Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: ĐĐ Pháp Tín
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 19/6/2020
4. Kinh Sợ Hãi Khiếp Ðảm
(Bhayabherava Sutta)
Tên kinh được gọi là Kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm vì Đức Phật
dạy về nỗi sợ hãi của người tu hành trong rừng sâu núi thẳm. Bà la môn
Jànussonì bạch với Đức Phật về sự trợ duyên của Ngài đối với chư tỳ kheo tu
hành. Cũng nhân dịp nầy vị Bà la môn nói nên sự khó khăn của những tỳ kheo khi
phải sống nơi thanh vắng. Đức Phật xác định cả hai suy tư đó là đúng. Rồi Ngài
kể lại kinh nghiệm bản thân sống ở những trú xứ xa vắng trước khi thành đạo.
Qua những lời kể nầy Đức Phật dạy làm thế nào để tạo được lòng tự tin và chế ngự
nỗi sợ hãi. Ngài Cũng dạy rằng sống độc cư không dừng ở đó mà còn đi xa hơn là
tận dụng nếp sống nầy để thành tựu thiền định, đạo quả. Ở đoạn cuối Đức Phật
cũng cho biết lý do tại sao trong hiện tại mặc dù đã là một bậc giác ngộ giải
thoát hoàn toàn Ngài vẫn có thời gian sống độc cư.
017. Sự cảm nhận bắt đầu từ sự cảm thông
Jānussonī là một trong những vị bà la môn danh giá ở
thành Savatthi. Vị nầy thường diện kiến Đức Phật với những câu hỏi tỷ giảo đạo
giáo. Nhiều bài kinh trong Tam Tạng Pali ghi lại những pháp thoại Đức Thế Tôn
giảng cho Jānussonī. Riêng bài kinh nầy, Kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm, ghi lại câu
chuyện vị bà la môn nầy bày tỏ sự cảm thông đối với những khó khăn mà những tu
sĩ mới xuất gia gặp phải. Đức Phật xác nhận và dạy về nỗi sợ hãi khi tu tập ở nơi
thanh vắng độc cư. Những lời Phật dạy khiến Jānussonī
phát tâm quy ngưỡng Tam Bảo:
Như vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn
ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Bà-la-môn Jāṇussoṇi đến chỗ Thế
Tôn ở, khi đến xong, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế
Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jāṇussoṇi bạch
Thế Tôn:
--
Tôn giả Gotama, có những Thiện nam tử, vì lòng tin Tôn giả Gotama,
đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ðối với những vị
này, Tôn giả Gotama là vị lãnh đạo. Ðối với những vị này, Tôn giả
Gotama giúp ích rất nhiều. Ðối với những vị này, Tôn giả Gotama là
vị khích lệ sách tấn. Các vị này chấp nhận tuân theo quan điểm của
Tôn giả Gotama.
--
Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy.
Này Bà-la-môn, có những Thiện nam tử, vì lòng tin nơi Ta, đã xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta là vị lãnh đạo của họ.
Ta đã giúp ích rất nhiều cho họ. Ta là vị khích lệ sách tấn cho
họ. Và các vị này chấp nhận tuân theo quan điểm của Ta.
--
Tôn giả Gotama, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng
núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức
đời sống độc cư! Con nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị
Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.
--
Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy.
Này Bà-la-môn, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng
núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức
đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị
Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.
018.
Kinh nghiệm bản thân của chính Đức Phật
Sợ
hãi đúng là phản ứng tự nhiên của tâm lý khi sống trong rừng sâu nhưng, qua lời
dạy của Đức Phật, thì không phải là không có cách để vượt thắng tâm trạng nầy.
Nội dung chính của bài kinh đề cập đến yếu tố mang lại lòng tự tin và từ đó có
khả năng xua tan nỗi sợ hãi.
[Lòng
tự tin đến từ tam nghiệp thanh tịnh]
Này
Bà-la-môn, xưa kia khi Ta chưa chứng ngộ chánh đẳng giác, khi còn là
Bồ-tát, Ta nghĩ như sau: "Thật khó kham nhẫn những trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật
khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối
loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định!"
Này
Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào,
thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không
thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho
sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thân nghiệp
không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang
vu. Thân nghiệp Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với
thân nghiệp thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát thân nghiệp hoàn toàn
thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi
sống trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn, hay Bà-la-môn nào, có khẩu nghiệp không thanh tịnh... (như
trên)... có ý nghiệp không thanh tịnh... (như trên)... có mạng sống
không thanh tịnh sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang
vu, do nguyên nhân nhiễm trước mạng sống không thanh tịnh, những Tôn
giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm,
bất thiện khởi lên. Ta không có mạng sống không thanh tịnh, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Mạng sống Ta thanh
tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với mạng sống thanh tịnh,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này
Bà-la-môn, Ta tự quán sát mạng sống hoàn toàn thanh tịnh này, tự
cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
[Lòng
tự tin vì không có năm triền cái]
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào tham dục, có ái dục cường liệt, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
trước tham dục, có ái dục cường liệt, những Tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi
lên. Ta không có tham dục, ái dục cường liệt, sống tại các trú xứ
xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta không có tham dục, Ta là một trong
những bậc Thánh, không có tham dục, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không
có tham dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn,
khi sống trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào có tâm sân hận ác ý, sống tại các trú
xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, có
tâm sân hận ác ý, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có tâm sân
hận, ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta
có từ tâm. Ta là một trong những bậc Thánh có từ tâm, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta
tự quán sát Ta có từ tâm như vậy, Ta cảm thấy lòng tự tin được
xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
trước bị hôn trầm thụy miên chi phối, những Tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi
lên. Ta không bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có hôn trầm thụy miên. Ta
là một trong những bậc Thánh không có hôn trầm thụy miên, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta
tự quán sát Ta không có hôn trầm thụy miên như vậy, tự cảm thấy
lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào dao động, tâm không an tịnh, sống tại các
trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước
bị dao động, tâm không an tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn
ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta
không có dao động, tâm không phải không an tịnh, sống tại các trú
xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có dao động, tâm được
an tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh không có dao động, tâm
được an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu".
Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta được an tịnh như vậy, tự cảm
thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước nghi hoặc,
do dự, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có nghi hoặc, do dự,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta diệt trừ
được do dự. Ta là một trong những bậc Thánh diệt trừ được nghi
hoặc, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này
Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta diệt trừ được nghi hoặc như vậy,
tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng
núi.
[Tự
tin vì không có những thói tật hạ liệt]
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào khen mình, chê người sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước khen
mình, chê người, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có khen
mình, chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang
vu. Ta không có khen mình, không có chê người, Ta là một trong những
bậc Thánh không có khen mình, không có chê người, sống tại các
trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự
quán sát tâm Ta không có khen mình, không có chê người như vậy, tự
cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào run rẩy, sợ hãi sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước run rẩy, sợ
hãi, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có run rẩy, sợ hãi,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có
lông tóc dựng ngược, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có lông tóc
dựng ngược, Ta là một trong những bậc Thánh, không có lông tóc dựng
ngược như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi
sống trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân
nhiễm trước ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, những Tôn giả
Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất
thiện khởi lên. Ta không có ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh
vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta là
người ít dục. Ta là một trong những bậc Thánh ít dục, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta
tự quán sát Ta là người ít dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin
được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú
xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước biếng
nhác, kém tinh tấn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có biếng
nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu. Ta siêng năng, tinh tấn. Ta là một trong những bậc Thánh
siêng năng, tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta siêng năng, tinh tấn
như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống
trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào thất niệm, không tỉnh giác, sống tại các
trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước
thất niệm, không tỉnh giác, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy
chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không
có thất niệm, không phải không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta an trú niệm. Ta là một trong những
bậc Thánh an trú niệm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta quán sát Ta an trú niệm như vậy, tự
cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào không định tĩnh, tâm bị tán loạn, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
trước không định tĩnh, tâm bị tán loạn, những Tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi
lên. Ta được định tĩnh, tâm không bị tán loạn sống tại các trú
xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu định tâm. Ta là một
trong những bậc Thánh thành tựu định tâm, sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta
thành tựu định tâm như vậy, từ cảm thấy lòng tự tin được xác
chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu. Do nguyên nhân nhiễm trước liệt tuệ,
đần độn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho
sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có liệt tuệ, đần
độn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta thành
tựu trí tuệ. Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu trí tuệ,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này
Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu trí tuệ như vậy, tự cảm
thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
019.
Cách chế ngự sợ hãi của Đức Bồ Tát
Sự
tu tập không phải chỉ dừng lại ở khả năng
sống ở nơi thanh vắng:
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Trong
những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười
lăm, đêm mồng tám mỗi nửa tháng, trong những đêm như vậy, Ta hãy
đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược, như tự miếu
tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây
cối, để Ta có thể thấy sự sợ hãi khiếp đảm ấy". Này
Bà-la-môn, sau một thời gian, trong những đêm được biết đến, được
xác định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nữa
tháng, trong những đêm như vậy, Ta đến ở tại các trú xứ hãi hùng,
lông tóc dựng ngược như vậy, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu
tại các rừng núi, tự miếu tại các cây cối. Này Bà-la-môn, trong
khi ta ở tại các chỗ ấy, một con thú có thể đến, hay một con công
làm rơi một cành cây, hay gió làm rung động các lá rơi; Ta khởi
lên ý nghĩ: "Nay sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến!". Này
Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: "Sao Ta ở đây, chỉ để mong đợi sự
sợ hãi khiếp đảm chớ không gì khác? Trong bất cứ hành vi cử chỉ
nào của Ta mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, trong hành vi cử chỉ ấy, Ta
hãy trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy".
Này
Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua lại mà sợ hãi khiếp đảm ấy
đến, thì này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta không ngồi, Ta không nằm,
nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đi kinh hành qua
lại. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang đứng mà sự sợ hãi khiếp đảm
ấy đến, thì này Bà-la- môn, Ta không kinh hành qua lại, Ta không
ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi
Ta đang đứng. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang ngồi mà sợ hãi khiếp
đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không nằm, Ta không đứng, Ta
không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong
khi Ta đang ngồi. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang nằm mà sợ hãi khiếp
đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không ngồi, Ta không đứng, Ta
không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong
khi Ta đang nằm.
Này
Bà-la-môn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng ngày giống như
đêm, nghĩ rằng đêm giống như ngày. Như vậy, Ta nói rằng những
Sa-môn, Bà-la-môn ấy sống trong si ám. Này Bà-la-môn, Ta nghĩ rằng
đêm là đêm, nghĩ rằng ngày là ngày. Này Bà-la-môn, ai nói một
cách chơn chánh sẽ nói như sau: "Vị hữu tình nào không có si
ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn
loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì
an lạc cho loài Trời và loài Người. Vị ấy khi nói một cách chân
chánh về Ta sẽ nói như sau: "Là vị hữu tình không có si ám,
sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài,
vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an
lạc cho loài Trời và loài Người".
Này
Bà-la-môn, Ta tinh cần, tinh tấn, không lười biếng. Ta an trú chánh
niệm, không có loạn, thân được khinh an, không có dao động, tâm
được định tĩnh, chuyên nhất.
Này
Bà-la-môn, Ta ly dục, ly các ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ.
Diệt
tầm, diệt tứ, Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
Ly
hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú Thiền thứ ba.
Xả
lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng và an trú
Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng
tâm đến túc mạng trí. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một
đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba
mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm
đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành
kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta
có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này,
các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến
mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ
này. Tại chỗ này, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này,
giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như
thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ này,
Ta được sanh ra ở đây". Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá
khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Này
Bà-la-môn, trong đêm canh đầu Ta chứng được minh thứ nhất, vô minh
diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến sanh tử trí về chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần
tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta tuệ tri
rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô
xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những
chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh
về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà
kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào thành
tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói,
thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh,
theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này,
sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời,
trên đời này. Như vậy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy
sự sống chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh, người hạ
liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ
bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Này
Bà-la-môn, trong đêm canh giữa, Ta chứng được minh thứ hai, vô minh
diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến lậu tận trí. Ta thắng tri như thật: "Ðây là
khổ", thắng tri như thật: "Ðây là nguyên nhân của
khổ", thắng tri như thật: "Ðây là khổ diệt", thắng tri
như thật: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt", thắng tri
như thật: "Ðây là những lậu hoặc", thắng tri như thật:
"Ðây là nguyên nhân các lậu hoặc", thắng tri như thật:
"Ðây là các lậu hoặc diệt", thắng tri như thật: "Ðây
là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt".
Nhờ
biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu,
thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã
giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đã giải thoát. Ta
đã thắng tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
Này
Bà-la-môn trong đêm canh ba, Ta chứng được minh thứ ba, vô minh diệt,
minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng
dật nhiệt tâm tinh cần.
020.
Lý do Đức Thế Tôn vẫn sống ở những trú xứ thanh vắng sau khi thành đạo
Đức
Phật vẫn thường sống ở trú xứ thanh vắng sau khi thành đạo chỉ vì lòng thương tưởng
cho đàn hậu tấn:
Này
Bà-la-môn, Ông có thể có tư tưởng như sau: "Nay Sa-môn Gotama
chưa diệt trừ tham, chưa diệt trừ sân, chưa diệt trừ si, nên sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn,
chớ có hiểu như vậy. Do Ta quán sát hai mục đích mà Ta sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Tự thấy sự hiện tại
lạc trú và vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương lai.
--
Chúng sanh trong tương lai được Tôn giả Gotama thương tưởng, vì
Tôn giả là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Thật vi diệu thay, Tôn
giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!... Như người dựng đứng
lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín,
chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối
để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được
Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con quy
y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama
nhận con làm đệ tử; từ này trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời
quy ngưỡng.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 4 [tóm tắt]
Kinh Sợ Hãi Và Khiếp Đảm
(Bhayabherava Sutta)
(M.i, 16)
Tại Sāvatthī, Jetavana,
Anāthapiṇḍikārāma, Thế Tôn thuyết pháp cho Bà-la-môn Jānussoni. Jāṇussoṇi
nói rằng thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng, rừng núi hoang vu;
thật khó khăn đời sống độc cư. Rừng núi làm rối loạn tâm trí vị
Tỷ-kheo chưa chứng thiền định. Đức Phật xác nhận lời tuyên bố của Jāṇussoṇi
là đúng và nói lên những kinh nghiệm và suy tư của đức Phật.
Tỷ-kheo nào sống trong rừng
núi hoang vu, rơi vào một trong mười sáu trường hợp này, thời chắc
chắn phải sợ hãi khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Thân, khẩu, ý
nghiệp không thanh tịnh, mạng sống không thanh tịnh; tham dục, ái dục
cường liệt, tâm sân hận ác ý, hôn trầm thụy miên chi phối, dao
động, tâm không an tịnh, nghi hoặc do dự, tự tán hủy tha, run rẩy sợ
hãi, ham muốn lợi danh, lười biếng không tinh tấn, thất niệm không
chú tâm, không định tĩnh, tâm tán loạn, ngu độn si ám. Đức Phật
không có mười sáu trường hợp này nên Ngài sống trong rừng núi
hoang vu không có sợ hãi, an trú trong các thiện pháp, nên cảm thấy
lòng tự tín xác chứng hơn khi sống ở thành thị.
Đức Phật kể lại kinh nghiệm
của Ngài đối trị với sợ hãi khi sống trong rừng núi hoang vu. Ngài
lựa những đêm thật tối trời, Ngài trú tại chỗ thật hãi hùng, khi
nào sợ hãi đến trong bất cứ cử chỉ nào, đi đứng nằm ngồi, Ngài
không thay đổi cử chỉ, trong cử chỉ nào mà sợ hãi đến, Ngài giữ
nguyên cử chỉ ấy và đối trị với sợ hãi. Ngài cũng không chấp
nhận một số Sa- môn, Bà-la-môn, tưởng đêm là ngày, ngày là đêm
để đối trị sợ hãi. Ngài cho như vậy là ngu si. Ngài nghĩ đêm là
đêm, ngày là ngày. Rồi đức Phật nói đến nếp sống của Ngài và
những quả chứng Ngài đạt được. Ngài là vị hữu tình không có si
ám, sống vì hạnh phúc cho chúng sanh, tinh tấn, không lười biếng, an
trú chánh niệm, tâm không tán loạn, không có dao động, tâm được
định tĩnh, trú bốn thiền, canh một chứng được Túc mạng minh, canh
giữa chứng được Thiên nhãn minh, canh cuối chứng được Lậu tận minh,
đoạn tận các lậu hoặc, chứng quả A-la-hán. Rồi đức Phật khuyến cáo
chớ có nghĩ rằng Sa-môn Gotama vì chưa diệt trừ tham, sân, si, nên
sống trong rừng núi. Đức Phật xác nhận hai mục đích đức Phật sống
trong rừng núi: một là hiện tại lạc trú, hai là vì lòng thương
tưởng chúng sanh trong tương lai.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 4 [dàn ý]
Kinh Sợ Hãi Và Khiếp Đảm
(Bhayabherava Sutta)
(M.i, 16)
A. Duyên khởi
Câu chuyện giữa Sa-môn Gotama với Bà-la-môn Jāṇussoṇi: 2 vấn đề được đề cập. Sa-môn Gotama là bậc lãnh đạo các đệ tử,
và đời sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu rất là khó khăn.
B. Chánh kinh:
Sa-môn Gotama nói lên kinh nghiệm của Ngài khi sống trong rừng
núi, đối trị với khiếp đảm cho đến khi thành Phật.
I. Ai có
16 tánh bất thiện, không thể sống trong rừng núi mà không khởi lên sợ hãi.
Sa-môn không có những đức tánh ấy, nên sống trong rừng núi không có sợ hãi.
II.
Phương pháp Sa-môn Gotama dùng để đối trị sợ hãi và hành trì thiền định.
1. Đối trị sợ hãi.
2. Các đức tánh tu tập.
3. Tu thiền.
III. Sa-môn Gotama chứng được 3
minh và thỉnh thoảng vẫn sống trong rừng núi.
C. Kết luận:
Lời
tán thán của Bà-la-môn Jāṇussoṇi.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 4 [toát yếu]
Kinh Sợ Hãi Và Khiếp Đảm
(Bhayabherava Sutta)
(M.i, 16)
I.
Toát yếu
Bhayabherava Sutta - Fear and dread.
The Buddha describes to a bradhmin the qualities
required of a monk who wishes to live alone in the forest. He then relates an
account of his own attempts to conquer fear when striving for enlightenment.
Sợ hãi và khiếp đảm
Phật mô tả cho một bà-la-môn biết những đức
tính cần thiết mà một tỳ kheo phải hội đủ nếu muốn sống độc cư ở
rừng núi. Rồi Ngài kể lại cách Ngài chinh phục sự sợ hãi khi Ngài
đang còn nỗ lực để đạt giác ngộ.
II.
Tóm tắt
Bà-la-môn Jāṇussoṇi đến thăm Phật trong rừng Kỳ đà và ca tụng
Phật đã giúp ích nhiều cho các tỳ kheo, vì quả thực rất khó kham
nhẫn đời sống ở rừng núi. Theo ông, rừng núi làm rối loạn tâm trí
tỳ kheo nào chưa chứng các thiền. Phật xác nhận lời nói của
bà-la-môn, và dạy sở dĩ tỳ kheo khó kham nhẫn đời sống viễn ly ở
núi rừng, nổi lên sợ hãi, là vì còn có 16 ô nhiễm:
- không
thanh tịnh thân, khẩu, ý, mạng;
- nhiều
tham dục, sân hận ác ý, hôn trầm, trạo cử;
- hoài
nghi, khen mình chê người, run rẩy sợ hãi, ham lợi;
- lười
biếng, thất niệm, tán loạn, ngu đần.
Phật
không có những lỗi như trên mà có những đức ngược lại, nên Ngài
rất an ổn khi sống ở rừng núi. Phật cho biết lúc còn tu tập, vào
những đêm không trăng, Ngài cố đến những nơi nổi tiếng nhiều ma để
thử. Mỗi khi cơn sợ hãi nổi lên, Ngài vẫn giữ nguyên tư thế để
diệt trừ nỗi sợ trong tâm. Ngài không làm như người ta thường làm
mỗi khi bị khiếp đảm là đổi tư thế (như bỏ chạy), hoặc tưởng
tượng đêm là ngày, vì Ngài cho đó là hành động si ám. Ngài là vị
hữu tình không có si ám, sinh ra ởđời vì hạnh phúc cho muôn loài,
vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng nhân loại và chư
thiên.
Nhờ
chân chính quán sát bản thân không lỗi, Ngài cảm thấy tự tin khi
sống ở núi rừng, tinh tấn tu tập chứng bốn thiền và ba minh. Canh
một, Ngài chứng Túc mạng trí, nhớ được tất cả đời trước của
mình; canh hai chứng Thiên nhãn minh, thấy sự sống chết của tất cả
chúng sinh tùy theo hành nghiệp, gọi là Sinh tử trí hay Tùy nghiệp
thú trí. Và cuối cùng canh ba Ngài chứng Lậu tận minh, hoàn toàn
giải thoát, thành Phật.
Sau
khi đạt thành chính giác, Phật vẫn cư trú trong rừng núi vì hai lý
do: tự thân Ngài cảm thấy thoải mái, và vì lòng thương tưởng hậu
lai (nêu gương).
III. Chú
giải
(không
có)
IV. Pháp
số
Ba
nghiệp: [hành động cố ý về] thân, lời, ý.
Ba
minh [trí]: túc mạng, sinh tử [còn gọi thiên nhãn minh, hay tùy nghiệp
thú trí], lậu tận.
Ba
độc: tham, sân, si.
Bốn
thiền
Bốn
chân lý
Năm
triền cái: tham dục, sân, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi.
V. Kệ
tụng
1.
Muốn đắc các thiền chứng
Và
đoạn tận vô minh
Cần
núi rừng nương ở
Với mười sáu điều kiện:
Với mười sáu điều kiện:
Thân,
khẩu, ý, thanh tịnh
Cách
sinh hoạt thanh tịnh,
Không
tham, sân, ít ngủ,
Không
trạo cử, hoài nghi
Không
khen mình chê người,
Không
sợ hãi, hám lợi;
Không
lười biếng, thất niệm,
Không
tán loạn, ngu đần.
2.
Phật chân chính quán sát
Bản
thân được như trên
Nên
Ngài không sợ hãi
Khi
độc cư rừng núi.
Nhờ tinh tấn hành thiền
Nhờ tinh tấn hành thiền
Ngài
chứng được ba minh:
Canh
một chứng túc mạng
Nhớ
hết các đời trước
Ðại
cương và chi tiết.
Canh hai chứng thiên nhãn
Canh hai chứng thiên nhãn
Sống
chết và nghiệp báo
Của
các hạng chúng sinh
Phật
đều thấy tận tường.
Canh
ba chứng lậu tận
Liễu
tri cả bốn đế
Như
tối diệt, sáng sinh.
Sau
khi Ngài đắc đạo
Vì
thương tưởng hậu lai
Vì
hiện tại lạc trú
Phật vẫn ở núi rừng.
Phật vẫn ở núi rừng.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
4. Bhayabheravasuttaṃ [Mūla]
34. Evaṃ me sutaṃ
: ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa
ārāme. Atha kho jāṇussoṇi brāhmaṇo yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ [sārāṇīyaṃ (sī. syā.
pī.)] vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho jāṇussoṇi brāhmaṇo
bhagavantaṃ etadavoca : ''yeme, bho gotama, kulaputtā bhavantaṃ gotamaṃ uddissa
saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā, bhavaṃ tesaṃ gotamo pubbaṅgamo, bhavaṃ
tesaṃ gotamo bahukāro, bhavaṃ tesaṃ gotamo samādapetā [samādāpetā (?)] bhoto ca
pana gotamassa sā janatā diṭṭhānugatiṃ āpajjatīti. ''Evametaṃ, brāhmaṇa,
evametaṃ, brāhmaṇa! ye te, brāhmaṇa, kulaputtā mamaṃ uddissa saddhā agārasmā
anagāriyaṃ pabbajitā, ahaṃ tesaṃ pubbaṅgamo, ahaṃ tesaṃ bahukāro, ahaṃ tesaṃ
samādapetā mama ca pana sā janatā diṭṭhānugatiṃ āpajjatīti. ''Durabhisambhavāni
hi kho, bho gotama, araññavanapatthāni pantāni senāsanāni, dukkaraṃ pavivekaṃ,
durabhiramaṃ ekatte, haranti maññe mano vanāni samādhiṃ alabhamānassa
bhikkhunoti . ''Evametaṃ, brāhmaṇa, evametaṃ, brāhmaṇa! durabhisambhavāni hi
kho, brāhmaṇa, araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni, dukkaraṃ pavivekaṃ, durabhiramaṃ ekatte, haranti maññe mano
vanāni samādhiṃ alabhamānassa bhikkhunoti.
35. ''Mayhampi kho, brāhmaṇa, pubbeva sambodhā
anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato etadahosi : 'durabhisambhavāni hi kho
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni, dukkaraṃ pavivekaṃ, durabhiramaṃ ekatte,
haranti maññe mano vanāni samādhiṃ alabhamānassa bhikkhunoti. Tassa mayhaṃ
brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā
aparisuddhakāyakammantā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti,
aparisuddhakāyakammantasandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ
bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ aparisuddhakāyakammanto
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi parisuddhakāyakammantohamasmi.
Ye hi vo ariyā parisuddhakāyakammantā
araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, parisuddhakāyakammataṃ
attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
36. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā aparisuddhavacīkammantā - pe -
aparisuddhamanokammantā - pe -
aparisuddhājīvā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti,
aparisuddhājīvasandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ
avhāyanti. Na kho panāhaṃ aparisuddhājīvo araññavanapatthāni pantāni senāsanāni
paṭisevāmi parisuddhājīvohamasmi. Ye hi vo ariyā parisuddhājīvā araññavanapatthāni
pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa,
parisuddhājīvataṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
37. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā abhijjhālū kāmesu tibbasārāgā araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni paṭisevanti, abhijjhālukāmesutibbasārāgasandosahetu have te bhonto
samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ abhijjhālu
kāmesu tibbasārāgo araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi
anabhijjhālūhamasmi. Ye hi vo ariyā anabhijjhālū araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni paṭisevanti , tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa,
anabhijjhālutaṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
38. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā byāpannacittā paduṭṭhamanasaṅkappā
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti,
byāpannacittapaduṭṭhamanasaṅkappasandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā
akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ byāpannacitto paduṭṭhamanasaṅkappo
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi mettacittohamasmi. Ye hi vo
ariyā mettacittā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ
aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, mettacittataṃ attani sampassamāno bhiyyo
pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
39. ''Tassa mayhaṃ,
brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā thīnamiddhapariyuṭṭhitā
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, thīnamiddhapariyuṭṭhānasandosahetu
have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ
thīnamiddhapariyuṭṭhito araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi
vigatathīnamiddhohamasmi. Ye hi vo ariyā vigatathīnamiddhā araññavanapatthāni
pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa,
vigatathīnamiddhataṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
40. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā uddhatā avūpasantacittā araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni paṭisevanti, uddhataavūpasantacittasandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ
bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ uddhato avūpasantacitto
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi vūpasantacittohamasmi. Ye hi
vo ariyā vūpasantacittā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti,
tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, vūpasantacittataṃ attani sampassamāno
bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
41. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā kaṅkhī vicikicchī araññavanapatthāni pantāni senāsanāni
paṭisevanti, kaṅkhivicikicchisandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ
bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ kaṅkhī vicikicchī araññavanapatthāni
pantāni senāsanāni paṭisevāmi tiṇṇavicikicchohamasmi. Ye hi vo ariyā tiṇṇavicikicchā
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ,
brāhmaṇa, tiṇṇavicikicchataṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
42. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā attukkaṃsakā paravambhī araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni paṭisevanti, attukkaṃsanaparavambhanasandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ
avhāyanti . Na kho panāhaṃ attukkaṃsako paravambhī araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni paṭisevāmi anattukkaṃsako
aparavambhīhamasmi. Ye hi vo ariyā anattukkaṃsakā aparavambhī araññavanapatthāni
pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa,
anattukkaṃsakataṃ aparavambhitaṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ
araññe vihārāya.
43. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā chambhī bhīrukajātikā araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni paṭisevanti, chambhibhīrukajātikasandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā
akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ chambhī bhīrukajātiko
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi vigatalomahaṃsohamasmi. Ye hi
vo ariyā vigatalomahaṃsā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti
tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, vigatalomahaṃsataṃ attani
sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
44. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā lābhasakkārasilokaṃ nikāmayamānā araññavanapatthāni
pantāni senāsanāni paṭisevanti, lābhasakkārasilokanikāmana [nikāmayamāna (sī.
syā.)] sandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti.
Na kho panāhaṃ lābhasakkārasilokaṃ nikāmayamāno
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi appicchohamasmi. Ye hi
vo ariyā appicchā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ
aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, appicchataṃ attani sampassamāno bhiyyo
pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
45. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā kusītā hīnavīriyā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni
paṭisevanti , kusītahīnavīriyasandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ
bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ kusīto hīnavīriyo araññavanapatthāni
pantāni senāsanāni paṭisevāmi āraddhavīriyohamasmi. Ye hi vo ariyā
āraddhavīriyā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ
aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, āraddhavīriyataṃ attani sampassamāno bhiyyo
pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
46. ''Tassa mayhaṃ,
brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci samaṇā
vā brāhmaṇā vā muṭṭhassatī asampajānā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti,
muṭṭhassatiasampajānasandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ
bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ muṭṭhassati asampajāno
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi upaṭṭhitassatihamasmi. Ye hi vo ariyā upaṭṭhitassatī araññavanapatthāni
pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, upaṭṭhitassatitaṃ
attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
47. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā asamāhitā vibbhantacittā araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni paṭisevanti, asamāhitavibbhantacittasandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā
akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ asamāhito vibbhantacitto
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi samādhisampannohamasmi. Ye hi
vo ariyā samādhisampannā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti
tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, samādhisampadaṃ attani sampassamāno
bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
48. ''Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'ye kho keci
samaṇā vā brāhmaṇā vā duppaññā eḷamūgā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti,
duppaññaeḷamūgasandosahetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ
avhāyanti. Na kho panāhaṃ duppañño eḷamūgo
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi paññāsampannohamasmi.
Ye hi vo ariyā paññāsampannā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti
tesamahaṃ aññataroti. Etamahaṃ, brāhmaṇa,
paññāsampadaṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.
Soḷasapariyāyaṃ niṭṭhitaṃ.
49. ''Tassa mayhaṃ,
brāhmaṇa, etadahosi : 'yaṃnūnāhaṃ yā tā rattiyo abhiññātā abhilakkhitā :
cātuddasī pañcadasī aṭṭhamī ca pakkhassa : tathārūpāsu rattīsu yāni tāni
ārāmacetiyāni vanacetiyāni rukkhacetiyāni bhiṃsanakāni salomahaṃsāni
tathārūpesu senāsanesu vihareyyaṃ appeva nāmāhaṃ bhayabheravaṃ passeyyanti. So
kho ahaṃ, brāhmaṇa, aparena samayena yā tā rattiyo abhiññātā abhilakkhitā :
cātuddasī pañcadasī aṭṭhamī ca pakkhassa : tathārūpāsu rattīsu yāni tāni
ārāmacetiyāni vanacetiyāni rukkhacetiyāni bhiṃsanakāni salomahaṃsāni
tathārūpesu senāsanesu viharāmi. Tattha ca me, brāhmaṇa, viharato mago vā
āgacchati, moro vā kaṭṭhaṃ pāteti, vāto
vā paṇṇakasaṭaṃ [paṇṇasaṭaṃ (sī. pī.)] ereti tassa mayhaṃ brāhmaṇa etadahosi
[tassa mayhaṃ evaṃ hoti (sī. syā.)] : 'etaṃ nūna taṃ bhayabheravaṃ āgacchatīti.
Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi : 'kiṃ nu kho ahaṃ aññadatthu bhayapaṭikaṅkhī
[bhayapāṭikaṅkhī (sī.)] viharāmi? yaṃnūnāhaṃ yathābhūtaṃ yathābhūtassa
[yathābhūtassa yathābhūtassa (sī. syā.)] me taṃ bhayabheravaṃ āgacchati,
tathābhūtaṃ tathābhūtova [yathābhūto yathābhūtova (sī. syā.)] taṃ bhayabheravaṃ
paṭivineyyanti. Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, caṅkamantassa taṃ bhayabheravaṃ
āgacchati. So kho ahaṃ, brāhmaṇa, neva tāva tiṭṭhāmi na nisīdāmi na nipajjāmi, yāva caṅkamantova
taṃ bhayabheravaṃ paṭivinemi. Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, ṭhitassa taṃ bhayabheravaṃ
āgacchati. So kho ahaṃ, brāhmaṇa, neva tāva caṅkamāmi na nisīdāmi na nipajjāmi.
Yāva ṭhitova taṃ bhayabheravaṃ paṭivinemi. Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, nisinnassa
taṃ bhayabheravaṃ āgacchati. So kho ahaṃ, brāhmaṇa, neva tāva nipajjāmi na tiṭṭhāmi na caṅkamāmi, yāva nisinnova taṃ bhayabheravaṃ
paṭivinemi. Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, nipannassa taṃ bhayabheravaṃ āgacchati. So
kho ahaṃ, brāhmaṇa, neva tāva nisīdāmi na tiṭṭhāmi na caṅkamāmi, yāva nipannova
taṃ bhayabheravaṃ paṭivinemi.
50. ''Santi kho pana, brāhmaṇa, eke samaṇabrāhmaṇā rattiṃyeva
samānaṃ divāti sañjānanti, divāyeva samānaṃ rattīti sañjānanti. Idamahaṃ tesaṃ
samaṇabrāhmaṇānaṃ sammohavihārasmiṃ vadāmi. Ahaṃ kho pana, brāhmaṇa, rattiṃyeva
samānaṃ rattīti sañjānāmi, divāyeva samānaṃ divāti sañjānāmi. Yaṃ kho taṃ,
brāhmaṇa, sammā vadamāno vadeyya : 'asammohadhammo satto loke uppanno
bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya
devamanussānanti, mameva taṃ sammā vadamāno vadeyya : 'asammohadhammo satto
loke uppanno bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya
sukhāya devamanussānanti.
51. ''Āraddhaṃ
kho pana me, brāhmaṇa, vīriyaṃ ahosi asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā
[appammuṭṭhā (syā.)], passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṃ cittaṃ ekaggaṃ. So
kho ahaṃ, brāhmaṇa, vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ
savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ.
Vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ
upasampajja vihāsiṃ. Pītiyā ca virāgā upekkhako ca vihāsiṃ, sato ca sampajāno
sukhañca kāyena paṭisaṃvedesiṃ yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti : 'upekkhako satimā
sukhavihārīti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. Sukhassa ca pahānā dukkhassa
ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ
upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ.
52. ''So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe
vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte pubbenivāsānussatiñāṇāya
cittaṃ abhininnāmesiṃ. So anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarāmi, seyyathidaṃ : ekampi jātiṃ dvepi
jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi jātiyo dasapi jātiyo vīsampi
jātiyo tiṃsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo paññāsampi jātiyo jātisatampi
jātisahassampi jātisatasahassampi anekepi saṃvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṃvaṭṭavivaṭṭakappe
: 'amutrāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī
evamāyupariyanto, so tato cuto amutra udapādiṃ tatrāpāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto
evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto, so tato cuto
idhūpapannoti. Iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarāmi. Ayaṃ
kho me, brāhmaṇa, rattiyā paṭhame yāme paṭhamā vijjā adhigatā, avijjā vihatā
vijjā uppannā, tamo vihato āloko uppanno, yathā taṃ appamattassa ātāpino
pahitattassa viharato.
53. ''So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe
vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte sattānaṃ cutūpapātañāṇāya
cittaṃ abhininnāmesiṃ. So dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte
passāmi cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate
yathākammūpage satte pajānāmi : 'ime vata bhonto sattā kāyaduccaritena
samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā
te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā. Ime
vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā
vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ
anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā
te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannāti. Iti dibbena
cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passāmi cavamāne upapajjamāne
hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage satte pajānāmi. Ayaṃ
kho me, brāhmaṇa, rattiyā majjhime yāme dutiyā vijjā adhigatā, avijjā vihatā
vijjā uppannā, tamo vihato āloko uppanno, yathā taṃ appamattassa ātāpino
pahitattassa viharato.
54. ''So evaṃ
samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte
kammaniye ṭhite āneñjappatte āsavānaṃ khayañāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. So
'idaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ dukkhasamudayoti yathābhūtaṃ
abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ dukkhanirodhoti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ
dukkhanirodhagāminī paṭipadāti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ. 'Ime āsavāti yathābhūtaṃ
abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ āsavasamudayoti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ
āsavanirodhoti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, 'ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadāti
yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ. Tassa me evaṃ jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ
vimuccittha, bhavāsavāpi cittaṃ vimuccittha, avijjāsavāpi cittaṃ vimuccittha.
Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ ahosi. 'Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ
karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti abbhaññāsiṃ. Ayaṃ kho me, brāhmaṇa, rattiyā pacchime yāme
tatiyā vijjā adhigatā, avijjā vihatā vijjā uppannā, tamo vihato āloko uppanno,
yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato.
55. ''Siyā kho pana te, brāhmaṇa, evamassa : 'ajjāpi nūna
samaṇo gotamo avītarāgo avītadoso avītamoho, tasmā araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni paṭisevatīti. Na kho panetaṃ, brāhmaṇa, evaṃ daṭṭhabbaṃ. Dve kho ahaṃ,
brāhmaṇa, atthavase sampassamāno araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi
: attano ca diṭṭhadhammasukhavihāraṃ sampassamāno, pacchimañca janataṃ
anukampamānoti.
56. ''Anukampitarūpā
vatāyaṃ bhotā gotamena pacchimā janatā , yathā taṃ arahatā
sammāsambuddhena. Abhikkantaṃ, bho gotama! abhikkantaṃ, bho gotama! seyyathāpi,
bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā
maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya : 'cakkhumanto rūpāni
dakkhantīti evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito. Esāhaṃ
bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ
bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.
Bhayabheravasuttaṃ niṭṭhitaṃ catutthaṃ.
-ooOoo-
4.
Bhayabheravasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
34. Evaṃ me sutanti bhayabheravasuttaṃ.
Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā – athāti avicchedanatthe nipāto. Khoti
avadhāraṇatthe, bhagavato sāvatthiyaṃ vihāre avicchinneyevāti vuttaṃ hoti. Jāṇussoṇīti
netaṃ tassa mātāpitūhi katanāmaṃ, apica kho ṭhānantarapaṭilābhaladdhaṃ. Jāṇussoṇiṭṭhānaṃ
kira nāmetaṃ purohitaṭṭhānaṃ, taṃ tassa raññā dinnaṃ, tasmā ‘‘jānussoṇī’’ti
vuccati. Brahmaṃ aṇatīti brāhmaṇo, mante sajjhāyatīti attho. Idameva hi
jātibrāhmaṇānaṃ niruttivacanaṃ. Ariyā pana bāhitapāpattā brāhmaṇāti
vuccanti.
Yena bhagavā tenupasaṅkamīti yenāti
bhummatthe karaṇavacanaṃ, tasmā yattha bhagavā, tattha upasaṅkamīti evamettha
attho daṭṭhabbo. Yena vā kāraṇena bhagavā devamanussehi upasaṅkamitabbo, tena
kāraṇena upasaṅkamīti evamettha attho daṭṭhabbo. Kena ca kāraṇena bhagavā upasaṅkamitabbo?
Nānappakāraguṇavisesādhigamādhippāyena, sāduphalūpabhogādhippāyena dijagaṇehi
niccaphalitamahārukkho viya.
Upasaṅkamīti ca gatoti vuttaṃ hoti. Upasaṅkamitvāti upasaṅkamanapariyosānadīpanaṃ.
Atha vā evaṃ gato tato āsannataraṃ ṭhānaṃ bhagavato samīpasaṅkhātaṃ gantvātipi
vuttaṃ hoti. Bhagavatā saddhiṃ sammodīti yathā khamanīyādīni pucchanto
bhagavā tena, evaṃ sopi bhagavatā saddhiṃ samappavattamodo ahosi, sītodakaṃ
viya uṇhodakena sammoditaṃ ekībhāvaṃ agamāsi. Yāya ca ‘‘kacci te, bho gotama,
khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci bhoto gotamassa gotamasāvakānañca appābādhaṃ
appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāro’’tiādikāya kathāya sammodi, taṃ
pītipāmojjasaṅkhātasammodajananato sammodituṃ yuttabhāvato ca sammodanīyaṃ,
atthabyañjanamadhuratāya sucirampi kālaṃ sāretuṃ nirantaraṃ pavattetuṃ
araharūpato saritabbabhāvato ca sārāṇīyaṃ. Suyyamānasukhato ca
sammodanīyaṃ, anussariyamānasukhato ca sāraṇīyaṃ. Tathā byañjanaparisuddhatāya
sammodanīyaṃ, atthaparisuddhatāya sāraṇīyanti evaṃ anekehi pariyāyehi sammodanīyaṃ
kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā pariyosāpetvā niṭṭhāpetvā yenatthena āgato, taṃ
pucchitukāmo ekamantaṃ nisīdi.
Ekamantanti bhāvanapuṃsakaniddeso, ‘‘visamaṃ candimasūriyā
parivattantī’’tiādīsu (a. ni. 4.70) viya. Tasmā yathā nisinno ekamantaṃ nisinno
hoti, tathā nisīdīti evamettha attho daṭṭhabbo. Bhummatthe vā etaṃ
upayogavacanaṃ. Nisīdīti upāvisi. Paṇḍitā hi purisā garuṭṭhāniyaṃ upasaṅkamitvā
āsanakusalatāya ekamantaṃ nisīdanti, ayañca nesaṃ aññataro, tasmā ekamantaṃ
nisīdi.
Kathaṃ
nisinno pana ekamantaṃ nisinno hotīti. Cha nisajjadose vajjetvā. Seyyathidaṃ,
atidūraṃ accāsannaṃ uparivātaṃ unnatapadesaṃ atisammukhaṃ atipacchāti. Atidūre
nisinno hi sace kathetukāmo hoti, uccāsaddena kathetabbaṃ hoti. Accāsanne
nisinno saṅghaṭṭanaṃ karoti. Uparivāte nisinno sarīragandhena bādhati.
Unnatappadese nisinno agāravaṃ pakāseti. Atisammukhā nisinno sace daṭṭhukāmo
hoti, cakkhunā cakkhuṃ āhacca daṭṭhabbaṃ hoti. Atipacchā nisinno sace daṭṭhukāmo
hoti, gīvaṃ pasāretvā daṭṭhabbaṃ hoti. Tasmā ayampi ete cha nisajjadose vajjetvā
nisīdi, tena vuttaṃ ‘‘ekamantaṃ nisīdī’’ti.
Yemeti ye ime. Kulaputtāti duvidhā kulaputtā
jātikulaputtā ācārakulaputtā. Tattha ‘‘tena kho pana samayena raṭṭhapālo nāma
kulaputto tasmiṃyeva thullakoṭṭhike aggakulassa putto’’ti (ma. ni. 2.294) evaṃ
āgatā uccākulappasutā jātikulaputtā nāma. ‘‘Ye te kulaputtā saddhā
agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā’’ti (ma. ni. 3.78) evaṃ āgatā pana yattha
katthaci kule pasutāpi ācārasampannā ācārakulaputtā nāma. Idha pana
dvīhipi kāraṇehi kulaputtāyeva.
Saddhāti saddhāya. Agārasmāti agārato. Anagāriyanti
pabbajjaṃ bhikkhubhāvañca. Pabbajjāpi hi natthettha agāriyanti anagāriyā,
agārassa hitaṃ kasigorakkhādikammamettha natthīti attho. Bhikkhupi natthetassa
agāranti anagāro, anagārassa bhāvo anagāriyaṃ. Pabbajitāti upagatā, evaṃ
sabbathāpi anagāriyasaṅkhātaṃ pabbajjaṃ bhikkhubhāvaṃ vā upagatāti vuttaṃ hoti.
Pubbaṅgamoti purato gāmī nāyako. Bahukāroti hitakiriyāya
bahūpakāro. Bhavaṃ tesaṃ gotamo samādapetāti te kulaputte bhavaṃ gotamo
adhisīlādīni gāhetā sikkhāpetā. Sā janatāti so janasamūho. Diṭṭhānugatiṃ
āpajjatīti dassanānugatiṃ paṭipajjati, yandiṭṭhiko bhavaṃ gotamo yaṃkhantiko
yaṃruciko, tepi tandiṭṭhikā honti taṃkhantikā taṃrucikāti attho.
Kasmā
panāyaṃ evamāhāti? Esa kira pubbe aneke kulaputte agāramajjhe vasante devaputte
viya pañcahi kāmaguṇehi paricāriyamāne anto ca bahi ca susaṃvihitārakkhe disvā,
te aparena samayena bhagavato madhurarasaṃ dhammadesanaṃ sutvā saddhāya gharā
nikkhamma pabbajitvā ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭhe āraññakesu senāsanesu
kenaci arakkhiyamānepi anussaṅkitāparisaṅkite haṭṭhapahaṭṭhe udaggudagge
addasa, disvā ca imesaṃ kulaputtānaṃ ‘‘ayaṃ phāsuvihāro kaṃ nissāya uppanno’’ti
cintento ‘‘samaṇaṃ gotama’’nti bhagavati pasādaṃ alattha. So taṃ pasādaṃ
nivedetuṃ bhagavato santikaṃ āgato, tasmā evamāha.
Athassa
bhagavā taṃ vacanaṃ sampaṭicchanto abbhanumodanto ca evametaṃ brāhmaṇātiādimāha.
Vacanasampaṭicchanānumodanatthoyeva hi ettha ayaṃ evanti nipāto. Mamaṃ
uddissāti maṃ uddissa. Saddhāti saddhāyeva. Na iṇaṭṭhā na bhayaṭṭātiādīni
sandhāyāha. Īdisānaṃyeva hi bhagavā pubbaṅgamo, na itaresaṃ. Durabhisambhavāni
hīti sambhavituṃ dukkhāni dussahāni, na sakkā appesakkhehi ajjhogāhitunti
vuttaṃ hoti. Araññavanapatthānīti araññāni ca vanapatthāni ca. Tattha
kiñcāpi abhidhamme nippariyāyena, ‘‘nikkhamitvā bahi indakhilā sabbametaṃ
arañña’’nti vuttaṃ, tathāpi yantaṃ ‘‘pañcadhanusatikaṃ pacchima’’nti āraññikaṅganipphādakaṃ
senāsanaṃ vuttaṃ, tadeva adhippetanti veditabbaṃ.
Vanapatthanti gāmantaṃ atikkamitvā manussānaṃ anupacāraṭṭhānaṃ,
yattha na kasīyati na vapīyati. Vuttampi cetaṃ ‘‘vanapatthanti dūrānametaṃ
senāsanānaṃ adhivacanaṃ, vanapatthanti vanasaṇḍānametaṃ senāsanānaṃ,
vanapatthanti bhiṃsanakānametaṃ, vanapatthanti salomahaṃsānametaṃ, vanapatthanti
pariyantānametaṃ, vanapatthanti na manussūpacārānametaṃ senāsanānaṃ
adhivacana’’nti. Ettha ca pariyantānanti imamekaṃ pariyāyaṃ ṭhapetvā
sesapariyāyehi vanapatthāni veditabbānī. Pantānīti pariyantāni
atidūrāni. Dukkaraṃ pavivekanti kāyavivekaṃ dukkaraṃ. Durabhiramanti
abhiramituṃ na sukhaṃ. Ekatteti ekībhāve. Kiṃ dasseti? Kāyaviveke katepi
tattha cittaṃ abhiramāpetuṃ dukkaraṃ. Dvayaṃdvayārāmo hi ayaṃ lokoti. Haranti maññeti
haranti viya ghasanti viya. Manoti manaṃ. Samādhiṃ alabhamānassāti
upacārasamādhiṃ vā appanāsamādhiṃ vā alabhantassa. Kiṃ dasseti? Īdisassa
bhikkhuno tiṇapaṇṇamigādisaddehi vividhehi ca bhiṃsanakehi vanāni cittaṃ
vikkhipanti maññeti, sabbaṃ brāhmaṇo saddhāpabbajitānaṃ kulaputtānaṃ araññavāse
(vibha. 529) vimhito āha.
Kāyakammantavārakathā
35. Athassa bhagavā purimanayeneva ‘‘evametaṃ brāhmaṇā’’tiādīhi
taṃ taṃ vacanaṃ sampaṭicchitvā abbhanumoditvā ca yasmā soḷasasu ṭhānesu ārammaṇapariggaharahitānaṃyeva
tādisāni senāsanāni durabhisambhavāni, na tesu ārammaṇapariggāhayuttānaṃ,
attanā ca bodhisatto samāno tādiso ahosi, tasmā attano tādisānaṃ senāsanānaṃ
durabhisambhavataṃ dassetuṃ, mayhampi khotiādimāha.
Tattha pubbeva
sambodhāti sambodhato pubbeva, ariyamaggappattito aparabhāgeyevāti vuttaṃ
hoti. Anabhisambuddhassāti appaṭividdhacatusaccassa. Bodhisattasseva
satoti bujjhanakasattasseva sammāsambodhiṃ adhigantuṃ arahasattasseva sato,
bodhiyā vā sattasseva laggasseva sato. Dīpaṅkarassa hi bhagavato pādamūle aṭṭhadhammasamodhānena
abhinīhārasamiddhito pabhuti tathāgato bodhiyā satto laggo ‘‘pattabbā mayā
esā’’ti tadadhigamāya parakkamaṃ amuñcantoyeva āgato, tasmā bodhisattoti
vuccati. Tassa mayhanti tassa evaṃ bodhisattasseva sato mayhaṃ. Ye
kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vāti ye keci pabbajjūpagatā vā bhovādino vā.
Aparisuddhakāyakammantāti aparisuddhena
pāṇātipātādinā kāyakammantena samannāgatā. Aparisuddhakāyakammantasandosahetūti
aparisuddhassa kāyakammantasaṅkhātassa attano dosassa hetu,
aparisuddhakāyakammantakāraṇāti vuttaṃ hoti. Haveti ekaṃsavacane nipāto.
Akusalanti sāvajjaṃ akkhemañca. Bhayabheravanti bhayañca
bheravañca. Cittutrāsassa ca bhayānakārammaṇassa cetaṃ adhivacanaṃ. Tatra bhayaṃ
sāvajjaṭṭhena akusalaṃ, bheravaṃ akkhemaṭṭhenāti veditabbaṃ. Avhāyantīti
pakkosanti. Kathaṃ? Te hi pāṇātipātādīni katvā ‘‘mayaṃ ayuttamakamhā, sace no
te jāneyyuṃ, yesaṃ aparajjhimhā, idāni anubandhitvā anayabyasanaṃ āpādeyyu’’nti
araññaṃ pavisitvā gacchantare vā gumbantare vā nisīdanti. Te ‘‘appamattakampi
tiṇasaddaṃ vā paṇṇasaddaṃ vā sutvā, idānimhā naṭṭhā’’ti tasanti vittasanti,
āgantvā parehi parivāritā viya baddhā vadhitā viya ca honti. Evaṃ taṃ
bhayabheravaṃ attani samāropanaṭṭhena avhāyanti pakkosanti.
Na kho panāhaṃ…pe… paṭisevāmīti ahaṃ kho pana
aparisuddhakāyakammanto hutvā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni na paṭisevāmi.
Ye hi voti ettha voti nipātamattaṃ. Ariyā vuccanti buddhā
ca buddhasāvakā ca. Parisuddhakāyakammantāti īdisā hutvā. Tesamahaṃ
aññataroti tesaṃ ahampi eko aññataro. Bodhisatto hi gahaṭṭhopi pabbajitopi
parisuddhakāyakammantova hoti. Bhiyyoti atirekatthe nipāto. Pallomanti
pannalomataṃ, khemaṃ sotthibhāvanti attho. Āpādinti āpajjiṃ, atirekaṃ
sotthibhāvaṃ atirekena vā sotthibhāvamāpajjinti vuttaṃ hoti. Araññe vihārāyāti
araññe vihāratthāya.
Kāyakammantavārakathā niṭṭhitā.
Vacīkammantavārādivaṇṇanā
36. Esa nayo sabbattha. Ayaṃ pana viseso,
vacīkammantavāre tāva aparisuddhavacīkammantāti aparisuddhena
musāvādādinā vacīkammantena samannāgatā. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te
musāvādena parassa atthaṃ bhañjitvā, pisuṇavācāya mittabhedaṃ katvā
pharusavācāya paresaṃ parisamajjhe mammāni tuditvā niratthakavācāya parasattānaṃ
kammante nāsetvā ‘‘mayaṃ ayuttamakamhā, sace no te jāneyyuṃ, yesaṃ
aparajjhimhā, idāni anubandhitvā anayabyasanaṃ pāpeyyu’’nti araññaṃ pavisitvā
gacchantare vā gumbantare vā nisīdanti. Te ‘‘appamattakampi tiṇasaddaṃ vā paṇṇasaddaṃ
vā sutvā idānimhā naṭṭhā’’ti tasanti vittasanti āgantvā parehi parivāritā viya
baddhā vadhitā viya ca honti. Evaṃ taṃ bhayabheravaṃ attani samāropanaṭṭhena
avhāyanti, pakkosanti.
Manokammantavāre
aparisuddhamanokammantāti aparisuddhena abhijjhādinā manokammantena
samannāgatā. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te paresaṃ rakkhitagopitesu bhaṇḍesu
abhijjhāvisamalobhaṃ uppādetvā parassa kujjhitvā parasatte micchādassanaṃ
gāhāpetvā mayaṃ ayuttamakamhā…pe… attani samāropanaṭṭhena avhāyanti pakkosanti.
Ājīvavāre aparisuddhājīvāti
aparisuddhena vejjakammadūtakammavaḍḍhipayogādinā ekavīsatianesanabhedena
ājīvena samannāgatā. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te evaṃ jīvikaṃ
kappetvā suṇanti – ‘‘sāsanasodhakā kira tepiṭakā bhikkhū sāsanaṃ sodhetuṃ
nikkhantā, ajja vā sve vā idhāgamissantī’’ti araññaṃ pavisitvā gacchantare
vā…pe… tasanti vittasanti. Te hi āgantvā parivāretvā gahitā viya
odātavatthanivāsitā viya ca hontīti. Sesaṃ tādisameva.
37. Ito paraṃ abhijjhālūtiādīsu kiñcāpi abhijjhābyāpādā
manokammantena saṅgahitā tathāpi nīvaraṇavasena puna vuttāti veditabbā. Tattha abhijjhālūti
parabhaṇḍādiabhijjhāyanasīlā. Kāmesu tibbasārāgāti vatthukāmesu
bahalakilesarāgā, te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te avavatthitārammaṇā
honti, tesaṃ avavatthitārammaṇānaṃ araññe viharantānaṃ divā diṭṭhaṃ rattiṃ
bhayabheravaṃ hutvā upaṭṭhāti – ‘‘te ākulacittā appamattakenapi tasanti
vittasanti, rajjuṃ vā lataṃ vā disvā sappasaññino honti, khāṇuṃ disvā
yakkhasaññino, thalaṃ vā pabbataṃ vā disvā hatthisaññino sappādīhi anayabyasanaṃ
āpāditā viya hontī’’ti. Sesaṃ tādisameva.
38. Byāpannacittāti pakatibhāvavijahanena
vipannacittā. Kilesānugatañhi cittaṃ pakatibhāvaṃ vijahati, purāṇabhattabyañjanaṃ
viya pūtikaṃ hoti. Paduṭṭhamanasaṅkappāti paduṭṭhacittasaṅkappā,
abhadrakena paresaṃ anatthajanakena cittasaṅkappena samannāgatāti vuttaṃ hoti.
Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Bhayabheravāvhāyanaṃ ito pabhuti
abhijjhāluvāre vuttanayeneva veditabbaṃ. Yattha pana viseso bhavissati, tattha
vakkhāma. Na kho panāhaṃ byāpannacittoti ettha pana mettacitto ahaṃ
hitacittoti dasseti, īdisā hi bodhisattā honti. Evaṃ sabbattha vuttadosapaṭipakkhavasena
bodhisattassa guṇā vaṇṇetabbā.
39. Thinamiddhapariyuṭṭhitāti cittagelaññabhūtena
thinena sesanāmakāyagelaññabhūtena middhena ca pariyuṭṭhitā, abhibhūtā gahitāti
vuttaṃ hoti. Te niddābahulā honti.
40. Uddhatāti uddhaccapakatikā
vipphandamānacittā, uddhaccena hi ekārammaṇe cittaṃ vipphandati dhajayaṭṭhiyaṃ
vātena paṭākā viya. Avūpasantacittāti anibbutacittā, idha kukkuccaṃ gahetuṃ
vaṭṭati.
41. Kaṅkhī vicikicchīti ettha ekamevidaṃ pañcamaṃ
nīvaraṇaṃ. Kiṃ nu kho idanti ārammaṇaṃ kaṅkhanato kaṅkhā, idamevidanti nicchetuṃ
asamatthabhāvato vicikicchāti vuccati, tena samannāgatā samaṇabrāhmaṇā ‘‘kaṅkhī
vicikicchī’’ti vuttā.
42. Attukkaṃsanakā paravambhīti ye attānaṃ ukkaṃsenti
ukkhipanti, ucce ṭhāne ṭhapenti, parañca vambhenti garahanti nindanti, nīce ṭhāne
ṭhapenti, tesametaṃ adhivacanaṃ. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te parehi
‘‘asuko ca kira asuko ca attānaṃ ukkaṃsenti, amhe garahanti, dāse viya karonti,
gaṇhatha ne’’ti anubaddhā palāyitvā araññaṃ pavisitvā gacchantare vā gumbantare
vāti kāyakammantasadisaṃ vitthāretabbaṃ.
43. Chambhīti kāyathambhanalomahaṃsanakarena
thambhena samannāgatā. Bhīrukajātikāti bhīrukapakatikā, gāmadārakā viya
bhayabahulā asūrā kātarāti vuttaṃ hoti.
44. Lābhasakkārasilokanti ettha labbhatīti lābho,
catunnaṃ paccayānametaṃ adhivacanaṃ. Sakkāroti sundarakāro, paccayā eva
hi paṇītapaṇītā sundarasundarā ca abhisaṅkharitvā katā sakkārāti vuccanti. Yā
ca parehi attano gāravakiriyā pupphādīhi vā pūjā. Silokoti vaṇṇabhaṇanaṃ
etaṃ, lābhañca sakkārañca silokañca lābhasakkārasilokaṃ. Nikāmayamānāti
patthayamānā. Bhayabheravāvhāyanaṃ abhijjhāluvārasadisameva. Tadatthadīpakaṃ
panettha piyagāmikavatthuṃ kathenti –
Eko kira
piyagāmiko nāma bhikkhu samādinnadhutaṅgānaṃ bhikkhūnaṃ lābhaṃ disvā ‘‘ahampi
dhutaṅgaṃ samādiyitvā lābhaṃ uppādemī’’ti cintetvā sosānikaṅgaṃ samādāya susāne
vasati. Athekadivasaṃ eko kammamutto jaraggavo divā gocare caritvā rattiṃ tasmiṃ
susāne pupphagumbe sīsaṃ katvā romanthayamāno aṭṭhāsi. Piyagāmiko rattiṃ caṅkamanā
nikkhanto tassa hanusaddaṃ sutvā cintesi ‘‘addhā maṃ lābhagiddho esa susāne
vasatīti ñatvā devarājā viheṭhetuṃ āgato’’ti, so jaraggavassa purato añjaliṃ
paggahetvā ‘‘sappurisa devarāja ajja me ekarattiṃ khama, sve paṭṭhāya na evaṃ
karissāmī’’ti namassamāno sabbarattiṃ yācanto aṭṭhāsi. Tato sūriye uṭṭhite taṃ
disvā kattarayaṭṭhiyā paharitvā palāpesi ‘‘sabbarattiṃ maṃ bhiṃsāpesī’’ti.
45. Kusītāti kosajjānugatā. Hīnavīriyāti hīnā
vīriyena virahitā viyuttā, nibbīriyāti vuttaṃ hoti. Tattha kusītā
kāyikavīriyārambhavirahitā honti, hīnavīriyā cetasikavīriyārambhavirahitā. Te
ārammaṇavavatthānamattampi kātuṃ na sakkonti. Tesaṃ avavatthitārammaṇānanti
sabbaṃ pubbasadisameva.
46. Muṭṭhassatīti naṭṭhassatī. Asampajānāti
paññārahitā, imassa ca paṭipakkhe ‘‘upaṭṭhitassatīhamasmī’’ti vacanato
satibhājaniyamevetaṃ. Paññā panettha satidubbalyadīpanatthaṃ vuttā. Duvidhā hi
sati paññāsampayuttā paññāvippayuttā ca. Tattha paññāsampayuttā balavatī,
vippayuttā dubbalā, tasmā yadāpi tesaṃ sati hoti, tadāpi asampajānantā muṭṭhassatīyeva
te, dubbalāya satiyā satikiccābhāvatoti etamatthaṃ dīpetuṃ ‘‘asampajānā’’ti
vuttaṃ. Te evaṃ muṭṭhassatī asampajānā ārammaṇavavatthānamattampi kātuṃ na
sakkontīti sabbaṃ pubbasadisameva.
47. Asamāhitāti upacārappanāsamādhivirahitā. Vibbhantacittāti
ubbhantacittā. Samādhivirahena laddhokāsena uddhaccena tesaṃ samādhivirahānaṃ
cittaṃ nānārammaṇesu paribbhamati, vanamakkaṭo viya vanasākhāsu uddhaccena
ekārammaṇe vipphandati. Pubbe vuttanayenena te evaṃ asamāhitā vibbhantacittā
ārammaṇavavatthānamattampi kātuṃ na sakkontīti sabbaṃ pubbasadisameva.
48. Duppaññāti nippaññānametaṃ adhivacanaṃ. Paññā
pana duṭṭhā nāma natthi. Eḷamūgāti elamukhā, kha-kārassa ga-kāro kato.
Lālamukhāti vuttaṃ hoti. Duppaññānañhi kathentānaṃ lālā mukhato galati, lālā ca
elāti vuccati. Yathāha ‘‘passelamūgaṃ uragaṃ dujjivha’’nti. Tasmā te ‘‘eḷamūgā’’ti
vuccanti. ‘‘Elamukhā’’tipi pāṭho. ‘‘Elamugā’’ti keci paṭhanti, apare ‘‘elamukā’’tipi,
sabbattha ‘‘elamukhā’’ti attho. Te kathaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti? Te duppaññā
eḷamūgā ārammaṇavavatthānamattampi kātuṃ na sakkonti. Tesaṃ avavatthitārammaṇānaṃ
araññe viharantānaṃ divā diṭṭhaṃ rattiṃ bhayabheravaṃ hutvā upaṭṭhāti ‘‘te
ākulacittā appamattakenapi tasanti vittasanti, rajjuṃ vā lataṃ vā disvā
sappasaññino honti, khāṇuṃ disvā yakkhasaññino, thalaṃ vā pabbataṃ vā disvā
hatthisaññino sappādīhi anayavyasanaṃ āpāditā viya hontī’’ti. Evaṃ taṃ
bhayabheravaṃ attani samāropanaṭṭhena avhāyanti pakkosanti. Paññāsampannohamasmīti
ettha paññāsampannoti paññāya sampanno samannāgato, no ca kho
vipassanāpaññāya, na maggapaññāya, apica kho pana imesu soḷasasu ṭhānesu ārammaṇavavatthānapaññāyāti
attho. Sesaṃ sabbattha vuttanayamevāti.
Vacīkammantavārādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Soḷasaṭṭhānārammaṇapariggaho niṭṭhito.
Bhayabheravasenāsanādivaṇṇanā
49. Tassa mayhanti ko anusandhi?
Bodhisatto kira imāni soḷasārammaṇāni pariggaṇhanto ca bhayabheravaṃ adisvā
bhayabheravaṃ nāma evarūpāsu rattīsu evarūpe senāsane ca paññāyati, handa naṃ
tatthāpi gavesissāmīti bhayabheravagavesanamakāsi, etamatthaṃ bhagavā idāni
brāhmaṇassa dassento tassa mayhantiādimāha.
Tattha yā
tāti ubhayametaṃ rattīnaṃyeva uddesaniddesavacanaṃ. Abhiññātāti
ettha abhīti lakkhaṇatthe upasaggo. Tasmā abhiññātāti candapāripūriyā
candaparikkhayenāti evamādīhi lakkhaṇehi ñātāti veditabbā. Abhilakkhitāti
ettha upasaggamattameva, tasmā abhilakkhitāti lakkhaṇīyā icceva attho,
uposathasamādānadhammassavanapūjāsakkārādikaraṇatthaṃ lakkhetabbā
sallakkhetabbā upalakkhetabbāti vuttaṃ hoti.
Cātuddasīti pakkhassa paṭhamadivasato pabhuti catuddasannaṃ
pūraṇī ekā ratti. Evaṃ pañcadasī aṭṭhamī ca. Pakkhassāti
sukkapakkhassa kaṇhapakkhassa ca. Etā tisso tisso katvā cha rattiyo, tasmā
sabbattha pakkhavacanaṃ yojetabbaṃ ‘‘pakkhassa cātuddasī pakkhassa pañcadasī
pakkhassa aṭṭhamī’’ti. Atha pañcamī kasmā na gahitāti? Asabbakālikattā. Buddhe
kira bhagavati anuppannepi uppajjitvā aparinibbutepi pañcamī
anabhilakkhitāyeva, parinibbute pana dhammasaṅgāhakattherā cintesuṃ
‘‘dhammassavanaṃ cirena hotī’’ti. Tato sammannitvā pañcamīti
dhammassavanadivasaṃ ṭhapesuṃ, tato pabhuti sā abhilakkhitā jātā, evaṃ
asabbakālikattā ettha na gahitāti.
Tathārūpāsūti tathāvidhāsu. Ārāmacetiyānīti
pupphārāmaphalārāmādayo ārāmā eva ārāmacetiyāni. Cittīkataṭṭhena hi cetiyānīti
vuccanti, pūjanīyaṭṭhenāti vuttaṃ hoti. Vanacetiyānīti baliharaṇavanasaṇḍasubhagavanadevasālavanādīni
vanāniyeva vanacetiyāni. Rukkhacetiyānīti gāmanigamādidvāresu
pūjanīyarukkhāyeva rukkhacetiyāni. Lokiyā hi dibbādhivatthāti vā maññamānā
tesuyeva vā dibbasaññino hutvā ārāmavanarukkhe cittīkaronti, pūjenti, tena te
sabbepi cetiyānīti vuccanti. Bhiṃsanakānīti bhayajanakāni,
passatopi suṇatopi bhayaṃ janenti. Salomahaṃsānīti saheva lomahaṃsena
vattanti, pavisamānasseva lomahaṃsajananato. Appeva nāma passeyyanti api
nāma taṃ bhayabheravaṃ passeyyameva. Aparena samayenāti, ‘‘etadahosi yaṃnūnāha’’nti
evaṃ cintitakālato paṭṭhāya aññena kālena.
Tattha ca me brāhmaṇa viharatoti tathārūpesu
senāsanesu yaṃ yaṃ manussānaṃ āyācanaupahārakaraṇārahaṃ yakkhaṭṭhānaṃ
pupphadhūpamaṃsaruhiravasāmedapihakapapphāsasurāmerayādīhi okiṇṇakilinnadharaṇitalaṃ
ekanipātaṃ viya yakkharakkhasapisācānaṃ, yaṃ divāpi passantānaṃ hadayaṃ maññe
phalati, taṃ ṭhānaṃ sandhāyāha ‘‘tattha ca me, brāhmaṇa, viharato’’ti. Mago
vā āgacchatīti siṅgāni vā khurāni vā koṭṭento gokaṇṇakhaggadīpivarāhādibhedo
mago vā āgacchati, sabbacatuppadānañhi idha magoti nāmaṃ. Katthaci pana
kāḷasiṅgālopi vuccati. Yathāha –
‘‘Usabhasseva
te khandho, sīhasseva vijambhitaṃ;
Magarāja
namo tyatthu, api kiñci labhāmase’’ti. (jā. 1.3.133);
Moro vā kaṭṭhaṃ pātetīti moro vā sukkhakaṭṭhaṃ
rukkhato cāletvā pāteti. Moraggahaṇena ca idha sabbapakkhiggahaṇaṃ adhippetaṃ,
tena yo koci pakkhīti vuttaṃ hoti. Atha vā moro vāti vā saddena añño vā koci
pakkhīti. Esa nayo purime magaggahaṇepi. Vāto vā paṇṇakasaṭaṃ eretīti
vāto vā paṇṇakacavaraṃ ghaṭṭeti. Etaṃ nūna taṃ bhayabheravaṃ āgacchatīti
yametaṃ āgacchati, taṃ bhayabheravaṃ nūnāti. Ito pabhuti ca ārammaṇameva
bhayabheravanti veditabbaṃ. Parittassa ca adhimattassa ca bhayassa ārammaṇattā
sukhārammaṇaṃ rūpaṃ sukhamiva. Kiṃ nu kho ahaṃ aññadatthu bhayapaṭikaṅkhī
viharāmīti ahaṃ kho kiṃ kāraṇaṃ ekaṃseneva bhayaṃ ākaṅkhamāno icchamāno
hutvā viharāmi.
Yathābhūtaṃ yathābhūtassāti yena yena
iriyāpathena bhūtassa bhavitassa sato vattamānassa samaṅgībhūtassa vā. Meti
mama santike. Tathābhūtaṃ tathābhūto vāti tena teneva iriyāpathena bhūto
bhavito santo vattamāno samaṅgībhūto vāti attho. So kho ahaṃ…pe… paṭivinemīti
bodhisattassa kira caṅkamantassa tasmiṃ magasiṅgakhurasaddādibhede
bhayabheravārammaṇe āgate neva mahāsatto tiṭṭhati, na nisīdati na sayati, atha
kho caṅkamantova parivīmaṃsanto parivicinanto bhayabheravaṃ na passati, magasiṅgakhurasaddādimattameva
cetaṃ hoti, so taṃ ñatvā idaṃ nāmetaṃ, na bhayabheravanti tato tiṭṭhati vā
nisīdati vā sayati vā. Etamatthaṃ dassento ‘‘so kho aha’’ntiādimāha. Esa nayo
sabbapeyyālesu. Ito parañca iriyāpathapaṭipāṭiyā avatvā āsannapaṭipāṭiyā
iriyāpathā vuttāti veditabbā, caṅkamantassa hi bhayabherave āgate na ṭhito na
nisinno na nipanno ṭhitassāpi āgate na caṅkamīti evaṃ tassa āsannapaṭipāṭiyā
vuttāti.
Bhayabheravasenāsanādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Asammohavihāravaṇṇanā
50. Evaṃ bhiṃsanakesupi ṭhānesu attano bhayabheravābhāvaṃ
dassetvā idāni jhāyīnaṃ sammohaṭṭhānesu attano asammohavihāraṃ dassetuṃ santi
kho pana, brāhmaṇātiādimāha.
Tattha santīti
atthi saṃvijjanti upalabbhanti. Rattiṃyeva samānanti rattiṃyeva santaṃ, divāti
sañjānantīti ‘‘divaso aya’’nti sañjānanti. Divāyeva samānanti divasaṃyeva
santaṃ. Rattīti sañjānantīti ‘‘ratti aya’’nti sañjānanti. Kasmā panete
evaṃsaññino hontīti. Vuṭṭhānakosallābhāvato vā sakuṇarutato vā. Kathaṃ?
Idhekacco odātakasiṇalābhī divā parikammaṃ katvā divā samāpanno divāyeva vuṭṭhahāmīti
manasikāraṃ uppādeti, no ca kho addhānaparicchede kusalo hoti. So divasaṃ
atikkamitvā rattibhāge vuṭṭhāti. Odātakasiṇapharaṇavasena cassa visadaṃ hoti
vibhūtaṃ suvibhūtaṃ. So, divā vuṭṭhahāmīti uppāditamanasikāratāya odātakasiṇapharaṇavisadavibhūtatāya
ca rattiṃyeva samānaṃ divāti sañjānāti. Idha panekacco nīlakasiṇalābhī rattiṃ
parikammaṃ katvā rattiṃ samāpanno rattiṃyeva vuṭṭhahāmīti manasikāraṃ uppādeti,
no ca kho addhānaparicchede kusalo hoti. So rattiṃ atikkamitvā divasabhāge vuṭṭhāti.
Nīlakasiṇapharaṇavasena cassa avisadaṃ hoti avibhūtaṃ. So rattiṃ vuṭṭhahāmīti
uppāditamanasikāratāya nīlakasiṇapharaṇāvisadāvibhūtatāya ca divāyeva samānaṃ
rattīti sañjānāti. Evaṃ tāva vuṭṭhānakosallābhāvato evaṃsaññino honti.
Sakuṇarutato
pana idhekacco antosenāsane nisinno hoti. Atha divā ravanakasakuṇā kākādayo
candālokena divāti maññamānā rattiṃ ravanti, aññehi vā kāraṇehi. So tesaṃ saddaṃ
sutvā rattiṃyeva samānaṃ divāti sañjānāti. Idha panekacco pabbatantare
gambhīrāya ghanavanappaṭicchannāya giriguhāya sattāhavaddalikāya vattamānāya
antarahitasūriyāloke kāle nisinno hoti. Atha rattiṃ ravanakasakuṇā ulūkādayo
majjhanhikasamayepi tattha tattha samandhakāre nilīnā rattisaññāya vā aññehi vā
kāraṇehi ravanti. So tesaṃ saddaṃ sutvā divāyeva samānaṃ rattīti sañjānāti. Evaṃ
sakuṇarutato evaṃsaññino hontīti. Idamahanti idaṃ ahaṃ evaṃ sañjānanaṃ. Sammohavihārasmiṃ
vadāmīti sammohavihārapariyāpannaṃ antogadhaṃ, sammohavihārānaṃ aññataraṃ
vadāmīti vuttaṃ hoti.
Ahaṃ kho pana brāhmaṇa…pe… sañjānāmīti pākaṭo
bodhisattassa rattindivaparicchedo sattāhavaddalepi candimasūriyesu
adissamānesupi jānātiyeva ‘‘ettakaṃ purebhattakālo gato, ettakaṃ
pacchābhattakālo, ettakaṃ paṭhamayāmo, ettakaṃ majjhimayāmo, ettakaṃ
pacchimayāmo’’ti, tasmā evamāha. Anacchariyañcetaṃ yaṃ pūritapāramī bodhisatto
evaṃ jānāti. Padesañāṇe ṭhitānaṃ sāvakānampi hi rattindivaparicchedo pākaṭo
hoti.
Kalyāṇiyamahāvihāre
kira godattatthero dvaṅgulakāle bhattaṃ gahetvā aṅgulakāle bhuñjati. Sūriye
adissamānepi pātoyeva senāsanaṃ pavisitvā tāya velāya nikkhamati. Ekadivasaṃ
ārāmikā ‘‘sve therassa nikkhamanakāle passāmā’’ti bhattaṃ sampādetvā
kālatthambhamūle nisīdiṃsu. Thero dvaṅgulakāleyeva nikkhamati. Tato pabhuti
kira sūriye adissamānepi therassa nikkhamanasaññāya eva bheriṃ ākoṭenti.
Ajagaravihārepi
kāḷadevatthero antovasse yāmagaṇḍikaṃ paharati, āciṇṇametaṃ therassa. Na ca
yāmayantanāḷikaṃ payojeti, aññe bhikkhū payojenti. Atha nikkhante paṭhame yāme
there muggaraṃ gahetvā ṭhitamatteyeva ekaṃ dve vāre paharanteyeva vā yāmayantaṃ
patati, evaṃ tīsu yāmesu samaṇadhammaṃ katvā thero pātoyeva gāmaṃ pavisitvā piṇḍapātaṃ
ādāya vihāraṃ āgantvā bhojanavelāya pattaṃ gahetvā divā vihāraṭṭhānaṃ gantvā
samaṇadhammaṃ karoti. Bhikkhū kālatthambhaṃ disvā therassa adisvā āgamanatthāya
pesenti. So bhikkhu theraṃ divā vihāraṭṭhānā nikkhamantameva vā antarāmagge vā
passati. Evaṃ padesañāṇe ṭhitānaṃ sāvakānampi rattindivaparicchedo pākaṭo hoti,
kimaṅgaṃ pana bodhisattānanti.
Yaṃ kho taṃ brāhmaṇa…pe… vadeyyāti ettha pana ‘‘yaṃ
kho taṃ, brāhmaṇa, asammohadhammo satto loke uppanno…pe… sukhāya
devamanussāna’’nti vacanaṃ vadamāno koci sammā vadeyya, sammā vadamāno siyā, na
vitathavādī assa. Mameva taṃ vacanaṃ vadamāno sammā vadeyya, sammā vadamāno
siyā, na vitathavādī assāti evaṃ padasambandho veditabbo.
Tattha asammohadhammoti
asammohasabhāvo. Loketi manussaloke. Bahujanahitāyāti bahujanassa
hitatthāya, paññāsampattiyā diṭṭhadhammikasamparāyikahitūpadesakoti. Bahujanasukhāyāti
bahujanassa sukhatthāya, cāgasampattiyā upakaraṇasukhassa dāyakoti. Lokānukampāyāti
lokassa anukampatthāya, mettākaruṇāsampattiyā mātāpitaro viya lokassa rakkhitā
gopayitāti. Atthāya hitāya sukhāya devamanussānanti idha
devamanussaggahaṇena ca bhabbapuggalaveneyyasatteyeva gahetvā tesaṃ
nibbānamaggaphalādhigamāya attano uppattiṃ dassetīti veditabbo. Atthāyāti
hi vutte paramatthatthāya nibbānāyāti vuttaṃ hoti. Hitāyāti vutte taṃ
sampāpakamaggatthāyāti vuttaṃ hoti, nibbānasampāpakamaggato hi uttari hitaṃ
nāma natthi. Sukhāyāti vutte phalasamāpattisukhatthāyāti vuttaṃ hoti,
tato uttari sukhābhāvato. Vuttañcetaṃ ‘‘ayaṃ samādhi paccuppannasukho ceva
āyatiñca sukhavipāko’’ti (dī. ni. 3.355; a. ni. 5.27; vibha. 804).
Asammohavihāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Pubbabhāgapaṭipadādivaṇṇanā
51. Evaṃ bhagavā buddhaguṇapaṭilābhāvasānaṃ attano
asammohavihāraṃ brāhmaṇassa dassetvā idāni yāya paṭipadāya taṃ koṭippattaṃ
asammohavihāraṃ adhigato, taṃ pubbabhāgato pabhuti dassetuṃ āraddhaṃ kho
pana me brāhmaṇātiādimāha.
Keci panāhu
‘‘imaṃ asammohavihāraṃ sutvā brāhmaṇassa cittamevaṃ uppannaṃ ‘kāya nu kho paṭipadāya
imaṃ patto’ti, tassa cittamaññāya imāyāhaṃ paṭipadāya imaṃ uttamaṃ
asammohavihāraṃ pattoti dassento evamāhā’’ti.
Tattha āraddhaṃ
kho pana me, brāhmaṇa, vīriyaṃ ahosīti, brāhmaṇa, na mayā ayaṃ uttamo
asammohavihāro kusītena muṭṭhassatinā sāraddhakāyena vikkhittacittena vā
adhigato, apica kho tadadhigamāya āraddhaṃ kho pana me vīriyaṃ ahosi, bodhimaṇḍe
nisinnena mayā caturaṅgavīriyaṃ āraddhaṃ ahosi, paggahitaṃ
asithilappavattitanti vuttaṃ hoti. Āraddhattāyeva ca metaṃ asallīnaṃ
ahosi.
Upaṭṭhitā sati asammuṭṭhāti na kevalañca
vīriyameva, satipi me ārammaṇābhimukhībhāvena upaṭṭhitā ahosi. Upaṭṭhitattāyeva
ca asammuṭṭhā. Passaddho kāyoti kāyacittappassaddhisambhavena kāyopi me
passaddho ahosi. Tattha yasmā nāmakāye passaddhe rūpakāyopi passaddhoyeva hoti,
tasmā nāmakāyo rūpakāyoti avisesetvāva passaddho kāyoti vuttaṃ. Asāraddhoti
so ca kho passaddhattāyeva asāraddho, vigatadarathoti vuttaṃ hoti. Samāhitaṃ
cittaṃ ekagganti cittampi me sammā āhitaṃ suṭṭhu ṭhapitaṃ appitaṃ viya
ahosi. Samāhitattā eva ca ekaggaṃ acalaṃ nipphandananti, ettāvatā jhānassa
pubbabhāgapaṭipadā kathitā hoti.
Idāni imāya
paṭipadāya adhigataṃ paṭhamajjhānaṃ ādiṃ katvā vijjāttayapariyosānaṃ visesaṃ
dassento so kho ahantiādimāha. Tattha vivicceva kāmehi…pe…
catutthajjhānaṃ upasampajja vihāsinti ettha tāva yaṃ vattabbaṃ siyā,
taṃ sabbaṃ visuddhimagge pathavīkasiṇakathāyaṃ vuttaṃ. Kevalañhi tattha
‘‘upasampajja viharatī’’ti āgataṃ, idha ‘‘vihāsi’’nti, ayameva viseso. Kiṃ
katvā pana bhagavā imāni jhānāni upasampajja vihāsīti, kammaṭṭhānaṃ bhāvetvā.
Kataraṃ? Ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ.
Imāni ca
pana cattāri jhānāni kesañci cittekaggatatthāni honti, kesañci
vipassanāpādakāni, kesañci abhiññāpādakāni, kesañci nirodhapādakāni, kesañci
bhavokkamanatthāni. Tattha khīṇāsavānaṃ cittekaggatatthāni honti. Te hi
samāpajjitvā ekaggacittā sukhaṃ divasaṃ viharissāmāti iccevaṃ kasiṇaparikammaṃ
katvā aṭṭha samāpattiyo nibbattenti. Sekkhaputhujjanānaṃ samāpattito vuṭṭhāya
samāhitena cittena vipassissāmāti nibbattentānaṃ vipassanāpādakāni honti. Ye
pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā abhiññāpādakajjhānaṃ samāpajjitvā
samāpattito vuṭṭhāya ‘‘ekopi hutvā bahudhā hotī’’ti (dī. ni. 1.238; paṭi. ma.
1.102) vuttanayā abhiññāyo patthentā nibbattenti, tesaṃ abhiññāpādakāni honti.
Ye pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā nirodhasamāpattiṃ samāpajjitvā sattāhaṃ
acittā hutvā diṭṭheva dhamme nirodhaṃ nibbānaṃ patvā sukhaṃ viharissāmāti
nibbattenti, tesaṃ nirodhapādakāni honti. Ye pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā
aparihīnajjhānā brahmaloke uppajjissāmāti nibbattenti, tesaṃ bhavokkamanatthāni
honti.
Bhagavatā
panidaṃ catutthajjhānaṃ bodhirukkhamūle nibbattitaṃ, taṃ tassa
vipassanāpādakañceva ahosi abhiññāpādakañca sabbakiccasādhakañca,
sabbalokiyalokuttaraguṇadāyakanti veditabbaṃ.
Pubbabhāgapaṭipadādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Pubbenivāsakathāvaṇṇanā
52. Yesañca guṇānaṃ dāyakaṃ ahosi, tesaṃ ekadesaṃ
dassento so evaṃ samāhite cittetiādimāha. Tattha dvinnaṃ vijjānaṃ
anupadavaṇṇanā ceva bhāvanānayo ca visuddhimagge vitthārito. Kevalañhi tattha
‘‘so evaṃ samāhite citte…pe… abhininnāmetī’’ti vuttaṃ, idha ‘‘abhininnāmesi’’nti.
Ayaṃ kho me brāhmaṇāti ayañca appanāvāro tattha anāgatoti ayameva
viseso. Tattha soti so ahaṃ. Abhininnāmesinti abhinīhariṃ.
Abhininnāmesinti ca vacanato soti ettha so ahanti evamattho veditabbo.
Yasmā cidaṃ
bhagavato vasena pubbenivāsānussatiñāṇaṃ āgataṃ, tasmā ‘‘so tato cuto
idhūpapanno’’ti ettha evaṃ yojanā veditabbā. Ettha hi so tato cutoti paṭinivattantassa
paccavekkhaṇaṃ. Tasmā idhūpapannoti imissā idhūpapattiyā anantaraṃ. Amutra
udapādinti tusitabhavanaṃ sandhāyāhāti veditabbo. Tatrāpāsiṃ evaṃnāmoti
tatrāpi tusitabhavane setaketu nāma devaputto ahosiṃ. Evaṃgottoti tāhi
devatāhi saddhiṃ ekagotto. Evaṃvaṇṇoti suvaṇṇavaṇṇo. Evamāhāroti
dibbasudhāhāro. Evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedīti evaṃ dibbasukhapaṭisaṃvedī.
Dukkhaṃ pana saṅkhāradukkhamattameva. Evamāyupariyantoti evaṃ
sattapaññāsavassakoṭisaṭṭhivassasatasahassāyupariyanto. So tato cutoti
so ahaṃ tato tusitabhavanato cuto. Idhūpapannoti idha mahāmāyāya deviyā
kucchimhi nibbatto.
Ayaṃ kho me brāhmaṇātiādīsu meti mayā. Vijjāti
viditakaraṇaṭṭhena vijjā. Kiṃ viditaṃ karoti? Pubbenivāsaṃ. Avijjāti
tasseva pubbenivāsassa aviditakaraṇaṭṭhena tappaṭicchādako moho vuccati. Tamoti
sveva moho paṭicchādakaṭṭhena ‘‘tamo’’ti vuccati. Ālokoti sāyeva vijjā
obhāsakaraṇaṭṭhena ‘‘āloko’’ti vuccati. Ettha ca vijjā adhigatāti ayaṃ attho,
sesaṃ pasaṃsāvacanaṃ. Yojanā panettha ayaṃ kho me vijjā adhigatā, tassa me
adhigatavijjassa avijjā vihatā, vinaṭṭhāti attho. Kasmā? Yasmā vijjā uppannā.
Esa nayo itarasmimpi padadvaye.
Yathā tanti ettha yathāti opamme. Tanti
nipāto. Satiyā avippavāsena appamattassa. Vīriyātāpena ātāpino.
Kāye ca jīvite ca anapekkhatāya pahitattassa, pesitattassāti attho. Idaṃ
vuttaṃ hoti ‘‘yathā appamattassa ātāpino pahitattassa viharato avijjā
vihaññeyya, vijjā uppajjeyya. Tamo vihaññeyya, āloko uppajjeyya. Evameva mama
avijjā vihatā, vijjā uppannā. Tamo vihato, āloko uppanno. Etassa me
padhānānuyogassa anurūpameva phalaṃ laddha’’nti.
Pubbenivāsakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dibbacakkhuñāṇakathāvaṇṇanā
53. Cutūpapātakathāyaṃ yasmā idha bhagavato vasena pāḷi
āgatā, tasmā ‘‘passāmi pajānāmī’’ti vuttaṃ, ayaṃ viseso. Sesaṃ visuddhimagge
vuttasadisameva.
Ettha pana vijjāti
dibbacakkhuñāṇavijjā. Avijjāti sattānaṃ cutipaṭisandhipaṭicchādikā
avijjā. Sesaṃ vuttanayamevāti. Yasmā ca pūritapāramīnaṃ mahāsattānaṃ
parikammakiccaṃ nāma natthi. Te hi citte abhininnāmitamatteyeva anekavihitaṃ
pubbenivāsaṃ anussaranti, dibbena cakkhunā satte passanti. Tasmā yo tattha
parikammaṃ ādiṃ katvā bhāvanānayo vutto, na tena idha atthoti.
Dibbacakkhuñāṇakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Āsavakkhayañāṇakathāvaṇṇanā
54. Tatiyavijjāya so evaṃ samāhite citteti
vipassanāpādakaṃ catutthajjhānacittaṃ veditabbaṃ. Āsavānaṃ khayañāṇāyāti
arahattamaggañāṇatthāya. Arahattamaggo hi āsavavināsanato āsavānaṃ khayoti
vuccati, tatra cetaṃ ñāṇaṃ, tappariyāpannattāti. Cittaṃ abhininnāmesinti
vipassanācittaṃ abhinīhariṃ. So idaṃ dukkhanti evamādīsu ‘‘ettakaṃ
dukkhaṃ, na ito bhiyyo’’ti sabbampi dukkhasaccaṃ sarasalakkhaṇapaṭivedhena
yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ jāniṃ paṭivijjhiṃ. Tassa ca dukkhassa nibbattikaṃ taṇhaṃ
ayaṃ dukkhasamudayoti. Tadubhayampi yaṃ ṭhānaṃ patvā nirujjhati, taṃ
tesaṃ appavattiṃ nibbānaṃ ayaṃ dukkhanirodhoti. Tassa sampāpakaṃ ariyamaggaṃ
ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti sarasalakkhaṇapaṭivedhena yathābhūtaṃ
abbhaññāsiṃ jāniṃ paṭivijjhinti evamattho veditabbo.
Evaṃ
sarūpato saccāni dassetvā idāni kilesavasena pariyāyato dassento ime āsavātiādimāha.
Tassa me evaṃ jānato evaṃ passatoti tassa mayhaṃ evaṃ jānantassa evaṃ
passantassa. Saha vipassanāya koṭippattaṃ maggaṃ katheti. Kāmāsavāti
kāmāsavato. Vimuccitthāti iminā phalakkhaṇaṃ dasseti, maggakkhaṇe hi
cittaṃ vimuccati, phalakkhaṇe vimuttaṃ hoti. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇanti
iminā paccavekkhaṇañāṇaṃ dasseti. Khīṇā jātītiādīhi tassa bhūmiṃ, tena
hi ñāṇena bhagavā paccavekkhanto ‘‘khīṇā jātī’’tiādīni abbhaññāsi. Katamā pana
bhagavato jāti khīṇā, kathañca naṃ abbhaññāsīti? Na tāvassa atītā jāti khīṇā,
pubbeva khīṇattā, na anāgatā, anāgate vāyāmābhāvato, na paccuppannā,
vijjamānattā. Yā pana maggassa abhāvitattā uppajjeyya ekacatupañcavokārabhavesu
ekacatupañcakkhandhabhedā jāti, sā maggassa bhāvitattā anuppādadhammataṃ
āpajjanena khīṇā, taṃ so maggabhāvanāya pahīnakilese paccavekkhitvā
‘‘kilesābhāve vijjamānampi kammaṃ āyatiṃ appaṭisandhikaṃ hotī’’ti jānanto
abbhaññāsi.
Vusitanti vutthaṃ parivutthaṃ, kataṃ caritaṃ niṭṭhitanti
attho. Brahmacariyanti maggabrahmacariyaṃ, puthujjanakalyāṇakena hi
saddhiṃ sattasekkhā brahmacariyavāsaṃ vasanti nāma, khīṇāsavo vutthavāso. Tasmā
bhagavā attano brahmacariyavāsaṃ paccavekkhanto ‘‘vusitaṃ brahmacariya’’nti
abbhaññāsi. Kataṃ karaṇīyanti catūsu saccesu catūhi maggehi
pariññāpahānasacchikiriyābhāvanāvasena soḷasavidhampi kiccaṃ niṭṭhāpitanti attho.
Puthujjanakalyāṇakādayo hi taṃ kiccaṃ karonti, khīṇāsavo katakaraṇīyo. Tasmā
bhagavā attano karaṇīyaṃ paccavekkhanto ‘‘kataṃ karaṇīya’’nti abbhaññāsi.
Nāparaṃ itthattāyāti idāni puna itthabhāvāya evaṃsoḷasakiccabhāvāya,
kilesakkhayāya vā maggabhāvanākiccaṃ me natthīti abbhaññāsi. Atha vā itthattāyāti
itthabhāvato imasmā evaṃpakārā idāni vattamānakkhandhasantānā aparaṃ
khandhasantānaṃ mayhaṃ natthi. Ime pana pañcakkhandhā pariññātā tiṭṭhanti
chinnamūlakā rukkhā viya. Te carimakaviññāṇanirodhena anupādāno viya jātavedo
nibbāyissantīti abbhaññāsi.
Idāni evaṃ
paccavekkhaṇañāṇapariggahitaṃ āsavānaṃ khayañāṇādhigamaṃ brāhmaṇassa dassento, ayaṃ
kho me brāhmaṇātiādimāha. Tattha vijjāti arahattamaggañāṇavijjā. Avijjāti
catusaccapaṭicchādikā avijjā. Sesaṃ vuttanayameva. Ettāvatā ca pubbenivāsañāṇena
atītaṃsañāṇaṃ, dibbacakkhunā paccuppannānāgataṃsañāṇaṃ, āsavakkhayena
sakalalokiyalokuttaraguṇanti evaṃ tīhi vijjāhi sabbepi sabbaññuguṇe saṅgahetvā
pakāsento attano asammohavihāraṃ brāhmaṇassa dassesi.
Āsavakkhayañāṇakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Araññavāsakāraṇavaṇṇanā
55. Evaṃ vutte kira brāhmaṇo cintesi – ‘‘samaṇo gotamo
sabbaññutaṃ paṭijānāti, ajjāpi ca araññavāsaṃ na vijahati, atthi nu khvassa
aññampi kiñci karaṇīya’’nti. Athassa bhagavā ajjhāsayaṃ viditvā iminā
ajjhāsayānusandhinā, siyā kho pana tetiādimāha. Tattha siyā kho pana
te, brāhmaṇa, evamassāti, brāhmaṇa, kadāci tuyhaṃ evaṃ bhaveyya. Na kho
panetaṃ brāhmaṇa evaṃ daṭṭhabbanti etaṃ kho pana, brāhmaṇa, tayā mayhaṃ
pantasenāsanapaṭisevanaṃ avītarāgāditāyāti evaṃ na daṭṭhabbaṃ. Evaṃ
pantasenāsanapaṭisevane akāraṇaṃ paṭikkhipitvā kāraṇaṃ dassento dve kho ahantiādimāha.
Tattha atthoyeva atthavaso. Tasmā dve kho ahaṃ, brāhmaṇa, atthavaseti
ahaṃ kho, brāhmaṇa, dve atthe dve kāraṇāni sampassamānoti vuttaṃ hoti. Attano
ca diṭṭhadhammasukhavihāranti ettha diṭṭhadhammo nāma ayaṃ paccakkho
attabhāvo. Sukhavihāro nāma catunnampi iriyāpathavihārānaṃ phāsutā,
ekakassa hi araññe antamaso uccārapassāvakiccaṃ upādāya sabbeva iriyāpathā
phāsukā honti, tasmā diṭṭhadhammassa sukhavihāranti ayamattho veditabbo. Pacchimañca
janataṃ anukampamānoti kathaṃ araññavāsena pacchimā janatā anukampitā hoti?
Saddhāpabbajitā hi kulaputtā bhagavato araññavāsaṃ disvā bhagavāpi nāma
araññasenāsanāni na muñcati, yassa nevatthi pariññātabbaṃ na pahātabbaṃ na
bhāvetabbaṃ na sacchikātabbaṃ, kimaṅgaṃ pana mayanti cintetvā tattha
vasitabbameva maññissanti. Evaṃ khippameva dukkhassantakarā bhavissanti. Evaṃ
pacchimā janatā anukampitā hoti. Etamatthaṃ dassento āha ‘‘pacchimañca janataṃ
anukampamāno’’ti.
Araññavāsakāraṇavaṇṇanā niṭṭhitā.
Desanānumodanāvaṇṇanā
56. Taṃ sutvā attamano brāhmaṇo anukampitarūpātiādimāha.
Tattha anukampitarūpāti anukampitajātikā anukampitasabhāvā. Janatāti
janasamūho. Yathā taṃ arahatā sammāsambuddhenāti yathā arahaṃ
sammāsambuddho anukampeyya, tatheva anukampitarūpāti.
Evañca pana
vatvā puna taṃ bhagavato dhammadesanaṃ abbhanumodamāno bhagavantaṃ etadavoca abhikkantaṃ,
bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotamāti. Tatthāyaṃ abhikkantasaddo
khayasundarābhirūpaabbhanumodanesu dissati. ‘‘Abhikkantā, bhante, ratti, nikkhanto
paṭhamo yāmo, ciranisinno bhikkhusaṅgho’’tiādīsu (cūḷava. 383; a. ni. 8.20) hi
khaye dissati. ‘‘Ayaṃ imesaṃ catunnaṃ puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro
cā’’tiādīsu (a. ni. 4.100) sundare.
‘‘Ko me
vandati pādāni, iddhiyā yasasā jalaṃ;
Abhikkantena
vaṇṇena, sabbā obhāsayaṃ disā’’ti. –
Ādīsu (vi.
va. 857) abhirūpe. ‘‘Abhikkantaṃ, bhante’’tiādīsu (dī. ni. 1.250; pārā. 15)
abbhanumodane. Idhāpi abbhanumodaneyeva. Yasmā ca abbhanumodane, tasmā sādhu
sādhu bho, gotamāti vuttaṃ hotīti veditabbaṃ.
‘‘Bhaye kodhe
pasaṃsāyaṃ, turite kotūhalacchare;
Hāse soke
pasāde ca, kare āmeḍitaṃ budho’’ti. –
Iminā ca
lakkhaṇena idha pasādavasena pasaṃsāvasena cāyaṃ dvikkhattuṃ vuttoti veditabbo.
Atha vā abhikkantanti abhikantaṃ. Atiiṭṭhaṃ atimanāpaṃ, atisundaranti
vuttaṃ hoti.
Tattha
ekena abhikkantasaddena desanaṃ thometi, ekena attano pasādaṃ. Ayañhettha adhippāyo
– abhikkantaṃ, bho gotama, yadidaṃ bhoto gotamassa dhammadesanā, abhikkantaṃ
yadidaṃ bhoto gotamassa dhammadesanaṃ āgamma mama pasādoti. Bhagavatoyeva vā
vacanaṃ dve dve atthe sandhāya thometi – bhoto gotamassa vacanaṃ abhikkantaṃ
dosanāsanato, abhikkantaṃ guṇādhigamanato, tathā saddhājananato, paññājananato,
sātthato, sabyañjanato, uttānapadato, gambhīratthato, kaṇṇasukhato, hadayaṅgamato,
anattukkaṃsanato, aparavambhanato, karuṇāsītalato, paññāvadātato, āpātharamaṇīyato,
vimaddakkhamato, suyyamānasukhato, vīmaṃsīyamānahitatoti evamādīhi yojetabbaṃ.
Tato
parampi catūhi upamāhi desanaṃyeva thometi. Tattha nikkujjitanti
adhomukhaṭhapitaṃ, heṭṭhāmukhajātaṃ vā. Ukkujjeyyāti upari mukhaṃ
kareyya. Paṭicchannanti tiṇapaṇṇādicchāditaṃ. Vivareyyāti ugghāṭeyya.
Mūḷhassāti disāmūḷhassa. Maggaṃ ācikkheyyāti hatthe gahetvā ‘‘esa
maggo’’ti vadeyya. Andhakāreti kāḷapakkhacātuddasīaḍḍharattaghanavanasaṇḍameghapaṭalehi
caturaṅge tame, ayaṃ tāva anuttānapadattho.
Ayaṃ pana
adhippāyayojanā – yathā koci nikkujjitaṃ ukkujjeyya, evaṃ saddhammavimukhaṃ
asaddhamme patitaṃ maṃ asaddhammā vuṭṭhāpentena, yathā paṭicchannaṃ vivareyya.
Evaṃ kassapassa bhagavato sāsanantaradhānato pabhuti micchādiṭṭhigahanapaṭicchannaṃ
sāsanaṃ vivarantena, yathā mūḷhassa maggaṃ ācikkheyya, evaṃ kummaggamicchāmaggappaṭipannassa
me saggamokkhamaggaṃ ācikkhantena, yathā andhakāre telapajjotaṃ dhāreyya, evaṃ
mohandhakāre nimuggassa me buddhādiratanarūpāni apassato tappaṭicchādakamohandhakāraviddhaṃsakadesanāpajjotadhāraṇena
mayhaṃ bhotā gotamena etehi pariyāyehi pakāsitattā anekapariyāyena dhammo
pakāsitoti.
Desanānumodanāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Pasannākāravaṇṇanā
Evaṃ desanaṃ
thometvā imāya desanāya ratanattayapasannacitto pasannākāraṃ karonto esāhantiādimāha.
Tattha esāhanti eso ahaṃ. Bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmīti
bhavaṃ me gotamo saraṇaṃ parāyaṇaṃ, aghassa tātā, hitassa ca vidhātāti iminā
adhippāyena bhavantaṃ gotamaṃ gacchāmi, bhajāmi, sevāmi, payirupāsāmi, evaṃ vā
jānāmi, bujjhāmīti. Yesañhi dhātūnaṃ gatiattho, buddhipi tesaṃ attho. Tasmā
gacchāmīti imassa jānāmi, bujjhāmīti ayamattho vutto. Dhammañca bhikkhusaṅghañcāti
ettha pana adhigatamagge sacchikatanirodhe yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjamāne ca
apāyesu apatamāne dhāretīti dhammo, so atthato ariyamaggo ceva
nibbānañca. Vuttañhetaṃ – ‘‘yāvatā, bhikkhave, dhammā saṅkhatā, ariyo aṭṭhaṅgiko
maggo tesaṃ aggamakkhāyatī’’ti (a. ni. 4.34) vitthāro. Na kevalañca ariyamaggo
ceva nibbānañca, apica kho ariyaphalehi saddhiṃ pariyattidhammopi. Vuttañhetaṃ
chattamāṇavakavimāne –
‘‘Rāgavirāgamanejamasokaṃ,
dhammamasaṅkhatamappaṭikūlaṃ;
Madhuramimaṃ
paguṇaṃ suvibhattaṃ, dhammamimaṃ saraṇatthamupehī’’ti. (vi. va. 887);
Ettha rāgavirāgoti
maggo kathito. Anejamasokanti phalaṃ. Dhammamasaṅkhatanti nibbānaṃ.
Appaṭikūlaṃ madhuramimaṃ paguṇaṃ suvibhattanti piṭakattayena vibhattā
sabbadhammakkhandhāti. Diṭṭhisīlasaṅghātena saṃhatoti saṅgho, so atthato
aṭṭha ariyapuggalasamūho. Vuttañhetaṃ tasmiṃyeva vimāne.
‘‘Yattha ca
dinnamahapphalamāhu, catūsu sucīsu purisayugesu;
Aṭṭha ca
puggala dhammadasā te, saṅghamimaṃ saraṇatthamupehī’’ti. (vi. va. 888);
Bhikkhūnaṃ
saṅgho bhikkhusaṅgho. Ettāvatā brāhmaṇo tīṇi saraṇagamanāni paṭivedesi.
Pasannākāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Saraṇagamanakathāvaṇṇanā
Idāni tesu
saraṇagamanesu kosallatthaṃ saraṇaṃ, saraṇagamanaṃ. Yo ca saraṇaṃ gacchati,
saraṇagamanappabhedo, saraṇagamanassa phalaṃ, saṃkileso, bhedoti ayaṃ vidhi
veditabbo. Seyyathidaṃ – padatthato tāva hiṃsatīti saraṇaṃ, saraṇagatānaṃ
teneva saraṇagamanena bhayaṃ santāsaṃ dukkhaṃ duggatiparikilesaṃ hanati
vināsetīti attho, ratanattayassevetaṃ adhivacanaṃ.
Atha vā
hite pavattanena ahitā ca nivattanena sattānaṃ bhayaṃ hiṃsati buddho.
Bhavakantārā uttāraṇena assāsadānena ca dhammo. Appakānampi kārānaṃ vipulaphalapaṭilābhakaraṇena
saṅgho. Tasmā imināpi pariyāyena ratanattayaṃ saraṇaṃ. Tappasādataggarutāhi
vihatakileso tapparāyaṇatākārappavatto cittuppādo saraṇagamanaṃ. Taṃsamaṅgisatto
saraṇaṃ gacchati, vuttappakārena cittuppādena etāni me tīṇi saraṇāni saraṇaṃ,
etāni parāyaṇanti evaṃ upetīti attho. Evaṃ tāva saraṇaṃ saraṇagamanaṃ yo ca
saraṇaṃ gacchatīti idaṃ tayaṃ veditabbaṃ.
Saraṇagamanappabhede pana duvidhaṃ saraṇagamanaṃ
lokuttaraṃ lokiyañca. Tattha lokuttaraṃ diṭṭhasaccānaṃ maggakkhaṇe saraṇagamanupakkilesasamucchedena
ārammaṇato nibbānārammaṇaṃ hutvā kiccato sakalepi ratanattaye ijjhati. Lokiyaṃ
puthujjanānaṃ saraṇagamanupakkilesavikkhambhanena ārammaṇato buddhādiguṇārammaṇaṃ
hutvā ijjhati, taṃ atthato buddhādīsu vatthūsu saddhāpaṭilābho, saddhāmūlikā ca
sammādiṭṭhi dasasu puññakiriyavatthūsu diṭṭhijukammanti vuccati.
Tayidaṃ
catudhā pavattati attasanniyyātanena tapparāyaṇatāya sissabhāvūpagamanena paṇipātenāti.
Tattha attasanniyyātanaṃ nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ahaṃ attānaṃ buddhassa
niyyātemi, dhammassa, saṅghassā’’ti evaṃ buddhādīnaṃ attapariccajanaṃ. Tapparāyaṇatā
nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ahaṃ buddhaparāyaṇo, dhammaparāyaṇo, saṅghaparāyaṇo iti
maṃ dhārethā’’ti evaṃ tapparāyaṇabhāvo. Sissabhāvūpagamanaṃ nāma ‘‘ajja
ādiṃ katvā ahaṃ buddhassa antevāsiko, dhammassa, saṅghassāti maṃ dhārethā’’ti
evaṃ sissabhāvūpagamo. Paṇipāto nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ahaṃ
abhivādanapaccuṭṭhānaañjalikammasāmīcikammaṃ buddhādīnaṃyeva tiṇṇaṃ vatthūnaṃ
karomi, iti maṃ dhārethā’’ti evaṃ buddhādīsu paramanipaccakāro. Imesañhi
catunnaṃ ākārānaṃ aññatarampi karontena gahitaṃyeva hoti saraṇagamanaṃ.
Apica
bhagavato attānaṃ pariccajāmi, dhammassa, saṅghassa attānaṃ pariccajāmi. Jīvitaṃ
pariccajāmi, pariccattoyeva me attā, pariccattaṃyeva me jīvitaṃ,
jīvitapariyantikaṃ buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, buddho me saraṇaṃ leṇaṃ tāṇanti
evampi attasanniyyātanaṃ veditabbaṃ. ‘‘Satthārañca vatāhaṃ passeyyaṃ
bhagavantameva passeyyaṃ, sugatañca vatāhaṃ passeyyaṃ bhagavantameva passeyyaṃ,
sammāsambuddhañca vatāhaṃ passeyyaṃ bhagavantameva passeyya’’nti (saṃ. ni.
2.154) evampi mahākassapassa saraṇagamanaṃ viya sissabhāvūpagamanaṃ daṭṭhabbaṃ.
‘‘So ahaṃ
vicarissāmi, gāmā gāmaṃ purā puraṃ;
Namassamāno
sambuddhaṃ, dhammassa ca sudhammata’’nti. (su. ni. 194; saṃ. ni. 1.246) –
Evampi āḷavakādīnaṃ
saraṇagamanaṃ viya tapparāyaṇatā veditabbā. ‘‘Atha kho brahmāyu brāhmaṇo uṭṭhāyāsanā
ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavato pādāni
mukhena ca paricumbati, pāṇīhi ca parisambāhati, nāmañca sāveti brahmāyu ahaṃ,
bho gotama, brāhmaṇo, brahmāyu ahaṃ, bho gotama, brāhmaṇo’’ti (ma. ni. 2.394)
evampi paṇipāto daṭṭhabbo.
So panesa
ñātibhayācariyadakkhiṇeyyavasena catubbidho hoti. Tattha dakkhiṇeyyapaṇipātena
saraṇagamanaṃ hoti, na itarehi. Seṭṭhavaseneva hi saraṇaṃ gayhati, seṭṭhavasena
bhijjati, tasmā yo sākiyo vā koliyo vā ‘‘buddho amhākaṃ ñātako’’ti vandati,
aggahitameva hoti saraṇaṃ. Yo vā ‘‘samaṇo gotamo rājapūjito mahānubhāvo,
avandiyamāno anatthampi kareyyā’’ti bhayena vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ.
Yo vā bodhisattakāle bhagavato santike kiñci uggahitaṃ saramāno buddhakāle vā –
‘‘Ekena
bhoge bhuñjeyya, dvīhi kammaṃ payojaye;
Catutthañca
nidhāpeyya, āpadāsu bhavissatī’’ti. (dī. ni. 3.265) –
Evarūpaṃ
anusāsaniṃ uggahetvā ‘‘ācariyo me’’ti vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ. Yo
pana ‘‘ayaṃ loke aggadakkhiṇeyyo’’ti vandati, teneva gahitaṃ hoti saraṇaṃ.
Evaṃ
gahitasaraṇassa ca upāsakassa vā upāsikāya vā aññatitthiyesu pabbajitampi ñātiṃ
‘‘ñātako me aya’’nti vandato saraṇagamanaṃ na bhijjati, pageva apabbajitaṃ.
Tathā rājānaṃ bhayavasena vandato, so hi raṭṭhapūjitattā avandiyamāno
anatthampi kareyyāti. Tathā yaṃkiñci sippaṃ sikkhāpakaṃ titthiyaṃ ‘‘ācariyo me
aya’’nti vandatopi na bhijjatīti evaṃ saraṇagamanappabhedo veditabbo.
Ettha ca
lokuttarassa saraṇagamanassa cattāri sāmaññaphalāni vipākaphalaṃ,
sabbadukkhakkhayo ānisaṃsaphalaṃ. Vuttañhetaṃ –
‘‘Yo ca
buddhañca dhammañca, saṅghañca saraṇaṃ gato;
Cattāri
ariyasaccāni, sammappaññāya passati.
Dukkhaṃ
dukkhasamuppādaṃ, dukkhassa ca atikkamaṃ;
Ariyañcaṭṭhaṅgikaṃ
maggaṃ, dukkhūpasamagāminaṃ.
Etaṃ kho
saraṇaṃ khemaṃ, etaṃ saraṇamuttamaṃ;
Etaṃ saraṇamāgamma,
sabbadukkhā pamuccatī’’ti. (dha. pa. 190-192);
Apica
niccato anupagamanādivasena petassa ānisaṃsaphalaṃ veditabbaṃ. Vuttañhetaṃ, ‘‘aṭṭhānametaṃ,
bhikkhave, anavakāso, yaṃ diṭṭhisampanno puggalo kañci saṅkhāraṃ niccato
upagaccheyya, sukhato upagaccheyya, kañci dhammaṃ attato upagaccheyya, mātaraṃ
jīvitā voropeyya, pitaraṃ arahantaṃ jīvitā voropeyya, duṭṭhacitto tathāgatassa
lohitaṃ uppādeyya, saṅghaṃ bhindeyya, aññaṃ satthāraṃ uddiseyya, netaṃ ṭhānaṃ
vijjatī’’ti (ma. ni. 3.128; a. ni. 1.268-276).
Lokiyassa
pana saraṇagamanassa bhavasampadāpi bhogasampadāpi phalameva. Vuttañhetaṃ –
‘‘Yekeci
buddhaṃ saraṇaṃ gatāse,
Na te
gamissanti apāyabhūmiṃ;
Pahāya
mānusaṃ dehaṃ,
Devakāyaṃ
paripūressantī’’ti. (saṃ. ni. 1.37);
Aparampi
vuttaṃ ‘‘atha kho sakko devānamindo asītiyā devatāsahassehi saddhiṃ yenāyasmā
mahāmoggallāno, tenupasaṅkami…pe… ekamantaṃ ṭhitaṃ kho sakkaṃ devānamindaṃ
āyasmā mahāmoggallāno etadavoca ‘sādhu kho devānaminda buddhaṃ saraṇagamanaṃ
hoti, buddhaṃ saraṇagamanahetu kho devānaminda evamidhekacce sattā kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjantī’ti. Te aññe deve dasahi ṭhānehi
adhigaṇhanti dibbena āyunā dibbena vaṇṇena sukhena yasena ādhipateyyena dibbehi
rūpehi saddehi gandhehi rasehi phoṭṭhabbehī’’ti (saṃ. ni. 4.341). Esa nayo
dhamme saṅghe ca. Apica velāmasuttādivasenāpi (a. ni. 9.20) saraṇagamanassa
phalaviseso veditabbo. Evaṃ saraṇagamanaphalaṃ veditabbaṃ.
Tattha
lokiyasaraṇagamanaṃ tīsu vatthūsu aññāṇasaṃsayamicchāñāṇādīhi saṃkilissati, na
mahājutikaṃ hoti, na mahāvipphāraṃ. Lokuttarassa natthi saṃkileso. Lokiyassa ca
saraṇagamanassa duvidho bhedo sāvajjo anavajjo ca. Tattha sāvajjo
aññasatthārādīsu attasanniyyātanādīhi hoti, so aniṭṭhaphalo. Anavajjo kālaṃ
kiriyāya, so avipākattā aphalo. Lokuttarassa pana nevatthi bhedo. Bhavantarepi
hi ariyasāvako aññasatthāraṃ na uddisatīti evaṃ saraṇagamanassa saṃkileso ca
bhedo ca veditabboti. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretūti maṃ bhavaṃ
gotamo ‘‘upāsako aya’’nti evaṃ dhāretu, jānātūti attho.
Saraṇagamanakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Upāsakavidhikathāvaṇṇanā
Upāsakavidhikosallatthaṃ
panettha ko upāsako, kasmā upāsakoti vuccati, kimassa sīlaṃ, ko ājīvo, kā
vipatti, kā sampattīti idaṃ pakiṇṇakaṃ veditabbaṃ.
Tattha ko
upāsakoti yo koci tisaraṇagato gahaṭṭho. Vuttañhetaṃ – ‘‘yato kho mahānāma
upāsako buddhaṃ saraṇaṃ gato hoti, dhammaṃ saraṇaṃ gato hoti, saṅghaṃ saraṇaṃ
gato hoti. Ettāvatā kho mahānāma upāsako hotī’’ti (saṃ. ni. 5.1033).
Kasmā upāsakoti ratanattayassa upāsanato. So hi buddhaṃ upāsatīti
upāsako. Dhammaṃ, saṅghaṃ upāsatīti upāsako.
Kimassa sīlanti pañca veramaṇiyo. Yathāha ‘‘yato kho
mahānāma upāsako pāṇātipātā paṭivirato hoti adinnādānā, kāmesu micchācārā,
musāvādā, surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato hoti. Ettāvatā kho mahānāma
upāsako sīlavā hotī’’ti (saṃ. ni. 5.1033).
Ko ājīvoti pañca micchāvaṇijjā pahāya dhammena samena
jīvitakappanaṃ. Vuttañhetaṃ ‘‘pañcimā, bhikkhave, vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā.
Katamā pañca? Satthavaṇijjā, sattavaṇijjā, maṃsavaṇijjā, majjavaṇijjā, visavaṇijjā.
Imā kho, bhikkhave, pañca vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā’’ti (a. ni. 5.177).
Kā vipattīti yā tasseva sīlassa ca ājīvassa ca vipatti, ayamassa
vipatti. Apica yāya esa caṇḍālo ceva hoti malañca patikuṭṭho ca. Sāpissa
vipattīti veditabbā. Te ca atthato assaddhiyādayo pañca dhammā honti. Yathāha
‘‘pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato upāsako upāsakacaṇḍālo ca hoti
upāsakamalañca upāsakapatikuṭṭho ca. Katamehi pañcahi? Assaddho hoti, dussīlo
hoti, kotūhalamaṅgaliko hoti, maṅgalaṃ pacceti no kammaṃ, ito ca bahiddhā
dakkhiṇeyyaṃ pariyesati tattha ca pubbakāraṃ karotī’’ti (a. ni. 5.175).
Kā sampattīti yā cassa sīlasampadā ca
ājīvasampadā ca, sā sampatti. Ye cassa ratanabhāvādikarā saddhādayo pañca
dhammā. Yathāha ‘‘pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato upāsako
upāsakaratanañca hoti upāsakapadumañca upāsakapuṇḍarīkañca. Katamehi pañcahi?
Saddho hoti, sīlavā hoti, na kotūhalamaṅgaliko hoti, kammaṃ pacceti no maṅgalaṃ,
na ito bahiddhā dakkhiṇeyyaṃ gavesati, idha ca pubbakāraṃ karotī’’ti (a. ni.
5.175).
Ajjataggeti ettha ayaṃ aggasaddo ādikoṭikoṭṭhāsaseṭṭhesu
dissati. ‘‘Ajjatagge, samma dovārika, āvarāmi dvāraṃ nigaṇṭhānaṃ nigaṇṭhīna’’ntiādīsu
(ma. ni. 2.70) hi ādimhi dissati. ‘‘Teneva aṅgulaggena taṃ aṅgulaggaṃ
parāmaseyya, (kathā. 441) ucchaggaṃ veḷagga’’ntiādīsu koṭiyaṃ. ‘‘Ambilaggaṃ vā
madhuraggaṃ vā tittakaggaṃ vā (saṃ. ni. 5.374), anujānāmi, bhikkhave,
vihāraggena vā pariveṇaggena vā bhājetu’’ntiādīsu (cūḷava. 318) koṭṭhāse.
‘‘Yāvatā, bhikkhave, sattā apadā vā…pe… tathāgato tesaṃ aggamakkhāyatī’’tiādīsu
(a. ni. 4.34) seṭṭhe. Idha panāyaṃ ādimhi daṭṭhabbo. Tasmā ajjataggeti
ajjataṃ ādiṃ katvā, evamettha attho veditabbo. Ajjatanti ajjabhāvaṃ.
Ajjadaggeti vā pāṭho, da-kāro padasandhikaro, ajja aggaṃ katvāti attho.
Pāṇupetanti pāṇehi upetaṃ, yāva me jīvitaṃ pavattati, tāva
upetaṃ. Anaññasatthukaṃ tīhi saraṇagamanehi saraṇaṃ gataṃ upāsakaṃ
kappiyakārakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu jānātu. Ahañhi sacepi me tikhiṇena
asinā sīsaṃ chindeyya, neva buddhaṃ ‘‘na buddho’’ti vā dhammaṃ ‘‘na dhammo’’ti
vā, saṅghaṃ ‘‘na saṅgho’’ti vā vadeyyanti. Evaṃ attasanniyyātanena saraṇaṃ
gantvā catūhi ca paccayehi pavāretvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā
tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā pakkāmīti.
Upāsakavidhikathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Bhayabheravasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Phật ngôn: Này Bà-la-môn, ai nói một cách chơn chánh sẽ nói như sau: "Vị hữu tình nào không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người. Vị ấy khi nói một cách chân chánh về Ta sẽ nói như sau: "Là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Phải chăng câu Phật ngôn ấy cho thấy khi Đức Thế Tôn chưa thành đạo (đang trong những năm tháng nỗ lực đạt đến cứu cánh) thì Ngài vừa dốc lòng tu tập bản thân đồng thời có ý hướng độ đời với tâm đại bi? - TT Tuệ Siêu
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment