Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 17/6/2020
3. Kinh Thừa Tự Pháp
(Dhammadāyāda Sutta)
Kinh Thừa Tự Pháp lấy tên đặt nội dung với lời kêu gọi của Đức Phật đối
với hàng đệ tử hãy kế thừa giá trị pháp bảo và đừng kế thừa giá trị tài vật.
Đoạn sau của bài kinh ghi lại pháp thoại ngắn của Tôn giả Sàriputta giảng về
thế nào là người học trò học theo hạnh đức của thầy tổ.
014. Vị tỳ kheo không ăn cơm của Phật
Ngài kể về chuyện hai tỳ kheo đến diện kiến gặp lúc Đức Thế Tôn vừa thọ
thực xong. Cả hai tỳ kheo đi đường xa đều đói lả. Đức Phật thấy vậy dạy rằng
sau bữa ăn của Ngài vẫn còn lại nếu muốn hai vị có thể ăn. Hai vị có hai cách hưởng
lộc Phật khác nhau:
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana
(Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Khi ở tại chỗ
ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo",
--"Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế
Tôn nói:
-- Này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự
Pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng
thương tưởng các Ngươi và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của
Ta là những người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người
thừa tự tài vật". Và này các Tỷ-kheo, nếu các Ngươi là những
người thừa tự tài vật của Ta, không phải là những người thừa tự
Pháp, thì không những các Ngươi trở thành những người mà người
ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật,
không phải là những người thừa tự Pháp", mà cả Ta cũng trở
thành người mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là những
người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự
Pháp".
Và này các Tỷ-kheo, nếu các Ngươi là những
người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài
vật, thời không những các Ngươi trở thành những người mà người
ta nói: "Cả Thầy và trò là những người thừa tự Pháp, không
phải là những người thừa tự tài vật", mà cả Ta cũng trở
thành người mà người ta nói: "Cả Thầy và trò đều là những
người thừa tự Pháp, không phải là những người thừa tự tài
vật". Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy là những người thừa tự
Pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng
thương tưởng các Ngươi và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của
Ta là những người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người
thừa tự tài vật?".
Này các Tỷ-kheo, ở đây, một thời Ta ăn đã
xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích,
vừa ý, và còn lại đồ ăn tàn thực của Ta đáng được quăng bỏ. Khi
ấy có hai Tỷ-kheo đến, đói lả và kiệt sức. Ta có thể nói với hai
vị ấy: "Này các Tỷ-kheo, Ta ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã
chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý, và còn lại đồ ăn
tàn thực này của Ta đáng được quăng bỏ. Nếu các Ngươi muốn, hãy
ăn đi. Nếu các Ngươi không muốn ăn, Ta sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ
không có cỏ xanh, hay Ta sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh
trong ấy". Rồi một Tỷ-kheo có thể nghĩ như sau: "Nay Thế
Tôn ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm
thỏa thích, vừa ý; và đây là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn, đáng
được quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy
tại chỗ không có cỏ xanh, hay sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng
sanh trong ấy. Nhưng Thế Tôn có dạy như sau: "Này các Tỷ-kheo,
hãy là người thừa tự Pháp của Ta, đừng là người thừa tự tài
vật". Ðây là loại tài vật; món đồ ăn này, ta hãy không ăn loại
đồ ăn này và trải qua đêm ngày hôm nay, bị đói lả và kiệt
sức". Rồi vị ấy không ăn loại đồ ăn này và trải qua đêm ngày
ấy, đói lả và kiệt sức. Tỷ-kheo thứ hai nghĩ như sau: "Thế Tôn
ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa
thích, vừa ý; và đây là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn, đáng được
quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại
chỗ không có cỏ xanh, hay sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh
trong ấy. Vậy ta hãy ăn loại đồ ăn này, trừ bỏ đói lả và kiệt
sức, và trải qua đêm ngày hôm nay như vậy". Rồi vị ấy ăn loại
đồ ăn ấy, trừ bỏ đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm
ấy như vậy. Này các Tỷ-kheo, dầu cho Tỷ-kheo này, sau khi ăn loại
đồ ăn ấy, trừ bỏ đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm
ấy như vậy, nhưng đối với Ta, Tỷ-kheo đầu tiên đáng được kính nể
hơn, và đáng được tán thán hơn. Vì sao vậy? Vì như vậy sẽ đưa
đến cho Tỷ-kheo ấy, trong một thời gian lâu ngày, ít dục, biết đủ,
khổ hạnh, dễ nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự Pháp của Ta, đừng là người thừa tự
tài vật.
015. Ai là người tt sự hưởng gia tài của Đức Phật để
lại?
Tôn
giả Sàriputta là bậc thượng thủ thinh văn đệ tử Phật thường giữ vai trò giáo
thọ giảng dạy giáo pháp cho Tăng chúng thay thế Đức Phật. Bài kinh nầy ghi lại
nhân duyên thường có là Đức Phật giảng dạy cho chư tăng hằng ngày. Nhưng hôm ấy
Đức Thế Tôn nói rất ngắn và sau khi Ngài về tịnh thất thì Tôn giả Sàriputta
tiếp tục. Nói về sự truyền thừa thì Tôn giả nêu lên hai trường hợp áp dụng cho
ba bậc tỳ kheo và hai mô tả về con đường được Đức Phật truyền dạy.
Hai
trường hợp là Bậc Đạo Sư sống viễn ly mà các đệ tử không học theo viễn ly; và
Bậc Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử học
theo viễn ly.
Ba
bậc tỳ kheo là trưởng lão tỳ kheo, trung toạ tỳ kheo và tân tỳ kheo.
Hai
mô tả về hai mô tả về con đường được Đức Phật truyền dạy là con đường Trung Đạo
đối trị ba căn bất thiện tham, sân, si; và con đường Trung Đạo đối sở hành ác
quấy.
Chữ “sống viễn ly” trong phần đầu nên được hiểu là
cách nói tổng quát về đời sống phạm hạnh hay sự tu hành chân thực. :
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nói xong, Thế
Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh xá. Lúc ấy, Tôn giả Sāriputta
(Xá-lợi-phất), sau khi Thế Tôn đi chẳng bao lâu, liền gọi các
Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả Tỷ- kheo!" --"Thưa vâng Hiền
giả", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta
nói:
"Này các Hiền giả, như thế nào vị Ðạo
sư sống viễn ly mà các đệ tử không tùy học viễn ly? Và như thế
nào vị Ðạo sư sống viễn ly và các đệ tử tùy học viễn ly?"
--"Này Hiền giả, chúng tôi từ xa lại để được hiểu nghĩa lý
câu nói này từ Tôn giả Sāriputta. Lành thay, nếu Tôn giả Sariputta
thuyết giảng nghĩa lý câu nói ấy. Sau khi được nghe Tôn giả Sāriputta
thuyết giảng, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì"
--"Chư Hiền, vậy hãy nghe và khéo tác ý,
ta sẽ giảng"
--"Thưa vâng, Hiền giả", những Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta nói như sau:
-- Này chư Hiền, ở đây vị Ðạo Sư sống viễn
ly các đệ tử không tùy học viễn ly. Những pháp nào vị Ðạo Sư dạy
nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ, và họ sống trong sự đầy
đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn
ly.
Này chư Hiền, các Thượng Tọa Tỷ-kheo có ba
trường hợp đáng bị quở trách. Vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử
không tùy học viễn ly. Ðó là trường hợp thứ nhất, các Thượng Tọa
Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và những pháp nào vị Ðạo Sư dạy nên
từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ. Ðó là trường hợp thứ hai,
các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và họ sống đầy đủ,
lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.
Ðó là trường hợp thứ ba, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng bị quở
trách. Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo do ba trường hợp này
đáng bị quở trách.
Này chư Hiền, các Trung tọa Tỷ-kheo có ba
trường hợp đáng bị quở trách, ... (như trên)...
Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo có ba
trường hợp đáng bị quở trách. Vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử
không tùy học viễn ly. Ðó là trường hợp thứ nhất, các vị mới thọ
Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và những pháp nào vị Ðạo Sư dạy nên
từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ. Ðó là trường hợp thứ hai,
các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và họ sống đầy đủ,
lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.
Ðó là trường hợp thứ ba, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị quở
trách. Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo do ba trường hợp này,
đáng bị quở trách.
Này chư Hiền, như vậy là những trường hợp
vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly.
Và như thế nào, vị Ðạo Sư sống viễn ly, các
đệ tử tùy học viễn ly? Này chư Hiền, vị Ðạo Sư sống viễn ly, các
đệ tử tùy học viễn ly. Những pháp nào, vị Ðạo Sư dạy nên từ bỏ,
những pháp ấy họ từ bỏ; và họ không sống trong sự đầy đủ, không
lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về sống
viễn ly.
Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo có ba
trường hợp đáng được tán thán. Vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ
tử tùy học viễn ly. Ðó là trường hợp thứ nhất, các Thượng Tọa
Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và những pháp nào vị Ðạo Sư dạy nên
từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ. Ðó là trường hợp thứ hai, các
Thượng tọa Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và họ không sống trong sự
đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn
đầu về sống viễn ly. Ðó là trường hợp thứ ba, các Thượng Tọa
Tỷ-kheo đáng được tán thán. Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo
do ba trường hợp này, đáng được tán thán.
Này chư Hiền, các Trung tọa Tỷ-kheo có ba
trường hợp đáng được tán thán. ... (như trên)...
Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo có ba
trường hợp đáng được tán thán. Vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ
tử tùy học viễn ly. Ðó là trường hợp thứ nhất, các vị mới thọ
Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và những pháp nào vị Ðạo Sư dạy nên
từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ. Ðó là trường hợp thứ hai, các vị
mới thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và họ không sống trong sự đầy
đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu
về viễn ly. Ðó là trường hợp thứ ba, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng
được tán thán. Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo do ba trường
hợp này, đáng được tán thán.
Này chư Hiền, như vậy là những trường hợp
vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly.
016. Di sản thật sự của Đức Từ Phụ
Chính là con đường trung đạo. Ở đây được mô tả vởi hai
phần: pháp cần từ bỏ và pháp phải huân tu:
Ở đây, này chư Hiền, tham là ác pháp, và sân
cũng là ác pháp, có một con đường Trung đạo diệt trừ tham và diệt
trừ sân, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến
tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này chư Hiền con
đường Trung đạo ấy là gì - (con đường) khiến (tịnh) nhãn sanh,
khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết-bàn? Ðó là con đường Thánh tám ngành, tức là: Chánh tri kiến,
Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn,
Chánh niệm, Chánh định. Này chư Hiền, đó là con đường Trung đạo,
khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh,
thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Ở đây, này chư Hiền, phẫn nộ là ác pháp và
hiềm hận cũng là ác pháp, giả dối là ác pháp và não hại cũng là
ác pháp, tật đố là ác pháp và xan lẫn cũng là ác pháp, man trá
là ác pháp và phản bội cũng là ác pháp, ngoan cố là ác pháp và
bồng bột nông nổi cũng là ác pháp, mạn là ác pháp và tăng
thượng mạn cũng là ác pháp, kiêu là ác pháp và phóng dật cũng
là ác pháp. Có một con đường Trung đạo diệt trừ kiêu và diệt trừ
phóng dật, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến
tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này chư Hiền, con
đường Trung đạo ấy là gì - (con đường) khiến (tịnh) nhãn sanh,
khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết-bàn? Ðó là con đường Thánh tám ngành, tức là: Chánh tri kiến,
Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn,
Chánh niệm, Chánh định. Này chư Hiền, đó là con đường Trung đạo
khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh,
thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Tôn giả Sāriputta thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời giảng của Tôn giả Sāriputta.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 3 [tóm tắt]
Kinh Thừa Tự Pháp
(Dhammadāyāda Sutta)
(M.i,12)
Thế Tôn ở Sāvatthī,
Jetavana, khu vườn ông Anāthapiṇḍika. Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và
thuyết kinh này. Đức Phật khuyên các Tỷ-kheo hãy thừa tự chánh pháp
của Ngài, đừng thừa tự tài vật của Ngài. Vì đức Phật có lòng
thương các đệ tử nên mới khuyên như vậy. Nếu không vậy thời cả
thầy và đệ tử bị chỉ trích là những người thừa tự tài vật,
không thừa tự chánh pháp.
Rồi đức Phật kể câu chuyện
có hai Tỷ-kheo đến yết kiến Phật, một người nhớ đến lời dạy của
đức Phật, làm người thừa tự chánh pháp, không thừa tự tài vật
của đức Phật, nên dù đức Phật có để lại đồ ăn khất thực dư
thừa, dù bị đói lả và mệt, vị ấy cũng không ăn đồ dư thừa, nên
trải qua một đêm bị đói và kiệt sức. Vị kia thời làm trái lời
Phật dạy, ăn đồ ăn dư thừa và trải qua một đêm thoải mái. Nhưng
đức Phật tán thán vị Tỷ-kheo đầu vì đã nghe lời Phật dạy, không
thừa tự tài vật của đức Phật và thiên về ít dục, biết đủ, dễ
nuôi dưỡng. Thuyết xong đức Phật đi vào tịnh xá.
Rồi Sāriputta thuyết cho các
Tỷ-kheo biết thế nào bậc Đạo sư sống viễn ly, nhưng các đệ tử
không tùy học viễn ly, bậc Đạo sư dạy các pháp môn từ bỏ, nhưng
các đệ tử không nghe, sống sung túc, lười biếng. Có ba trường hợp
các Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, niên thiếu đáng bị quở trách:
1. Vị Đạo sư sống viễn ly,
các đệ tử không tùy học viễn ly;
2. Các pháp bậc Đạo sư dạy
nên từ bỏ, các đệ tử không từ bỏ;
3. Các đệ tử sống đầy đủ,
lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.
Có ba trường hợp, các
Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, thiếu niên được tán thán (tức là
trái lại với ba trường hợp trên).
Rồi Sāriputta kể một số
pháp ác: tham và sân, phẫn nộ và hiềm hận, gièm pha và não hại, tật
đố và xan tham, man trá và phản bội, ngoan cố và bồng bột, mạn và
tăng thượng mạn, kiêu và phóng dật (lobho doso, kodho upanāho,
makkho phalāso, issā macheram, māyā sāthayyam, thambho sārambho, māno,
atimāno, mado pamādo: mười sáu pháp), có con đường Trung đạo,
diệt trừ mười sáu ác pháp này khiến nhãn sanh, trí sanh, hướng
đến tịch tịnh, thắng trí, Niết-bàn, tức là con đường Chánh đạo
Tám chi, từ Chánh tri kiến đến Chánh định.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích
Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 3 [dàn ý]
Kinh Thừa Tự Pháp
(Dhammadāyāda Sutta)
(M.i,12)
A. Duyên khởi:
Đức Phật gọi các Tỷ-kheo và thuyết giảng.
B. Chánh kinh:
I. Lời
thuyết giảng của Đức Phật.
1. Hãy thừa tự chánh pháp của Ngài, đừng thừa tự tài vật.
2. Đức Phật kể câu chuyện 2 Tỷ-kheo, một vị thừa tự chánh pháp được
Đức Phật tán thán, một vị thừa tự tài vật nên bị chê.
II. Lời
giải thích của Tôn giả Sāriputta.
1. Ba trường hợp các Trưởng lão, trung niên và tân học Tỷ-kheo bị
quở trách.
a. Vị đạo sư sống viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly.
b. Các pháp bậc Đạo sư dạy nên từ bỏ, các đệ tử không từ bỏ.
c. Các đệ tử sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đoạ lạc, từ bỏ
gánh nặng viễn ly.
2. Ba trường hợp các trưởng lão, trung niên, tân học Tỷ-kheo được
tán thán.
3. Ngài Sāriputta kể đến 16 ác
pháp và con đường đưa đến đoạn trừ 16 ác pháp ấy.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 3 [toát yếu]
Kinh Thừa Tự Pháp
(Dhammadāyāda Sutta)
(M.i,12)
I. Toát
yếu
Dhammadāyāda Sutta - Heir in the
dhamma.
The Buddha enjoins the Bhikkhus to
be heirs in the Dhamma, not heirs in material things. The venerable Sāriputta
then continues on the same theme by explaining how disciples should train
themselves to become the Buddhás heir in the Dhamma.
Những người thừa kế Chánh
pháp.
Phật khuyến khích chư tỳ kheo hãy là những
người thừa hưởng gia tài Pháp của Ngài chứ không phải thừa hưởng
của cải vật chất. Sau đó tôn giả Xá-lợi-phất tiếp tục đề tài này
bằng cách giải thích làm thế nào các đệ tử cần phải tu tập để
trở thành
những vị thừa kế của Phật
trong lĩnh vực Pháp.
II. Tóm
tắt
Phật nói kinh này vì có nhiều
tỳ kheo khởi tâm ưa thích danh dự lợi dưỡng mà quên việc tu tập
viễn ly. Ngài thường thao thức mong sao đệ tử Ngài sẽ là những
người thừa kế Pháp thay vì thừa kế vật chất. Nếu đệ tử trở thành
kẻ thừa kế vật chất thì cả thầy lẫn trò đều mang tiếng. Người
nào y theo lời Phật dạy mà hành trì, sống thiểu dục tri túc, thì
dễ nuôi, đáng được kính nể.
Tiếp theo, tôn giả Xá-lợi-phất
triển khai lời dạy vắn tắt của Phật như sau. Có hai trường hợp:
một là đạo sư sống viễn ly mà đệ tử không học theo; hai là đệ tử
học theo bậc đạo sư sống viễn ly, gồm ba việc: 1. Thực hành viễn ly;
2. Từ bỏ những gì Phật dạy cần phải từ bỏ; 3. Không sống buông
lung, lười biếng. Tỳ kheo nào, dù thuộc hàng thượng tọa thâm niên,
hay trung tọa, hay hạ tọa mới tu, nếu làm ba việc ấy là đáng tán
thán, làm ngược lại thì đáng quở trách.
Các pháp cần từ bỏ gồm 16:
- Tham, sân, phẫn nộ, hiềm hận, - giả dối, não
hại, tật đố, xan lẫn,
- man trá, phản bội, ngoan cố, bồng bột,
- ngã mạn, tăng thượng, tự kiêu, phóng dật.
III. Chú
giải
Viễn ly gồm ba là: thân viễn ly, tức cư trú nơi
núi rừng; tâm viễn ly là thiểu dục tri túc; hữu viễn ly là
xa lìa tham đắm ba cõi.
Về 16 pháp, bản Anh ngữ:
- Greed, hate, anger, revenge,
- contempt (khinh miệt), domineering attitude (thống
trị), envy, avarice,
- deceit, fraud, obstinacy, presumption,
- conceit, arrogance, vanity, negligence.
Ðấy là những pháp mà bậc đạo
sư dạy đệ tử cần phải từ bỏ, vì chúng làm nên những người thừa
tự tài vật. Từ bỏ chúng, đào luyện tám chánh đạo thì sẽ thành
những người thừa tự Pháp của Ngài, hướng đến Niết-bàn tịch tịnh.
IV. Pháp
số
Ba việc đáng quở trách nơi đệ
tử: bậc Ðạo
sư sống viễn ly, đệ tử không học theo; những gì đạo sư dạy từ bỏ
đệ tử không từ bỏ; sống dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng
viễn ly.
Ba việc đáng tán thán là học theo bậc Ðạo sư, sống
viễn ly; từ bỏ những gì Phật dạy từ bỏ; không lười biếng mà bỏ
rơi gánh nặng đọa lạc, dẫn đầu về viễn ly.
Ba viễn ly: thân, tâm và hữu.
Thánh đạo tám ngành: Chánh kiến, Chánh tư duy,
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm,
Chánh định.
V. Kệ
tụng
1. Ðệ tử thừa kế Pháp
Hơn thừa
tự vật chất
Nếu chỉ
thừa hưởng vật,
Làm mang
tiếng cả thầy.
2. Thừa tự Pháp nghĩa là
Những gì
Phật dạy bỏ Ðệ tử hãy từ bỏ,
Tức là mười sáu pháp:
Tức là mười sáu pháp:
tham lam và giận dữ
phẫn nộ và hiềm hận
giả dối và não hại
tật đố và xan lẫn
man trá và phản bội
ngoan mê và bồng bột
ngã mạn và tăng thượng
phóng dật và tự kiêu.
3. Từ bỏ mười sáu pháp
Ðào luyện tám thánh đạo
Xứng kẻ thừa tự Pháp
Hưởng Niết-bàn an vui.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
3.Dhammadāyādasuttaṃ
[Mūla]
29. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca : ''dhammadāyādā me, bhikkhave, bhavatha, mā āmisadāyādā.
Atthi me tumhesu anukampā : 'kinti me sāvakā dhammadāyādā bhaveyyuṃ, no
āmisadāyādāti. Tumhe ca me, bhikkhave, āmisadāyādā bhaveyyātha no dhammadāyādā,
tumhepi tena ādiyā [ādissā (sī. syā. pī.)] bhaveyyātha : 'āmisadāyādā
satthusāvakā viharanti, no dhammadāyādāti ahampi tena ādiyo bhaveyyaṃ :
'āmisadāyādā satthusāvakā viharanti, no dhammadāyādāti. Tumhe ca me, bhikkhave,
dhammadāyādā bhaveyyātha, no āmisadāyādā, tumhepi tena na ādiyā bhaveyyātha :
'dhammadāyādā satthusāvakā viharanti, no āmisadāyādāti ahampi tena na ādiyo
bhaveyyaṃ : 'dhammadāyādā satthusāvakā viharanti, no āmisadāyādāti. Tasmātiha
me, bhikkhave, dhammadāyādā bhavatha, mā āmisadāyādā. Atthi me tumhesu anukampā : 'kinti me sāvakā
dhammadāyādā bhaveyyuṃ, no āmisadāyādāti.
30. ''Idhāhaṃ,
bhikkhave, bhuttāvī assaṃ pavārito paripuṇṇo pariyosito suhito yāvadattho siyā ca me piṇḍapāto
atirekadhammo chaḍḍanīyadhammo [chaḍḍiyadhammo (sī. syā. pī.)]. Atha dve
bhikkhū āgaccheyyuṃ jighacchādubbalya- [jighacchādubballa (sī. pī.)] paretā .
Tyāhaṃ evaṃ vadeyyaṃ : 'ahaṃ khomhi, bhikkhave, bhuttāvī pavārito paripuṇṇo
pariyosito suhito yāvadattho atthi ca me ayaṃ piṇḍapāto atirekadhammo chaḍḍanīyadhammo.
Sace ākaṅkhatha, bhuñjatha, no ce tumhe bhuñjissatha [sace tumhe na
bhuñjissatha (sī. syā. pī.)], idānāhaṃ appaharite vā chaḍḍessāmi, appāṇake vā
udake opilāpessāmīti. Tatrekassa bhikkhuno evamassa : 'Bhagavā kho
bhuttāvī pavārito paripuṇṇo pariyosito suhito yāvadattho atthi cāyaṃ bhagavato
piṇḍapāto atirekadhammo chaḍḍanīyadhammo. Sace mayaṃ na bhuñjissāma, idāni Bhagavā
appaharite vā chaḍḍessati, appāṇake vā udake opilāpessati . Vuttaṃ kho panetaṃ
bhagavatā : 'dhammadāyādā me, bhikkhave, bhavatha, mā āmisadāyādāti.
Āmisaññataraṃ kho panetaṃ, yadidaṃ piṇḍapāto. Yaṃnūnāhaṃ imaṃ piṇḍapātaṃ abhuñjitvā
imināva jighacchādubbalyena evaṃ imaṃ rattindivaṃ [rattidivaṃ (ka.)]
vītināmeyyanti. So taṃ piṇḍapātaṃ abhuñjitvā teneva jighacchādubbalyena evaṃ taṃ
rattindivaṃ vītināmeyya. Atha dutiyassa bhikkhuno evamassa : 'Bhagavā
kho bhuttāvī pavārito paripuṇṇo pariyosito suhito yāvadattho atthi cāyaṃ
bhagavato piṇḍapāto atirekadhammo chaḍḍanīyadhammo. Sace mayaṃ na bhuñjissāma,
idāni Bhagavā appaharite vā chaḍḍessati, appāṇake vā udake opilāpessati. Yaṃnūnāhaṃ imaṃ piṇḍapātaṃ
bhuñjitvā jighacchādubbalyaṃ paṭivinodetvā [paṭivinetvā (sī. syā. pī.)] evaṃ
imaṃ rattindivaṃ vītināmeyyanti. So taṃ piṇḍapātaṃ bhuñjitvā jighacchādubbalyaṃ
paṭivinodetvā evaṃ taṃ rattindivaṃ vītināmeyya. Kiñcāpi so, bhikkhave, bhikkhu
taṃ piṇḍapātaṃ bhuñjitvā jighacchādubbalyaṃ paṭivinodetvā evaṃ taṃ rattindivaṃ
vītināmeyya, atha kho asuyeva me purimo bhikkhu pujjataro ca pāsaṃsataro ca. Taṃ
kissa hetu? tañhi tassa, bhikkhave, bhikkhuno dīgharattaṃ appicchatāya santuṭṭhiyā sallekhāya
subharatāya vīriyārambhāya saṃvattissati. Tasmātiha me, bhikkhave, dhammadāyādā
bhavatha, mā āmisadāyādā. Atthi me tumhesu anukampā : 'kinti me sāvakā
dhammadāyādā bhaveyyuṃ, no āmisadāyādāti. Idamavoca Bhagavā. Idaṃ
vatvāna [vatvā (sī. pī.) evamīdisesu ṭhānesu] sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ
pāvisi.
31. Tatra kho
āyasmā sāriputto acirapakkantassa bhagavato bhikkhū āmantesi : ''āvuso
bhikkhaveti. ''Āvusoti kho te bhikkhū
āyasmato sāriputtassa paccassosuṃ. Āyasmā sāriputto etadavoca :
''Kittāvatā nu kho, āvuso, satthu pavivittassa
viharato sāvakā vivekaṃ nānusikkhanti, kittāvatā ca pana satthu pavivittassa
viharato sāvakā vivekamanusikkhantīti? ''dūratopi kho mayaṃ, āvuso,
āgacchāma āyasmato sāriputtassa santike
etassa bhāsitassa atthamaññātuṃ. Sādhu vatāyasmantaṃyeva sāriputtaṃ paṭibhātu
etassa bhāsitassa attho āyasmato sāriputtassa sutvā bhikkhū dhāressantīti.
''Tena hāvuso, suṇātha, sādhukaṃ manasi
karotha, bhāsissāmīti. ''Evamāvusoti kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa
paccassosuṃ. Āyasmā sāriputto etadavoca :
''Kittāvatā nu kho, āvuso, satthu pavivittassa
viharato sāvakā vivekaṃ nānusikkhanti? idhāvuso, satthu pavivittassa viharato
sāvakā vivekaṃ nānusikkhanti, yesañca dhammānaṃ satthā pahānamāha, te ca dhamme
nappajahanti, bāhulikā [bāhullikā (syā.)] ca honti, sāthalikā, okkamane pubbaṅgamā,
paviveke nikkhittadhurā. Tatrāvuso, therā bhikkhū tīhi ṭhānehi gārayhā
bhavanti. 'Satthu pavivittassa viharato sāvakā vivekaṃ nānusikkhantīti : iminā
paṭhamena ṭhānena therā bhikkhū gārayhā bhavanti. 'Yesañca dhammānaṃ satthā
pahānamāha te ca dhamme nappajahantīti : iminā dutiyena ṭhānena therā bhikkhū gārayhā bhavanti.
'Bāhulikā ca, sāthalikā, okkamane pubbaṅgamā, paviveke nikkhittadhurāti : iminā
tatiyena ṭhānena therā bhikkhū gārayhā bhavanti. Therā, āvuso, bhikkhū imehi
tīhi ṭhānehi gārayhā bhavanti. Tatrāvuso, majjhimā bhikkhū - pe - navā bhikkhū
tīhi ṭhānehi gārayhā bhavanti. 'Satthu pavivittassa viharato sāvakā vivekaṃ nānusikkhantīti : iminā paṭhamena
ṭhānena navā bhikkhū gārayhā bhavanti. 'Yesañca dhammānaṃ satthā pahānamāha te
ca dhamme nappajahantīti : iminā dutiyena ṭhānena navā bhikkhū gārayhā
bhavanti. 'Bāhulikā ca honti, sāthalikā, okkamane pubbaṅgamā, paviveke
nikkhittadhurāti : iminā tatiyena ṭhānena navā bhikkhū gārayhā bhavanti. Navā,
āvuso, bhikkhū imehi tīhi ṭhānehi gārayhā bhavanti. Ettāvatā kho, āvuso, satthu
pavivittassa viharato sāvakā vivekaṃ nānusikkhanti.
32. ''Kittāvatā ca,
panāvuso, satthu pavivittassa viharato sāvakā vivekamanusikkhanti ? idhāvuso,
satthu pavivittassa viharato sāvakā vivekamanusikkhanti : yesañca dhammānaṃ
satthā pahānamāha te ca dhamme pajahanti na ca bāhulikā honti, na sāthalikā
okkamane nikkhittadhurā paviveke pubbaṅgamā. Tatrāvuso, therā bhikkhū tīhi ṭhānehi
pāsaṃsā bhavanti. 'Satthu pavivittassa viharato sāvakā vivekamanusikkhantīti :
iminā paṭhamena ṭhānena therā bhikkhū pāsaṃsā bhavanti. 'Yesañca dhammānaṃ
satthā pahānamāha te ca dhamme pajahantīti : iminā dutiyena ṭhānena therā
bhikkhū pāsaṃsā bhavanti. 'Na ca
bāhulikā, na sāthalikā okkamane nikkhittadhurā paviveke pubbaṅgamāti : iminā
tatiyena ṭhānena therā bhikkhū pāsaṃsā bhavanti. Therā, āvuso, bhikkhū imehi
tīhi ṭhānehi pāsaṃsā bhavanti . Tatrāvuso, majjhimā bhikkhū - pe - navā bhikkhū
tīhi ṭhānehi pāsaṃsā bhavanti. 'Satthu pavivittassa viharato sāvakā
vivekamanusikkhantīti : iminā paṭhamena ṭhānena navā bhikkhū pāsaṃsā bhavanti.
'Yesañca dhammānaṃ satthā pahānamāha te ca dhamme pajahantīti : iminā dutiyena ṭhānena
navā bhikkhū pāsaṃsā bhavanti. 'Na ca bāhulikā, na sāthalikā okkamane
nikkhittadhurā paviveke pubbaṅgamāti : iminā tatiyena ṭhānena navā bhikkhū pāsaṃsā
bhavanti. Navā, āvuso, bhikkhū imehi
tīhi ṭhānehi pāsaṃsā bhavanti. Ettāvatā kho, āvuso, satthu pavivittassa
viharato sāvakā vivekamanusikkhanti.
33. ''Tatrāvuso,
lobho ca pāpako doso ca pāpako. Lobhassa ca pahānāya dosassa ca pahānāya atthi
majjhimā paṭipadā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya
nibbānāya saṃvattati. Katamā ca sā, āvuso, majjhimā paṭipadā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī
upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati? ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko
maggo, seyyathidaṃ [seyyathīdaṃ (sī. syā. pī.)] : sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo
sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi. Ayaṃ kho
sā, āvuso, majjhimā paṭipadā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya
sambodhāya nibbānāya saṃvattati.
''Tatrāvuso, kodho ca pāpako upanāho ca pāpako - pe - makkho ca pāpako paḷāso ca
pāpako, issā ca pāpikā maccherañca pāpakaṃ, māyā ca pāpikā sāṭheyyañca pāpakaṃ,
thambho ca pāpako sārambho ca pāpako,
māno ca pāpako atimāno ca pāpako, mado ca pāpako pamādo ca pāpako. Madassa ca
pahānāya pamādassa ca pahānāya atthi majjhimā paṭipadā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī
upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati. Katamā ca sā, āvuso,
majjhimā paṭipadā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya
nibbānāya saṃvattati? ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi
sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati
sammāsamādhi. Ayaṃ kho sā, āvuso, majjhimā
paṭipadā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya
saṃvattatīti. Idamavocāyasmā sāriputto. Attamanā te bhikkhū āyasmato
sāriputtassa bhāsitaṃ abhinandunti.
Dhammadāyādasuttaṃ niṭṭhitaṃ tatiyaṃ.
-ooOoo-
3. Dhammadāyādasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
29. Evaṃ me sutanti
dhammadāyādasuttaṃ. Yasmā panassa aṭṭhuppattiko nikkhepo, tasmā taṃ dassetvā
vassa apubbapadavaṇṇanaṃ karissāma. Katarāya ca panidaṃ aṭṭhuppattiyā
nikkhittanti. Lābhasakkāre. Bhagavato kira mahālābhasakkāro uppajji. Yathā taṃ
cattāro asaṅkhyeyye pūritadānapāramīsañcayassa. Sabbadisāsu yamakamahāmegho vuṭṭhahitvā
mahoghaṃ viya sabbapāramiyo ekasmiṃ attabhāve vipākaṃ dassāmāti sampiṇḍitā viya
lābhasakkāramahoghaṃ nibbattayiṃsu. Tato tato
annapānayānavatthamālāgandhavilepanādihatthā khattiyabrāhmaṇādayo āgantvā –
‘‘kahaṃ buddho, kahaṃ bhagavā, kahaṃ devadevo, narāsabho, purisasīho’’ti
bhagavantaṃ pariyesanti. Sakaṭasatehipi paccaye āharitvā okāsaṃ alabhamānā
samantā gāvutappamāṇampi sakaṭadhurena sakaṭadhuramāhaccatiṭṭhanti ceva
anubandhanti ca. Andhakavindabrāhmaṇādayo viya. Sabbaṃ khandhake tesu tesu
suttesu ca āgatanayeneva veditabbaṃ. Yathā ca bhagavato, evaṃ bhikkhusaṅghassāpi.
Vuttampi cetaṃ – ‘‘tena kho pana samayena bhagavā
sakkato hoti garukato mānito pūjito apacito lābhī cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhārānaṃ,
bhikkhusaṅghopi kho sakkato hoti…pe… parikkhārāna’’nti (udā. 14). Tathā –
‘‘yāvatā kho, cunda, etarahi saṅgho vā gaṇo vā loke uppanno, nāhaṃ, cunda, aññaṃ
ekasaṅghampi samanupassāmi, evaṃ lābhaggayasaggapattaṃ, yathariva, cunda,
bhikkhusaṅgho’’ti (dī. ni. 3.176).
Svāyaṃ bhagavato ca bhikkhusaṅghassa ca uppanno
lābhasakkāro ekato hutvā dvinnaṃ mahānadīnaṃ udakamiva appameyyo ahosi. Kamena
bhikkhū paccayagarukā paccayabāhulikā ahesuṃ. Pacchābhattampi telamadhuphāṇitādīsu
āhaṭesu gaṇḍiṃyeva paharitvā ‘‘amhākaṃ ācariyassa detha, upajjhāyassa dethā’’ti
uccāsaddamahāsaddaṃ karonti. Sā ca nesaṃ pavatti bhagavatopi pākaṭā ahosi. Tato
bhagavā ananucchavikanti dhammasaṃvegaṃ uppādetvā cintesi –
‘‘Paccayā akappiyāti na sakkā sikkhāpadaṃ paññapetuṃ.
Paccayapaṭibaddhā hi kulaputtānaṃ samaṇadhammavutti. Handāhaṃ dhammadāyādapaṭipadaṃ
desemi. Sā sikkhākāmānaṃ kulaputtānaṃ sikkhāpadapaññatti viya bhavissati
nagaradvāre ṭhapitasabbakāyikaādāso viya ca, yathā hi nagaradvāre ṭhapite
sabbakāyike ādāse cattāro vaṇṇā attano chāyaṃ disvā vajjaṃ pahāya niddosā
honti, evameva sikkhākāmā kulaputtā payogamaṇḍanena attānaṃ maṇḍetukāmā imaṃ
sabbakāyikādāsūpamaṃ desanaṃ āvajjitvā āmisadāyādapaṭipadaṃ vajjetvā
dhammadāyādapaṭipadaṃ pūrentā khippameva jātijarāmaraṇassa antaṃ
karissantī’’ti. Imissā aṭṭhuppattiyā idaṃ suttaṃ abhāsi.
Tattha dhammadāyādā me, bhikkhave, bhavatha, mā
āmisadāyādāti dhammassa me dāyādā, bhikkhave, bhavatha, mā āmisassa. Yo
mayhaṃ dhammo, tassa paṭiggāhakā bhavatha, yañca kho mayhaṃ āmisaṃ, tassa mā paṭiggāhakā
bhavathāti vuttaṃ hoti. Tattha dhammopi duvidho – nippariyāyadhammo,
pariyāyadhammoti. Āmisampi duvidhaṃ – nippariyāyāmisaṃ, pariyāyāmisanti. Kathaṃ?
Maggaphalanibbānabhedo hi navavidhopi lokuttaradhammo nippariyāyadhammo
nibbattitadhammo, na yena kenaci pariyāyena kāraṇena vā lesena vā dhammo. Yaṃ
panidaṃ vivaṭṭūpanissitaṃ kusalaṃ, seyyathidaṃ, idhekacco vivaṭṭaṃ patthento
dānaṃ deti, sīlaṃ samādiyati, uposathakammaṃ karoti, gandhamālādīhi vatthupūjaṃ
karoti, dhammaṃ suṇāti deseti jhānasamāpattiyo nibbatteti, evaṃ karonto
anupubbena nippariyāyadhammaṃ amataṃ nibbānaṃ paṭilabhati, ayaṃ pariyāyadhammo.
Tathā cīvarādayo cattāro paccayā nippariyāyāmisameva, na aññena
pariyāyena kāraṇena vā lesena vā āmisaṃ. Yaṃ panidaṃ vaṭṭagāmikusalaṃ,
seyyathidaṃ, idhekacco vaṭṭaṃ patthento sampattibhavaṃ icchamāno dānaṃ deti…pe…
samāpattiyo nibbatteti, evaṃ karonto anupubbena devamanussasampattiṃ paṭilabhati,
idaṃ pariyāyāmisaṃ nāma.
Tattha nippariyāyadhammopi bhagavatoyeva santako.
Bhagavatā hi kathitattā bhikkhū maggaphalanibbānāni adhigacchanti. Vuttampi
cetaṃ ‘‘so hi brāhmaṇa bhagavā anuppannassa maggassa uppādetā, asañjātassa
maggassa sañjanetā, anakkhātassa maggassa akkhātā, maggaññū maggavidū
maggakovido. Maggānugā ca pana etarahi sāvakā viharanti pacchā samannāgatā’’ti
(ma. ni. 3.79) ca – ‘‘so hāvuso, bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati
cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā atthassa ninnetā
amatassa dātā dhammassāmī tathāgato’’ti (ma. ni. 1.203) ca. Pariyāyadhammopi
bhagavatoyeva santako. Bhagavatā hi kathitattā evaṃ jānanti ‘‘vivaṭṭaṃ
patthetvā dānaṃ dento…pe… samāpattiyo nibbattento anukkamena amataṃ nibbānaṃ paṭilabhatī’’ti.
Nippariyāyāmisampi ca bhagavatoyeva santakaṃ. Bhagavatā hi anuññātattāyeva
bhikkhūhi jīvakavatthuṃ ādiṃ katvā paṇītacīvaraṃ laddhaṃ. Yathāha ‘‘anujānāmi,
bhikkhave, gahapaticīvaraṃ. Yo icchati, paṃsukūliko hotu, yo icchati,
gahapaticīvaraṃ sādiyatu. Itarītarenapāhaṃ, bhikkhave, santuṭṭhiṃyeva vaṇṇemī’’ti
(mahāva. 337).
Pubbe ca bhikkhū paṇītapiṇḍapātaṃ nālatthuṃ.
Sapadānapiṇḍiyālopabhojanā evāhesuṃ. Tehi rājagahe viharantena bhagavatā –
‘‘anujānāmi, bhikkhave, saṅghabhattaṃ uddesabhattaṃ nimantanaṃ salākabhattaṃ
pakkhikaṃ uposathikaṃ pāṭipadika’’nti (cūḷava. 325) evaṃ anuññātattāyeva paṇītabhojanaṃ
laddhaṃ. Tathā senāsanaṃ. Pubbe hi akatapabbhārarukkhamūlādisenāsanāyeva
bhikkhū ahesuṃ. Te ‘‘anujānāmi, bhikkhave, pañca leṇānī’’ti (cūḷava. 294) evaṃ
bhagavatā anuññātattāyeva vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhāti imāni
senāsanāni labhiṃsu. Pubbe ca muttaharītakeneva bhesajjaṃ akaṃsu. Te
bhagavatāyeva – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, pañca bhesajjāni, seyyathidaṃ, sappi,
navanītaṃ, telaṃ, madhu, phāṇita’’nti (mahāva. 260) evamādinā nayena
anuññātattā nānābhesajjāni labhiṃsu.
Pariyāyāmisampi bhagavatoyeva santakaṃ. Bhagavatā hi
kathitattā yeva jānanti – ‘‘sampattibhavaṃ patthento dānaṃ datvā sīlaṃ…pe…
samāpattiyo nibbattetvā anukkamena pariyāyāmisaṃ dibbasampattiṃ manussasampattiṃ
paṭilabhatī’’ti. Tadeva, yasmā nippariyāyadhammopi pariyāyadhammopi
nippariyāyāmisampi pariyāyāmisampi bhagavatoyeva santakaṃ, tasmā tattha attano
sāmibhāvaṃ dassento āha – ‘‘dhammadāyādā me, bhikkhave, bhavatha mā
āmisadāyādā’’ti.
Yo mayhaṃ santako duvidhopi dhammo, tassa dāyādā
bhavatha. Yañca kho etaṃ mayhameva santakaṃ āmisaṃ, tassa dāyādā mā bhavatha.
Dhammakoṭṭhāsasseva sāmino bhavatha, mā āmisakoṭṭhāsassa. Yo hi jinasāsane
pabbajitvā paccayaparamo viharati catūsu taṇhuppādesu sandissamāno
nikkhittadhuro dhammānudhammappaṭipattiyaṃ, ayaṃ āmisadāyādo nāma.
Tādisā mā bhavatha. Yo pana anuññātapaccayesu appicchatādīni nissāya paṭisaṅkhā
sevamāno paṭipattiparamo viharati catūsu ariyavaṃsesu sandissamāno, ayaṃ dhammadāyādo
nāma. Tādisā bhavathāti vuttaṃ hoti.
Idāni yesaṃ tattha etadahosi, bhavissati vā
anāgatamaddhānaṃ ‘‘kiṃ nu kho bhagavā sāvakānaṃ alābhatthiko evamāhā’’ti, tesaṃ
atipaṇītalābhatthiko ahaṃ evaṃ vadāmīti dassetumāha atthi me tumhesu…pe… no
āmisadāyādāti.
Tassāyamattho – atthi me tumhesu anukampā anuddayā
hitesitā, kena nu kho kāraṇena kena upāyena sāvakā dhammadāyādā assu dhammakoṭṭhāsasāmino,
no āmisadāyādāti. Ayaṃ pana adhippāyo, passati kira bhagavā āmisagarukānaṃ
āmise upakkhalitānaṃ atītakāle tāva kapilassa bhikkhuno, ‘‘saṅghāṭipi ādittā
hotī’’tiādinā (pārā. 230; saṃ. ni. 2.218) nayena
āgatapāpabhikkhubhikkhunīsikkhamānādīnañca anekasatānaṃ apāyaparipūraṇattaṃ
attano sāsane pabbajitānañca devadattādīnaṃ. Dhammagarukānaṃ pana
sāriputtamoggallānamahākassapādīnaṃ abhiññāpaṭisambhidādiguṇappaṭilābhaṃ. Tasmā
tesaṃ apāyā parimuttiṃ sabbaguṇasampattiñca icchanto āha – ‘‘atthi me tumhesu
anukampā kinti me sāvakā dhammadāyādā bhaveyyuṃ, no āmisadāyādā’’ti.
Paccayagaruko ca catuparisantare kūṭakahāpaṇo viya nibbutaṅgāro viya ca nittejo
nippabho hoti. Tato vivattitacitto dhammagaruko tejavā sīhova abhibhuyyacārī,
tasmāpi evamāha – ‘‘atthi me…pe… no āmisadāyādā’’ti.
Evaṃ ‘‘dhammadāyādā me, bhikkhave, bhavatha, mā
āmisadāyādā’’ti idaṃ anukampāya paṇītataraṃ lābhaṃ icchantena vuttaṃ, no
alābhatthikenāti sāvetvā idāni imassa ovādassa akaraṇe ādīnavaṃ dassento āha
‘‘tumhe ca me, bhikkhave…pe… no dhammadāyādā’’ti. Tattha tumhepi tena ādiyā
bhaveyyāthāti tumhepi tena āmisadāyādabhāvena no dhammadāyādabhāvena ādiyā
bhaveyyātha. Apadisitabbā visuṃ kātabbā vavatthapetabbā, viññūhi gārayhā
bhaveyyāthāti vuttaṃ hoti. Kinti? Āmisadāyādā satthusāvakā viharanti, no
dhammadāyādāti.
Ahampi tena ādiyo bhaveyyanti ahampi tena tumhākaṃ āmisadāyādabhāvena no dhammadāyādabhāvena
gārayho bhaveyyaṃ. Kinti? Āmisa…pe… dāyādāti. Idaṃ bhagavā tesaṃ atīva mudukaraṇatthamāha.
Ayañhi ettha adhippāyo – sace, bhikkhave, tumhe āmisalolā carissatha, tattha
viññū maṃ garahissanti ‘‘kathañhi nāma sabbaññū samāno attano sāvake
dhammadāyāde no āmisadāyāde kātuṃ na sakkotī’’ti. Seyyathāpi nāma
anākappasampanne bhikkhū disvā ācariyupajjhāye garahanti ‘‘kassime
saddhivihārikā, kassantevāsikā’’ti; seyyathā vā pana kulakumārake vā
kulakumārikāyo vā dussīle pāpadhamme disvā mātāpitaro garahanti ‘‘kassime
puttā, kassa dhītaro’’ti; evameva maṃ viññū garahissanti ‘‘kathañhi nāma
sabbaññū samāno attano sāvake dhammadāyāde no āmisadāyāde kātuṃ na sakkotī’’ti.
Evaṃ imassa ovādassa akaraṇe ādīnavaṃ dassetvā karaṇe
ānisaṃsaṃ dassento tumhe ca metiādimāha. Tattha ahampi tena na ādiyo
bhaveyyanti seyyathāpi nāma vattaparipūrake daharabhikkhū
uddesaparipucchāsampanne vassasatikatthere viya ākappasampanne disvā, kassa
saddhivihārikā, kassantevāsikāti, asukassāti, ‘‘patirūpaṃ therassa, paṭibalo
vata ovadituṃ anusāsitu’’nti ācariyupajjhāyā na ādiyā na gārayhā bhavanti,
evameva ahampi tena tumhākaṃ dhammadāyādabhāvena no āmisadāyādabhāvena kassa
sāvakā nālakapaṭipadaṃ tuvaṭṭakapaṭipadaṃ candūpamapaṭipadaṃ rathavinītapaṭipadaṃ
mahāgosiṅgasālapaṭipadaṃ mahāsuññatapaṭipadaṃ paṭipannā
catupaccayasantosabhāvanārāmaariyavaṃsesu sakkhibhūtā paccayagedhato
vivattamānasā abbhā muttacandasamā viharantīti; ‘‘samaṇassa gotamassā’’ti vutte
‘‘sabbaññū vata bhagavā, asakkhi vata sāvake āmisadāyādapaṭipadaṃ chaḍḍāpetvā
dhammadāyādapaṭipattipūrake kātu’’nti viññūnaṃ na ādiyo na gārayho bhaveyyanti.
Evamimasmiṃ pade adhippāyaṃ ñatvā sesaṃ kaṇhapakkhe vuttanayapaccanīkena
veditabbaṃ. Evaṃ imassa ovādassa karaṇe ānisaṃsaṃ dassetvā idāni taṃ ovādaṃ
niyyātento āha – ‘‘tasmā tiha me, bhikkhave…pe… no āmisadāyādā’’ti.
30. Evamimaṃ ovādaṃ niyyātetvā
idāni tassā dhammadāyādapaṭipattiyā paripūrakāriṃ thometuṃ idhāhaṃ,
bhikkhavetiādimāha. Bhagavato hi thomanaṃ sutvāpi hontiyeva tadatthāya paṭipajjitāro.
Tattha idhāti nipātapadametaṃ. Bhuttāvīti
bhuttavā, katabhattakiccoti vuttaṃ hoti. Pavāritoti yāvadatthapavāraṇāya
pavārito, yāvadatthaṃ bhuñjitvā paṭikkhittabhojano tittovāti vuttaṃ hoti.
Catubbidhā hi pavāraṇā vassaṃvuṭṭhapavāraṇā paccayapavāraṇā anatirittapavāraṇā
yāvadatthapavāraṇāti. Tattha, ‘‘anujānāmi bhikkhave, vassaṃvuṭṭhānaṃ bhikkhūnaṃ
tīhi ṭhānehi pavāretu’’nti (mahāva. 209) ayaṃ vassaṃvuṭṭhapavāraṇā.
‘‘Icchāmahaṃ, bhante, saṅghaṃ catumāsaṃ bhesajjena pavāretu’’nti (pāci. 303) ca
‘‘aññatra punapavāraṇāya aññatra niccapavāraṇāyā’’ti (pāci. 307) ca ayaṃ paccayapavāraṇā.
‘‘Pavārito nāma asanaṃ paññāyati, bhojanaṃ paññāyati, hatthapāse ṭhito
abhiharati, paṭikkhepo paññāyati, eso pavārito nāmā’’ti (pāci. 239) ayaṃ anatirittapavāraṇā.
‘‘Paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresī’’ti (dī. ni.
1.297, 358) ayaṃ yāvadatthapavāraṇā. Ayamidha adhippetā. Tena vuttaṃ
‘‘pavāritoti yāvadatthapavāraṇāya pavārito’’ti.
Paripuṇṇoti bhojanena
paripuṇṇo. Pariyositoti pariyositabhojano, uttarapadalopo daṭṭhabbo.
Yāvatakaṃ bhuñjitabbaṃ, tāvatakaṃ bhuttaṃ hoti, avasitā me bhojanakiriyāti
attho. Suhitoti dhāto, jighacchādukkhābhāvena vā sukhitoti vuttaṃ hoti. Yāvadatthoti
yāvatako me bhojanena attho, so sabbo pattoti. Ettha ca purimānaṃ tiṇṇaṃ
pacchimāni sādhakāni. Yo hi pariyosito, so bhuttāvī hoti. Yo ca suhito, so
yāvadatthapavāraṇāya pavārito. Yo yāvadattho, so paripuṇṇoti. Purimāni vā
pacchimānaṃ. Yasmā hi bhuttāvī, tasmā pariyosito. Yasmā pavārito, tasmā suhito.
Yasmā paripuṇṇo, tasmā yāvadatthoti. Sabbañcetaṃ parikappetvā vuttanti
veditabbaṃ.
Siyāti ekaṃse ca
vikappane ca. ‘‘Pathavīdhātu siyā ajjhattikā, siyā bāhirā’’ti (ma. ni. 3.349)
ekaṃse. ‘‘Siyā aññatarassa bhikkhuno āpatti vītikkamo’’ti (ma. ni. 3.39)
vikappane. Idha ubhayampi vaṭṭati. Atirekova atirekadhammo. Tathā chaḍḍanīya
dhammo. Adhiko ca chaḍḍetabbo ca, na aññaṃ kiñci kātabboti attho. Athāti
tamhi kāle. Jighacchādubbalyaparetāti jighacchāya ca dubbalyena ca
paretā phuṭṭhā anugatā ca aṭṭhapi dasapi divasāni. Tattha keci jighacchitāpi na
dubbalā honti, sakkonti jighacchaṃ sahituṃ. Ime pana na tādisāti dassetuṃ
ubhayamāha. Tyāhanti te ahaṃ. Sace ākaṅkhathāti yadi icchatha.
Appahariteti apparuḷhaharite,
yasmiṃ ṭhāne piṇḍapātajjhottharaṇena vinassanadhammāni tiṇāni natthi, tasminti
attho. Tena nittiṇañca mahātiṇagahanaṃ ca, yattha sakaṭenapi chaḍḍite piṇḍapāte
tiṇāni na vinassanti, tañca ṭhānaṃ pariggahitaṃ hoti. Bhūtagāmasikkhāpadassa hi
avikopanatthametaṃ vuttaṃ.
Appāṇaketi nippāṇake piṇḍapātajjhottharaṇena
maritabbapāṇakarahite vā mahāudakakkhandhe. Parittodake eva hi bhattapakkhepena
āḷulite sukhumapāṇakā maranti, na mahātaḷākādīsūti. Pāṇakānurakkhaṇatthañhi etaṃ
vuttaṃ. Opilāpessāmīti nimujjāpessāmi.
Tatrekassāti tesu dvīsu
ekassa. Yo imaṃ dhammadesanaṃ suṭṭhu sutavā punappunaṃ āvajjeti ca, taṃ
sandhāyāha vuttaṃ kho panetanti. Ayaṃ vutta-saddo kesohāraṇepi
dissati ‘‘kāpaṭiko māṇavo daharo vuttasiro’’tiādīsu (ma. ni. 2.426). Ropitepi
‘‘yathā sāradikaṃ bījaṃ, khette vuttaṃ virūhatī’’tiādīsu (jā. 1.3.31).
Kathitepi ‘‘vuttamidaṃ bhagavatā, vuttamidaṃ arahatā’’tiādīsu. Idha pana
kathite daṭṭhabbo. Kathitaṃ kho panetanti ayañhissa attho. Āmisaññataranti
catunnaṃ paccayāmisānaṃ aññataraṃ, ekanti attho. Yadidanti nipāto, sabbaliṅgavibhattivacanesu
tādisova tattha tattha atthato pariṇāmetabbo. Idha panāssa yo esoti attho. Yo
eso piṇḍapāto nāma. Idaṃ āmisaññataranti vuttaṃ hoti. Yaṃnūnāhanti sādhu
vatāhaṃ. Evanti yathā idāni imaṃ khaṇaṃ vītināmemi, evameva rattindivaṃ.
Vītināmeyyanti khepeyyaṃ ativattāpeyyaṃ.
So taṃ piṇḍapātanti so taṃ
sadevakena lokena sirasā sampaṭicchitabbarūpaṃ sugatātirittampi piṇḍapātaṃ
abhuñjitvā dhammadāyādabhāvaṃ ākaṅkhamāno ādittasīsūpamaṃ paccavekkhitvā teneva
jighacchādubbalyena evaṃ taṃ rattindivaṃ vītināmeyya.
Atha dutiyassāti imasmiṃ pana
vāre esa saṅkhepo, sace so bhikkhu, yaṃnūnāhaṃ…pe… vītināmeyyanti cintento
evampi cinteyya, pabbajitena kho vāḷamigākule araññe bhesajjaṃ viya pañcakāmaguṇavāḷākule
gāme piṇḍapātopi dukkhaṃ pariyesituṃ. Ayaṃ pana piṇḍapāto iti
pariyesanādīnavavimutto ca sugatātiritto cāti ubhato sujātakhattiyakumāro viya
hoti, yehi ca pañcahi kāraṇehi piṇḍapāto na paribhuñjitabbo hoti. Seyyathidaṃ,
puggalaṃ garahitvā na paribhuñjitabbo hoti ‘‘alajjipuggalassa santako’’ti.
Aparisuddhauppattitāya na paribhuñjitabbo hoti
‘‘bhikkhuniparipācanaasantasambhāvanuppanno’’ti. Sāmikānukampāya na
paribhuñjitabbo hoti ‘‘piṇḍapātasāmiko bhikkhu jighacchito’’ti. So dhāto
tasseva antevāsikādīsu anukampāya na paribhuñjitabbo hoti ‘‘antevāsikā aññe vā
tappaṭibaddhā jighacchitā’’ti, tepi dhātā suhitā, apica kho assaddhatāya na
paribhuñjitabbo hoti ‘‘piṇḍapātasāmiko bhikkhu assaddho’’ti. Tehi ca kāraṇehi
ayaṃ vimutto. Bhagavā hi lajjīnaṃ aggo, parisuddhuppattiko piṇḍapāto, bhagavā
ca dhāto suhito, paccāsīsakopi añño puggalo natthi, ye loke saddhā, bhagavā
tesaṃ aggoti evaṃ cintetvā ca so taṃ piṇḍapātaṃ bhuñjitvā…pe… vītināmeyya.
Ettāvatā yopi abhuñjitvā samaṇadhammaṃ karoti, sopi bhuñjitabbakameva piṇḍapātaṃ
na bhutto hoti. Yopi bhuñjitvā samaṇadhammaṃ karoti, sopi bhuñjitabbakameva
bhutto hoti. Natthi piṇḍapāte viseso. Puggale pana atthi viseso. Tasmā taṃ
dassento kiñcāpi sotiādimāha.
Tattha kiñcāpīti anujānanappasaṃsanatthe
nipāto. Kiṃ anujānāti? Tassa bhikkhuno taṃ anavajjaparibhogaṃ. Kiṃ pasaṃsati?
Bhutvā samaṇadhammakaraṇaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti yadipi so bhikkhu evaṃ
bhuñjitabbameva bhuñjitvā kātabbameva kareyya. Atha kho asuyeva me purimo
bhikkhūti yo purimo bhikkhu tampi piṇḍapātaṃ paṭikkhipitvā samaṇadhammaṃ
karoti, soyeva mama dvīsu sūresu sūrataro viya dvīsu paṇḍitesu paṇḍitataro viya
ca pujjataro ca pāsaṃsataro ca, dutiyabhikkhuto atirekena pūjanīyo ca pasaṃsanīyo
cāti vuttaṃ hoti.
Idāni tamatthaṃ kāraṇena sādhento taṃ kissa hetūtiādimāha.
Tassattho, tattha siyā tumhākaṃ, kasmā so bhikkhu bhagavato pujjataro ca pāsaṃsataro
cāti? Tañhi tassāti yasmā taṃ piṇḍapātapaṭikkhipanaṃ tassa bhikkhuno
dīgharattaṃ appicchatāya…pe… vīriyārambhāya saṃvattissati. Kathaṃ? Tassa hi
sace aparena samayena paccayesu atricchatā vā pāpicchatā vā mahicchatā vā
uppajjissati. Tato naṃ iminā piṇḍapātapaṭikkhepaṅkusena nivāressati ‘‘are tvaṃ
sugatātirittampi piṇḍapātaṃ paṭikkhipitvā īdisaṃ icchaṃ uppādesī’’ti evaṃ
paccavekkhamāno. Esa nayo asantuṭṭhiyā asaṃlekhassa cuppannassa nivāraṇe. Evaṃ
tāvassa appicchatāya santuṭṭhiyā saṃlekhāya saṃvattissati.
Subharatāyāti ettha ayaṃ saṃvaṇṇanā
– idhekacco attanopi upaṭṭhākānampi dubbharo hoti dupposo. Ekacco attanopi upaṭṭhākānampi
subharo hoti suposo. Kathaṃ? Yo hi ambilādīni laddhā anambilādīni pariyesati,
aññassa ghare laddhaṃ aññassa ghare chaḍḍento sabbaṃ gāmaṃ vicaritvā
rittapattova vihāraṃ pavisitvā nipajjati, ayaṃ attano dubbharo. Yo pana sālimaṃsodanādīnaṃ
patte pūretvā dinnepi dummukhabhāvaṃ anattamanabhāvameva ca dasseti, tesaṃ vā
sammukhāva taṃ piṇḍapātaṃ ‘‘kiṃ tumhehi dinna’’nti apasādento sāmaṇeragahaṭṭhādīnampi
deti, ayaṃ upaṭṭhākānaṃ dubbharo. Etaṃ disvā manussā dūrato parivajjanti
dubbharo bhikkhu na sakkā positunti. Yo pana yaṃkiñci lūkhaṃ vā paṇītaṃ vā
laddhā tuṭṭhacittova bhuñjitvā vihāraṃ gantvā attano kammaṃ karoti, ayaṃ attano
subharo. Yo ca paresampi appaṃ vā bahuṃ vā lūkhaṃ vā paṇītaṃ vā dānaṃ ahīḷetvā
attamano vippasannamukho hutvā tesaṃ sammukhāva paribhuñjitvā yāti, ayaṃ upaṭṭhākānaṃ
subharo. Etaṃ disvā manussā ativiya vissatthā honti – ‘‘amhākaṃ bhadanto
subharo thokenapi tussati, mayameva naṃ posissāmā’’ti paṭiññaṃ katvā posenti.
Tattha sace aparena samayena assa attano vā upaṭṭhākānaṃ
vā dubbharatānayena cittaṃ uppajjissati. Tato naṃ iminā piṇḍapātapaṭikkhepaṅkusena
nivāressati – ‘‘are tvaṃ sugatātirittampi piṇḍapātaṃ paṭikkhipitvā īdisaṃ cittaṃ
uppādesī’’ti evaṃ paccavekkhamāno, evamassa subharatāya saṃvattissati. Sace
panassa kosajjaṃ uppajjissati, tampi etenevaṅkusena nivāressati – ‘‘are tvaṃ
nāma tadā sugatātirittampi piṇḍapātaṃ paṭikkhipitvā tathā
jighacchādubbalyaparetopi samaṇadhammaṃ katvā ajja kosajjamanuyuñjasī’’ti evaṃ
paccavekkhamāno, evamassa vīriyārambhāya saṃvattissati. Evamassa idaṃ piṇḍapātapaṭikkhipanaṃ
dīgharattaṃ appicchatāya…pe… vīriyārambhāya saṃvattissati. Evamassime pañca guṇā
paripūrā dasa kathāvatthūni paripūressanti.
Kathaṃ? Atra hi pāḷiyaṃyeva appicchatāsantuṭṭhitāvīriyārambhavasena
tīṇi āgatāni, sesāni sallekhena saṅgahitāni. Idañhi sabbakathāvatthūnaṃ
nāmameva, yadidaṃ sallekho. Yathāha – ‘‘yā ca kho ayaṃ, ānanda, kathā
abhisallekhikā cetovinīvaraṇasappāyā ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya
upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati. Seyyathidaṃ,
appicchakathā’’ti (ma. ni. 3.189, 192) vitthāro. Evaṃ ime pañca guṇā paripūrā
dasa kathāvatthūni paripūressanti. Dasa kathāvatthūni paripūrāni tisso sikkhā
paripūressanti.
Kathaṃ? Etesu hi appicchakathā santosakathā asaṃsaggakathā
sīlakathāti imā catasso kathā adhisīlasikkhāsaṅgahitāyeva. Pavivekakathā
vīriyārambhakathā samādhikathāti imā tisso adhicittasikkhasaṅgahitā. Paññākathā
vimuttikathā vimuttiñāṇadassanakathāti imā tisso adhipaññāsikkhāsaṅgahitāti.
Evaṃ dasa kathāvatthūni paripūrāni tisso sikkhā paripūressanti. Tisso sikkhā
paripūrā pañca asekkhadhammakkhandhe paripūressanti.
Kathaṃ? Paripūrā hi adhisīlasikkhā asekkho
sīlakkhandhoyeva hoti, adhicittasikkhā asekkho samādhikkhandho, adhipaññāsikkhā
asekkhā paññā-vimutti-vimuttiñāṇadassanakkhandhā evāti evaṃ tisso sikkhā
paripūrā pañca asekkhadhammakkhandhe paripūressanti. Pañca dhammakkhandhā
paripūrā amataṃ nibbānaṃ paripūressanti. Seyyathāpi uparipabbate pāvussako
mahāmegho abhivuṭṭho pabbatakandarasarasākhā paripūreti. Tā paripūrā kusobbhe,
kusobbhā mahāsobbhe, mahāsobbhā kunnadiyo, kunnadiyo mahānadiyo, mahānadiyo
mahāsamuddasāgaraṃ paripūrenti; evameva tassa bhikkhuno ime pañca guṇā paripūrā
dasa kathāvatthuni ādiṃ katvā yāva amataṃ nibbānaṃ paripūressanti. Evamayaṃ
bhikkhu dhammadāyādapaṭipadaṃ paṭipanno paramadhammadāyādaṃ labhatīti etamatthaṃ
sampassamāno bhagavā ‘‘taṃ kissa hetu tañhi tassa, bhikkhave, bhikkhuno’’tiādimāha.
Evaṃ tassa bhikkhuno pujjatarapāsaṃsatarabhāvaṃ kāraṇena
sādhetvā idāni te bhikkhū tathattāya sanniyojento tasmā tiha me bhikkhavetiādimāha.
Kiṃ vuttaṃ hoti, yasmā yo taṃ piṇḍapātaṃ bhuñjitvā samaṇadhammaṃ kareyya, so
imehi pañcahi mūlaguṇehi paribāhiro. Yo pana abhuñjitvā kareyya, so imesaṃ
bhāgī hoti – ‘‘tasmā tiha me, bhikkhave…pe… no āmisadāyādā’’ti.
Idamavoca bhagavāti idaṃ
nidānapariyosānato pabhuti yāva no āmisadāyādāti suttappadesaṃ bhagavā avoca. Idaṃ
vatvāna sugatoti idañca suttappadesaṃ vatvāva sobhanāya paṭipadāya gatattā sugatoti
saṅkhaṃ pattoyeva bhagavā. Uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisī
paññattavarabuddhāsanato uṭṭhahitvā vihāraṃ attano mahāgandhakuṭiṃ pāvisi
asambhinnāya eva parisāya. Kasmā dhammathomanatthaṃ.
Buddhā kira apariniṭṭhitāya desanāya vihāraṃ pavisantā
dvīhi kāraṇehi pavisanti puggalathomanatthaṃ vā dhammathomanatthaṃ vā.
Puggalathomanatthaṃ pavisanto evaṃ cintesi – ‘‘imaṃ mayā saṃkhittena uddesaṃ
uddiṭṭhaṃ, vitthārena avibhattaṃ, dhammapaṭiggāhakā bhikkhū uggahetvā ānandaṃ
vā kaccānaṃ vā upasaṅkamitvā pucchissanti, te mayhaṃ ñāṇena saṃsandetvā
kathessanti, tato dhammapaṭiggāhakā puna maṃ pucchissanti, tesaṃ ahaṃ sukathitaṃ,
bhikkhave, ānandena sukathitaṃ kaccānena, maṃ cepi tumhe etamatthaṃ
puccheyyātha, ahampi naṃ evameva byākareyyanti evaṃ te puggale thomessāmi, tato
tesu gāravaṃ janetvā bhikkhū upasaṅkamissanti, tepi bhikkhū atthe ca dhamme ca
niyojessanti, te tehi niyojitā tisso sikkhā paripūrentā dukkhassantaṃ
karissantī’’ti.
Dhammathomanatthaṃ pavisanto evaṃ cintesi, yathā
idheva cintesi – ‘‘mayi vihāraṃ paviṭṭhe tameva āmisadāyādaṃ garahanto
dhammadāyādañca thomento imissaṃyeva parisati nisinno sāriputto dhammaṃ
desessati, evaṃ dvinnampi amhākaṃ ekajjhāsayāya matiyā desitā ayaṃ desanā aggā
ca garukā ca bhavissati pāsāṇacchattasadisā. Caturoghanittharaṇaṭṭhena titthe ṭhapitā
nāvā viya maggagamanaṭṭhena catuyuttaājaññaratho viya ca bhavissati. Yathā ca
‘evaṃ karontassa ayaṃ daṇḍo’ti parisati āṇaṃ ṭhapetvā uṭṭhāyāsanā pāsādaṃ āruḷhe
rājini tattheva nisinno senāpati taṃ raññā ṭhapitaṃ āṇaṃ pavatteti; evampi mayā
ṭhapitaṃ desanaṃ imissaṃyeva parisati nisinno sāriputto thometvā desessati, evaṃ
dvinnampi amhākaṃ matiyā desitā ayaṃ desanā balavatarā majjhanhikasūriyo viya
pajjalissatī’’ti. Evamidha dhammathomanatthaṃ uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
Īdisesu ca ṭhānesu bhagavā nisinnāsaneyeva antarahito
cittagatiyā vihāraṃ pavisatīti veditabbo. Yadi hi kāyagatiyā gaccheyya, sabbā
parisā bhagavantaṃ parivāretvā gaccheyya, sā ekavāraṃ bhinnā puna dussannipātā
bhaveyyāti bhagavā cittagatiyā eva pāvisi.
31. Evaṃ paviṭṭhe pana
bhagavati bhagavato adhippāyānurūpaṃ taṃ dhammaṃ thometukāmo tatra kho āyasmā
sāriputto…pe…etadavoca. Tattha āyasmāti piyavacanametaṃ. Sāriputtoti
tassa therassa nāmaṃ, tañca kho mātito, na pitito. Rūpasāriyā hi brāhmaṇiyā so
putto, tasmā sāriputtoti vuccati. Acirapakkantassāti pakkantassa sato
nacirena. Āvuso, bhikkhaveti ettha pana buddhā bhagavanto sāvake
ālapantā bhikkhaveti ālapanti. Sāvakā pana buddhehi sadisā mā homāti āvusoti paṭhamaṃ
vatvā pacchā bhikkhaveti bhaṇanti. Buddhehi ca ālapito bhikkhusaṅgho bhadanteti
paṭivacanaṃ deti, sāvakehi āvusoti.
Kittāvatā nu kho,
āvusoti ettha kittāvatāti paricchedavacanaṃ, kittakenāti vuttaṃ
hoti. Nukāro pucchāyaṃ. Khokāro nipātamattaṃ. Satthu
pavivittassa viharatoti, tīhi vivekehi kāyacittaupadhivivekehi satthuno
viharantassa. Vivekaṃ nānusikkhantīti tiṇṇaṃ vivekānaṃ aññatarampi
nānusikkhanti, āmisadāyādāva hontīti imamatthaṃ āyasmā sāriputto bhikkhū pucchi.
Esa nayo sukkapakkhepi.
Evaṃ vutte tamatthaṃ sotukāmā bhikkhū dūratopi khotiādimāhaṃsu.
Tattha dūratopīti tiroraṭṭhatopi tirojanapadatopi anekayojanagaṇanatopīti
vuttaṃ hoti. Santiketi samīpe. Aññātunti jānituṃ bujjhituṃ. Āyasmantaṃyeva
sāriputtaṃ paṭibhātūti āyasmatoyeva sāriputtassa bhāgo hotu, āyasmā pana
sāriputto attano bhāgaṃ katvā vibhajatūti vuttaṃ hoti. Āyasmato hi bhāgo yadidaṃ
atthakkhānaṃ, amhākaṃ pana savanaṃ bhāgoti ayamettha adhippāyo, evaṃ
saddalakkhaṇena sameti. Keci pana bhaṇanti ‘‘paṭibhātūti dissatū’’ti. Apare
‘‘upaṭṭhātū’’ti. Dhāressantīti uggahessanti pariyāpuṇissanti. Tato nesaṃ
kathetukāmo thero tena hītiādimāha. Tattha tenāti kāraṇavacanaṃ. Hikāro
nipāto. Yasmā sotukāmāttha, yasmā ca mayhaṃ bhāraṃ āropayittha, tasmā suṇāthāti
vuttaṃ hoti. Tepi bhikkhū therassa vacanaṃ sampaṭicchiṃsu, tenāha
‘‘evamāvusoti…pe…paccassosu’’nti.
Atha nesaṃ, āmisadāyādaṃ garahantena bhagavatā
‘‘tumhepi tena ādiyā bhaveyyāthā’’ti ekenevākārena vuttamatthaṃ tīhi ākārehi
dassento āyasmā sāriputto etadavoca – ‘‘idhāvuso, satthu pavivittassa
viharato…pe… ettāvatā kho, āvuso, satthu pavivittassa viharato sāvakā vivekaṃ
nānusikkhantī’’ti.
Ettāvatā yañca bhagavā āmisadāyādapaṭipadaṃ garahanto
‘‘tumhepi tena ādiyā bhaveyyāthā’’ti āha, yañca attanā pucchaṃ pucchi
‘‘kittāvatā nu kho…pe… nānusikkhantī’’ti, tassa vitthārato attho suvibhatto
hoti. So ca kho bhagavato ādiyabhāvaṃ anāmasitvāva. Bhagavatoyeva hi yuttaṃ
sāvake anuggaṇhantassa ‘‘ahampi tena ādiyo bhavissāmī’’ti vattuṃ, na sāvakānaṃ.
Esa nayo sukkapakkhepi, ayaṃ tāvettha anusandhikkamayojanā.
Ayaṃ panatthavaṇṇanā idhāti imasmiṃ sāsane, satthu
pavivittassāti satthuno tīhi vivekehi accantapavivittassa. Vivekaṃ
nānusikkhantīti kāyavivekaṃ nānusikkhanti, na paripūrentīti vuttaṃ hoti.
Yadi pana tividhaṃ vivekaṃ sandhāya vadeyya, pucchāya aviseso siyā. Byākaraṇapakkho
hi ayaṃ. Tasmā iminā padena kāyavivekaṃ, ‘‘yesañca dhammāna’’ntiādinā
cittavivekaṃ, ‘‘bāhulikā’’tiādinā upadhivivekañca dassetīti evamettha saṅkhepato
attho veditabbo.
Yesañca dhammānanti lobhādayo
sandhāyāha, ye parato ‘‘tatrāvuso lobho ca pāpako’’tiādinā nayena vakkhati. Nappajahantīti
na pariccajanti, cittavivekaṃ na paripūrentīti vuttaṃ hoti. Bāhulikāti
cīvarādibāhullāya paṭipannā. Sāsanaṃ sithilaṃ gaṇhantīti sāthalikā. Okkamane
pubbaṅgamāti ettha okkamanaṃ vuccanti avagamanaṭṭhena pañca nīvaraṇāni,
tena pañcanīvaraṇapubbaṅgamāti vuttaṃ hoti. Paviveketi upadhiviveke
nibbāne. Nikkhittadhurāti oropitadhurā, tadadhigamāya ārambhampi
akurumānāti, ettāvatā upadhivivekaṃ na paripūrentīti vuttaṃ hoti.
Ettāvatā aniyameneva vatvā idāni desanaṃ niyamento
‘‘tatrāvuso’’tiādimāha. Kasmā? Sāvakā ‘‘tīhi ṭhānehī’’ti evañhi aniyametvāva
vuccamāne ‘‘kampi maññe bhaṇati, na amhe’’ti udāsināpi honti. ‘‘Therā navā
majjhimā’’ti evaṃ pana niyametvā vuccamāne amhe bhaṇatīti ādaraṃ karonti. Yathā
raññā ‘‘amaccehi nagaravīthiyo sodhetabbā’’ti vuttepi ‘‘kena nu kho
sodhetabbā’’ti maññamānā na sodhenti, attano attano gharadvāraṃ sodhetabbanti
pana bheriyā nikkhantāya sabbe muhuttena sodhenti ca alaṅkaronti ca, evaṃsampadamidaṃ
veditabbaṃ.
Tattha tatrāti tesu sāvakesu. Therāti
dasavasse upādāya vuccanti. Tīhi ṭhānehīti tīhi kāraṇehi. Ayañhi ṭhānasaddo
issariyaṭṭhitikhaṇakāraṇesu dissati. ‘‘Kiṃ panāyasmā devānamindo kammaṃ katvā
imaṃ ṭhānaṃ patto’’tiādīsu hi issariye dissati. ‘‘Ṭhānakusalo hoti akkhaṇavedhī’’tiādīsu
ṭhitiyaṃ. ‘‘Ṭhānasovetaṃ tathāgataṃ paṭibhātī’’tiādīsu (ma. ni. 2.87) khaṇe. ‘‘Ṭhānañca
ṭhānato aṭṭhānañca aṭṭhānato’’tiādīsu (vibha. 809; ma. ni. 1.148) kāraṇe. Idha
pana kāraṇeyeva. Kāraṇañhi yasmā tattha phalaṃ tiṭṭhati tadāyattavuttibhāvena,
tasmā ṭhānanti vuccati.
Iminā paṭhamena ṭhānena therā bhikkhū gārayhāti ettha gārayhāti garahitabbā. Therā nāma samānā
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni na upenti, gāmantasenāsanaṃ na muñcanti,
saṅgaṇikārāmataṃ vaḍḍhentā viharanti, kāyavivekampi na paripūrenti,
navamajjhimakāle kīdisā ahesunti evaṃ ninditabbā honti, imaṃ nindaṃ āvuso
labhantīti dasseti. Dutiyena ṭhānenāti etthāpi ime nāma āvuso therāpi
samānā yesaṃ dhammānaṃ satthā pahānamāha, te lobhādidhamme na jahanti,
accharāsaṅghātamattampi ekamantaṃ nisīditvā cittekaggataṃ na labhanti,
navamajjhimakāle kīdisā ahesunti evaṃ ninditabbā honti, imaṃ nindaṃ āvuso
labhantīti dassetīti evaṃ yojanā kātabbā. Tatiyena ṭhānenāti etthāpi ime
nāmāvuso, therāpi samānā itarītarena na yāpenti, cīvarapattasenāsanapūtikāyamaṇḍanānuyogamanuyuttā
viharanti upadhivivekaṃ apūrayamānā, navamajjhimakāle kīdisā ahesunti evaṃ
ninditabbā honti, imaṃ nindaṃ, āvuso, labhantīti dassetīti evaṃ yojanā
veditabbā. Esa nayo majjhimanavavāresu.
Ayaṃ pana viseso. Majjhimāti pañcavasse upādāya
yāva nava vassā vuccanti. Navāti ūnapañcavassā vuccanti. Yathā ca tattha
navamajjhimakāle kīdisā ahesunti vuttaṃ, evamidha navakāle kīdisā ahesuṃ,
therakāle kīdisā bhavissanti, majjhimatherakāle kīdisā bhavissantīti vatvā
yojetabbaṃ.
32. Imasmiñca kaṇhapakkhe
vuttapaccanīkanayena sukkapakkhe attho veditabbo. Ayaṃ panettha saṅkhepo. Ime
vata therāpi samānā yojanaparamparāya araññavanapatthāni pantāni senāsanāni
sevanti, gāmantasenāsanaṃ upagantuṃ yuttakālepi na upagacchanti, evaṃ jiṇṇasarīrāpi
āraddhavīriyā paccayadāyakānaṃ pasādaṃ janenti, navamajjhimakāle kīdisā
ahesunti iminā paṭhamena ṭhānena therā pāsaṃsā bhavanti, pasaṃsaṃ labhanti.
Lobhādayo pahāya cittavivekaṃ pūrenti, ayampi mahāthero
saddhivihārikaantevāsikaparivārito hutvā nisīdituṃ yuttakālepi īdisepi vaye
vattamāne bhattakiccaṃ katvā paviṭṭho sāyaṃ nikkhamati, sāyaṃ paviṭṭho pāto
nikkhamati, kasiṇaparikammaṃ karoti, samāpattiyo nibbatteti, maggaphalāni
adhigacchati, sabbathāpi cittavivekaṃ pūretīti iminā dutiyena ṭhānena therā
bhikkhū pāsaṃsā bhavanti, pasaṃsaṃ labhanti. Yasmiṃ kāle therassa paṭṭadukūlakoseyyādīni
sukhasamphassāni lahucīvarādīni yuttāni, tasmimpi nāma kāle ayaṃ mahāthero paṃsukūlāni
dhāreti, asithilaṃ sāsanaṃ gahetvā vigatanīvaraṇo phalasamāpattiṃ appetvā
upadhivivekaṃ paripūrayamāno viharati, navamajjhimakāle kīdiso ahosīti iminā tatiyena
ṭhānena therā pāsaṃsā bhavanti, pasaṃsaṃ labhantīti. Esa nayo
majjhimanavavāresu.
33. Tatrāvusoti ko
anusandhi, evaṃ navahākārehi āmisadāyādapaṭipadaṃ garahanto, navahi
dhammadāyādapaṭipadaṃ thomento, aṭṭhārasahākārehi desanaṃ niṭṭhāpetvā, ye te ‘‘yesañca
dhammānaṃ satthā pahānamāha, te ca dhamme na pajahantī’’ti evaṃ pahātabbadhammā
vuttā. Te sarūpato ‘‘ime te’’ti dassetumidaṃ ‘‘tatrāvuso, lobho cā’’tiādimāha,
ayaṃ anusandhi.
Apica heṭṭhā pariyāyeneva dhammo kathito. Āmisaṃ pana
pariyāyenapi nippariyāyenapi kathitaṃ. Idāni nippariyāyadhammaṃ lokuttaramaggaṃ
kathetumidamāha. Ayaṃ pettha anusandhi.
Tattha tatrāti atītadesanānidassanaṃ, ‘‘satthu
pavivittassa viharato sāvakā vivekaṃ nānusikkhantī’’tiādinā nayena
vuttadesanāyanti vuttaṃ hoti. Lobho ca pāpako, doso ca pāpakoti ime dve
dhammā pāpakā lāmakā, ime pahātabbāti dasseti. Tattha lubbhanalakkhaṇo lobho.
Dussanalakkhaṇo doso. Tesu lobho āmisadāyādassa paccayānaṃ lābhe hoti,
doso alābhe. Lobhena aladdhaṃ pattheti, dosena alabhanto vighātavā hoti. Lobho
ca deyyadhamme hoti, doso adāyake vā amanuññadāyake vā. Lobhena navataṇhāmūlake
dhamme paripūreti, dosena pañca macchariyāni.
Idāni tesaṃ pahānūpāyaṃ dassento lobhassa ca
pahānāyātiādimāha. Tassattho, tassa pana pāpakassa lobhassa ca dosassa ca
pahānāya. Atthi majjhimā paṭipadāti maggaṃ sandhāya idaṃ vuttaṃ. Maggo
hi lobho eko anto, doso eko antoti ete dve ante na upeti, na upagacchati,
vimutto etehi antehi, tasmā ‘‘majjhimā paṭipadā’’ti vuccati. Etesaṃ majjhe
bhavattā ‘‘majjhimā, paṭipajjitabbato ca paṭipadāti. Tathā
kāmasukhallikānuyogo eko anto, attakilamathānuyogo eko anto, sassataṃ eko anto,
ucchedo eko antoti purimanayeneva vitthāretabbaṃ.
Cakkhukaraṇītiādīhi pana
tameva paṭipadaṃ thometi. Sā hi saccānaṃ dassanāya saṃvattati dassanapariṇāyakaṭṭhenāti
cakkhukaraṇī. Saccānaṃ ñāṇāya saṃvattati viditakaraṇaṭṭhenāti ñāṇakaraṇī.
Rāgādīnañca vūpasamanato upasamāya saṃvattati. Catunnampi saccānaṃ
abhiññeyyabhāvadassanato abhiññāya saṃvattati. Sambodhoti maggo,
tassatthāya saṃvattanato sambodhāya saṃvattati. Maggoyeva hi maggatthāya
saṃvattati maggena kātabbakiccakaraṇato. Nibbānaṃ nāma appaccayaṃ tassa
pana sacchikiriyāya paccakkhakammāya saṃvattanato nibbānāya saṃvattatīti
vuccati. Ayamettha sāro. Ito aññathā vaṇṇanā papañcā.
Idāni taṃ majjhimaṃ paṭipadaṃ sarūpato dassetukāmo
‘‘katamā ca sā’’ti pucchitvā ‘‘ayamevā’’tiādinā nayena vissajjeti.
Tattha ayamevāti avadhāraṇavacanaṃ,
aññamaggappaṭisedhanatthaṃ, buddhapaccekabuddhabuddhasāvakānaṃ sādhāraṇabhāvadassanatthañca.
Vuttañcetaṃ ‘‘eseva maggo natthañño dassanassa visuddhiyā’’ti (dha. pa. 274).
Svāyaṃ kilesānaṃ ārakattāpi ariyo. Aripahānāya saṃvattatītipi ariyena
desitotipi ariyabhāvappaṭilābhāya saṃvattatītipi ariyo. Aṭṭhahi aṅgehi upetattā
aṭṭhaṅgiko, na ca aṅgavinimutto pañcaṅgikatūriyādīni viya. Kilese
mārento gacchati, maggati vā nibbānaṃ, maggīyati vā nibbānatthikehi, gammati vā
tehi paṭipajjīyatīti maggo. Seyyathidanti nipāto, tassa katamo so iti
ceti attho, katamāni vā tāni aṭṭhaṅgānīti. Ekamekañhi aṅgaṃ maggoyeva. Yathāha
‘‘sammādiṭṭhi maggo ceva hetu cā’’ti (dha. sa. 1039). Porāṇāpi bhaṇanti –
‘‘dassanamaggo sammādiṭṭhi, abhiniropanamaggo sammāsaṅkappo…pe… avikkhepamaggo
sammāsamādhī’’ti.
Sammādiṭṭhādīsu cetesu sammā dassanalakkhaṇā sammādiṭṭhi.
Sammā abhiniropanalakkhaṇo sammāsaṅkappo. Sammā pariggahalakkhaṇā sammāvācā.
Sammā samuṭṭhānalakkhaṇo sammākammanto. Sammā vodānalakkhaṇo sammāājīvo.
Sammā paggahalakkhaṇo sammāvāyāmo. Sammā upaṭṭhānalakkhaṇā sammāsati.
Sammā samādhānalakkhaṇo sammāsamādhi. Nibbacanampi nesaṃ sammā passatīti
sammādiṭṭhīti eteneva nayena veditabbaṃ.
Tattha sammādiṭṭhi uppajjamānā micchādiṭṭhiṃ
tappaccanīyakilese ca avijjañca pajahati, nibbānañca ārammaṇaṃ karoti,
sampayuttadhamme ca passati, te ca kho asammohato, no ārammaṇato, tasmā
‘‘sammādiṭṭhī’’ti vuccati.
Sammāsaṅkappo micchāsaṅkappaṃ tappaccanīyakilese ca
pajahati, nibbānañca ārammaṇaṃ karoti, sampayuttadhamme ca sammā abhiniropeti,
tasmā ‘‘sammāsaṅkappo’’ti vuccati.
Sammāvācā micchāvācaṃ tappaccanīyakilese ca pajahati,
nibbānañca ārammaṇaṃ karoti, sampayuttadhamme ca sammā pariggaṇhāti, tasmā
‘‘sammāvācā’’ti vuccati.
Sammākammanto micchākammantaṃ tappaccanīyakilese ca
pajahati, nibbānañca ārammaṇaṃ karoti, sampayuttadhamme ca sammā samuṭṭhāpeti,
tasmā ‘‘sammākammanto’’ti vuccati.
Sammāājīvo micchāājīvaṃ tappaccanīyakilese ca
pajahati, nibbānañca ārammaṇaṃ karoti, sampayuttadhamme ca sammā vodāpeti,
tasmā ‘‘sammāājīvo’’ti vuccati.
Sammāvāyāmo micchāvāyāmaṃ tappaccanīyakilese ca
kosajjañca pajahati, nibbānañca ārammaṇaṃ karoti, sampayuttadhamme ca sammā
paggaṇhāti, tasmā ‘‘sammāvāyāmo’’ti vuccati.
Sammāsati micchāsatiṃ tappaccanīyakilese ca pajahati,
nibbānañca ārammaṇaṃ karoti, sampayuttadhamme ca sammā upaṭṭhāpeti, tasmā
‘‘sammāsatī’’ti vuccati.
Sammāsamādhi micchāsamādhiṃ tappaccanīyakilese ca
uddhaccañca pajahati, nibbānañca ārammaṇaṃ karoti, sampayuttadhamme ca sammā
samādhiyati, tasmā ‘‘sammāsamādhī’’ti vuccati.
Idāni ayaṃ kho sā, āvusoti tameva paṭipadaṃ
nigamento āha. Tassattho, yvāyaṃ cattāropi lokuttaramagge ekato katvā kathito
‘‘aṭṭhaṅgiko maggo’’, ayaṃ kho sā, āvuso…pe… nibbānāya saṃvattatīti.
Evaṃ pahātabbadhammesu lobhadose tappahānupāyañca
dassetvā idāni aññepi pahātabbadhamme tesaṃ pahānupāyañca dassento tatrāvuso,
kodho cātiādimāha. Tattha kujjhanalakkhaṇo kodho, caṇḍikkalakkhaṇo
vā, āghātakaraṇaraso, dussanapaccupaṭṭhāno. Upanandhanalakkhaṇo upanāho,
vera appaṭinissajjanaraso, kodhānupabandhabhāvapaccupaṭṭhāno. Vuttañcetaṃ –
‘‘pubbakāle kodho, aparakāle upanāho’’tiādi (vibha. 891).
Paraguṇamakkhanalakkhaṇo makkho, tesaṃ
vināsanaraso, tadavacchādanapaccupaṭṭhāno. Yugaggāhalakkhaṇo paḷāso,
paraguṇehi attano guṇānaṃ samīkaraṇaraso, paresaṃ guṇappamāṇena upaṭṭhānapaccupaṭṭhāno.
Parasampattikhīyanalakkhaṇā issā, tassā
akkhamanalakkhaṇā vā, tattha anabhiratirasā, tato vimukhabhāvapaccupaṭṭhānā.
Attano sampattinigūhanalakkhaṇaṃ maccheraṃ, attano sampattiyā parehi
sādhāraṇabhāvaasukhāyanarasaṃ, saṅkocanapaccupaṭṭhānaṃ.
Katapāpapaṭicchādanalakkhaṇā māyā, tassa
nigūhanarasā, tadāvaraṇapaccupaṭṭhānā. Attano avijjamānaguṇapakāsanalakkhaṇaṃ sāṭheyyaṃ,
tesaṃ samudāharaṇarasaṃ, sarīrākārehipi tesaṃ vibhūtakaraṇapaccupaṭṭhānaṃ.
Cittassa uddhumātabhāvalakkhaṇo thambho,
appatissayavuttiraso, amaddavatāpaccupaṭṭhāno. Karaṇuttariyalakkhaṇo sārambho,
vipaccanīkatāraso, agāravapaccupaṭṭhāno.
Uṇṇatilakkhaṇo māno, ahaṃkāraraso,
uddhumātabhāvapaccupaṭṭhāno. Abbhuṇṇatilakkhaṇo atimāno, ativiya ahaṅkāraraso.
Accuddhumātabhāvapaccupaṭṭhāno.
Mattabhāvalakkhaṇo mado, madaggāhaṇaraso,
ummādapaccupaṭṭhāno. Pañcasu kāmaguṇesu cittavossaggalakkhaṇo pamādo,
vossaggānuppadānaraso, sativippavāsapaccupaṭṭhānoti evaṃ imesaṃ dhammānaṃ
lakkhaṇādīni veditabbāni. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana ‘‘tattha katamo
kodho’’tiādinā vibhaṅge (vibha. 891) vuttanayeneva veditabbo.
Visesato cettha āmisadāyādo attanā alabhanto aññassa
lābhino kujjhati, tassa sakiṃ uppanno kodho kodhoyeva, tatuttari upanāho.
So evaṃ kuddho upanayhanto ca santepi aññassa lābhino guṇe makkheti, ahampi
tādisoti ca yugaggāhaṃ gaṇhāti, ayamassa makkho ca paḷāso ca, evaṃ makkhī paḷāsī
tassa lābhasakkārādīsu kiṃ imassa imināti issati padussati, ayamassa issā.
Sace panassa kāci sampatti hoti, tassā tena sādhāraṇabhāvaṃ na sahati, idamassa
maccheraṃ. Lābhahetu kho pana attano santepi dose paṭicchādeti, ayamassa
māyā. Asantepi guṇe pakāseti. Idamassa sāṭheyyaṃ. So evaṃ paṭipanno
sace yathādhippāyaṃ lābhaṃ labhati, tena thaddho hoti amuducitto, nayidaṃ evaṃ
kātabbanti ovadituṃ asakkuṇeyyo, ayamassa thambho. Sace pana naṃ koci
kiñci vadati ‘‘nayidaṃ evaṃ kātabba’’nti, tena sāraddhacitto hoti bhākuṭikamukho
‘‘ko me tva’’nti pasayha bhāṇī, ayamassa sārambho. Tato thambhena
‘‘ahameva seyyo’’ti attānaṃ maññanto mānī hoti. Sārambhena ‘‘ke ime’’ti pare
atimaññanto atimānī, ayamassa māno ca atimāno ca. So tehi
mānātimānehi jātimadādianekarūpaṃ madaṃ janeti. Matto samāno kāmaguṇādibhedesu
vatthūsu pamajjati, ayamassa mado ca pamādo cāti.
Evaṃ āmisadāyādo aparimutto hoti imehi pāpakehi
dhammehi aññehi ca evarūpehi. Evaṃ tāvettha pahātabbadhammā veditabbā.
Pahānupāyo pāṭhato ca atthato ca sabbattha nibbisesoyeva.
Ñāṇaparicayapāṭavatthaṃ panettha ayaṃ bhedo ca kamo ca
bhāvanānayo ca veditabbo. Tattha bhedo tāva, ayañhi majjhimā paṭipadā
kadāci ariyo aṭṭhaṅgiko maggo hoti, kadāci sattaṅgiko. Ayañhi lokuttarapaṭhamajjhānavasena
uppajjamāno aṭṭhaṅgiko maggo hoti, avasesajjhānavasena sattaṅgiko. Ukkaṭṭhaniddesato
panidha aṭṭhaṅgikoti vutto. Ito parañhi maggaṅgaṃ natthi. Evaṃ tāvettha bhedo
veditabbo.
Yasmā pana sabbakusalānaṃ sammādiṭṭhi seṭṭhā, yathāha
‘‘paññā hi seṭṭhā kusalā vadantī’’ti (jā. 2.17.81). Kusalavāre ca pubbaṅgamā,
yathāha ‘‘kathañca, bhikkhave, sammādiṭṭhi pubbaṅgamā hoti, sammādiṭṭhiṃ
sammādiṭṭhīti pajānāti, micchādiṭṭhiṃ micchādiṭṭhīti pajānātī’’ti (ma. ni.
3.136) vitthāro. Yathā cāha ‘‘vijjā ca kho, bhikkhave, pubbaṅgamā kusalānaṃ
dhammānaṃ samāpattiyā’’ti. Tappabhavābhinibbattāni sesaṅgāni, yathāha ‘‘sammādiṭṭhissa
sammāsaṅkappo pahoti…pe… sammāsatissa sammāsamādhi pahotī’’ti (ma. ni. 3.141).
Tasmā iminā kamena etāni aṅgāni vuttānīti evamettha kamo veditabbo.
Bhāvanānayoti koci
samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāveti, koci vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ.
Kathaṃ? Idhekacco paṭhamaṃ upacārasamādhiṃ vā appanāsamādhiṃ vā uppādeti, ayaṃ
samatho; so tañca taṃsampayutte ca dhamme aniccādīhi vipassati, ayaṃ vipassanā.
Iti paṭhamaṃ samatho, pacchā vipassanā. Tena vuccati ‘‘samathapubbaṅgamaṃ
vipassanaṃ bhāvetī’’ti. Tassa samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāvayato maggo
sañjāyati, so taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti, tassa taṃ maggaṃ āsevato
bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti, evaṃ
samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāveti.
Idha panekacco vuttappakāraṃ samathaṃ anuppādetvāva
pañcupādānakkhandhe aniccādīhi vipassati, ayaṃ vipassanā. Tassa
vipassanāpāripūriyā tattha jātānaṃ dhammānaṃ vossaggārammaṇato uppajjati
cittassa ekaggatā, ayaṃ samatho. Iti paṭhamaṃ vipassanā pacchā samatho. Tena
vuccati ‘‘vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvetī’’ti. Tassa vipassanāpubbaṅgamaṃ
samathaṃ bhāvayato maggo sañjāyati, so taṃ maggaṃ āsevati…pe… bahulīkaroti,
tassa taṃ maggaṃ āsevato…pe… anusayā byantīhonti (a. ni. 4.170; paṭi. ma. 2.1),
evaṃ vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāveti.
Samathapubbaṅgamaṃ pana vipassanaṃ bhāvayatopi
vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvayatopi lokuttaramaggakkhaṇe samathavipassanā
yuganaddhāva honti. Evamettha bhāvanānayo veditabboti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Dhammadāyādasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Phải chăng chư tăng ni Việt Nam ngày nay có khuynh hướng thừa kế hay tạo lập chùa chiền hơn là có chí hướng thọ trì hay thực hành tam tạng giáo điển ? Nếu phải như vậy thì lý do tại sao ? - TT Pháp Tân
Thảo luận 2. Tại sao ngày nay một số lớn các tăng sĩ không tha thiết với tinh hoa của Phật Pháp ? hoặc gia không biết cái gì gọi là tinh hoa của giáo pháp ? - TT Pháp Đăng
Thảo luận 3. Tại sao khả năng sống viễn ly là di sản đang thừa tự giáo pháp ? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 4. Với kinh nghiệm thực tế thì sự kế thừa cơ sở chùa chiền so với thừa kế sự nghiệp tinh thần thì cái nào khó hơn ? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 5. Phải chăng Phật pháp tồn tại cho đến ngày nay không phải nằm ở cơ sở chùa chiền mà ở sự học hiểu tam tạng kinh điển ? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 6. TT Giác Đẳng đúc kết bài học
Thảo luận 5. Phải chăng Phật pháp tồn tại cho đến ngày nay không phải nằm ở cơ sở chùa chiền mà ở sự học hiểu tam tạng kinh điển ? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 6. TT Giác Đẳng đúc kết bài học
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment