Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Quyền
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 9/6/2020
(Cūḷarāhulovāda
Sutta)
Rāhula là con trai
duy nhất của Đại Bồ Tát Siddhattha trước khi xuất gia. Sau nầy xuất gia sa di
lúc lên bảy tuổi. Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La có nghĩ là Bài kinh ngắn ghi
lại lời giáo huấn cho Rāhula. Đây là trường hợp hai bài đại kinh và tiểu kinh sắp
xếp trong mục lục Trung Bộ nằm xa nhau. Đại Kinh Giáo Giới La-Hầu-La mang số
62 trong khi tiểu kinh lại mang số 147. Theo Sớ giải bài kinh nầy được Đức Phật
thuyết năm Rāhula được mười tám tuổi. Sau pháp thoại nầy Tôn giả chứng vô sanh
thánh quả A la hán. Nội dung bài kinh đề cập pháp quán chiếu vô thường, khổ, vô
ngã đối với sáu giác quan.
1188. Đại diễm phúc
làm con của Phật hai lần
Tôn giả Ràhula là đứa
con máu mủ của Đức Bồ Tát Siddhattha. Bài kinh nầy ghi lại sự kiện tôn giả viên
mãn giác ngộ do sự khai thị Đức Từ Phụ mà theo cách nói là trong văn học Phạn
ngữ là “được sanh ra từ kim khẩu của Phật”:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn
ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm) tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika.
Rồi Thế Tôn trong khi nhàn tịnh độc cư, khởi lên tư niệm sau đây:
"Ðã thuần thục là những pháp đã đưa đến giải thoát cho Rāhula. Vậy
Ta hãy huấn luyện Rāhula hơn nữa trong sự đoạn tận các lậu hoặc".
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthī để khất
thực. Sau khi đi khất thực ở Sāvatthī, sau buổi ăn, trên con đường đi
khất thực trở về, Thế Tôn cho gọi Tôn giả Rāhula và nói:
-- Này Rāhula, hãy
cầm tọa cụ, chúng ta sẽ đi đến Andhavana để nghỉ ban ngày.
-- Thưa vâng, bạch
Thế Tôn.
Tôn giả Rahula vâng
đáp Thế Tôn, cầm lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn.
Lúc bấy giờ hàng
ngàn chư Thiên đi theo Thế Tôn và nghĩ rằng: "Hôm nay, Thế Tôn sẽ
huấn luyện cho Tôn giả Rāhula hơn nữa trong sự đoạn tận các lậu hoặc".
1189. Giác ngộ có
nghĩa là xoá tan ảo giác bằng thấy biết thấy biết chân thật
Sự hiện hữu của chúng
sanh nói theo ngôn ngữ của chánh pháp là tập hợp của nhân duyên. Căn, cảnh, thức
tạo nên xúc, thọ… là chuyển dịch của duyên khởi. Ai quán sát và nhận rõ bản chất
tụ, tán của duyên sinh thì xoá tan mê chấp về cái ta, của ta, và tự ngã của ta:
Rồi Thế Tôn đi sâu
vào rừng Andhavana và ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn dưới một gốc
cây. Tôn giả Rāhula đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn
nói với Tôn giả Rāhula đang ngồi một bên:
-- Này Rāhula, Ông
nghĩ thế nào? Con mắt là thường hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, là
vô thường.
-- Cái gì vô thường
là khổ hay lạc?
-- Bạch Thế Tôn, là
khổ
-- Cái gì vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái
ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi?"
-- Thưa không vậy,
bạch Thế Tôn
Này Rāhula. Ông nghĩ
thế nào? Sắc là thường hay vô thường?... Nhãn thức là thường hay vô
thường?... Nhãn xúc là thường hay vô thường?... ? Do duyên nhãn xúc này,
được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức; pháp được khởi lên ấy là
thường hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, là
vô thường
-- Cái gì vô thường
là khổ hay lạc?
-- Bạch Thế Tôn, là
khổ.
-- Cái gì vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái
ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi?"
-- Thưa không vậy,
bạch Thế Tôn
-- Này Rāhula, Ông
nghĩ thế nào? Tai là thường hay vô thường? ... Mũi là thường hay vô
thường?... Lưỡi là thường hay vô thường?... Thân là thường hay vô
thường... Ý là thường hay vô thường?... Pháp là thường hay vô
thường?... Ý thức là thường hay vô thường?... Ý xúc là thường hay vô
thường?... Do duyên ý xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức
các pháp (được khởi lên) ấy là thường hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, là
vô thường
-- Cái gì vô thường
là khổ hay lạc?
-- Bạch Thế Tôn, là
khổ.
-- Cái gì vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái
ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi?"
-- Thưa không vậy,
bạch Thế Tôn
-- Này Rāhula, do
thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly con mắt, yếm ly các sắc, yếm
ly nhãn thức, yếm ly nhãn xúc, do duyên nhãn xúc này, được khởi lên thọ,
tưởng, hành, thức. Vị ấy yếm ly pháp (được khởi lên) ấy. Vị ấy yếm
ly tai, yếm ly các tiếng... yếm ly mũi, yếm ly các hương... yếm ly các
hương... yếm ly lưỡi, yếm ly các vị... yếm ly thân, yếm ly các xúc,..
yếm ly ý, yếm ly các pháp, yếm ly ý thức, yếm ly ý xúc. Do duyên ý xúc
này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức. Vị ấy yếm ly các pháp
(được khởi lên) ấy. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải
thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: "Ta đã được giải thoát
". Và vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Tôn giả Rāhula, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong
khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của Tôn giả Rāhula được
giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. Và đối với hàng ngàn
chư Thiên ấy, được khởi lên pháp nhãn ly trần, vô cấu: "Phàm cái gì
được khởi lên, tất cả đều bị diệt tận".
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 147
[tóm tắt]
Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La
(Cūḷarāhulovāda
Sutta)
(M.iii,
277)
Thế Tôn giáo giới
Tôn giả Rāhula về sự vô thường của con mắt, sắc, nhãn thức, nhãn xúc,
lỗ tai, âm thinh, nhĩ thức, nhĩ xúc,.. cho đến ý xúc. Do duyên ý xúc các
pháp, thọ, tưởng, hành thức khởi lên cũng vô thường. Cái gì vô thường
là khổ, là không có tự ngã. Do thấy như vậy, vị Thánh đệ tử yểm ly con
mắt, yểm ly các sắc, yểm ly nhãn thức, yểm ly nhãn xúc; do duyên nhãn xúc
này được khởi lên thọ tưởng, hành, thức, vị ấy yểm ly các pháp được
khởi lên ấy. Cũng vậy, đối với tai và tiếng, mũi và hương,.. ý và
pháp. Do yểm ly vị ấy ly dục, do ly dục được giải thoát. Trong sự
giải thoát, vị ấy biết: “Ta đã giải thoát, sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, các việc nên làm đã làm; không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Sau khi Thế Tôn
thuyết giảng, tâm của Tôn giả Rāhula được giải thoát khỏi các lậu hoặc,
không chấp thủ. Hàng ngàn chư Thiên đi theo Thế Tôn để nghe pháp cũng
được pháp nhãn, ly trần vô cấu, biết rằng: “Phàm cái gì khởi lên đều
bị diệt tận”.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 147
[dàn ý]
Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La
(Cūḷarāhulovāda
Sutta)
(M.iii,
277)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn biết đã thuần
thục là những pháp đưa đến giải thoát cho Tôn giả Rāhula. Thế Tôn quyết định huấn
luyện Tôn giả Rāhula đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc. Thế Tôn bảo Tôn giả Rāhula
cùng đi với Thế Tôn để nghỉ trưa ở Andhavana và Thế Tôn khởi sự luận đạo với
Tôn giả Rāhula về lý vô ngã.
B. Chánh kinh:
I. Lý vô ngã đối với con mắt, các sắc,
nhãn thức, nhãn xúc, nhãn thọ, tưởng, hành, thức.
II. Lý vô ngã đối với tai, nhĩ thức,
nhĩ xúc, nhĩ thọ, tưởng, hành, thức và đối với các căn khác cho đến ý căn.
III. Sự giải thoát của bậc đa văn
Thánh đệ tử khỏi các pháp được khởi lên nhờ không chấp thủ các pháp.
C. Kết luận:
Tôn giả Rāhula chứng
được quả A-la-hán và các chư thiên chứng được quả Dự lưu.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 147
[toát yếu]
Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La
(Cūḷarāhulovāda
Sutta)
(M.iii,
277)
I. Toát yếu
The Shorter Discourse of Advice to Rāhula.
The Buddha gives Rāhula a discourse that leads him to the attainment
of arahantship.
Bài kinh ngắn giảng cho La-hầu-la.
Phật giảng cho La-hầu-la một pháp thoại đưa Ngài đến chứng
quả A-la-hán.
II. Tóm tắt
Một hôm Phật nghĩ đã đến lúc huấn luyện thêm cho tôn giả
Rahula trong việc đoạn tận các lậu hoặc, vì tôn giả đã thuần thục
trong 15 pháp đem lại giải thoát [tức là tín, tấn, niệm, định, tuệ;
5 tuệ quán vô thường, khổ, vô ngã, từ bỏ, đoạn tận; và năm pháp:
bạn lành, giới, thảo luận, tinh tấn, và tuệ.]
Sau bữa ngọ trai, Ngài dạy tôn giả hãy đem theo tọa cụ, cùng
với Ngài đi vào rừng Andha. Sau khi tôn giả đảnh lễ Phật và ngồi
trên tọa cụ, Phật tuần tự hỏi tôn giả: Mắt, sắc, nhãn thức là
thường hay vô thường? Cái gì vô thường là khổ hay vui? Cái gì đã
vô thường, đau khổ, thì có hợp lý để xem nó là của tôi, là tôi,
hay tự ngã của tôi không? Tôn giả đều thưa không.
Với tai, mũi, lưỡi, thân, ý (căn); thanh, hương, vị, xúc,
pháp (trần); nhĩ thức, cho đến ý thức (thức) cũng vậy (18 giới). Kế
tiếp Ngài hỏi tương tự như trên về nhãn xúc cho đến ý xúc, và
tôn giả cũng đáp như trên. Do xúc khởi lên thọ, tưởng, hành,
thức, các pháp được khởi lên đều vô thường, khổ, không nên xem
là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi.
Thế Tôn kết luận: Do thấy biết như vậy, đa
văn thánh đệ tử yểm ly căn trần thức, yểm ly xúc thọ tưởng hành.
Do yểm ly, vị ấy ly dục; do ly dục, vị ấy giải thoát. Khi giải
thoát vị ấy biết tâm đã giải thoát. Sanh đã
tận, phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở
lui trạng thái này nữa.
Tôn giả Rāhula hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy, tâm tôn giả giải thoát các lậu hoặc, không còn chấp thủ.
Hàng ngàn chư thiên đã đi theo đức Phật cũng khởi lên Pháp nhãn ly
trần vô cấu, thấy rằng: Tất cả những gì được khởi lên đều phải
bị hoại diệt.
III. Chú giải
Khổ là do xem là tôi và của tôi, một cái
vốn dĩ rất vô thường, đau khổ là cái thân xác này với những thọ,
tưởng, hành, thức khởi lên từ đấy. Nhưng tất cả cái gì có khởi
lên là có chấm dứt, nhờ thấy rõ như vậy mà khởi tâm chán lìa, ly
tham, giải thoát. Trí này dường như được gọi là sinh diệt trí.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Phật thấy La-hầu-la
Ðã thuần thục các pháp
Ðã thuần thục các pháp
Giúp đem lại giải thoát
- Tín, tấn, niệm, định, tuệ -
- Tín, tấn, niệm, định, tuệ -
Một hôm ngọ trai xong,
Ngài cho theo vào rừng.
Tại ngôi rừng An-dha
Sau khi cùng an tọa
Phật hỏi tôn giả rằng
Con mắt, sắc, nhãn thức
Sau khi cùng an tọa
Phật hỏi tôn giả rằng
Con mắt, sắc, nhãn thức
Là thường hay vô thường?
Vô thường khổ hay vui?
Cái gì vô thường, khổ,
Thì có hợp lý chăng
Xem là tôi, của tôi,
Hay tự ngã của tôi?
Tôn giả đều thưa không.
Với tai, mũi, lưỡi, thân,
Ý; và đối tượng chúng
Với tai, mũi, lưỡi, thân,
Ý; và đối tượng chúng
(thanh, hương, vị, xúc,
pháp);
Nhĩ thức, cho đến ý thức
Tức 18 giới đều vậy.
Kế tiếp Ngài lại hỏi
Nhãn xúc đến ý xúc,
Tôn giả đáp như trên.
Do xúc khởi lên thọ,
Tưởng, hành, và thức,
Các pháp được khởi lên
Ðều vô thường, đau khổ,
Không nên xem của tôi,
Là tôi, tự ngã tôi.
Thế Tôn bèn kết luận:
Do thấy biết như vậy,
Ða văn thánh đệ tử
Yểm ly căn trần thức,
Chán xúc thọ tưởng hành.
Do yểm ly, lìa dục;
Do lìa dục, giải thoát.
Và vị ấy biết được:
Do lìa dục, giải thoát.
Và vị ấy biết được:
Tâm này đã giải thoát
Sanh tận, phạm hạnh thành Việc nên làm đã làm
Sanh tận, phạm hạnh thành Việc nên làm đã làm
Không còn trở lui lại.
Ðức Thế Tôn giảng xong
Tôn giả La-hầu-la
Liền hoan hỷ tín thọ
Tâm giải thoát lậu hoặc
Liền hoan hỷ tín thọ
Tâm giải thoát lậu hoặc
Hàng ngàn vị thiên nhân
Cùng theo họ vào rừng
Cùng khởi lên Pháp nhãn
Thấy tất cả những gì
Ðược sinh đều hoại diệt.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
147. Cūḷarāhulovādasuttaṃ
[Mūla]
416. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane
anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho bhagavato rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ
cetaso parivitakko udapādi : ''paripakkā kho
rāhulassa vimuttiparipācanīyā dhammā. Yaṃnūnāhaṃ rāhulaṃ uttariṃ āsavānaṃ
khaye vineyyanti. Atha kho Bhagavā
pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi.
Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto āyasmantaṃ rāhulaṃ
āmantesi : ''gaṇhāhi, rāhula, nisīdanaṃ yena andhavanaṃ tenupasaṅkamissāma
divāvihārāyāti . ''Evaṃ, bhanteti kho āyasmā rāhulo bhagavato paṭissutvā
nisīdanaṃ ādāya bhagavantaṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandhi. Tena kho pana samayena
anekāni devatāsahassāni bhagavantaṃ anubandhāni honti : ''ajja Bhagavā āyasmantaṃ rāhulaṃ uttariṃ
āsavānaṃ khaye vinessatīti. Atha kho Bhagavā
andhavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle paññatte āsane nisīdi. Āyasmāpi
kho rāhulo bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho
āyasmantaṃ rāhulaṃ Bhagavā
etadavoca :
417. ''Taṃ kiṃ maññasi,
rāhula, cakkhu niccaṃ vā aniccaṃ vāti? ''aniccaṃ, bhante . ''Yaṃ panāniccaṃ
dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti? ''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ,
kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ : 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ,
bhante. ''Taṃ kiṃ maññasi, rāhula, rūpā niccā vā aniccā vāti? ''aniccā, bhante.
''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti? ''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ
dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ
samanupassituṃ : 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ,
bhante. ''Taṃ kiṃ maññasi, rāhula, cakkhuviññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vāti?
''aniccaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti? ''dukkhaṃ,
bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ
: 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Taṃ kiṃ maññasi,
rāhula, cakkhusamphasso nicco vā anicco vāti? ''anicco, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ,
dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti? ''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ,
kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ : 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Taṃ kiṃ maññasi, rāhula,
yamidaṃ [yampidaṃ (sī. ka.)] cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ
tampi niccaṃ vā aniccaṃ vāti ? ''aniccaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ, dukkhaṃ vā
taṃ sukhaṃ vāti? ''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ,
kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ : 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ,
bhante.
418. ''Taṃ kiṃ maññasi
rāhula, sotaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vāti? ''aniccaṃ, bhante - pe - ghānaṃ niccaṃ vā
aniccaṃ vāti? ''aniccaṃ, bhante - pe - jivhā niccā vā aniccā vāti? ''aniccā,
bhante - pe - kāyo nicco vā anicco vāti? ''anicco, bhante - pe - mano nicco vā
anicco vāti? ''anicco, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti?
''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ
samanupassituṃ :'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Taṃ
kiṃ maññasi rāhula, dhammā niccā vā aniccā vāti? ''aniccā, bhante. ''Yaṃ
panāniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti? ''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ
dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ : 'etaṃ mama,
esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Taṃ kiṃ maññasi rāhula, manoviññāṇaṃ niccaṃ vā
aniccaṃ vāti? ''aniccaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti?
''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ
samanupassituṃ : 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ, bhante.
''Taṃ kiṃ maññasi rāhula, manosamphasso nicco vā anicco vāti? ''anicco, bhante.
''Yaṃ panāniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti? ''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ
panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ : 'etaṃ
mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Taṃ kiṃ maññasi, rāhula,
yamidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ
viññāṇagataṃ, tampi niccaṃ vā aniccaṃ vāti? ''aniccaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ,
dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti? ''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ kallaṃ
nu taṃ samanupassituṃ : 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ,
bhante.
419. ''Evaṃ passaṃ,
rāhula, sutavā ariyasāvako cakkhusmiṃ [cakkhusmimpi (syā. kaṃ.) evamitaresupi]
nibbindati, rūpesu nibbindati, cakkhuviññāṇe nibbindati, cakkhusamphasse
nibbindati, yamidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ
viññāṇagataṃ tasmimpi nibbindati. Sotasmiṃ
nibbindati, saddesu nibbindati - pe - , ghānasmiṃ nibbindati, gandhesu
nibbindati... jivhāya nibbindati, rasesu nibbindati... kāyasmiṃ nibbindati, phoṭṭhabbesu
nibbindati... manasmiṃ nibbindati, dhammesu nibbindati, manoviññāṇe nibbindati,
manosamphasse nibbindati, yamidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ
viññāṇagataṃ tasmimpi nibbindati. Nibbindaṃ virajjati, virāgā vimuccati.
Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. 'Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ
karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānātīti.
Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā rāhulo
bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti. Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne
āyasmato rāhulassa anupādāya āsavehi cittaṃ vimucci. Tāsañca anekānaṃ
devatāsahassānaṃ virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi : 'yaṃ kiñci
samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhammanti.
Cūḷarāhulovādasuttaṃ niṭṭhitaṃ pañcamaṃ.
-ooOoo-
147.
Rāhulovādasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
416. Evaṃ me sutanti rāhulovādasuttaṃ. Tattha vimuttiparipācanīyāti vimuttiṃ paripācentīti vimuttiparipācanīyā. Dhammāti pannarasa dhammā. Te
saddhindriyādīnaṃ visuddhikāraṇavasena veditabbā. Vuttañhetaṃ –
‘‘Assaddhe puggale
parivajjayato, saddhe puggale sevato bhajato payirupāsato pasādanīye suttante
paccavekkhato imehi tīhākārehi saddhindriyaṃ visujjhati. Kusīte puggale
parivajjayato āraddhavīriye puggale sevato bhajato payirupāsato sammappadhāne
paccavekkhato imehi tīhākārehi vīriyindriyaṃ visujjhati. Muṭṭhassatī puggale
parivajjayato upaṭṭhitassatī puggale sevato bhajato payirupāsato satipaṭṭhāne
paccavekkhato imehi tīhākārehi satindriyaṃ visujjhati. Asamāhite puggale
parivajjayato samāhite puggale sevato bhajato payirupāsato jhānavimokkhe
paccavekkhato imehi tīhākārehi samādhindriyaṃ visujjhati. Duppaññe puggale
parivajjayato paññavante puggale sevato bhajato payirupāsato gambhīrañāṇacariyaṃ
paccavekkhato imehi tīhākārehi paññindriyaṃ visujjhati. Iti ime pañca puggale
parivajjayato pañca puggale sevato bhajato payirupāsato pañca suttantakkhandhe
paccavekkhato imehi pannarasahi ākārehi imāni pañcindriyāni visujjhantī’’ti (paṭi.
ma. 1.185).
Aparepi pannarasa dhammā
vimuttiparipācanīyā – saddhādīni pañcimāni indriyāni, aniccasaññā, anicce
dukkhasaññā, dukkhe anattasaññā, pahānasaññā, virāgasaññāti, imā pañca
nibbedhabhāgiyā saññā, meghiyattherassa kathitā kalyāṇamittatādayo
pañcadhammāti. Kāya pana velāya bhagavato etadahosīti. Paccūsasamaye lokaṃ
volokentassa.
419. Anekānaṃ devatāsahassānanti āyasmatā
rāhulena padumuttarassa bhagavato pādamūle pālitanāgarājakāle patthanaṃ paṭṭhapentena
saddhiṃ patthanaṃ paṭṭhapitadevatāyeva. Tāsu pana kāci bhūmaṭṭhakā devatā, kāci
antalikkhakā, kāci cātumahārājikā, kāci devaloke, kāci brahmaloke nibbattā.
Imasmiṃ pana divase sabbā ekaṭṭhāne andhavanasmiṃyeva sannipatitā. Dhammacakkhunti upāliovāda- (ma. ni.
2.69) dīghanakhasuttesu (ma. ni. 2.206) paṭhamamaggo dhammacakkhunti vutto,
brahmāyusutte (ma. ni. 2.395) tīṇi phalāni, imasmiṃ sutte cattāro maggā,
cattāri ca phalāni dhammacakkhunti veditabbāni. Tattha hi kāci devatā sotāpannā
ahesuṃ, kāci sakadāgāmī, anāgāmī, khīṇāsavā. Tāsañca pana devatānaṃ ettakāti gaṇanavasena
paricchedo natthi. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Rāhulovādasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Tại sao một người có đầy đủ duyên lành để giác ngộ nhưng trong kiếp sau cùng phải chờ đến lúc thích hợp thí dụ Tôn giả Ràhula phải chờ tới năm 18 tuổi? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Có gì một người ưa thích mùi hương và một người chấp thủ mùi hương là ta, là của ta, là tụ ngã của ta? - TT Pháp Đăng
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment