Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: ĐĐ Pháp Tín
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 5/6/2020
143. Kinh Giáo giới Cấp Cô Ðộc
(Anàthapindikovàda sutta)
Cấp Cô Độc có nghĩa là quới nhân của kẻ bần hàn cô độc.
Đây là hảo danh người đời đặt cho ông Sudatta vì tấm lòng nhân ái của ông. Ông
là đệ nhất nam cư sĩ của Đức Phật. Bài kinh nầy được Tôn giả Sāriputta
(Xá-lợi-phất) giảng giải khi cư sĩ Cấp Cô Độc trong giờ phút sắp lâm chung về
pháp quán chiếu vô ngã.
1173. Tấm lòng của một đệ tử một đời tận tuỵ
Ông Cấp Cô Độc trong giờ lâm chung cho người đến đảnh
lễ Phật nhưng không muốn làm phiền Ngài mà nhờ thỉnh Tôn giả Sāriputta
(Xá-lợi-phất) khai thị trong giờ phú cuối. Tôn giả không đi một mình vì tư cách
của một tỳ kheo đến nhà cư sĩ ngoài giờ thích hợp (…). Tôn giả Ananda, thị giả
của Đức Phật, đã đi chung nói lên sự quý trọng của chư Tăng đối với một đệ tử cư
sĩ hữu tâm
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn
trú ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana, (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika
(Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị
trọng bệnh. Rồi cư sĩ Cấp Cô Ðộc gọi một người:
-- Hãy đến đây, này
Bạn. Hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân
Thế Tôn và bạch như sau: "Bạch Thế Tôn, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh,
khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế
Tôn". Rồi đi đến Tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất), sau khi đến, nhân
danh ta cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sāriputta và thưa như sau: "Thưa
Tôn giả, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc
xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sāriputta và thưa như sau: "Thưa Tôn
giả, lành thay, nếu Tôn giả Sāriputta vì lòng từ mẫn, đi đến trú xứ của
cư sĩ Cấp Cô Ðộc".
-- Thưa vâng, Tôn
giả.
Người ấy vâng đáp
cư sĩ Cấp Cô Ðộc, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ chân Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn,
cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Xin cúi đầu đảnh
lễ chân Thế Tôn.
Rồi người ấy đi
đến Tôn giả Sāriputta, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả Sāriputta rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy thưa với Tôn giả Sāriputta:
-- Thưa Tôn giả,
cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, xin cúi đầu đảnh
lễ Tôn giả Sāriputta và thưa như sau: "Thưa Tôn giả, tốt lành thay,
nếu Tôn giả Sāriputta vì lòng từ mẫn đi đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô Ðộc".
Tôn giả Sāriputta im
lặng nhận lời. Rồi Tôn giả Sāriputta đắp y, cầm y bát, cùng với Tôn
giả Ānanda là thị giả, đi đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô Ðộc, sau khi
đến liền ngồi lên chỗ đã soạn sẵn.
1174. Liều thuốc mạnh
của tuệ quán cho người đang mang bệnh khổ trầm trọng của thân xác
Thấy cư sĩ Cấp Cô
Ðộc đang bị khổ thọ khốc liệt của thân, Tôn giả Sāriputta chọn một bài pháp về
vô ngã nhưng pháp quán niệm thường được thực hành bởi người bệnh có trình độ tu
tập:
Sau khi ngồi, Tôn
giả Sāriputta nói với cư sĩ Cấp Cô Ðộc.
-- Này Cư sĩ, ta
mong rằng Ông có thể kham nhẫn; Ta mong rằng Ông có thể chịu đựng. Ta
mong rằng khổ thọ được giảm thiểu, không gia tăng, sự giảm thiểu
được rõ rệt, không có gia tăng.
-- Thưa Tôn giả Sāriputta,
con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Sự khổ thống
của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có
giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sāriputta, ví như một người lực sĩ chém đầu
(một người khác) với một thanh kiếm sắc bén; cũng vậy, thưa Tôn giả
Sāriputta, những ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu con.
Thưa Tôn giả Sāriputta, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu
đựng. Những khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia
tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sāriputta, như một
người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi
xiết chặt; cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, con cảm thấy bị đau đầu
một cách kinh khủng. Thưa Tôn giả Sāriputta, con không có thể kham nhẫn,
con không có thể chịu đựng. Những khổ thống của con gia tăng, không có
giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả
Sariputta, như một người đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ tể
cắt ngang bụng với một con dao cắt thịt bò sắc bén; cũng vậy, thưa
Tôn giả Sāriputta, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của con. Thưa
Tôn giả Sāriputta, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu
đựng.
Những khổ thống
của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có
giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sāriputta, ví như hai người lực sĩ, sau khi
nắm cánh tay của một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người
ấy trên một hố than hừng; cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, một sức
nóng kinh khủng khởi lên trong thân con. Thưa Tôn giả Sāriputta, con không
có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những thống khổ của con gia
tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.
-- Do vậy, này Cư
sĩ hãy học tập như sau: " Tôi sẽ không chấp thủ con mắt, và tôi
sẽ không có thức y cứ vào con mắt". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ
tai, và tôi sẽ không có thức y cứ vào tai". Này Cư sĩ, hãy học tập
như vậy. Do vậy... không chấp thủ mũi... y cứ vào mũi... hãy học tập
như vậy. Do vậy... không chấp thủ lưỡi... y cứ vào lưỡi.... hãy học
tập như vậy. Do vậy... không chấp thủ thân... y cứ vào thân... hãy học
tập như vậy. Do vậy... không chấp thủ ý... y cứ vào ý... hãy học tập
như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ,
hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ hình dạng, và tôi sẽ
không có thức y cứ vào hình dạng". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy... không chấp thủ tiếng... y cứ vào tiếng... hãy học tập như vậy.
Do vậy... không chấp thủ hương... y cứ vào hương... hãy học tập như
vậy. Do vậy.... không chấp thủ vị... y cứ vào vị... hãy học tập như vậy.
Do vậy... không chấp thủ xúc... y cứ vào xúc... hãy học tập như vậy. Do
vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ pháp,
và tôi sẽ không có thức y cứ vào pháp". Này Cư sĩ, hãy học tập như
vậy.
Do vậy, này Cư sĩ,
hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ nhãn thức, và tôi sẽ
không có thức y cứ vào nhãn thức". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy... "Tôi sẽ không chấp thủ nhĩ thức... Tôi sẽ không chấp
thủ tỷ thức... Tôi sẽ không chấp thủ thiệt thức... Tôi sẽ không chấp
thủ thân thức... Tôi sẽ không chấp thủ ý thức, và tôi sẽ không có thức
y cứ vào ý thức". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ,
hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ nhãn xúc, và tôi sẽ
không có thức y cứ vào nhãn xúc". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy... "Tôi sẽ không chấp thủ nhĩ xúc... Tôi sẽ không chấp thủ
tỷ xúc... Tôi sẽ không chấp thủ thiệt xúc... Tôi sẽ không chấp thủ thân
xúc.. Tôi sẽ không chấp thủ ý xúc, và tôi sẽ không có thức y cứ vào ý
xúc". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ,
hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ thọ do nhãn xúc sanh
khởi, và tôi sẽ không có thức y cứ vào thọ do nhãn xúc sanh khởi".
Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy... "Tôi sẽ không chấp thủ
thọ do nhĩ xúc sanh khởi... Tôi sẽ không chấp thủ thọ do tỷ xúc sanh
khởi... Tôi sẽ không chấp thủ thọ do thiệt xúc sanh khởi... Tôi sẽ
không chấp thủ thọ do thân xúc sanh khởi... Tôi sẽ không chấp thủ thọ
do ý xúc sanh khởi và tôi sẽ không có thức y cứ vào thọ do ý xúc sanh
khởi". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ,
hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ địa giới, và tôi sẽ
không có thức y cứ vào địa giới". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy... "Tôi sẽ không chấp thủ thủy giới... Tôi sẽ không chấp
thủ hỏa giới... Tôi sẽ không chấp thủ phong giới... Tôi sẽ không chấp
thủ hư không giới... Tôi sẽ không chấp thủ thức giới, và tôi sẽ không
có thức y cứ vào thức giới". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ,
hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ sắc, và tôi sẽ không
có thức y cứ vào sắc". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy...
"Tôi sẽ không chấp thủ thọ... Tôi sẽ không chấp thủ tưởng... Tôi
sẽ không chấp thủ hành... Tôi sẽ không chấp thủ thức và tôi sẽ không có
thức y cứ vào thức giới". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ,
hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ Hư không vô biên xứ,
và tôi sẽ không có thức y cứ vào Hư không vô biên xứ". Này Cư sĩ,
hãy học tập như vậy. Do vậy... "Tôi sẽ không chấp thủ Thức vô
biên xứ... Tôi sẽ không chấp thủ Vô sở hữu xứ... Tôi sẽ không chấp
thủ Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tôi sẽ không có thức y cứ vào Phi
tưởng phi phi tưởng xứ". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ,
hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ thế giới ở đây và tôi
sẽ không có thức y cứ vào thế giới ở đây". Này Cư sĩ, hãy học tập
như vậy. Do vậy... "Tôi sẽ không chấp thủ thế giới khác, và tôi
sẽ không có thức y cứ vào thế giới khác". Này Cư sĩ, hãy học tập
như vậy.
Do vậy, này Cư sĩ,
hãy học tập như sau: "Tôi sẽ không chấp thủ những gì được thấy,
được nghe, được cảm thọ, được nhận thức, được hy cầu, được tư
sát với ý, và tôi sẽ không có thức y cứ vào các pháp (nói trên)". Này
Cư sĩ, hãy học tập như vậy.
1175. Con tằm đến chết
vẫn còn vương tơ
Cư sĩ Cấp Cô Ðộc
một đời hộ pháp và tha thiết với sự hoằng truyền chánh pháp. Trong giờ phút lâm
chung khi nghe được pháp bảo vi diệu đã thành tâm cung thỉnh chư tăng giảng giải
cho hàng tại gia những đề tài như vậy:
Khi nghe nói vậy,
cư sĩ Cấp Cô Ðộc khóc và chảy nước mắt. Rồi Tôn giả Ānanda nói với cư sĩ Cấp Cô Ðộc:
-- Này Cư sĩ, Ông
đang gượng lên mà sống, hay chìm xuống (cõi chết)?
-- Thưa Tôn giả Ānanda,
con không gượng lên mà sống, con đang chìm xuống cõi chết. Dầu cho bậc
Ðạo sư được con hầu hạ đã lâu và dầu con đã từng gần gũi các vị
Tỷ-kheo tu tập ý lực, con chưa từng được nghe một thời thuyết pháp
như vậy.
-- Này Cư sĩ,
thuyết pháp như vậy không nói cho các hàng cư sĩ mặc áo trắng. Này Cư
sĩ, thuyết pháp như vậy nói cho các hàng xuất gia.
-- Vậy thưa Tôn
giả Sāriputta, hãy thuyết pháp như vậy cho hàng cư sĩ mặc áo trắng.
Thưa Tôn giả Sāriputta, có những Thiện gia nam tử sanh ra với cấu uế
không nhiều, nếu không được nghe pháp, sẽ bị đọa lạc; nhưng nếu
được nghe, họ có thể biết được (Chánh) pháp.
Rồi Tôn giả Sāriputta
và Tôn giả Ānanda sau khi giảng dạy cho cư sĩ Cấp Cô Ðộc với bài
thuyết giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
1176. Kiếp sau vẫn
còn nhớ biết thâm ân giáo hoá
Là một người có công
lớn trong tư cách của một cư sĩ hộ pháp nhưng cư sĩ Cấp Cô Ðộc sau khi sanh
vào thiên giới đã trở về ngôi chùa của mình đã kiến tạo cúng dường để nói lên
niềm tri ân đối với Tam Bảo và đối với Tôn giả Sāriputta:
Rồi cư sĩ Cấp Cô Ðộc, sau khi Tôn giả Sāriputta và Tôn
giả Ānanda ra đi không bao lâu, thân hoại mạng chung, và sau khi thân hoại
mạng chung liền sanh lên cõi Tusitā (Ðâu- suất thiên).
Rồi Thiên tử Cấp
Cô Ðộc, khi đêm đã gần mãn, sau khi chói sáng toàn cảnh Jetavana
(Kỳ-đà-Lâm) với dung sắc thù thắng đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn và đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Cấp Cô Ðộc nói lên với
Thế Tôn bài kệ sau đây:
Rừng Jetavana,
Tốt đẹp phước
lành này,
Ðược chư Thiên,
chúng Tăng,
Thường lui tới an
trú,
Ðược Pháp Vương
trú trì,
Ban hoan hỷ cho ta.
Nghiệp, minh và
Chánh pháp,
Giới, tối thượng
sanh mạng,
Chính nhờ các pháp
trên,
Khiến chúng sanh
thanh tịnh,
Không phải do giai
cấp,
Không phải do tài
sản.
Do vậy bậc Hiền
giả,
Thấy rõ mục đích
mình,
Suy tư pháp chân
chánh,
Ðược thanh tịnh ở
đây.
Như Sāriputta,
Về tuệ, giới,
tịch tịnh,
Bất luận Tỷ-kheo
nào,
Ðã tới bờ bên kia,
Hãy đạt được tối
thắng
Trong những pháp kể
trên.
Thiên tử Cấp Cô Ðộc
nói như vậy. Bậc Ðạo sư tán đồng. Rồi Thiên tử Cấp Cô Ðộc suy nghĩ:
"Bậc Ðạo sư tán đồng ta." Sau khi đảnh lễ Thế Tôn, thân phía
hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ.
Rồi Thế Tôn, khi
đêm ấy đã mãn, gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo,
đêm nay, một vị Thiên tử, khi đêm đã gần mãn, chiếu sáng toàn cảnh
Jetavana với dung sắc thù thắng đã đi đến Ta, sau khi đến đảnh lễ Ta
rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên tử ấy nói lên với Ta bài kệ
sau đây:
Rừng Jetavana,
Tốt đẹp phước
lành này,
Ðược chư Thiên,
chúng Tăng,
Thường lui tới an
trú,
Ðược Pháp Vương
trú trì,
Ban hoan hỷ cho ta.
Nghiệp, minh và
Chánh pháp,
Giới, tối thượng
sanh mạng,
Chính nhờ các pháp
trên,
Khiến chúng sanh
thanh tịnh,
Không phải do giai
cấp,
Không phải do tài
sản.
Do vậy bậc Hiền
giả,
Thấy rõ mục đích
mình,
Suy tư pháp chân
chánh,
Ðược thanh tịnh ở
đây.
Như Sāriputta,
Về tuệ, giới, tịch
tịnh,
Bất luận Tỷ-kheo
nào,
Ðã tới bờ bên kia,
Hãy đạt được tối
thắng
Trong những pháp kể
trên.
Trong những pháp kể
trên.
Nói vậy xong, này
các Tỷ-kheo, vị Thiên tử ấy suy nghĩ: "Bậc Ðạo sư tán đồng ta,
" sau khi đảnh lễ thân phía hữu hướng về Ta, rồi biến mất tại
chỗ.
Khi được nghe nói vậy,
Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, có
phải vị ấy là Thiên tử Cấp Cô Ðộc chăng? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Cấp Cô
Ðộc có lòng tịnh tín bất động đối với Tôn giả Sāriputta.
-- Lành thay, lành
thay, Ānanda! Những gì có thể thành đạt được bởi suy tư đã được đạt
đến, này Ānanda. Chính Cấp Cô Ðộc là vị Thiên tử ấy, không một ai khác.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 143 [tóm
tắt]
Kinh
Giáo Giới Cấp Cô Độc
(Anāthapiṇḍikovāda Sutta)
(M.iii,
258)
Tôn giả Sāriputta
đến thăm bệnh Trưởng giả Cấp Cô Độc và thuyết pháp cho ông.
1/ Hãy học tập
không chấp thủ sáu nội, ngoại xứ: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, và sáu
đối tượng của nó.
2/ Không chấp thủ
sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức,....
3/ Không chấp thủ
sáu xúc thân: nhãn xúc, nhĩ xúc,....
4/ Không chấp thủ
sáu thọ do sáu xúc sanh khởi.
5/ Không chấp thủ
địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
6/ Không chấp thủ
năm uẩn.
7/ Không chấp thủ
bốn cõi Trời: Hư không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu, phi tưởng phi
phi tưởng xứ.
8/ Không chấp thủ
thế giới này hay khác.
9/ Không chấp thủ
những gì được thấy, nghe, cảm thọ, nhận thức, hy cầu, được ý tư
sát, không y cứ vào các pháp ấy.
Sau khi nghe pháp,
Trưởng giả mệnh chung và được sanh lên cõi Đâu suất.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 143 [dàn
ý]
Kinh
Giáo Giới Cấp Cô Độc
(Anāthapiṇḍikovāda Sutta)
(M.iii,
258)
A.
Duyên khởi:
Ông Cấp Cô Độc bị bệnh
nặng, mời Tôn giả Sāriputta đến và cuộc đàm thoại giữa Tôn giả Sāriputta và ông
Cấp Cô Độc bắt đầu.
B.
Chánh kinh:
I. Tôn giả Sāriputta
hỏi thăm bệnh trạng và ông Cấp Cô Độc cho biết bệnh trạng gia tăng khó lòng
kham nhẫn.
II. Tôn giả Sāriputta
khuyên ông nên học tập như sau:
1. Không chấp thủ 6
căn, và không có thức y cứ 6 căn, 6 trần.
2. Không chấp thủ 6
thức và không có thức y cứ vào 6 thức.
3. Không chấp thủ vào
6 xúc và không có thức y cứ vào 6 xúc.
4. Không chấp thủ thọ
do 6 xúc sanh khởi và không có thức y cứ vào thọ do 6 xúc sanh khởi.
5. Không chấp thủ 6
giới (địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới) và không có thức y cứ vào 6 giới.
6. Không chấp thủ 5 uẩn
và không có thức y cứ vào 5 uẩn.
7. Không chấp 4 thiền
vô sắc và không có thức y cứ vào 4 thiền vô sắc.
8. Không chấp thủ thế
giới ở đây, thế giới khác và không có thức y cứ thế giới ở đây và y cứ thế giới
khác.
9. Không chấp thủ những
gì được thấy, được nghe, được cảm thọ... và không có thức y cứ các pháp nói
trên.
III. Sau khi nghe
pháp, Cấp Cô Độc mệnh chung sanh làm thiên nhân đến yết kiến Đức Phật và đọc
lên bài kệ tán thán ba ngôi báu. Đức Phật xác chứng thiên nhân ấy là ông Cấp Cô
Độc.
C. Kết luận:
Tôn giả Ānanda hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 143 [toát
yếu]
Kinh
Giáo Giới Cấp Cô Độc
(Anāthapiṇḍikovāda Sutta)
(M.iii,
258)
I. Toát yếu
Advice to Anathapindika.
The venerable
Sariputta is called to Anāthapiṇḍika’s deathbed and gives him a stirring sermon
on non-attachment.
Lời khuyên trưởng giả Cấp Cô Độc.
Tôn giả Xá-lợi-phất
được mời đến bên tử sàng của trưởng giả.Ngài nói cho ông một pháp thoại gây nhiều
cảm hứng về sự không chấp thủ.
II. Tóm tắt
Trưởng giả Cấp Cô Độc
bệnh nặng, sai người nhân danh ông đến đảnh lễ đức Thế Tôn và đến cầu thỉnh tôn
giả Xá- lợi-phất về trú xứ mình. Tôn giả cùng đi với tôn giả A-nan đến thăm và
thuyết pháp cho ông. Tôn giả dạy ông hãy tu tập như sau: Ta sẽ không chấp thủ mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý, và sẽ không có thức y cứ vào sáu căn; Ta sẽ không chấp
thủ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và sẽ không có thức y cứ vào sáu trần. Ta
sẽ không chấp thủ nhãn thức, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức và sẽ không có thức y
cứ vào sáu cái biết ấy. Ta sẽ không chấp thủ nhãn xúc đến ý xúc (sáu xúc) và sẽ
không có thức y cứ vào sáu xúc; Ta sẽ không chấp thủ sáu thọ (do sáu xúc sanh)
và sẽ không có thức y cứ sáu thọ. Ta sẽ không chấp thủ sáu đại (giới: địa thủy
hỏa phong không thức) và sẽ không có thức y cứ sáu đại. Ta sẽ không chấp thủ 5
uẩn và sẽ không có thức y cứ năm uẩn. Ta sẽ không chấp thủ bốn không và sẽ
không có thức y cứ bốn không (Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu và Phi tưởng
phi phi tưởng). Ta sẽ không chấp thủ thế giới này hay thế giới khác và sẽ không
có thức y cứ vào thế giới này hay thế giới khác. Ta sẽ không chấp thủ những gì
được thấy, nghe, cảm thọ, nhận thức, mong cầu, suy xét, và sẽ không có thức y cứ
vào những pháp ấy.
Nghe xong bài Pháp vi
diệu, cư sĩ Cấp Cô Độc sa nước mắt. Khi tôn giả hỏi ông có sao không, ông đáp
dù đã hầu hạ đức Phật và chư tăng lâu ngày, ông chưa từng nghe một thời pháp
nào như thế. Khi ấy tôn giả cho ông biết rằng pháp này thường không nói cho cư
sĩ mà chỉ nói cho hàng xuất gia. Trưởng giả Cấp Cô Độc xin tôn giả hãy thuyết
pháp như vậy cho hàng cư sĩ, vì có những người ít nhiễm ô có thể hiểu được Pháp
mà nếu không được nghe, họ sẽ bị rơi rụng.
Sau khi hai vị tôn giả
ra về, trưởng giả mệnh chung và sinh lên cõi trời Ðâu-suất. Thiên tử Cấp Cô Độc
khi đêm gần tàn, với dung sắc chói sáng toàn cảnh vườn Kỳ viên, đi đến đảnh lễ
Thế Tôn và nói lên một bài kệ ca ngợi Phật và pháp do Phật thuyết đã giúp chúng
sinh đạt đến thanh tịnh, giải thoát.
II. Chú giải
Kinh này cho thấy
chương trình giảng dạy của Phật và các vị thánh đệ tử đương thời đối với hàng
cư sĩ tại gia. Một người như trưởng giả Cấp Cô Độc mà đến chết mới được nghe
giáo lý vô ngã (tánh không) vi diệu thì đủ biết, giáo lý ấy không thể được truyền
một cách không chọn lựa cho bất cứ ai. Chỉ có những người căn tánh và lòng tin
đã thuần thục mới nên nghe pháp ấy; nếu không, sẽ rất nguy hiểm cho họ.
Vô ngã ở đây được giảng
dạy là không chấp thủ, nghĩa là ý thức không mắc dính vào bất cứ gì thuộc ngoại
giới hay nội tâm. Câu không chấp thủ, không có thức y cứ vào... có thể hiểu như
là không xem đấy là ta, của ta, trong kinh 140.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Trưởng giả Cấp Cô Độc
Lâm bệnh sắp mệnh
chung
Sai người nhân danh
ông
Ðến đảnh lễ đức Phật.
Lại chuyển lời cầu thỉnh
Tôn giả Xá-lợi-phất
Ði đến trú xứ mình.
Tôn giả cùng A-nan
Ðến thăm và thuyết
pháp
Dạy ông hãy tu tập:
Ta sẽ không chấp thủ
Vào mắt, tai, mũi, lưỡi,
Thân và ý (sáu căn)
Và sẽ không có thức
Y cứ vào sáu căn;
Ta sẽ không chấp thủ
Vào sắc, thanh,
hương, vị,
Xúc và pháp (sáu trần)
Và sẽ không có thức
Y cứ vào sáu trần.
Ta sẽ không chấp thủ
Vào các thức: nhĩ, tỉ,
Thiệt, thân, và ý thức
Và sẽ không có thức
Y cứ sáu cái biết.
Ta sẽ không chấp thủ
Nhãn xúc đến ý xúc
Và sẽ không có thức
Y cứ vào sáu xúc;
Ta sẽ không chấp thủ
Sáu thọ do xúc sanh
Và sẽ không có thức
Y cứ vào sáu thọ.
Ta sẽ không chấp thủ
Sáu đại: địa thủy hỏa
Phong không và thức đại
Và sẽ không có thức
Y cứ sáu đại này.
Ta sẽ không chấp thủ
Sắc thọ tưởng hành thức
Và sẽ không có thức
Y cứ vào năm uẩn.
Ta sẽ không chấp thủ
Vào Không vô biên xứ...
Vào Thức vô biên xứ
Vào Vô sở hữu xứ
Vào Phi tưởng phi phi
Và sẽ không có thức
Y cứ vào bốn không.
Ta sẽ không chấp thủ
Thế giới này hay khác
Và sẽ không có thức
Y cứ đời này khác.
Ta sẽ không chấp thủ
Những gì được thấy,
nghe,
Cảm thọ hoặc nhận thức,
Mong cầu hay suy xét,
Và sẽ không có thức
Y cứ những pháp này.
Nghe xong Pháp vi diệu,
Trưởng giả Cấp Cô Độc
Ðột nhiên sa nước mắt:
Dù con đã hầu hạ
Phật và tỷ kheo tăng
Trong một thời gian
dài
Con chưa từng được
nghe
Thời pháp nào như thế.
Tôn giả bảo ông rằng
Pháp này chỉ được nói
Cho những vị xuất
gia.
Trưởng giả Cấp Cô Độc
Xin tôn giả từ nay
Hãy thuyết pháp như vậy
Cho cư sĩ tại gia,
Vì cũng có những người
Chỉ vướng ít bụi đời
Sẽ hiểu được chánh
pháp
Và khỏi bị rụng rơi.
Sau trưởng giả mệnh
chung
Sinh lên trời Ðâu-suất
Khi đêm đã gần tàn,
Với dung sắc chói
sáng
Toàn cảnh vườn Kỳ
viên,
Ðến đảnh lễ Thế Tôn
Nói lên một bài kệ
Ca ngợi Phật và Pháp
Ðã giúp nhiều chúng
sinh
Ðạt thanh tịnh, giải
thoát.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
143. Anāthapiṇḍikovādasuttaṃ
[Mūla]
383. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane
anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena anāthapiṇḍiko gahapati ābādhiko
hoti dukkhito bāḷhagilāno. Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati aññataraṃ purisaṃ
āmantesi : ''ehi tvaṃ, ambho purisa, yena Bhagavā tenupasaṅkama upasaṅkamitvā mama vacanena bhagavato pāde
sirasā vandāhi [vandāhi evañca vadehi (sabbattha) aññasuttesu pana natthi] :
'anāthapiṇḍiko, bhante, gahapati ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. So bhagavato
pāde sirasā vandatīti. Yena cāyasmā sāriputto tenupasaṅkama upasaṅkamitvā mama
vacanena āyasmato sāriputtassa pāde sirasā vandāhi [vandāhi evañca vadehi
(sabbattha) aññasuttesu pana natthi] : 'anāthapiṇḍiko, bhante, gahapati
ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. So āyasmato sāriputtassa pāde sirasā vandatīti.
Evañca vadehi : 'sādhu kira, bhante, āyasmā sāriputto yena anāthapiṇḍikassa
gahapatissa nivesanaṃ tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyāti. ''Evaṃ, bhanteti kho
so puriso anāthapiṇḍikassa gahapatissa paṭissutvā yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ
nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so puriso bhagavantaṃ etadavoca : ''anāthapiṇḍiko,
bhante, gahapati ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. So bhagavato pāde sirasā
vandatīti. Yena cāyasmā sāriputto tenupasaṅkami upasaṅkamitvā āyasmantaṃ
sāriputtaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so puriso āyasmantaṃ sāriputtaṃ
etadavoca : ''anāthapiṇḍiko, bhante, gahapati ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. So
āyasmato sāriputtassa pāde sirasā vandati evañca vadeti : 'sādhu kira, bhante,
āyasmā sāriputto yena anāthapiṇḍikassa
gahapatissa nivesanaṃ tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyāti. Adhivāsesi kho āyasmā sāriputto tuṇhībhāvena.
384. Atha kho āyasmā
sāriputto nivāsetvā pattacīvaramādāya āyasmatā ānandena pacchāsamaṇena yena
anāthapiṇḍikassa gahapatissa nivesanaṃ tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho
āyasmā sāriputto anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ etadavoca : ''kacci te, gahapati,
khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ? kacci te dukkhā vedanā paṭikkamanti, no
abhikkamanti paṭikkamosānaṃ paññāyati, no abhikkamoti? ''na me, bhante
sāriputta, khamanīyaṃ na yāpanīyaṃ. Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti
abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamo. Seyyathāpi, bhante sāriputta, balavā
puriso tiṇhena sikharena muddhani
[muddhānaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] abhimattheyya [abhimantheyya (sī. pī.)] evameva
kho me, bhante sāriputta, adhimattā vātā muddhani [ohananti (syā. kaṃ.)]
ūhananti [adhimattā vātā sīlaṃ parikantanti (sī. syā. kaṃ.)]. Na me, bhante
sāriputta, khamanīyaṃ na yāpanīyaṃ. Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti
abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamo. Seyyathāpi, bhante sāriputta, balavā
puriso daḷhena varattakhaṇḍena sīse sīsaveṭhaṃ dadeyya evameva kho me, bhante
sāriputta, adhimattā sīse sīsavedanā. Na me, bhante sāriputta, khamanīyaṃ na
yāpanīyaṃ. Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti abhikkamosānaṃ
paññāyati, no paṭikkamo. Seyyathāpi, bhante sāriputta, dakkho goghātako vā
goghātakantevāsī vā tiṇhena govikantanena kucchiṃ parikanteyya evameva kho me,
bhante sāriputta, adhimattā vātā kucchiṃ parikantanti. Na me, bhante sāriputta,
khamanīyaṃ na yāpanīyaṃ. Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti
abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamo. Seyyathāpi, bhante sāriputta, dve
balavanto purisā dubbalataraṃ purisaṃ nānābāhāsu gahetvā aṅgārakāsuyā
santāpeyyuṃ, samparitāpeyyuṃ evameva kho me, bhante sāriputta, adhimatto
kāyasmiṃ ḍāho. Na me, bhante sāriputta, khamanīyaṃ na yāpanīyaṃ. Bāḷhā me
dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti
abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamoti.
385. ''Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na cakkhuṃ
upādiyissāmi, na ca me cakkhunissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te,
gahapati, sikkhitabbaṃ. ''Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na sotaṃ
upādiyissāmi, na ca me sotanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na ghānaṃ
upādiyissāmi, na ca me ghānanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te,
gahapati, sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na jivhaṃ
upādiyissāmi, na ca me jivhānissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te,
gahapati, sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na kāyaṃ
upādiyissāmi, na ca me kāyanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na manaṃ
upādiyissāmi, na ca me manonissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbaṃ. ''Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na rūpaṃ
upādiyissāmi, na ca me rūpanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na saddaṃ
upādiyissāmi - pe - na gandhaṃ upādiyissāmi... na rasaṃ upādiyissāmi... na phoṭṭhabbaṃ
upādiyissāmi... na dhammaṃ upādiyissāmi na
ca me dhammanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbaṃ. ''Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na cakkhuviññāṇaṃ
upādiyissāmi, na ca me cakkhuviññāṇanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te,
gahapati, sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na
sotaviññāṇaṃ upādiyissāmi... na ghānaviññāṇaṃ upādiyissāmi... na jivhāviññāṇaṃ
upādiyissāmi... na kāyaviññāṇaṃ upādiyissāmi... na manoviññāṇaṃ upādiyissāmi na
ca me manoviññāṇanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbaṃ. ''Tasmātiha te, gahapati,
evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na cakkhusamphassaṃ upādiyissāmi, na ca me cakkhusamphassanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na sotasamphassaṃ
upādiyissāmi... na ghānasamphassaṃ upādiyissāmi... na jivhāsamphassaṃ
upādiyissāmi... na kāyasamphassaṃ upādiyissāmi... na manosamphassaṃ
upādiyissāmi, na ca me manosamphassanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te,
gahapati, sikkhitabbaṃ. ''Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na
cakkhusamphassajaṃ vedanaṃ upādiyissāmi, na ca me
cakkhusamphassajāvedanānissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te , gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na sotasamphassajaṃ
vedanaṃ upādiyissāmi... na ghānasamphassajaṃ vedanaṃ upādiyissāmi... na
jivhāsamphassajaṃ vedanaṃ upādiyissāmi... na kāyasamphassajaṃ vedanaṃ
upādiyissāmi... na manosamphassajaṃ vedanaṃ upādiyissāmi, na ca me
manosamphassajāvedanānissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbaṃ.
386. ''Tasmātiha te,
gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na pathavīdhātuṃ upādiyissāmi, na ca me
pathavīdhātunissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati, sikkhitabbaṃ.
Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na āpodhātuṃ upādiyissāmi... na
tejodhātuṃ upādiyissāmi... na vāyodhātuṃ upādiyissāmi... na ākāsadhātuṃ
upādiyissāmi... na viññāṇadhātuṃ upādiyissāmi, na ca me viññāṇadhātunissitaṃ
viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati, sikkhitabbaṃ. ''Tasmātiha te,
gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na rūpaṃ upādiyissāmi, na ca me rūpanissitaṃ
viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati, sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te,
gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na vedanaṃ upādiyissāmi... na saññaṃ
upādiyissāmi... na saṅkhāre upādiyissāmi... na viññāṇaṃ upādiyissāmi, na ca me
viññāṇanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati, sikkhitabbaṃ.
''Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na ākāsānañcāyatanaṃ upādiyissāmi , na ca me
ākāsānañcāyatananissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti . Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na viññāṇañcāyatanaṃ
upādiyissāmi... na ākiñcaññāyatanaṃ
upādiyissāmi... na nevasaññānāsaññāyatanaṃ upādiyissāmi na ca me nevasaññānāsaññāyatananissitaṃ
viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati, sikkhitabbaṃ. ''Tasmātiha te,
gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na idhalokaṃ upādiyissāmi, na ca me
idhalokanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati, sikkhitabbaṃ.
Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'na paralokaṃ upādiyissāmi, na ca
me paralokanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati, sikkhitabbaṃ.
Tasmātiha te, gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ : 'yampi me diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ
viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ anupariyesitaṃ anucaritaṃ manasā tampi na
upādiyissāmi, na ca me taṃnissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti. Evañhi te, gahapati,
sikkhitabbanti.
387. Evaṃ vutte, anāthapiṇḍiko
gahapati parodi, assūni pavattesi. Atha kho āyasmā ānando anāthapiṇḍikaṃ
gahapatiṃ etadavoca : ''olīyasi kho tvaṃ, gahapati, saṃsīdasi kho tvaṃ,
gahapatīti? ''nāhaṃ, bhante ānanda, olīyāmi, napi saṃsīdāmi api ca me
dīgharattaṃ satthā payirupāsito manobhāvanīyā ca bhikkhū na ca me evarūpī
dhammī kathā sutapubbāti. ''Na kho,
gahapati, gihīnaṃ odātavasanānaṃ evarūpī dhammī kathā paṭibhāti pabbajitānaṃ
kho, gahapati, evarūpī dhammī kathā paṭibhātīti. ''Tena hi, bhante sāriputta,
gihīnampi odātavasanānaṃ evarūpī dhammī kathā paṭibhātu. Santi hi, bhante,
kulaputtā apparajakkhajātikā, assavanatā dhammassa parihāyanti bhavissanti
dhammassa aññātāroti. Atha kho āyasmā ca sāriputto āyasmā ca ānando anāthapiṇḍikaṃ
gahapatiṃ iminā ovādena ovaditvā uṭṭhāyāsanā pakkamiṃsu. Atha kho anāthapiṇḍiko
gahapati, acirapakkante āyasmante ca sāriputte āyasmante ca ānande , kālamakāsi
tusitaṃ kāyaṃ upapajji. Atha kho anāthapiṇḍiko devaputto abhikkantāya rattiyā
abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ
obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkami
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ jṭhito kho anāthapiṇḍiko devaputto bhagavantaṃ
gāthāhi ajjhabhāsi :
''Idañhi taṃ jetavanaṃ,
isisaṅghanisevitaṃ.
Āvutthaṃ
dhammarājena, pītisañjananaṃ mama..
''Kammaṃ vijjā ca
dhammo ca, sīlaṃ jīvitamuttamaṃ.
Etena maccā
sujjhanti, na gottena dhanena vā..
''Tasmā hi paṇḍito
poso, sampassaṃ atthamattano.
Yoniso vicine dhammaṃ,
evaṃ tattha visujjhati..
''Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena.
Yopi pāraṅgato
bhikkhu, etāvaparamo siyāti.. Idamavoca anāthapiṇḍiko devaputto. Samanuñño
satthā ahosi. Atha kho anāthapiṇḍiko devaputto : ''samanuñño me satthāti
bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.
388. Atha kho Bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū
āmantesi : ''imaṃ, bhikkhave, rattiṃ aññataro devaputto abhikkantāya rattiyā
abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho so devaputto maṃ gāthāhi
ajjhabhāsi :
''Idañhi taṃ jetavanaṃ,
isisaṅghanisevitaṃ.
Āvutthaṃ
dhammarājena, pītisañjananaṃ mama..
''Kammaṃ vijjā ca
dhammo ca, sīlaṃ jīvitamuttamaṃ.
Etena maccā
sujjhanti, na gottena dhanena vā..
''Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano.
Yoniso vicine dhammaṃ,
evaṃ tattha visujjhati..
''Sāriputtova
paññāya, sīlena upasamena.
Yopi pāraṅgato
bhikkhu, etāvaparamo siyāti.. ''Idamavoca , bhikkhave, so devaputto. 'Samanuñño
me satthāti maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti. Evaṃ vutte, āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca :
''so hi nūna so, bhante, anāthapiṇḍiko devaputto bhavissati. Anāthapiṇḍiko,
bhante, gahapati āyasmante sāriputte abhippasanno ahosīti. ''Sādhu, sādhu,
ānanda! yāvatakaṃ kho, ānanda, takkāya pattabbaṃ, anuppattaṃ taṃ tayā. Anāthapiṇḍiko
so, ānanda, devaputtoti. Idamavoca Bhagavā.
Attamano āyasmā ānando bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.
Anāthapiṇḍikovādasuttaṃ niṭṭhitaṃ paṭhamaṃ.
-ooOoo-
143.
Anāthapiṇḍikovādasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
383. Evaṃ me sutanti anāthapiṇḍikovādasuttaṃ. Tattha bāḷhagilānoti adhimattagilāno maraṇaseyyaṃ upagato. Āmantesīti gahapatissa kira yāva pādā
vahiṃsu, tāva divase sakiṃ vā dvikkhattuṃ vā tikkhattuṃ vā buddhupaṭṭhānaṃ akhaṇḍaṃ
akāsi. Yattakañcassa satthu upaṭṭhānaṃ ahosi, tattakaṃyeva mahātherānaṃ. So
ajja gamanapādassa pacchinnattā anuṭṭhānaseyyaṃ upagato sāsanaṃ pesetukāmo
aññataraṃ purisaṃ āmantesi. Tenupasaṅkamīti
bhagavantaṃ āpucchitvā sūriyatthaṅgamanavelāya upasaṅkami.
384. Paṭikkamantīti osakkanti, tanukā
bhavanti. Abhikkamantīti abhivaḍḍhanti
ottharanti, balavatiyo honti.
Abhikkamosānaṃ paññāyati no paṭikkamoti yasmiñhi samaye māraṇantikā vedanā uppajjati,
uparivāte jalitaggi viya hoti, yāva usmā na pariyādiyati, tāva mahatāpi
upakkamena na sakkā vūpasametuṃ, usmāya pana pariyādinnāya vūpasammati.
385. Athāyasmā sāriputto
cintesi – ‘‘ayaṃ mahāseṭṭhissa vedanā māraṇantikā, na sakkā paṭibāhituṃ,
avasesā kathā niratthakā, dhammakathamassa kathessāmī’’ti. Atha naṃ taṃ
kathento tasmātihātiādimāha.
Tattha tasmāti yasmā cakkhuṃ
tīhi gāhehi gaṇhanto uppannaṃ māraṇantikaṃ vedanaṃ paṭibāhituṃ samattho nāma
natthi, tasmā. Na cakkhuṃ upādiyissāmīti
cakkhuṃ tīhi gāhehi na gaṇhissāmi. Na
ca me cakkhunissitaṃ viññāṇanti viññāṇañcāpi me cakkhunissitaṃ na
bhavissati. Na rūpanti heṭṭhā
āyatanarūpaṃ kathitaṃ, imasmiṃ ṭhāne sabbampi kāmabhavarūpaṃ kathento evamāha.
386. Na idhalokanti vasanaṭṭhānaṃ vā
ghāsacchādanaṃ vā na upādiyissāmīti attho. Idañhi paccayesu aparitassanatthaṃ
kathitaṃ. Na paralokanti ettha
pana manussalokaṃ ṭhapetvā sesā paralokā nāma. Idaṃ – ‘‘asukadevaloke
nibbattitvā asukaṭṭhāne bhavissāmi, idaṃ nāma khādissāmi bhuñjissāmi
nivāsessāmi pārupissāmī’’ti evarūpāya paritassanāya pahānatthaṃ vuttaṃ. Tampi
na upādiyissāmi, na ca me tannissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatīti evaṃ tīhi gāhehi
parimocetvā thero desanaṃ arahattanikūṭena niṭṭhapesi.
387. Olīyasīti attano sampattiṃ disvā
ārammaṇesu bajjhasi allīyasīti. Iti āyasmā ānando – ‘‘ayampi nāma gahapati evaṃ
saddho pasanno maraṇabhayassa bhāyati, añño ko na bhāyissatī’’ti maññamāno
tassa gāḷhaṃ katvā ovādaṃ dento evamāha. Na ca me evarūpī dhammīkathā sutapubbāti ayaṃ upāsako – ‘‘satthu
santikāpi me evarūpī dhammakathā na sutapubbā’’ti vadati, kiṃ satthā evarūpi
sukhumaṃ gambhīrakathaṃ na kathetīti? No na katheti. Evaṃ pana cha ajjhattikāni
āyatanāni cha bāhirāni cha viññāṇakāye cha phassakāye cha vedanākāye cha
dhātuyo pañcakkhandhe cattāro arūpe idhalokañca paralokañca dassetvā diṭṭhasutamutaviññātavasena
arahatte pakkhipitvā kathitakathā etena na sutapubbā, tasmā evaṃ vadati.
Apicāyaṃ upāsako
dānādhimutto dānābhirato buddhānaṃ santikaṃ gacchanto tucchahattho na
gatapubbo. Purebhattaṃ gacchanto yāgukhajjakādīni gāhāpetvā gacchati,
pacchābhattaṃ sappimadhuphāṇitādīni. Tasmiṃ asati vālikaṃ gāhāpetvā gandhakuṭipariveṇe
okirāpeti, dānaṃ datvā sīlaṃ rakkhitvā gehaṃ gato. Bodhisattagatiko kiresa
upāsako, tasmā bhagavā catuvīsati saṃvaccharāni upāsakassa yebhuyyena
dānakathameva kathesi – ‘‘upāsaka, idaṃ dānaṃ nāma bodhisattānaṃ gatamaggo,
mayhampi gatamaggo, mayā satasahassakappādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni dānaṃ
dinnaṃ, tvaṃ mayā gatamaggameva anugacchasī’’ti. Dhammasenāpatiādayo
mahāsāvakāpi attano attano santikaṃ āgatakāle dānakathamevassa kathenti.
Tenevāha na kho gahapati gihīnaṃ
odātavasanānaṃ evarūpī dhammīkathā paṭibhātīti. Idaṃ vuttaṃ hoti –
gahapati gihīnaṃ nāma khettavatthuhiraññasuvaṇṇadāsīdāsaputtabhariyādīsu tibbo
ālayo tibbaṃ nikantipariyuṭṭhānaṃ, tesaṃ – ‘‘ettha ālayo na kātabbo, nikanti na
kātabbā’’ti kathā na paṭibhāti na ruccatīti.
Yena bhagavā tenupasaṅkamīti kasmā upasaṅkami? Tusitabhavane kirassa
nibbattamattasseva tigāvutappamāṇaṃ suvaṇṇakkhandhaṃ viya vijjotamānaṃ
attabhāvaṃ uyyānavimānādisampattiñca disvā – ‘‘mahatī ayaṃ mayhaṃ sampatti, kiṃ
nu kho me manussapathe kammaṃ kata’’nti olokento tīsu ratanesu adhikāraṃ disvā
cintesi ‘‘pamādaṭṭhānamidaṃ devattaṃ nāma, imāya hi me sampattiyā modamānassa
satisammosopi siyā, handāhaṃ gantvā mama jetavanassa ceva bhikkhusaṅghassa ca
tathāgatassa ca ariyamaggassa ca sāriputtattherassa ca vaṇṇaṃ kathetvā tato
āgantvā sampattiṃ anubhavissāmī’’ti. So tathā akāsi. Taṃ dassetuṃ atha kho anāthapiṇḍikotiādi vuttaṃ.
Tattha isisaṅghanisevitanti bhikkhusaṅghanisevitaṃ.
Evaṃ paṭhamagāthāya jetavanassa vaṇṇaṃ kathetvā idāni ariyamaggassa vaṇṇaṃ
kathento kammaṃ vijjā cātiādimāha.
Tattha kammanti maggacetanā. Vijjāti maggapaññā. Dhammoti samādhipakkhiko dhammo. Sīlaṃ jīvitamuttamanti sīle patiṭṭhitassa
jīvitaṃ uttamanti dasseti. Atha vā vijjāti
diṭṭhisaṅkappo. Dhammoti
vāyāmasatisamādhayo. Sīlanti
vācākammantājīvā. Jīvitamuttamanti
etasmiṃ sīle patiṭṭhitassa jīvitaṃ nāma uttamaṃ. Etena maccā sujjhantīti etena aṭṭhaṅgikena maggena sattā
visujjhanti.
Tasmāti yasmā maggena
sujjhanti, na gottadhanehi, tasmā. Yoniso
vicine dhammanti upāyena samādhipakkhiyaṃ dhammaṃ vicineyya. Evaṃ tattha visujjhatīti evaṃ tasmiṃ
ariyamagge visujjhati. Atha vā yoniso
vicine dhammanti upāyena pañcakkhandhadhammaṃ vicineyya. Evaṃ tattha visujjhatīti evaṃ tesu
catūsu saccesu visujjhati.
Idāni
sāriputtattherassa vaṇṇaṃ kathento sāriputto
vātiādimāha. Tattha sāriputto vāti
avadhāraṇavacanaṃ. Etehi paññādīhi sāriputtova seyyoti vadati. Upasamenāti kilesaupasamena. Pāraṅgatoti nibbānaṃ gato. Yo koci
nibbānaṃ patto bhikkhu, so etāvaparamo siyā, na therena uttaritaro nāma atthīti
vadati. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Anāthapiṇḍikovādasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Trong pháp thoại của Tôn giả Sāriputta: Tôi sẽ không chấp thủ ý thức, và tôi sẽ không có thức y cứ vào ý thức". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. (…na manoviññāṇaṃ upādiyissāmi na ca me manoviññāṇanissitaṃ viññāṇaṃ bhavissatī’ti. evañhi te, gahapati, sikkhitabbaṃ). Chữ thức trong mệnh đề: “tôi sẽ không có thức y cứ vào ý thức” ở đây nên hiểu thế nào? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 1. Xin giải thích tại sao trong Kinh ghi nhiều trường hợp sự quán chiếu về vô ngã, về tánh không có hiệu năng giảm thiểu khổ thọ của thân bệnh? - TT Pháp Đăng
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment