Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 7/6/2020
145. Kinh
Giáo Giới Phú-Lâu-Na
(Puṇṇovāda
Sutta)
Tôn giả Puṇṇa nguyên
là một thương buôn đến từ Sunāparanta một vùng châu
thổ của sông Irrawaddy River, gần Pagan Miến Điện ngày nay. Đến Sàvatthi buôn bán
không lâu, Punna phát tâm xuất gia theo Phật. Có lẽ tự biết sức khoẻ có hạn nên
quyết định trở về cố hương và đã thỉnh cầu Đức Phật dạy về pháp hành để tự mình
tu tập. Đức Phật cũng lưu ý về sự bảo thủ cực đoan của những dân Sunāparanta có
thể là trở ngại cho sự tu tập cho Punna. Những gì Tôn giả Punna trả lời trở thành
câu chuyện truyền đời về cái nhìn như lý tác ý.
1181. Lời cầu pháp của
một người cầu tu cầu học
Tự biết bán thế xuất
gia và tuổi đã lớn, Tôn giả Puṇṇa khẩn khoản thỉnh cầu Bậc Đạo Sư chỉ dẫn về
pháp hành:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn
ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-Lâm), tại tịnh xá ông Anāthapiṇḍika
(Cấp Cô Ðộc). Rồi Tôn giả Puṇṇa (Phú-lâu-na),
vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Thế Tôn; sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Tôn giả Puṇṇa bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn,
tốt lành thay nếu Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới vắn tắt cho con,
để con có thể, sau khi nghe Thế Tôn, sống một mình, nhàn tịnh, không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
-- Vậy này Puṇṇa,
hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng. -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Puṇṇa vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
-- Này Puṇṇa, có
những sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ
đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú
trong ấy, thời do hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú, dục hỷ sanh;
và này Puṇṇa, Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi
của khổ. Này Punna, có những tiếng do tai nhận thức; có những hương do
mũi nhận thức; có những vị do lưỡi nhận thức; có những cảm xúc do
thân nhận thức; có những pháp do ý nhận thức; khả ái, khả hỷ, khả
lạc, khả ý liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán
thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ, tán thưởng,
chấp thủ và an trú tham đắm, dục hỷ sanh; và này Puṇṇa. Ta nói rằng, từ
sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ.
Này Puṇṇa, có những
sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, khả ý, liên hệ đến
dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp
thủ và an trú, thời dục hỷ diệt. Này Puṇṇa, Ta nói rằng, tự sự diệt tận
dục hỷ là sự diệt tận đau khổ. Này Puṇṇa, có những tiếng do tai nhận
thức; có những hương do mũi nhận thức; có những vị do lưỡi nhận
thức; có những cảm xúc do thân nhận thức; có những pháp do ý nhận thức,
khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu
Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời
dục hỷ diệt. Này Puṇṇa, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt
tận đau khổ.
1182. Vấn đề đôi khi
không phải là ở cái gì được thấy mà ở góc nhìn
Đức Phật sau khi hướng
dẫn pháp tu đã nêu lên những câu hỏi về trú xứ. Tôn giả Punna đã trả lời bằng
cái nhìn của chánh tư niệm:
Này Puṇṇa, Ông sẽ
sống ở quốc độ nào, nay Ông đã được Ta giáo giới với lời giáo giới
vắn tắt?
-- Bạch Thế Tôn,
nay con đã được Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới vắn tắt, có một
quốc độ tên là Sunāparanta (Tây phương Du-na Quốc), con sẽ sống tại
đấy.
-- Này Punna, người
nước Sunāparanta là hung bạo. Này Punna, người nước Sunaparanta là thô
ác. Này Puṇṇa, nếu người nước Sunaparanta mắng nhiếc Ông, nhục mạ Ông,
thời này Puṇṇa, tại đấy Ông sẽ như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn,
nếu người nước Sunāparanta mắng nhiếc con, nhục mạ con, thời tại
đấy, con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, người nước
Sunaparanta này! Thật là chí thiện, người nước Sunāparanta này! Vì rằng
họ không lấy tay đánh đập ta". Bạch Thế Tôn, tại đây con sẽ nghĩ
như vậy. Bạch Thiện Thế, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
-- Nhưng này Puṇṇa,
nếu các người nước Sunāparanta lấy tay đánh đập Ông, thời này Puṇṇa, tại
đấy Ông sẽ nghĩ như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn,
nếu các người nước Sunāparanta lấy tay đánh đập con; thời tại đấy,
con sẽ nghĩ như sau: ""Thật là thiện, người nước Sunaparanta
này! Thật là chí thiện, người nước Sunāparanta này! Vì rằng họ không
lấy các cục đất ném đánh ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ
như vậy! Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
-- Nhưng này Puṇṇa,
nếu các người nước Sunapa ranta lấy các cục đất ném đánh Ông, thời này
Puṇṇa, tại đấy Ông sẽ nghĩ thế nào?
-- Bạch Thế Tôn,
nếu các người nước Sunāparanta lấy cục đất ném đánh con; thời tại
đấy, con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, các người nước
Sunaparanta! Thật là chí thiện, các người nước Sunāparanta! Vì rằng họ
không lấy gậy đánh đập ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ
như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
-- Nhưng này Puṇṇa,
nếu các người nước Sunapa ranta lấy gậy đánh đập Ông, thời này Puṇṇa,
tại đấy Ông nghĩ thế nào?
-- Bạch Thế Tôn,
nếu các người nước Sunāparanta lấy gậy đánh đập con; thời tại đấy,
con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, các người nước Sunāparanta!
Thật là chí thiện, các người nước Sunāparanta! Vì rằng họ không lấy
dao đánh đập ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
-- Nhưng này Puṇṇa,
nếu các người nước Sunapa ranta lấy dao đánh đập Ông, thời này Puṇṇa,
tại đấy Ông nghĩ thế nào?
-- Bạch Thế Tôn,
nếu các người nước Sunaparanta lấy dao đánh đập con; thời tại đấy,
con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, các người nước Sunāparanta!
Thật là chí thiện, các người nước Sunāparanta! Vì rằng họ không lấy
đao sắc bén đoạt hại mạng ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ
như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
-- Nhưng này Puṇṇa,
nếu các người nước Sunāparanta lấy dao sắc bén đoạt hại mạng Ông,
thời này Puṇṇa, tại đấy Ông nghĩ thế nào?
-- -Bạch Thế Tôn,
nếu các người nước Sunāparanta sẽ lấy dao sắc bén đoạt hại mạng con;
thời tại đấy con sẽ nghĩ như sau: "Có những đệ tử của Thế Tôn,
ưu phiền và nhàm chán thân thể và sinh mạng đi tìm con dao (để tự sát).
Nay ta khỏi cần đi tìm đã được con dao ấy". Bạch Thế Tôn, tại đấy
con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy, con sẽ nghĩ như vậy.
-- Lành thay, lành
thay, này Puṇṇa! Này Puṇṇa, Ông có thể sống trong nước Sunāparanta, khi Ông
có được đầy đủ sự nhiếp phục và an tịnh này. Này Puṇṇa, Ông nay hãy làm
những gì Ông nghĩ là hợp thời.
1183. Là tân tỳ kheo
nhưng có hành trạng của một trưởng tử Như Lai
Mặc dù tu chưa lâu
nhưng Tôn giả Puṇṇa thể hiện đầy đủ những điểm đáng kính trong sự học pháp,
hành pháp, chứng pháp và hoằng pháp:
Rồi Tôn giả Puṇṇa, sau
khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, dọn dẹp sàng tọa, lấy y bát, rồi
ra đi, đi đến nước Sunāparanta. Tiếp tục du hành, (Tôn giả Puṇṇa) đi đến
nước Sunāparanta. Tại đây, Tôn giả Puṇṇa sống trong nước Sunāparanta.
Rồi Tôn giả Puṇṇa nội trong mùa an cư mùa mưa ấy, nhiếp được khoảng
năm trăm nam cư sĩ; cũng trong mùa an cư mùa mưa ấy, nhiếp độ khoảng
năm trăm nữ cư sĩ; cũng trong mùa an cư mùa mưa ấy, chứng được Tam
minh. Sau một thời gian, Tôn giả Puṇṇa mệnh chung.
Rồi một số đông
Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn,
Thiện nam tử Puṇṇa ấy, sau khi được Thế Tôn giáo giới với bài giáo
giới vắn tắt đã mệnh chung. Sanh thú của vị ấy là gì? Ðời sau của vị
ấy là thế nào?
-- Này các Tỷ-kheo,
Thiện nam tử Puṇṇa là bậc Hiền trí. Vị ấy thực hành pháp và tùy pháp.
Vị ấy không phiền nhiễu Ta với những câu hỏi về pháp. Này các Tỷ-kheo,
Thiện nam tử Punna đã nhập Niết-bàn.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
Kinh số 145 [tóm
tắt]
Kinh Giáo Giới Phú-Lâu-Na
(Puṇṇovāda Sutta)
(M.iii,
267)
Tôn giả Puṇṇa đến
xin Thế Tôn giáo giới để có thể sống độc cư nhàn tịnh. Thế Tôn thuyết
pháp cho Tôn giả về thái độ vị Tỷ-kheo khi sáu căn tiếp xúc với sáu
trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nếu có hân hoan thì có đau khổ,
không hân hoan đối với các sắc, thanh, ... khả ái, hấp dẫn... thì không
đau khổ. Sự diệt tận hân hoan là diệt tận đau khổ.
Sau khi thuyết pháp
cho Tôn giả Puṇṇa, Thế Tôn hỏi Tôn giả sẽ sống ở quốc độ nào. Tôn
giả bạch, sẽ đến Sunāparanta (Tây phương Du-na quốc). Đức Phật cho
biết, dân ở đó rất hung ác. Puṇṇa có thể bị chúng mắng nhiếc, vậy thì
sẽ làm sao? Puṇṇa trả lời: “Con sẽ nghĩ, như vậy, chúng còn hiền thiện
vì không đánh bằng tay”. Đức Phật hỏi, nếu chúng đánh bằng tay? Puṇṇa
đáp: “Con nghĩ chúng còn tốt, vì không đánh bằng cục đất”. Đức Phật
hỏi, nếu bị đánh bằng những cục đất? Puṇṇa đáp: “Con nghĩ chúng còn
tốt vì không đánh con bằng gậy”. Đức Phật hỏi, nếu chúng dùng gậy đánh?
–”Con nghĩ chúng vẫn còn tốt, vì không lấy dao đâm”. Đức Phật hỏi, nếu
chúng lấy dao đâm? –”Con nghĩ, chúng còn tốt vì chưa chém con đến nỗi
chết”. Còn nếu chém chết thì sao? –”Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng, có
người nhàm chán thân thể và sinh mạng, đi tìm con dao để tự sát. Nay con
không cần tìm, đã được con dao, con sẽ nghĩ như vậy”.
Khi ấy Thế Tôn khen
Tôn giả Puṇṇa đã đầy đủ sự nhiếp phục và an tịnh, có thể đi đến
nước ấy.
Tôn giả Puṇṇa đến
nước Sunāparanta chỉ trong khoảng mùa mưa đã nhiếp độ được 500 nam
cư sĩ, 500 nữ cư sĩ và chứng Tam minh. Sau một thời gian, Ngài mệnh
chung. Đức Thế Tôn cho biết Tôn giả đã nhập Niết- bàn, không trở lui
đời này nữa.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 145 [tóm
tắt]
Kinh Giáo Giới Phú-Lâu-Na
(Puṇṇovāda Sutta)
(M.iii,
267)
A. Duyên khởi:
Tôn giả Puṇṇa thỉnh
Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt để Tôn giả có thể tinh cần hành trì. Thế Tôn nhận lời.
B. Chánh kinh:
I. Thế Tôn giảng vị Tỷ-kheo
tham đắm năm dục trưởng dưỡng thời khổ sanh, không tham đắm 5 dục trưởng dưỡng
đưa đến khổ diệt.
II. Khi được biết Tôn
giả Puṇṇa sẽ sống ở Sunparanta, Thế Tôn hỏi Tôn giả sẽ phản ứng như thế nào đối
với cách đối đãi bạo ngược của dân vùng ấy. Khi Tôn giả nói lên hạnh kham nhẫn
của mình, Thế Tôn xác chứng Tôn giả Puṇṇa có thể sống tại địa phương ấy.
III. Tôn giả Puṇṇa
hóa độ được 1000 nam cư sĩ, nữ cư sĩ, chứng được 3 minh và mệnh chung.
IV. Thế Tôn xác chứng
Tôn giả Puṇṇa đã nhập Niết-bàn.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 145 [tóm
tắt]
Kinh Giáo Giới Phú-Lâu-Na
(Puṇṇovāda Sutta)
(M.iii,
267)
I. Toát yếu
Advice to Punna.
The bhikkhu Punna
receives a short exhortation from the Buddha and decides to go live among the
fierce people of a remote territory.
Lời khuyên Punna.
Tỷ kheo Punna nhận một
lời khích lệ của Phật và quyết định đến sống giữa dân chúng dữ dằn tại một xứ
xa xôi.
II. Tóm tắt
Tôn giả Phú-lâu-na đến
xin Phật giáo giới vắn tắt trước khi ông đi nhập thất tu hành. Phật dạy có các
sắc do mắt nhận thức có liên hệ đến dục, hấp dẫn; nếu tỷ kheo hoan hỷ, tán thưởng,
chấp thủ, tham đắm trong ấy, hân hoan sanh. Từ sự tập khởi của hân hoan, có tập
khởi của khổ.
Nếu không hoan hỷ,
tán thưởng... thì hân hoan diệt. Từ sự diệt tận của hân hoan có sự diệt tận của
khổ. Ðối với thanh hương vị xúc pháp cũng thế.
Sau khi giáo giới vắn
tắt như vậy, đức Thế Tôn hỏi tôn giả sẽ đi đâu. Tôn giả thưa, sẽ đến xứ Du-na
(Sunāparanta) ở phía tây.
Phật dạy, dân xứ đó rất
thô ác hung bạo, nếu họ mắng nhiếc nhục mạ ông thì sao. Phú-lâu-na đáp: Con sẽ
nghĩ rằng họ vẫn còn hiền, vì họ không dùng tay đánh đập con.
Nếu họ dùng tay đánh
ông thì sao? Bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ họ còn tốt, vì dùng tay đánh chứ không
ném đất vào con.
Nếu họ lại ném đất
vào ngươi? Dạ con sẽ nghĩ họ vẫn còn tốt vì không dùng gậy mà đánh con.
Nếu họ đánh cả gậy?
Thì con sẽ nghĩ họ còn tốt vì chưa dùng dao mà đánh.
Nếu họ đánh con bằng
dao, con sẽ nghĩ họ vẫn còn tốt vì chỉ đánh chứ chưa dùng dao sắc để đoạt mạng
con.
Nếu họ lấy dao sắc
bén đoạt mạng con, con sẽ nghĩ rằng có những đệ tử của Thế Tôn nhàm chán thân
thể và sinh mạng nên đã tìm con dao tự sát. Nay con không cần tìm mà vẫn được
con dao.
Phật dạy Phú-lâu-na,
nếu có đầy đủ sự nhiếp phục và an tịnh ấy, tôn giả có thể đến sống tại xứ kia.
Sau khi đến đấy chỉ trong một mùa an cư, tôn giả đã hóa độ cho nhiều cư dân và
chứng ba minh.
Khi nghe tôn giả mệnh
chung, chúng tỷ kheo đến hỏi Phật chỗ tái sanh của tôn giả. Phật dạy vị ấy đã
nhập Niết-bàn.
III. Chú giải
Do có hân hoan mới có
khổ; không hân hoan thì không khổ. Thái độ không hân hoan này không phải chán đời
mà là hỷ túc: vui với bất cứ hoàn cảnh nào gặp phải; giải thoát mọi ham muốn.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Tôn giả Phú-lâu-na
Ðến xin thỉnh giáo
Phật Trước khi đi tha
phương
Ðể du hành du hóa.
Phật giáo giới vắn tắt:
Các sắc mắt nhận thức
Có liên hệ đến dục,
Khả ái và hấp dẫn;
Nếu tỷ kheo hoan hỷ,
Tán thưởng và chấp thủ
Tham đắm trong sắc ấy,
Thì hân hoan sinh ra.
Do hân hoan, có khổ.
Không đam mê trong đó
Thì hân hoan cũng diệt
Do vui diệt, khổ diệt.
Với thanh hương vị
xúc
Và pháp cũng như vậy.
Rồi đức Thế Tôn hỏi
Tôn giả sẽ đi đâu?
Con đến xứ Du-na
Và sẽ sống tại đấy.
Này hỡi Phú-lâu-na
Dân xứ đó hung ác
Nếu lỡ chúng mắng nhiếc
Nhục mạ ông thì sao?
Bạch Thế Tôn, con
nghĩ
Họ vẫn còn hiền thiện,
Vì không dùng tay
đánh
Nếu họ lại đánh ông?
Con thấy họ còn tốt,
Vì chỉ dùng tay đánh
Không ném đất vào
con.
Nếu ngươi bị ném đất?
Con nghĩ họ còn tốt
Vì không đánh bằng gậy
Nếu họ dùng gậy đánh?
Con sẽ thấy họ tốt
Vì chưa dùng đến dao
Nếu họ đánh bằng dao,
Con nghĩ họ vẫn tốt
Vì không dùng dao bén
Ðến nỗi đoạt mạng
con.
Nếu họ lấy dao bén
Ðoạt mạng sống của
con,
Thì con sẽ nghĩ rằng
Có những đệ tử Phật
Vì nhàm chán thân thể
Tìm con dao tự sát.
Nay con không cần tìm
Mà vẫn được con
dao...
Phật dạy Phú-lâu-na,
Ðầy đủ sự nhiếp phục
Và an tịnh như thế,
Tôn giả có thể đi
Ðến sống tại xứ kia.
Sau một mùa an cư,
Tại xứ Du-na ấy
Tôn giả đã hóa độ
Cho rất nhiều cư dân
Và đã chứng ba minh.
Khi tôn giả mệnh
chung,
Chúng tỷ kheo hỏi
Phật Chỗ tái sanh tôn
giả.
Phật dạy: Phú-lâu-na
Là một bậc hiền giả
Thực hành Pháp, tùy
Pháp
Không phiền nhiễu
Thế Tôn Vị thiện nam
tử ấy
Nay đã nhập Niết-bàn.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
145. Puṇṇovādasuttaṃ
[Mūla]
395. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho āyasmā puṇṇo
sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā puṇṇo
bhagavantaṃ etadavoca : ''sādhu maṃ, bhante, Bhagavā saṃkhittena ovādena
ovadatu, yamahaṃ bhagavato dhammaṃ sutvā eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī
pahitatto vihareyyanti. ''Tena hi, puṇṇa, suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi
bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhanteti kho āyasmā puṇṇo bhagavato paccassosi. Bhagavā
etadavoca : ''santi kho, puṇṇa, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā
kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Taṃ ce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati.
Tassa taṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato uppajjati nandī [nandi (syā.
kaṃ.)]. 'Nandīsamudayā dukkhasamudayo, puṇṇāti vadāmi. ''Santi kho, puṇṇa,
sotaviññeyyā saddā... ghānaviññeyyā gandhā... jivhāviññeyyā rasā...
kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā... manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā
kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Taṃ ce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati.
Tassa taṃ abhinandato abhivadato
ajjhosāya tiṭṭhato uppajjati nandī. 'Nandīsamudayā dukkhasamudayo, puṇṇāti
vadāmi. ''Santi ca kho, puṇṇa,
cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Taṃ ce
bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati. Tassa taṃ anabhinandato
anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato nandī nirujjhati. 'Nandīnirodhā
dukkhanirodho, puṇṇāti vadāmi. ''Santi
ca kho, puṇṇa, sotaviññeyyā saddā... ghānaviññeyyā gandhā... jivhāviññeyyā
rasā... kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā... manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā
piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Taṃ ce
bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati. Tassa taṃ anabhinandato
anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato nandī nirujjhati. 'Nandīnirodhā
dukkhanirodho, puṇṇāti vadāmi. ''Iminā ca tvaṃ puṇṇa, mayā saṃkhittena ovādena
ovadito katarasmiṃ janapade viharissasīti? ''imināhaṃ, bhante, bhagavatā saṃkhittena
ovādena ovadito, atthi sunāparanto nāma janapado, tatthāhaṃ viharissāmīti.
396. ''Caṇḍā kho, puṇṇa,
sunāparantakā manussā pharusā kho, puṇṇa, sunāparantakā manussā. Sace taṃ, puṇṇa,
sunāparantakā manussā akkosissanti paribhāsissanti, tattha te, puṇṇa, kinti
bhavissatīti? ''sace maṃ, bhante, sunāparantakā manussā akkosissanti paribhāsissanti,
tattha me evaṃ bhavissati : 'bhaddakā [bhadrakā (ka.)] vatime
sunāparantakā manussā, subhaddakā vatime
sunāparantakā manussā, yaṃ me nayime pāṇinā pahāraṃ dentīti. Evamettha
[evammettha (?)], Bhagavā, bhavissati evamettha, sugata, bhavissatīti. ''Sace
pana te, puṇṇa, sunāparantakā manussā pāṇinā pahāraṃ dassanti, tattha pana te,
puṇṇa, kinti bhavissatīti? ''sace me, bhante, sunāparantakā manussā pāṇinā
pahāraṃ dassanti, tattha me evaṃ bhavissati : 'bhaddakā vatime sunāparantakā
manussā, subhaddakā vatime sunāparantakā manussā, yaṃ me nayime leḍḍunā pahāraṃ
dentīti. Evamettha, Bhagavā, bhavissati evamettha, sugata, bhavissatīti.
''Sace pana te, puṇṇa, sunāparantakā manussā leḍḍunā pahāraṃ dassanti, tattha
pana te, puṇṇa, kinti bhavissatīti? ''sace me, bhante, sunāparantakā
manussā leḍḍunā pahāraṃ dassanti, tattha
me evaṃ bhavissati : 'bhaddakā vatime sunāparantakā manussā, subhaddakā vatime
sunāparantakā manussā, yaṃ me nayime daṇḍena pahāraṃ dentīti. Evamettha, Bhagavā,
bhavissati evamettha, sugata, bhavissatīti. ''Sace pana te, puṇṇa, sunāparantakā manussā daṇḍena
pahāraṃ dassanti, tattha pana te, puṇṇa, kinti bhavissatīti? ''sace me, bhante,
sunāparantakā manussā daṇḍena pahāraṃ dassanti, tattha me evaṃ bhavissati :
'bhaddakā vatime sunāparantakā manussā, subhaddakā vatime sunāparantakā manussā, yaṃ me nayime satthena
pahāraṃ dentīti. Evamettha, Bhagavā, bhavissati evamettha, sugata,
bhavissatīti. ''Sace pana te, puṇṇa, sunāparantakā manussā satthena pahāraṃ
dassanti, tattha pana te, puṇṇa, kinti bhavissatīti? ''sace me, bhante,
sunāparantakā manussā satthena pahāraṃ dassanti, tattha me evaṃ bhavissati :
'bhaddakā vatime sunāparantakā manussā, subhaddakā vatime sunāparantakā
manussā, yaṃ maṃ [yaṃ me (sī. pī. ka.)] nayime tiṇhena satthena jīvitā voropentīti.
Evamettha, Bhagavā, bhavissati evamettha, sugata, bhavissatīti. ''Sace
pana taṃ, puṇṇa, sunāparantakā manussā tiṇhena satthena jīvitā voropessanti,
tattha pana te, puṇṇa, kinti bhavissatīti? ''sace maṃ, bhante, sunāparantakā
manussā tiṇhena satthena jīvitā voropessanti, tattha me evaṃ bhavissati :
'santi kho bhagavato sāvakā kāye ca jīvite ca aṭṭīyamānā harāyamānā
jigucchamānā satthahārakaṃ pariyesanti. Taṃ me idaṃ apariyiṭṭhaṃyeva
satthahārakaṃ laddhanti. Evamettha, Bhagavā, bhavissati evamettha,
sugata, bhavissatīti. ''Sādhu, sādhu, puṇṇa! sakkhissasi kho tvaṃ, puṇṇa, iminā
damūpasamena samannāgato sunāparantasmiṃ janapade viharituṃ. Yassadāni tvaṃ, puṇṇa,
kālaṃ maññasīti.
397. Atha kho āyasmā puṇṇo
bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ
abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā senāsanaṃ
saṃsāmetvā pattacīvaramādāya yena sunāparanto janapado tena cārikaṃ pakkāmi. Anupubbena cārikaṃ caramāno
yena sunāparanto janapado tadavasari. Tatra sudaṃ āyasmā puṇṇo sunāparantasmiṃ
janapade viharati. Atha kho āyasmā puṇṇo tenevantaravassena pañcamattāni
upāsakasatāni paṭivedesi [paṭipādesi (sī. pī.), paṭidesesi (syā. kaṃ.)],
tenevantaravassena pañcamattāni upāsikasatāni paṭivedesi, tenevantaravassena
tisso vijjā sacchākāsi. Atha kho āyasmā puṇṇo aparena samayena parinibbāyi.
Atha kho sambahulā bhikkhū yena Bhagavā
tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ : ''yo so, bhante, puṇṇo
nāma kulaputto bhagavatā saṃkhittena
ovādena ovadito so kālaṅkato. Tassa kā gati, ko abhisamparāyoti? ''paṇḍito,
bhikkhave, puṇṇo kulaputto paccapādi [saccavādī dhammavādī (ka.)]
dhammassānudhammaṃ, na ca maṃ dhammādhikaraṇaṃ viheṭhesi. Parinibbuto,
bhikkhave, puṇṇo kulaputtoti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te bhikkhū
bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Puṇṇovādasuttaṃ niṭṭhitaṃ tatiyaṃ.
-ooOoo-
145. Puṇṇovādasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
395. Evaṃ me sutanti
puṇṇovādasuttaṃ. Tattha paṭisallānāti ekībhāvā. Taṃ ceti taṃ
cakkhuñceva rūpañca. Nandīsamudayā dukkhasamudayoti nandiyā taṇhāya
samodhānena pañcakkhandhadukkhassa samodhānaṃ hoti. Iti chasu dvāresu dukkhaṃ
samudayoti dvinnaṃ saccānaṃ vasena vaṭṭaṃ matthakaṃ pāpetvā dassesi. Dutiyanaye
nirodho maggoti dvinnaṃ saccānaṃ vasena vivaṭṭaṃ matthakaṃ pāpetvā dassesi. Iminā
ca tvaṃ puṇṇāti pāṭiyekko anusandhi. Evaṃ tāva vaṭṭavivaṭṭavasena desanaṃ
arahatte pakkhipitvā idāni puṇṇattheraṃ sattasu ṭhānesu sīhanādaṃ nadāpetuṃ iminā
ca tvantiādimāha.
396. Caṇḍāti duṭṭhā kibbisā. Pharusāti
kakkhaḷā. Akkosissantīti dasahi akkosavatthūhi akkosissanti. Paribhāsissantīti
kiṃ samaṇo nāma tvaṃ, idañca idañca te karissāmāti tajjessanti. Evametthāti
evaṃ mayhaṃ ettha bhavissati.
Daṇḍenāti catuhatthena daṇḍena vā ghaṭikamuggarena
vā. Satthenāti ekatodhārādinā. Satthahārakaṃ pariyesantīti
jīvitahārakaṃ satthaṃ pariyesanti. Idaṃ thero tatiyapārājikavatthusmiṃ
asubhakathaṃ sutvā attabhāvena jigucchantānaṃ bhikkhūnaṃ satthahārakapariyesanaṃ
sandhāyāha. Damūpasamenāti ettha damoti indriyasaṃvarādīnaṃ etaṃ
nāmaṃ. ‘‘Saccena danto damasā upeto, vedantagū vusitabrahmacariyo’’ti (saṃ. ni.
1.195; su. ni. 467) ettha hi indriyasaṃvaro damoti vutto. ‘‘Yadi saccā damā
cāgā, khantyā bhiyyodha vijjatī’’ti (saṃ. ni. 1.246; su. ni. 191) ettha paññā
damoti vutto. ‘‘Dānena damena saṃyamena saccavajjenā’’ti (dī. ni. 1.166; ma.
ni. 2.226) ettha uposathakammaṃ damoti vuttaṃ. Imasmiṃ pana sutte khanti damoti
veditabbā. Upasamoti tasseva vevacanaṃ.
397. Atha kho āyasmā puṇṇoti
ko panesa puṇṇo, kasmā panettha gantukāmo ahosīti. Sunāparantavāsiko eva eso,
sāvatthiyaṃ pana asappāyavihāraṃ sallakkhetvā tattha gantukāmo ahosi.
Tatrāyaṃ
anupubbikathā – sunāparantaraṭṭhe kira ekasmiṃ vāṇijakagāme ete dve bhātaro.
Tesu kadāci jeṭṭho pañca sakaṭasatāni gahetvā janapadaṃ gantvā bhaṇḍaṃ āharati,
kadāci kaniṭṭho. Imasmiṃ pana samaye kaniṭṭhaṃ ghare ṭhapetvā jeṭṭhabhātiko
pañca sakaṭasatāni gahetvā janapadacārikaṃ caranto anupubbena sāvatthiṃ patvā
jetavanassa nātidūre sakaṭasatthaṃ nivāsetvā bhuttapātarāso parijanaparivuto
phāsukaṭṭhāne nisīdi.
Tena ca samayena
sāvatthivāsino bhuttapātarāsā uposathaṅgāni adhiṭṭhāya suddhuttarāsaṅgā
gandhapupphādihatthā yena buddho yena dhammo yena saṅgho, tanninnā tappoṇā
tappābbhārā hutvā dakkhiṇadvārena nikkhamitvā jetavanaṃ gacchanti. So te disvā
‘‘kahaṃ ime gacchanti’’ti ekamanussaṃ pucchi. Kiṃ tvaṃ ayyo na jānāsi, loke
buddhadhammasaṅgharatanāni nāma uppannāni, iccesa mahājano satthu santike
dhammakathaṃ sotuṃ gacchatīti. Tassa buddhoti vacanaṃ chavicammādīni chinditvā
aṭṭhimiñjaṃ āhacca aṭṭhāsi. Atha attano parijanaparivuto tāya parisāya saddhiṃ
vihāraṃ gantvā satthu madhurassarena dhammaṃ desentassa parisapariyante ṭhito
dhammaṃ sutvā pabbajjāya cittaṃ uppādesi. Atha tathāgatena kālaṃ viditvā
parisāya uyyojitāya satthāraṃ upasaṅkamitvā vanditvā svātanāya nimantetvā
dutiyadivase maṇḍapaṃ kāretvā āsanāni paññapetvā buddhappamukhassa saṅghassa
mahādānaṃ datvā bhuttapātarāso uposathaṅgāni adhiṭṭhāya bhaṇḍāgārikaṃ
pakkosāpetvā, ettakaṃ bhaṇḍaṃ vissajjitaṃ, ettakaṃ na vissajjitanti sabbaṃ
ācikkhitvā – ‘‘imaṃ sāpateyyaṃ mayhaṃ kaniṭṭhassa dehī’’ti sabbaṃ niyyātetvā
satthu santike pabbajitvā kammaṭṭhānaparāyaṇo ahosi.
Athassa kammaṭṭhānaṃ
manasikarontassa kammaṭṭhānaṃ na upaṭṭhāti. Tato cintesi – ‘‘ayaṃ janapado
mayhaṃ asappāyo, yaṃnūnāhaṃ satthu santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā sakaṭṭhānameva
gaccheyya’’nti. Atha pubbaṇhasamaye piṇḍāya caritvā sāyanhasamaye paṭisallānā
vuṭṭhahitvā bhagavantaṃ upasaṅkamitvā kammaṭṭhānaṃ kathāpetvā satta sīhanāde
naditvā pakkāmi. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho āyasmā puṇṇo…pe… viharatī’’ti.
Kattha panāyaṃ
vihāsīti? Catūsu ṭhānesu vihāsi, sunāparantaraṭṭhaṃ tāva pavisitvā ajjuhatthapabbate
nāma pavisitvā vāṇijagāmaṃ piṇḍāya pāvisi. Atha naṃ kaniṭṭhabhātā sañjānitvā
bhikkhaṃ datvā, ‘‘bhante, aññattha agantvā idheva vasathā’’ti paṭiññaṃ kāretvā
tattheva vasāpesi.
Tato samuddagirivihāraṃ
nāma agamāsi. Tattha ayakantapāsāṇehi paricchinditvā katacaṅkamo atthi, taṃ
koci caṅkamituṃ samattho nāma natthi. Tattha samuddavīciyo āgantvā ayakantapāsāṇesu
paharitvā mahāsaddaṃ karonti. Theronaṃ – ‘‘kammaṭṭhānaṃ manasikarontānaṃ
phāsuvihāro hotū’’ti samuddaṃ nissaddaṃ katvā adhiṭṭhāsi.
Tato mātulagiriṃ
nāma agamāsi. Tattha sakuṇasaṅgho ussanno, rattiñca divā ca saddo ekābaddhova
hoti, thero imaṃ ṭhānaṃ aphāsukanti tato makulakārāmavihāraṃ nāma gato.
So vāṇijagāmassa nātidūro naccāsanno gamanāgamanasampanno vivitto appasaddo.
Thero imaṃ ṭhānaṃ phāsukanti tattha rattiṭṭhānadivāṭṭhānacaṅkamanādīni kāretvā
vassaṃ upagacchi. Evaṃ catūsu ṭhānesu vihāsi.
Athekadivasaṃ tasmiṃyeva
antovasse pañca vāṇijasatāni parasamuddaṃ gacchāmāti nāvāya bhaṇḍaṃ pakkhipiṃsu.
Nāvārohanadivase therassa kaniṭṭhabhātā theraṃ bhojetvā therassa santike
sikkhāpadāni gahetvā vanditvā gacchanto, – ‘‘bhante, mahāsamuddo nāma appameyyo
anekantarāyo, amhe āvajjeyyāthā’’ti vatvā nāvaṃ āruhi. Nāvā uttamajavena
gacchamānā aññataraṃ dīpakaṃ pāpuṇi. Manussā pātarāsaṃ karissāmāti dīpake otiṇṇā.
Tasmiṃ dīpe aññaṃ kiñci natthi, candanavanameva ahosi.
Atheko vāsiyā rukkhaṃ
ākoṭetvā lohitacandanabhāvaṃ ñatvā āha – ‘‘bho mayaṃ lābhatthāya parasamuddaṃ
gacchāma, ito ca uttari lābho nāma natthi, caturaṅgulamattā ghaṭikā satasahassaṃ
agghati, hāretabbakayuttaṃ bhaṇḍaṃ hāretvā candanassa pūremā’’ti. Te tathā kariṃsu.
Candanavane adhivatthā amanussā kujjhitvā – ‘‘imehi amhākaṃ candanavanaṃ nāsitaṃ,
ghātessāma ne’’ti cintetvā – ‘‘idheva ghātitesu sabbaṃ vanaṃ ekaṃ kuṇapaṃ
bhavissati, samuddamajjhe nesaṃ nāvaṃ osīdessāmā’’ti āhaṃsu. Atha tesaṃ nāvaṃ
āruyha muhuttaṃ gatakāleyeva uppādikaṃ uṭṭhapetvā sayampi te amanussā
bhayānakāni rūpāni dassayiṃsu. Bhītā manussā attano attano devatā namassanti.
Therassa kaniṭṭho cūḷapuṇṇakuṭumbiko – ‘‘mayhaṃ bhātā avassayo hotū’’ti
therassa namassamāno aṭṭhāsi.
Theropi kira tasmiṃyeva
khaṇe āvajjitvā tesaṃ byasanuppattiṃ ñatvā vehāsaṃ uppatitvā sammukhe aṭṭhāsi.
Amanussā theraṃ disvā ‘‘ayyo puṇṇatthero etī’’ti pakkamiṃsu, uppādikaṃ
sannisīdi. Thero mā bhāyathāti te assāsetvā ‘‘kahaṃ gantukāmatthā’’ti pucchi.
Bhante, amhākaṃ sakaṭṭhānameva gacchāmāti. Thero nāvaṃ phale akkamitvā ‘‘etesaṃ
icchitaṭṭhānaṃ gacchatū’’ti adhiṭṭhāsi. Vāṇijā sakaṭṭhānaṃ gantvā taṃ pavattiṃ
puttadārassa ārocetvā ‘‘etha theraṃ saraṇaṃ gacchāmā’’ti pañcasatā attano
pañcamātugāmasatehi saddhiṃ tīsu saraṇesu patiṭṭhāya upāsakattaṃ paṭivedesuṃ.
Tato nāvāya bhaṇḍaṃ otāretvā therassa ekaṃ koṭṭhāsaṃ katvā – ‘‘ayaṃ, bhante,
tumhākaṃ koṭṭhāso’’ti āhaṃsu. Thero – ‘‘mayhaṃ visuṃ koṭṭhāsakiccaṃ natthi,
satthā pana tumhehi diṭṭhapubbo’’ti. Na diṭṭhapubbo, bhanteti. Tena hi iminā
satthu maṇḍalamāḷaṃ karotha, evaṃ satthāraṃ passissathāti. Te sādhu, bhanteti
tena ca koṭṭhāsena attano ca koṭṭhāsehi maṇḍalamāḷaṃ kātuṃ ārabhiṃsu.
Satthāpi kira
āraddhakālato paṭṭhāya paribhogaṃ akāsi. Ārakkhamanussā rattiṃ obhāsaṃ disvā
‘‘mahesakkhā devatā atthī’’ti saññaṃ kariṃsu. Upāsakā maṇḍalamāḷañca bhikkhusaṅghassa
ca senāsanāni niṭṭhapetvā dānasambhāraṃ sajjetvā – ‘‘kataṃ, bhante, amhehi
attano kiccaṃ, satthāraṃ pakkosathā’’ti therassa ārocesuṃ. Thero sāyanhasamaye
iddhiyā sāvatthiṃ patvā, ‘‘bhante, vāṇijagāmavāsino tumhe daṭṭhukāmā, tesaṃ
anukampaṃ karothā’’ti bhagavantaṃ yāci. Bhagavā adhivāsesi. Thero bhagavato
adhivāsanaṃ viditvā sakaṭṭhānameva paccāgato.
Bhagavāpi ānandatheraṃ
āmantesi, – ‘‘ānanda, sve sunāparante vāṇijagāme piṇḍāya carissāma, tvaṃ
ekūnapañcasatānaṃ bhikkhūnaṃ salākaṃ dehī’’ti. Thero sādhu, bhanteti bhikkhusaṅghassa
tamatthaṃ ārocetvā nabhacārikā bhikkhū salākaṃ gaṇhantūti āha. Taṃdivasaṃ kuṇḍadhānatthero
paṭhamaṃ salākaṃ aggahesi. Vāṇijagāmavāsinopi ‘‘sve kira satthā āgamissatī’’ti
gāmamajjhe maṇḍapaṃ katvā dānaggaṃ sajjayiṃsu. Bhagavā pātova sarīrapaṭijagganaṃ
katvā gandhakuṭiṃ pavisitvā phalasamāpattiṃ appetvā nisīdi. Sakkassa paṇḍukambalasilāsanaṃ
uṇhaṃ ahosi. So kiṃ idanti āvajjetvā satthu sunāparantagamanaṃ disvā vissakammaṃ
āmantesi – ‘‘tāta ajja bhagavā timattāni yojanasatāni piṇḍācāraṃ karissati,
pañca kūṭāgārasatāni māpetvā jetavanadvārakoṭṭhamatthake gamanasajjāni katvā ṭhapehī’’ti.
So tathā akāsi. Bhagavato kūṭāgāraṃ catumukhaṃ ahosi, dvinnaṃ aggasāvakānaṃ
dvimukhāni, sesāni ekamukhāni. Satthā gandhakuṭito nikkhamma paṭipāṭiyā ṭhapitakūṭāgāresu
dhurakūṭāgāraṃ pāvisi. Dve aggasāvake ādiṃ katvā ekūnapañcabhikkhusatānipi kūṭāgāraṃ
gantvā nisinnā ahesuṃ. Ekaṃ tucchakūṭāgāraṃ ahosi, pañcapi kūṭāgārasatāni ākāse
uppatiṃsu.
Satthā
saccabandhapabbataṃ nāma patvā kūṭāgāraṃ ākāse ṭhapesi. Tasmiṃ pabbate
saccabandho nāma micchādiṭṭhikatāpaso mahājanaṃ micchādiṭṭhiṃ uggaṇhāpento
lābhaggayasaggappatto hutvā vasati. Abbhantare cassa antocāṭiyaṃ padīpo viya
arahattassa upanissayo jalati. Taṃ disvā dhammamassa kathessāmīti gantvā dhammaṃ
desesi. Tāpaso desanāpariyosāne arahattaṃ pāpuṇi, maggenevāssa abhiññā āgatā.
Ehibhikkhu hutvā iddhimayapattacīvaradharo hutvā kūṭāgāraṃ pāvisi.
Bhagavā kūṭāgāragatehi
pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ vāṇijagāmaṃ gantvā kūṭāgārāni adissamānāni katvā
vāṇijagāmaṃ pāvisi. Vāṇijā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa mahādānaṃ datvā
satthāraṃ makulakārāmaṃ nayiṃsu. Satthā maṇḍalamāḷaṃ pāvisi. Mahājano yāva
satthā bhattadarathaṃ paṭipassambheti, tāva pātarāsaṃ katvā uposathaṅgāni
samādāya bahuṃ gandhañca pupphañca ādāya dhammassavanatthāya ārāmaṃ
paccāgamāsi. Satthā dhammaṃ desesi. Mahājanassa bandhanamokkho jāto, mahantaṃ
buddhakolāhalaṃ ahosi.
Satthā mahājanassa saṅgahatthaṃ
katipāhaṃ tattheva vasi, aruṇaṃ pana mahāgandhakuṭiyaṃyeva uṭṭhapesi. Tattha
katipāhaṃ vasitvā vāṇijagāme piṇḍāya caritvā ‘‘tvaṃ idheva vasāhī’’ti puṇṇattheraṃ
nivattetvā antare nammadānadī nāma atthi, tassā tīraṃ agamāsi. Nammadānāgarājā
satthu paccuggamanaṃ katvā nāgabhavanaṃ pavesetvā tiṇṇaṃ ratanānaṃ sakkāraṃ
akāsi. Satthā tassa dhammaṃ kathetvā nāgabhavanā nikkhami. So – ‘‘mayhaṃ, bhante,
paricaritabbaṃ dethā’’ti yāci, bhagavā nammadānadītīre padacetiyaṃ dassesi. Taṃ
vīcīsu āgatāsu pidhīyati, gatāsu vivarīyati, mahāsakkārappattaṃ ahosi. Satthā
tato nikkhamma saccabandhapabbataṃ gantvā saccabandhaṃ āha – ‘‘tayā mahājano
apāyamagge otārito, tvaṃ idheva vasitvā etesaṃ laddhiṃ vissajjāpetvā
nibbānamagge patiṭṭhāpehī’’ti. Sopi paricaritabbaṃ yāci. Satthā ghanapiṭṭhipāsāṇe
allamattikapiṇḍamhi lañchanaṃ viya padacetiyaṃ dassesi, tato jetavanameva gato.
Etamatthaṃ sandhāya tenevantaravassenātiādi vuttaṃ.
Parinibbāyīti anupādisesāya nibbānadhātuyā
parinibbāyi. Mahājano therassa satta divasāni sarīrapūjaṃ katvā bahūni gandhakaṭṭhāni
samodhānetvā sarīraṃ jhāpetvā dhātuyo ādāya cetiyaṃ akāsi. Sambahulā bhikkhūti
therassa āḷāhane ṭhitabhikkhū. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Puṇṇovādasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Có nhiều ghi nhận là những người thông minh thường ít kiên nhẫn. Quan niệm đúng hay sai? Phải chăng lý tính khiến chúng ta dễ mất kiên nhẫn hơn là có khả năng chịu đựng? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Cái nhìn tích cực có đồng nghĩa với cái nhìn lạc quan? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 3. Phải chăng ngày xưa chúng ta thường được dạy dỗ tập sống nhẫn nhịn còn thời ngay thì thường khuyến khích "ăn miếng trả miếng"? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 4. Làm thế nào để vận dụng được "như lý tác ý" trong hoàn cảnh bất bình? - ĐĐ Nguyên Thông
Thảo luận 4. Làm thế nào để vận dụng được "như lý tác ý" trong hoàn cảnh bất bình? - ĐĐ Nguyên Thông
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment