavaṇṇanā
niṭṭhitā.
Paṭisevanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
23. Paṭisaṅkhā yoniso
cīvarantiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbaṃ visuddhimagge sīlakathāyaṃ
vuttameva. Yañhissāti yaṃ cīvarapiṇḍapātādīsu vā aññataraṃ assa. Appaṭisevatoti
evaṃ yoniso appaṭisevantassa. Sesaṃ vuttanayameva. Kevalaṃ panidha aladdhaṃ
cīvarādiṃ patthayato laddhaṃ vā assādayato kāmāsavassa uppatti veditabbā. Īdisaṃ
aññasmimpi sampattibhave sugatibhave labhissāmīti bhavapatthanāya assādayato
bhavāsavassa, ahaṃ labhāmi na labhāmīti vā mayhaṃ vā idanti attasaññaṃ adhiṭṭhahato
diṭṭhāsavassa uppatti veditabbā. Sabbeheva pana sahajāto avijjāsavoti evaṃ
catunnaṃ āsavānaṃ uppatti vipākapariḷāhā ca navavedanuppādanatopi veditabbā.
Ime vuccanti,
bhikkhave, āsavā paṭisevanā pahātabbāti ime ekamekasmiṃ paccaye cattāro
cattāro katvā soḷasa āsavā iminā ñāṇasaṃvarasaṅkhātena paccavekkhaṇapaṭisevanena
pahātabbāti vuccanti.
Paṭisevanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
niṭṭhitā.
Adhivāsanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
24. Paṭisaṅkhā yoniso khamo
hoti sītassāti upāyena pathena paccavekkhitvā khamo hoti sītassa sītaṃ
khamati sahati, na avīrapuriso viya appamattakenapi sītena calati kampati kammaṭṭhānaṃ
vijahati. Apica kho lomasanāgatthero viya anappakenāpi sītena phuṭṭho na calati
na kampati, kammaṭṭhānameva manasi karoti. Thero kira cetiyapabbate piyaṅguguhāyaṃ
padhānaghare viharanto antaraṭṭhake himapātasamaye lokantarikaniraye
paccavekkhitvā kammaṭṭhānaṃ avijahantova abbhokāse vītināmesi. Evaṃ uṇhādīsupi
atthayojanā veditabbā.
Kevalañhi yo bhikkhu adhimattampi uṇhaṃ sahati sveva
thero viya, ayaṃ ‘‘khamo uṇhassā’’ti veditabbo. Thero kira gimhasamaye
pacchābhattaṃ bahicaṅkame nisīdi. Kammaṭṭhānaṃ manasikaronto sedāpissa kacchehi
muccanti. Atha naṃ antevāsiko āha ‘‘idha, bhante, nisīdatha, sītalo okāso’’ti.
Thero ‘‘uṇhabhayenevamhi āvuso idha nisinno’’ti avīcimahānirayaṃ paccavekkhitvā
nisīdiyeva. Uṇhanti cettha aggisantāpova veditabbo. Sūriyasantāpavasena
panetaṃ vatthu vuttaṃ.
Yo ca dve tayo vāre bhattaṃ vā pānīyaṃ vā alabhamānopi
anamatagge saṃsāre attano pettivisayūpapattiṃ paccavekkhitvā avedhento kammaṭṭhānaṃ
na vijahatiyeva. Adhimattehi ḍaṃsamakasavātātapasamphassehi phuṭṭho cāpi
tiracchānūpapattiṃ paccavekkhitvā avedhento kammaṭṭhānaṃ na vijahatiyeva.
Sarīsapasamphassena phuṭṭho cāpi anamatagge saṃsāre sīhabyagghādimukhesu
anekavāraṃ parivattitapubbabhāvaṃ paccavekkhitvā avedhento kammaṭṭhānaṃ na
vijahatiyeva padhāniyatthero viya. Ayaṃ ‘‘khamo jighacchāya…pe…
sarīsapasamphassāna’’nti veditabbo.
Theraṃ kira khaṇḍacelavihāre kaṇikārapadhāniyaghare
ariyavaṃsaṃ suṇantaṃ ghoraviso sappo ḍaṃsi. Thero jānitvāpi pasannacitto
nisinno dhammaṃyeva suṇāti. Visavego thaddho ahosi. Thero upasampadamaṇḍalaṃ
ādiṃ katvā sīlaṃ paccavekkhitvā parisuddhasīlohamasmīti pītiṃ uppādesi. Saha
pītuppādā visaṃ nivattitvā pathaviṃ pāvisi. Thero tattheva cittekaggataṃ
labhitvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ pāpuṇi.
Yo pana akkosavasena durutte duruttattāyeva ca
durāgate api antimavatthusaññite vacanapathe sutvā khantiguṇaṃyeva
paccavekkhitvā na vedhati dīghabhāṇakaabhayatthero viya. Ayaṃ ‘‘khamo duruttānaṃ
durāgatānaṃ vacanapathāna’’nti veditabbo.
Thero kira paccayasantosabhāvanārāmatāya mahāariyavaṃsappaṭipadaṃ
kathesi, sabbo mahāgāmo āgacchati. Therassa mahāsakkāro uppajjati. Taṃ aññataro
mahāthero adhivāsetuṃ asakkonto dīghabhāṇako ariyavaṃsaṃ kathemīti sabbarattiṃ
kolāhalaṃ karosītiādīhi akkosi. Ubhopi ca attano attano vihāraṃ gacchantā
gāvutamattaṃ ekapathena agamaṃsu. Sakalagāvutampi so taṃ akkosiyeva. Tato
yattha dvinnaṃ vihārānaṃ maggo bhijjati, tattha ṭhatvā dīghabhāṇakatthero taṃ
vanditvā ‘‘esa, bhante, tumhākaṃ maggo’’ti āha. So asuṇanto viya agamāsi.
Theropi vihāraṃ gantvā pāde pakkhāletvā nisīdi. Tamenaṃ antevāsiko ‘‘kiṃ,
bhante, sakalagāvutaṃ paribhāsantaṃ na kiñci avocutthā’’ti āha. Thero ‘‘khantiyeva,
āvuso, mayhaṃ bhāro, na akkhanti. Ekapaduddhārepi kammaṭṭhānaviyogaṃ na
passāmī’’ti āha. Ettha ca vacanameva vacanapathoti veditabbo.
Yo pana uppannā sārīrikā vedanā dukkhamanaṭṭhena dukkhā,
bahalaṭṭhena tibbā, pharusaṭṭhena kharā, tikhiṇaṭṭhena kaṭukā,
assādavirahato asātā, manaṃ avaḍḍhanato amanāpā, pāṇaharaṇasamatthatāya
pāṇaharā adhivāsetiyeva, na vedhati. Evaṃ sabhāvo hoti cittalapabbate
padhāniyatthero viya. Ayaṃ ‘‘uppannānaṃ…pe… adhivāsanajātiko’’ti veditabbo.
Therassa kira rattiṃ padhānena vītināmetvā ṭhitassa
udaravāto uppajji. So taṃ adhivāsetuṃ asakkonto āvattati parivattati. Tamenaṃ
caṅkamapasse ṭhito piṇḍapātiyatthero āha ‘‘āvuso, pabbajito nāma adhivāsanasīlo
hotī’’ti. So ‘‘sādhu, bhante’’ti adhivāsetvā niccalo sayi. Vāto nābhito yāva
hadayaṃ phāleti. Thero vedanaṃ vikkhambhetvā vipassanto muhuttena anāgāmī hutvā
parinibbāyīti.
Yañhissāti sītādīsu yaṃkiñci
ekadhammampi assa. Anadhivāsayatoti anadhivāsentassa akkhamantassa. Sesaṃ
vuttanayameva. Āsavuppatti panettha evaṃ veditabbā. Sītena phuṭṭhassa uṇhaṃ
patthayantassa kāmāsavo uppajjati, evaṃ sabbattha. Natthi no sampattibhave
sugatibhave sītaṃ vā uṇhaṃ vāti bhavaṃ patthayantassa bhavāsavo. Mayhaṃ sītaṃ uṇhanti
gāho diṭṭhāsavo. Sabbeheva sampayutto avijjāsavoti.
‘‘Ime vuccanti…pe… adhivāsanā pahātabbā’’ti ime sītādīsu ekamekassa vasena cattāro cattāro katvā aneke āsavā
imāya khantisaṃvarasaṅkhātāya adhivāsanāya pahātabbāti vuccantīti attho. Ettha
ca yasmā ayaṃ khanti sītādidhamme adhivāseti, attano upari āropetvā vāsetiyeva.
Na asahamānā hutvā nirassati, tasmā ‘‘adhivāsanā’’ti vuccatīti veditabbā.
Adhivāsanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
niṭṭhitā.
Parivajjanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
25. Paṭisaṅkhā yoniso
caṇḍaṃ hatthiṃ parivajjetīti ahaṃ samaṇoti caṇḍassa hatthissa āsanne na ṭhātabbaṃ.
Tatonidānañhi maraṇampi siyā maraṇamattampi dukkhanti evaṃ upāyena pathena
paccayena paccavekkhitvā caṇḍaṃ hatthiṃ parivajjeti paṭikkamati. Esa nayo
sabbattha. Caṇḍanti ca duṭṭhaṃ, vāḷanti vuttaṃ hoti. Khāṇunti
khadirakhāṇuādiṃ. Kaṇṭakaṭṭhānanti kaṇṭakānaṃ ṭhānaṃ, yattha kaṇṭakā
vijjanti, taṃ okāsanti vuttaṃ hoti. Sobbhanti sabbato paricchinnataṭaṃ. Papātanti
ekato chinnataṭaṃ. Candanikanti ucchiṭṭhodakagabbhamalādīnaṃ chaḍḍanaṭṭhānaṃ.
Oḷigallanti tesaṃyeva sakaddamādīnaṃ sandanokāsaṃ. Taṃ jaṇṇumattampi
asucibharitaṃ hoti, dvepi cetāni ṭhānāni amanussaduṭṭhāni honti. Tasmā tāni
vajjetabbāni. Anāsaneti ettha pana ayuttaṃ āsanaṃ anāsanaṃ, taṃ
atthato aniyatavatthukaṃ rahopaṭicchannāsananti veditabbaṃ. Agocareti
etthapi ca ayutto gocaro agocaro, so vesiyādibhedato pañcavidho. Pāpake
mitteti lāmake dussīle mittapatirūpake, amitte vā. Bhajantanti
sevamānaṃ. Viññū sabrahmacārīti paṇḍitā buddhisampannā sabrahmacārayo,
bhikkhūnametaṃ adhivacanaṃ. Te hi ekakammaṃ ekuddeso samasikkhatāti imaṃ brahmaṃ
samānaṃ caranti, tasmā sabrahmacārīti vuccanti. Pāpakesu ṭhānesūti
lāmakesu ṭhānesu. Okappeyyunti saddaheyyuṃ, adhimucceyyuṃ ‘‘addhā
ayamāyasmā akāsi vā karissati vā’’ti.
Yañhissāti hatthiādīsu
yaṃkiñci ekampi assa. Sesaṃ vuttanayameva. Āsavuppatti panettha evaṃ veditabbā.
Hatthiādinidānena dukkhena phuṭṭhassa sukhaṃ patthayato kāmāsavo uppajjati.
Natthi no sampattibhave sugatibhave īdisaṃ dukkhanti bhavaṃ patthentassa
bhavāsavo. Maṃ hatthī maddati, maṃ assoti gāho diṭṭhāsavo. Sabbeheva sampayutto
avijjāsavoti.
Ime vuccanti…pe… parivajjanā pahātabbāti ime hatthiādīsu ekekassa vasena cattāro cattāro katvā aneke āsavā
iminā sīlasaṃvarasaṅkhātena parivajjanena pahātabbāti vuccantīti veditabbā.
Parivajjanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
niṭṭhitā.
Vinodanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
26. Paṭisaṅkhā yoniso
uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāsetīti ‘‘iti pāyaṃ vitakko akusalo, itipi
sāvajjo, itipi dukkhavipāko, so ca kho attabyābādhāya saṃvattatī’’tiādinā
nayena yoniso kāmavitakke ādīnavaṃ paccavekkhitvā tasmiṃ tasmiṃ ārammaṇe
uppannaṃ jātamabhinibbattaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāseti, cittaṃ āropetvā na
vāseti, abbhantare vā na vāsetītipi attho.
Anadhivāsento kiṃ karotīti? Pajahati chaḍḍeti.
Kiṃ kacavaraṃ viya piṭakenāti? Na hi, apica kho naṃ vinodeti
tudati vijjhati nīharati.
Kiṃ balibaddaṃ viya patodenāti? Na hi, atha kho naṃ byantīkaroti
vigatantaṃ karoti. Yathāssa antopi nāvasissati antamaso bhaṅgamattampi, tathā
naṃ karoti.
Kathaṃ pana naṃ tathā karotīti? Anabhāvaṃ gametīti
anu anu abhāvaṃ gameti, vikkhambhanappahānena yathā suvikkhambhito hoti, tathā
karotīti vuttaṃ hoti. Esa nayo byāpādavihiṃsāvitakkesu.
Ettha ca kāmavitakkoti ‘‘yo kāmapaṭisaṃyutto
takko vitakko micchāsaṅkappo’’ti vibhaṅge (vibha. 910) vutto. Esa nayo itaresu.
Uppannuppanneti uppanne uppanne, uppannamatteyevāti vuttaṃ hoti. Sakiṃ
vā uppanne vinodetvā dutiyavāre ajjhupekkhitā na hoti, satakkhattumpi uppanne
uppanne vinodetiyeva. Pāpake akusaleti lāmakaṭṭhena pāpake, akosallatāya
akusale. Dhammeti teyeva kāmavitakkādayo sabbepi vā nava mahāvitakke.
Tattha tayo vuttā eva. Avasesā ‘‘ñātivitakko janapadavitakko amaravitakko
parānuddayatāpaṭisaṃyutto vitakko lābhasakkārasilokapaṭisaṃyutto vitakko
anavaññattipaṭisaṃyutto vitakko’’ti (mahāni. 207) ime cha.
Yañhissāti etesu
vitakkesu yaṃkiñci assa, sesaṃ vuttanayameva. Kāmavitakko panettha kāmāsavo
eva. Tabbiseso bhavāsavo. Taṃsampayutto diṭṭhāsavo. Sabbavitakkesu avijjāsavoti
evaṃ āsavuppattipi veditabbā.
Ime vuccanti…pe… vinodanā pahātabbāti ime kāmavitakkādivasena vuttappakārā āsavā iminā tasmiṃ tasmiṃ
vitakke ādīnavapaccavekkhaṇasahitena vīriyasaṃvarasaṅkhātena vinodanena
pahātabbāti vuccantīti veditabbā.
Vinodanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
niṭṭhitā.
Bhāvanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
27. Paṭisaṅkhā yoniso satisambojjhaṅgaṃ
bhāvetīti abhāvanāya ādīnavaṃ, bhāvanāya ca ānisaṃsaṃ upāyena pathena
paccavekkhitvā satisambojjhaṅgaṃ bhāveti, esa nayo sabbattha. Ettha ca kiñcāpi
ime uparimaggattayasamayasambhūtā lokuttarabojjhaṅgā eva adhippetā, tathāpi
ādikammikānaṃ bojjhaṅgesu asammohatthaṃ lokiyalokuttaramissakena nesaṃ nayena
atthavaṇṇanaṃ karissāmi. Idha pana lokiyanayaṃ pahāya lokuttaranayo eva
gahetabbo. Tattha satisambojjhaṅgantiādinā nayena vuttānaṃ sattannaṃ ādipadānaṃyeva
tāva –
Atthato lakkhaṇādīhi, kamato ca vinicchayo;
Anūnādhikato ceva, viññātabbo vibhāvinā.
Tattha satisambojjhaṅge tāva saraṇaṭṭhena sati.
Sā panesā upaṭṭhānalakkhaṇā, apilāpanalakkhaṇā vā. Vuttampi hetaṃ ‘‘yathā,
mahārāja, rañño bhaṇḍāgāriko rañño sāpateyyaṃ apilāpeti, ettakaṃ, mahārāja,
hiraññaṃ, ettakaṃ suvaṇṇaṃ, ettakaṃ sāpateyyanti, evameva kho, mahārāja, sati
uppajjamānā kusalākusalasāvajjānavajjahīnapaṇītakaṇhasukkasappaṭibhāge dhamme
apilāpeti. Ime cattāro satipaṭṭhānā’’ti (mi. pa. 2.1.13) vitthāro.
Apilāpanarasā. Kiccavaseneva hissa etaṃ lakkhaṇaṃ therena vuttaṃ. Asammosarasā
vā. Gocarābhimukhabhāvapaccupaṭṭhānā. Sati eva sambojjhaṅgo satisambojjhaṅgo.
Tattha bodhiyā bodhissa vā aṅgoti bojjhaṅgo.
Kiṃ vuttaṃ hoti? Yā hi ayaṃ dhammasāmaggī, yāya
lokiyalokuttaramaggakkhaṇe uppajjamānāya līnuddhaccapatiṭṭhānāyūhana-kāmasukhattakilamathānuyoga-ucchedasassatābhinivesādīnaṃ
anekesaṃ upaddavānaṃ paṭipakkhabhūtāya
satidhammavicayavīriyapītipassaddhisamādhiupekkhāsaṅkhātāya -dhammasāmaggiyā ariyasāvako bujjhatīti katvā
‘‘bodhī’’ti vuccati. Bujjhatīti kilesasantānaniddāya uṭṭhahati, cattāri
vā ariyasaccāni paṭivijjhati, nibbānameva vā sacchikarotīti vuttaṃ hoti.
Yathāha ‘‘satta bojjhaṅge bhāvetvā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’’ti.
Tassā dhammasāmaggisaṅkhātāya bodhiyā aṅgotipi bojjhaṅgo, jhānaṅgamaggaṅgādayo
viya.
Yopesa yathāvuttappakārāya etāya dhammasāmaggiyā
bujjhatīti katvā ariyasāvako ‘‘bodhī’’ti vuccati, tassa bodhissa aṅgotipi
bojjhaṅgo, senaṅgarathaṅgādayo viya. Tenāhu aṭṭhakathācariyā ‘‘bujjhanakassa
puggalassa aṅgāti vā bojjhaṅgā’’ti. Apica ‘‘bojjhaṅgāti kenaṭṭhena bojjhaṅgā?
Bodhāya saṃvattantīti bojjhaṅgā, bujjhantīti bojjhaṅgā, anubujjhantīti bojjhaṅgā,
paṭibujjhantīti bojjhaṅgā, sambujjhantīti bojjhaṅgā’’tiādinā (paṭi. ma. 3.17)
paṭisambhidānayenāpi attho veditabbo. Pasattho sundaro vā bojjhaṅgoti sambojjhaṅgo.
Evaṃ sati eva sambojjhaṅgo satisambojjhaṅgo. Taṃ satisambojjhaṅgaṃ. Evaṃ
tāva ekassa ādipadassa atthato lakkhaṇādīhi ca vinicchayo viññātabbo.
Dutiyādīsu pana catusaccadhamme vicinātīti dhammavicayo.
So pana vicayalakkhaṇo, obhāsanaraso, asammohapaccupaṭṭhāno. Vīrabhāvato
vidhinā īrayitabbato ca vīriyaṃ. Taṃ paggahalakkhaṇaṃ, upatthambhanarasaṃ,
anosīdanapaccupaṭṭhānaṃ. Pīṇayatīti pīti. Sā pharaṇalakkhaṇā, tuṭṭhilakkhaṇā
vā, kāyacittānaṃ pīṇanarasā, tesaṃyeva odagyapaccupaṭṭhānā.
Kāyacittadarathapassambhanato passaddhi. Sā upasamalakkhaṇā,
kāyacittadarathanimmaddanarasā, āyacittānaṃ aparipphandanabhūtasītibhāvapaccupaṭṭhānā.
Samādhānato samādhi. So avikkhepalakkhaṇo, avisāralakkhaṇo vā,
cittacetasikānaṃ sampiṇḍanaraso, cittaṭṭhitipaccupaṭṭhāno. Ajjhupekkhanato upekkhā.
Sā paṭisaṅkhānalakkhaṇā, samavāhitalakkhaṇā vā, ūnādhikatānivāraṇarasā,
pakkhapātupacchedarasā vā, majjhattabhāvapaccupaṭṭhānā. Sesaṃ vuttanayameva.
Evaṃ sesapadānampi atthato lakkhaṇādīhi ca vinicchayo viññātabbo.
Kamatoti ettha ca
‘‘satiñca khvāhaṃ, bhikkhave, sabbatthikaṃ vadāmī’’ti (saṃ. ni. 5.234) vacanato
sabbesaṃ sesabojjhaṅgānaṃ upakārakattā satisambojjhaṅgova paṭhamaṃ vutto. Tato
paraṃ ‘‘so tathā sato viharanto taṃ dhammaṃ paññāya pavicinatī’’tiādinā (vibha.
469) nayena sesabojjhaṅgānaṃ pubbāpariyavacane payojanaṃ sutteyeva vuttaṃ.
Evamettha kamatopi vinicchayo viññātabbo.
Anūnādhikatoti kasmā pana
bhagavatā satteva bojjhaṅgā vuttā anūnā anadhikāti. Līnuddhaccapaṭipakkhato sabbatthikato
ca. Ettha hi tayo bojjhaṅgā līnassa paṭipakkhā. Yathāha – ‘‘yasmiñca kho,
bhikkhave, samaye līnaṃ cittaṃ hoti, kālo tasmiṃ samaye dhammavicayasambojjhaṅgassa
bhāvanāya, kālo vīriyasambojjhaṅgassa bhāvanāya, kālo pītisambojjhaṅgassa
bhāvanāyā’’ti (saṃ. ni. 5.234). Tayo uddhaccassa paṭipakkhā. Yathāha –
‘‘yasmiñca kho, bhikkhave, samaye uddhataṃ cittaṃ hoti, kālo tasmiṃ samaye
passaddhisambojjhaṅgassa bhāvanāya, kālo samādhisambojjhaṅgassa bhāvanāya, kālo
upekkhāsambojjhaṅgassa bhāvanāyā’’ti (saṃ. ni. 5.234). Eko panettha
sabbatthiko. Yathāha – ‘‘satiñca khvāhaṃ, bhikkhave, sabbatthikaṃ vadāmī’’ti.
‘‘Sabbatthaka’’ntipi pāṭho, dvinnampi sabbattha icchitabbanti attho. Evaṃ
līnuddhaccapaṭipakkhato sabbatthikato ca satteva bojjhaṅgā vuttā anūnā anadhikāti,
evamettha anūnādhikatopi vinicchayo viññātabbo.
Evaṃ tāva ‘‘satisambojjhaṅga’’ntiādinā nayena vuttānaṃ
sattannaṃ ādipadānaṃyeva atthavaṇṇanaṃ ñatvā idāni bhāveti vivekanissitantiādīsu
evaṃ ñātabbā. Bhāvetīti vaḍḍheti, attano cittasantāne punappunaṃ janeti
abhinibbattetīti attho. Vivekanissitanti viveke nissitaṃ. Vivekoti
vivittatā. Svāyaṃ tadaṅgaviveko vikkhambhanasamucchedapaṭippassaddhi nissaraṇavivekoti
pañcavidho. Tassa nānattaṃ ‘‘ariyadhamme avinīto’’ti ettha vuttanayeneva
veditabbaṃ. Ayameva hi tattha vinayoti vutto. Evaṃ etasmiṃ pañcavidhe viveke.
Vivekanissitanti tadaṅgavivekanissitaṃ
samucchedavivekanissitaṃ nissaraṇavivekanissitañca satisambojjhaṅgaṃ bhāvetīti
ayamattho veditabbo. Tathā hi ayaṃ bojjhaṅgabhāvanānuyutto yogī vipassanākkhaṇe
kiccato tadaṅgavivekanissitaṃ, ajjhāsayato nissaraṇavivekanissitaṃ, maggakāle
pana kiccato samucchedavivekanissitaṃ, ārammaṇato nissaraṇavivekanissitaṃ
satisambojjhaṅgaṃ bhāveti. Pañcavidhavivekanissitantipi eke, te hi na kevalaṃ
balavavipassanāmaggaphalakkhaṇesu eva bojjhaṅge uddharanti, vipassanāpādakakasiṇajjhānaānāpānāsubhabrahmavihārajjhānesupi
uddharanti. Na ca paṭisiddhā aṭṭhakathācariyehi. Tasmā tesaṃ matena etesaṃ
jhānānaṃ pavattikkhaṇe kiccato eva vikkhambhanavivekanissitaṃ. Yathā ca
‘‘vipassanākkhaṇe ajjhāsayato nissaraṇavivekanissita’’nti vuttaṃ, evaṃ paṭippassaddhivivekanissitampi
bhāvetīti vattuṃ vaṭṭati. Esa nayo virāganissitādīsu. Vivekaṭṭhā eva hi
virāgādayo.
Kevalañhettha vossaggo duvidho
pariccāgavossaggo ca pakkhandanavossaggo cāti. Tattha pariccāgavossaggoti
vipassanākkhaṇe ca tadaṅgavasena, maggakkhaṇe ca samucchedavasena kilesappahānaṃ.
Pakkhandanavossaggoti vipassanākkhaṇe tanninnabhāvena, maggakkhaṇe pana
ārammaṇakaraṇena nibbānapakkhandanaṃ. Tadubhayampi imasmiṃ lokiyalokuttaramissake
atthavaṇṇanānaye vaṭṭati. Tathā hi ayaṃ satisambojjhaṅgo yathāvuttena pakārena
kilese pariccajati, nibbānañca pakkhandati. Vossaggapariṇāminti iminā
pana sakalena vacanena vossaggattaṃ pariṇamantaṃ pariṇatañca paripaccantaṃ
paripakkañcāti. Idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘ayañhi bojjhaṅgabhāvanānuyutto bhikkhu yathā
satisambojjhaṅgo kilesapariccāgavossaggattaṃ nibbānapakkhandanavossaggattañca
paripaccati, yathā ca paripakko hoti, tathā naṃ bhāvetī’’ti. Esa nayo
sesabojjhaṅgesu.
Idha pana nibbānaṃyeva sabbasaṅkhatehi vivittattā viveko,
sabbesaṃ virāgabhāvato virāgo, nirodhabhāvato nirodhoti vuttaṃ.
Maggo eva ca vossaggapariṇāmī, tasmā satisambojjhaṅgaṃ bhāveti vivekaṃ ārammaṇaṃ
katvā pavattiyā vivekanissitaṃ. Tathā virāganissitaṃ nirodhanissitaṃ.
Tañca kho ariyamaggakkhaṇuppattiyā kilesānaṃ samucchedato pariccāgabhāvena ca
nibbānapakkhandanabhāvena ca pariṇataṃ paripakkanti ayameva attho daṭṭhabbo.
Esa nayo sesabojjhaṅgesu.
Yañhissāti etesu bojjhaṅgesu
yaṃkiñci assa. Sesaṃ vuttanayameva. Āsavuppattiyaṃ panettha imesaṃ uparimaggattayasampayuttānaṃ
bojjhaṅgānaṃ abhāvitattā ye uppajjeyyuṃ kāmāsavo bhavāsavo avijjāsavoti tayo
āsavā, bhāvayato evaṃsa te āsavā na hontīti ayaṃ nayo veditabbo.
Ime vuccanti…pe… bhāvanā pahātabbāti ime tayo āsavā imāya maggattayasampayuttāya bojjhaṅgabhāvanāya
pahātabbāti vuccantīti veditabbā.
28. Idāni imehi sattahākārehi
pahīnāsavaṃ bhikkhuṃ thomento āsavappahāne cassa ānisaṃsaṃ dassento eteheva ca
kāraṇehi āsavappahāne sattānaṃ ussukkaṃ janento yato kho, bhikkhave…pe…
antamakāsi dukkhassāti āha. Tattha yato khoti sāmivacane tokāro,
yassa khoti vuttaṃ hoti. Porāṇā pana yasmiṃ kāleti vaṇṇayanti. Ye āsavā
dassanā pahātabbāti ye āsavā dassanena pahātabbā, te dassaneneva pahīnā
honti, na appahīnesuyeva pahīnasaññī hoti. Evaṃ sabbattha vitthāro.
Sabbāsavasaṃvarasaṃvutoti sabbehi āsavapidhānehi pihito, sabbesaṃ vā āsavānaṃ pidhānehi pihito.
Acchecchi taṇhanti sabbampi taṇhaṃ chindi, saṃchindi samucchindi.
Vivattayi saṃyojananti dasavidhampi saṃyojanaṃ parivattayi
nimmalamakāsi. Sammāti hetunā kāraṇena. Mānābhisamayāti mānassa
dassanābhisamayā pahānābhisamayā ca. Arahattamaggo hi kiccavasena mānaṃ
passati, ayamassa dassanābhisamayo. Tena diṭṭho pana so tāvadeva pahīyati diṭṭhavisena
diṭṭhasattānaṃ jīvitaṃ viya. Ayamassa pahānābhisamayo.
Antamakāsi dukkhassāti evaṃ
arahattamaggena sammā mānassa diṭṭhattā pahīnattā ca ye ime ‘‘kāyabandhanassa
anto jīrati (cūḷava. 278). Haritantaṃ vā’’ti (ma. ni. 1.304) evaṃ
vuttaantimamariyādanto ca, ‘‘antamidaṃ, bhikkhave, jīvikāna’’nti (itivu. 91; saṃ.
ni. 3.80) evaṃ vuttalāmakanto ca, ‘‘sakkāyo eko anto’’ti (a. ni. 6.61) evaṃ
vuttakoṭṭhāsanto ca, ‘‘esevanto dukkhassa sabbapaccayasaṅkhayā’’ti (saṃ. ni.
2.51) evaṃ vuttakoṭanto cāti evaṃ cattāro antā, tesu sabbasseva vaṭṭadukkhassa
antaṃ catutthakoṭisaṅkhātaṃ antimakoṭisaṅkhātaṃ antamakāsi paricchedaṃ parivaṭumaṃ
akāsi. Antimasamussayamattāvasesaṃ dukkhaṃ akāsīti vuttaṃ hoti.
Attamanā te bhikkhūti
sakamanā tuṭṭhamanā, pītisomanassehi vā sampayuttamanā hutvā. Bhagavato
bhāsitaṃ abhinandunti idaṃ dukkhassa antakiriyāpariyosānaṃ bhagavato
bhāsitaṃ sukathitaṃ sulapitaṃ, evametaṃ bhagavā evametaṃ sugatāti matthakena
sampaṭicchantā abbhanumodiṃsūti.
Sesamettha yaṃ na vuttaṃ, taṃ pubbe vuttattā ca
suviññeyyattā ca na vuttaṃ. Tasmā sabbaṃ vuttānusārena anupadaso
paccavekkhitabbaṃ.
Bhāvanāpahātabbaāsavavaṇṇanā
niṭṭhitā.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Sabbāsavasuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
-ooOoo-
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Có trường hợp lậu hoặc được đoạn trừ do tránh né . Điều này có thể hiểi là thiếu can đảm chăng ? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 3. Tại sao Đức Phật mở đầu pháp thoại này với câu " Như lai giảng dạy những điều này cho người có trí chứ không phải cho người không có trí ? - ĐĐ Nguyên Thông
Thảo luận 4. Phải chăng bài kinh này cho thấy phiền não có nhiều loại nên phương cách đối trị cũng có nhiều . Có chăng một phương thuốc trị bá bệnh ? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 4. Phải chăng bài kinh này cho thấy phiền não có nhiều loại nên phương cách đối trị cũng có nhiều . Có chăng một phương thuốc trị bá bệnh ? - TT Tuệ Quyền
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment