Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Tân
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 20/6/2020
5. Kinh Không Uế Nhiễm (Anaṅgaṇa Sutta)
Tên kinh được
gọi là Kinh Không Uế Nhiễm nội dung đề cập tới bốn hạng người dựa trên sự uế
nhiễm và không uế nhiễm.Trong pháp thoại ngắn dành cho chư tỳ kheo, Tôn giả
Sàriputta nói về hai hạng người uế nhiễm và hai hạng người không uế nhiễm.
Trong bốn hạng người đó thì có hai hạng người ưu thắng hai hạng hạ liệt.
Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahàmoggallàna
là hai bậc thượng thủ thinh văn đệ tử
Phật. Tôn giả Sàriputta được Đức Phật xác nhận là bậc đệ nhất trí tuệ trong
hàng đệ tử trong Tôn giả Mahàmoggallàna là bậc đệ nhất thần thông. Hai ngài là
hai vị giáo thọ thường đi theo Đức Phật để hướng dẫn tu học cho hàng tỳ kheo.
Tôn giả Sàriputta thường hướng dẫn về pháp học và khai tâm cho những người mới
đến với Phật pháp trong lúc ngài Mahàmoggallàna thường hướng dẫn về pháp hành
cho những người muốn đi xa trong sự thực hành thiền định. Trong
bài kinh nầy Tôn giả Mahàmoggallàna với những câu
hỏi tiếp theo trong hình thức vấn đáp để Tôn giả Sàriputta khai triển rộng rãi
ý nghĩa của đề tài.
021. Biết
hay không biết về bản thân là một điểm quan trọng
Nói về đề tài
uế nhiễm Tôn giả Sāriputta nêu lên bốn hạng người:
A. Bản thân
uế nhiễm, không tự biết mình uế nhiễm.
B. Bản thân
uế nhiễm, tự biết mình uế nhiễm.
C. Bản thân
không uế nhiễm, không tự biết mình không uế nhiễm.
D. Bản thân
không uế nhiễm, tự biết mình uế nhiễm.
Như vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn
ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Ở tại đây, Tôn
giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo. "Chư Hiền
Tỷ-kheo". --"Thưa Hiền giả", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta nói như sau:
--
Này chư Hiền, ở đời có bốn hạng người. Thế nào là bốn? Chư
Hiền, ở đây, có hạng người có cấu uế, nhưng không như thật tuệ
tri: "Nội thân ta có cấu uế". Lại nữa chư Hiền, ở đây, có
hạng người có cấu uế, và như thật tuệ tri: "Nội thân ta có
cấu uế". Lại nữa chư Hiền, ở đây có hạng người không có cấu
uế, nhưng không như thật tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu
uế". Lại nữa, chư Hiền, ở đây, có hạng người không có cấu
uế và như thật tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu uế".
Chư
Hiền, ở đây, hạng người có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri:
"Nội thân ta có cấu uế". Trong hai hạng người có cấu uế,
hạng người này vì vậy được gọi là hạng người hạ liệt. Chư
Hiền, ở đây, hạng người có cấu uế và như thật tuệ tri: "Nội
thân ta có cấu uế". Trong hai hạng người có cấu uế, hạng
người này vì vậy được gọi là hạng người ưu thắng.
Chư
Hiền, ở đây, có hạng người không có cấu uế nhưng không như thật
tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu uế". Trong hai hạng
người không có cấu uế, hạng người này vì vậy được gọi là hạng
người hạ liệt. Chư Hiền, ở đây, hạng người không có cấu uế và
như thật tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu uế". Trong hai
hạng người không có cấu uế, hạng người này vì vậy được gọi là
hạng người ưu thắng.
022.
Sự lượng định của bậc trí không chỉ nằm ở hiện trạng mà còn hướng đi tương lai.
Không
tự biết bản thân là dấu hiệu của tuột dốc. Ngược lại biết tự quán sát và nhận
diện bản thân là dấu hiệu hướng thượng.
Ðược nói như vậy, Tôn giả Mahāmoggallāna (Ðại Mục-kiền-liên) nói với Tôn giả Sāriputta như sau:
--
Tôn giả Sāriputta, do nhân gì, do duyên gì, trong hai hạng người có
cấu uế này, một hạng người được gọi là hạ liệt, một hạng người
được gọi là ưu thắng? Tôn giả Sāriputta, do nhân gì, do duyên gì
trong hai hạng người không có cấu uế này, một hạng người được
gọi là hạ liệt, một hạng người được gọi là ưu thắng?
--
Ở đây, Hiền giả, hạng người có cấu uế nhưng không như thật tuệ
tri: "Nội thân ta có cấu uế". Với người này, có thể chờ
đợi như sau: "Người này sẽ không khởi lên ước muốn, sẽ không
cố gắng, sẽ không tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ
từ trần, trong khi còn có tham, còn có sân, còn có si, trong khi còn
cấu uế, trong khi tâm còn ô nhiễm". Này Hiền giả, giống như
một cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về,
phủ đầy bụi bặm, và người chủ cái bát ấy không dùng đến, không
lau chùi và quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả,
như vậy cái bát ấy, sau một thời gian càng ô nhiễm hơn, càng đầy
bụi bặm hơn.
--
Này Hiền giả, sự thật là vậy.
--
Này Hiền giả, như vậy hạng người có cấu uế nhưng không như thật
tuệ tri: "Nội thân ta có cấu uế". Với người này, có thể
chờ đợi như sau: "Người này sẽ không khởi lên ước muốn, sẽ
không cố gắng, sẽ không tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người
này sẽ từ trần, trong khi còn có tham, còn có sân, còn có si, trong
khi còn cấu uế, trong khi tâm còn nhiễm".
Ở
đây, này Hiền giả, hạng người có cấu uế, và như thật tuệ tri:
"Nội thân ta có cấu uế". Với người này, có thể chờ đợi
như sau: "Người này sẽ khởi lên ước muốn, sẽ cố gắng, sẽ
tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi
không còn tham, không còn sân, không còn si, trong khi không còn cấu
uế, trong khi tâm không còn ô nhiễm". Này Hiền giả, giống như
cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, phủ
đầy bụi bặm, và người chủ cái bát ấy dùng đến, lau chùi và không
quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái
bát ấy, sau một thời gian được thanh tịnh hơn, được sạch sẽ hơn.
--
Này Hiền giả, sự thật là vậy.
--
Này Hiền giả, như vậy hạng người có cấu uế và như thật tuệ tri:
"Nội thân ta có cấu uế". Với hạng người này, có thể chờ
đợi như sau: "Người này sẽ khởi lên ước muốn, sẽ cố gắng,
sẽ tinh tấn, để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong
khi không còn tham, không còn sân, không còn si, trong khi không còn
cấu uế, trong khi tâm không còn ô nhiễm".
Ở
đây, này Hiền giả, hạng người không có cấu uế nhưng không như
thật tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu uế". Với người
này, có thể chờ đợi như sau: "Người này sẽ tư niệm tịnh
tướng. Do tư niệm tịnh tướng, tham sẽ làm ô nhiễm tâm của người
này. Người này sẽ từ trần, trong khi còn có tham, còn có sân, còn
có si, trong khi còn cấu uế, trong khi tâm còn ô nhiễm". Này
Hiền giả, giống như một cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang
từ nhà thợ rèn về, thanh tịnh và sạch sẽ. Và người chủ cái bát
ấy không dùng đến, không lau chùi và quăng cái bát ấy vào chỗ đầy
bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian, càng
ô nhiễm hơn, càng bụi bặm hơn.
--
Này Hiền giả, sự thật là vậy.
--
Này Hiền giả, như vậy hạng người không có cấu uế nhưng không như
thật tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu uế". Với người
này có thể chờ đợi sau: "Người này sẽ tư niệm tịnh tướng. Do
tư niệm tịnh tướng, tham sẽ làm ô nhiễm tâm của người này.
Người này sẽ từ trần trong khi còn có tham, còn có sân, còn có si,
trong khi còn cấu uế, trong khi tâm còn ô nhiễm".
Ở
đây, này Hiền giả, hạng người không có cấu uế và như thật tuệ
tri: "Nội thân ta không có cấu uế". Với người này có thể
chờ đợi như sau: "Người này sẽ không tư niệm tịnh tướng. Do
không tư niệm tịnh tướng, tham sẽ không làm ô nhiễm tâm của
người này. Người này sẽ từ trần, trong khi không có tham, không có
sân, không có si, trong khi không còn cấu uế, trong khi tâm không còn
ô nhiễm". Này Hiền giả, giống như một cái bát bằng đồng, mang
từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, thanh tịnh và sạch sẽ và
người chủ cái bát ấy dùng đến, lau chùi và không quăng cái bát
ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau
một thời gian, càng được thanh tịnh hơn, càng được sạch sẽ hơn.
--
Này Hiền giả, sự thật là vậy.
--
Này Hiền giả, như vậy hạng người không có cấu uế, và như thật
tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu uế". Với người này có
thể chờ đợi như sau: "Người này sẽ không tư niệm tịnh tướng.
Do không tư niệm tịnh tướng, tham sẽ không làm ô nhiễm tâm người
này. Người này sẽ từ trần, không có tham, không có sân, không có
si, không còn cấu uế, tâm không còn ô nhiễm".
Này
Hiền giả Moggallāna, do nhân này, do duyên này, trong hai người có
cấu uế này, một người được gọi là hạ liệt, một người được gọi
là ưu thắng. Này Hiền giả Moggallāna, do nhân này, do duyên này,
trong hai người này không có cấu uế, một người được gọi là hạ
liệt, một người được gọi là ưu thắng.
023.
Uế nhiễm và thanh tịnh trong ý nghĩa cụ thể
Thiện
ác trong nhiều tôn giáo, học thuyết là khái niệm mơ hồ đôi khi liên quan tới
thần linh. Ở đây khi được hỏi, Tôn giả Sāriputta đưa ra những những điểm cụ
thể trong cuộc sống hằng ngày:
--
Này Hiền giả, cấu uế gọi là cấu uế, danh từ gì là đồng nghĩa cái
gọi là cấu uế?
--
Này Hiền giả, các ác bất thiện pháp, cảnh giới của dục là đồng
nghĩa cái gọi là cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Nếu ta có phạm giới tội, mong rằng các Tỷ-kheo
chớ có biết về ta rằng là đã phạm giới tội". Này Hiền giả,
sự tình này có thể xảy ra: các Tỷ-kheo có thể biết được các
Tỷ-kheo ấy đã phạm giới tội. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Các
Tỷ-kheo đã biết được ta đã phạm giới tội". Do đó, vị này trở
thành phẫn nộ và bất mãn. Phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về
cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Nếu ta có phạm giới tội, mong rằng các Tỷ-kheo
hãy quở trách ta ở chỗ kín đáo, không phải ở giữa Tăng
chúng". Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: các Tỷ-kheo
quở trách Tỷ-kheo ấy ở giữa Tăng chúng, không phải ở chỗ kín đáo.
Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Các Tỷ-kheo quở trách ta ở giữa Tăng
chúng, không phải ở chỗ kín đáo". Do đó vị này trở thành phẫn
nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ, và bất mãn, cả hai thuộc
về cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Nếu ta có phạm giới tội, mong rằng một Tỷ-kheo
đồng đẳng hãy quở trách ta, chớ không phải một vị không đồng
đẳng". Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo
không đồng đẳng quở trách Tỷ-kheo ấy, không phải một Tỷ-kheo đồng
đẳng. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Một Tỷ-kheo không đồng đẳng quở
trách ta, không phải một Tỷ-kheo đồng đẳng". Do đó vị này trở
thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả
hai thuộc về cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Mong rằng bậc Ðạo Sư hãy hỏi ta nhiều lần
trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo! Mong rằng bậc Ðạo Sư không
hỏi Tỷ-kheo khác nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng
Tỷ-kheo!". Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: bậc Ðạo
Sư hỏi một Tỷ-kheo khác nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng
Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư không hỏi Tỷ-kheo ấy nhiều lần trong khi giảng
pháp cho chúng Tỷ-kheo. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Bậc Ðạo Sư hỏi
một Tỷ-kheo khác nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo.
Bậc Ðạo Sư không hỏi ta nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng
Tỷ-kheo". Do đó, vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này
Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Mong rằng các Tỷ-kheo hãy để ta đi trước trong
khi vào làng để dùng cơm! Mong rằng các Tỷ-kheo không để một Tỷ-
kheo khác đi trước trong khi vào làng để dùng cơm!" Này Hiền
giả, sự tình này có thể xảy ra: các Tỷ- kheo để một Tỷ-kheo khác
đi trước trong khi vào làng để dùng cơm, các Tỷ-kheo không để
Tỷ-kheo ấy đi trước trong khi vào làng để dùng cơm. Tỷ-kheo này
nghĩ rằng: "Các Tỷ-kheo để một Tỷ-kheo khác đi trước trong khi
vào làng để dùng cơm, các Tỷ-kheo không để ta đi trước trong khi
vào làng để dùng cơm". Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất
mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo khởi lên ý muốn như
sau: "Mong rằng tại chỗ ăn, ta được chỗ ngồi tốt nhất, nước
uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất! Mong rằng Tỷ-kheo khác
tại chỗ ăn không được chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, đồ
ăn khất thực tốt nhất!" Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy
ra: một Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn được chỗ ngồi tốt nhất, nước
uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất; còn Tỷ-kheo ấy tại chỗ
ăn không được chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, đồ ăn khất
thực tốt nhất. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Một Tỷ-kheo khác tại
chỗ ăn được chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, đồ ăn khất
thực tốt nhất. Tại chỗ ăn, ta không được chỗ ngồi tốt nhất, nước
uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất". Do đó, vị này trở
thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả
hai thuộc về cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Mong rằng tại chỗ ăn sau khi ăn xong, ta sẽ
thuyết tùy hỷ pháp, không phải Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn, sau khi ăn
xong, sẽ thuyết tùy hỷ pháp!" Này Hiền giả, sự tình này có
thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn, sau khi ăn xong, thuyết tùy
hỷ pháp; Tỷ-kheo ấy tại chỗ ăn, sau khi ăn xong, không thuyết tùy
hỷ pháp. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Một Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn,
sau khi ăn xong, thuyết tùy hỷ pháp. Ta tại chỗ ăn, sau khi ăn xong,
không thuyết tùy hỷ pháp". Do đó, vị này trở thành phẫn nộ và
bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu
uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Mong rằng, ta sẽ thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ
tập tại ngôi tịnh xá, chớ không phải một Tỷ-kheo khác thuyết pháp
cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi tịnh xá!" Này Hiền giả, sự tình
này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ
tập tại ngôi tịnh xá; còn Tỷ-kheo ấy không thuyết pháp cho các
Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi tịnh xá Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Một
Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi tịnh xá,
còn ta không thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi tịnh
xá". Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền
giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Mong rằng, ta sẽ thuyết pháp cho các Tỷ-kheo-ni
tụ tập tại ngôi tịnh xá,... (như trên)... ta sẽ thuyết pháp cho các
Nam cư sĩ... ta sẽ thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi
tịnh xá, chớ không phải một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Nữ cư
sĩ tụ tập tại ngôi tịnh xá!" Này Hiền giả, sự tình này có
thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập
tại ngôi tịnh xá; còn Tỷ-kheo ấy không thuyết pháp cho các Nữ cư
sĩ tụ tập tại ngôi tịnh xá. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Một
Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi tịnh
xá; còn ta không thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi
tịnh xá". Do đó, vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này
Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Mong rằng các Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, lễ
bái, cúng dường ta; các vị Tỷ-kheo chớ có cung kính, tôn trọng, lễ
bái cúng dường một Tỷ-kheo khác!" Này Hiền giả, sự tình này
có thể xảy ra: các Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng lễ bái, cũng dường
một Tỷ-kheo khác, các Tỷ-kheo không cung kính, tôn trọng, lễ bái,
cúng dường Tỷ-kheo ấy. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Các Tỷ-kheo cung
kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường một Tỷ- kheo khác chớ không
cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường ta". Do đó vị này trở
thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả
hai thuộc về cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo khởi lên ý muốn
như sau: "Mong rằng các Tỷ- kheo-ni... (như trên)... các Nam cư
sĩ... (như trên)... các Nữ cư sĩ cung kính, tôn trọng, lễ bái,
cúng dường ta. Các Nữ cư sĩ không cung kính, tôn trọng, lễ bái,
cúng dường một Tỷ-kheo khác!" Này Hiền giả, sự tình này có
thể xảy ra: các Nữ cư sĩ cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường
một Tỷ-kheo khác, các Nữ cư sĩ không cung kính, tôn trọng, lễ bái,
cúng dường Tỷ-kheo ấy. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Các Nữ cư sĩ
cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường một Tỷ-kheo khác; các Nữ
cư sĩ không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường ta". Do
đó vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ
và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này
Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Mong rằng ta nhận được các y phục tối thắng, Tỷ-kheo
khác không nhận được các y phục tối thắng!" Này Hiền giả, sự
tình này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác nhận được các y phục tối
thắng, Tỷ-kheo ấy không nhận được các y phục tối thắng. Tỷ-kheo
này nghĩ rằng: "Một Tỷ-kheo khác nhận được các y phục tối
thắng; ta không nhận được các y phục tối thắng". Do đó vị này
trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn,
cả hai thuộc về cấu uế.
Này
Hiền giả sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên
ý muốn như sau: "Mong rằng ta nhận được các đồ ăn khất thực
tối thắng... (như trên)... các sàng tọa tối thắng, các dược phẩm
trị bịnh tối thắng. Tỷ-kheo khác không nhận được các dược phẩm
trị bịnh tối thắng!" Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra:
một Tỷ-kheo khác nhận được các dược phẩm trị bịnh tối thắng, còn
Tỷ-kheo ấy không nhận được các dược phẩm trị bịnh tối thắng".
Tỷ-kheo này nghĩ rằng: "Một Tỷ-kheo khác nhận được các dược
phẩm trị bịnh tối thắng; còn ta không nhận được các dược phẩm
trị bịnh tối thắng". Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất
mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này
Hiền giả, các ác bất thiện pháp, cảnh giới của dục này là đồng
nghĩa cái gọi là cấu uế.
Này
Hiền giả, đối với Tỷ-kheo nào, các ác, bất thiện pháp, cảnh giới
của dục này còn được thấy và nghe là chưa được diệt trừ, nếu
Tỷ-kheo ấy là vị sống trong rừng núi, tại các trú xứ xa vắng, sống
hạnh khất thực, thứ lớp khất thực từng nhà một, theo hạnh mang phấn
tảo y, mặc y phục thô xấu, thời các đồng phạm hạnh không cung kính,
tôn trọng, lễ bái, cúng dường Tỷ-kheo ấy. Vì sao vậy? Vì các bậc
Tôn giả này còn được thấy và còn được nghe các ác, bất thiện
pháp, cảnh giới dục của Tỷ-kheo chưa được diệt trừ.
Này
Hiền giả, ví như một bát bằng đồng, mang từ chợ về hay từ nhà
người thợ rèn về, bát ấy thanh tịnh, sạch sẽ. Nhưng người chủ
của bát ấy đựng đầy bát với xác rắn, xác chó hay xác người, đậy
lại với một cái bát đồng khác rồi mang về hàng chợ lại. Có người
thấy vậy bèn hỏi: "Bạn mang cái gì có vẻ đẹp đẽ ngon lành
vậy?" Khi cầm cái bát lên, mở ra và nhìn vào, thì với người
ấy, không ưa thích khởi lên, sự ghê tởm khởi lên, và sự yếm ố
khởi lên. Những người đói còn chưa muốn ăn các thứ ấy, huống nữa
là những người đã no.
Này
Hiền giả, đối với Tỷ-kheo nào, các ác, bất thiện pháp, cảnh giới
của dục này còn được thấy và được nghe là chưa được diệt trừ,
nếu Tỷ-kheo ấy là vị sống trong rừng núi, tại các trú xứ xa vắng,
sống hạnh khất thực, thứ lớp khất thực từng nhà một, theo hạnh mang
phấn tảo y, mặc y phục thô xấu, thời các đồng phạm hạnh không cung
kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Tỷ-kheo ấy. Vì sao vậy? Vì
các bậc Tôn giả này còn được thấy và còn được nghe các ác, bất
thiện pháp, cảnh giới của dục này là chưa được diệt trừ.
Này
Hiền giả, đối với Tỷ-kheo nào mà các ác, bất thiện pháp, cảnh
giới của dục này được thấy và được nghe là đã diệt trừ, nếu
Tỷ-kheo ấy sống gần làng mạc, chấp nhận biệt thỉnh thực, mang y
người gia chủ cúng, thời các đồng phạm hạnh cung kính, tôn trọng,
lễ bái, cúng dường vị Tỷ-kheo ấy. Vì sao vậy? Vì các bậc Tôn giả
này được thấy và được nghe các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của
dục của vị Tỷ-kheo ấy đã được diệt trừ.
Này
Hiền giả, ví như một bát đồng, mang từ hàng chợ về hay từ nhà
người thợ rèn về, bát ấy thanh tịnh, sạch sẽ. Người chủ cái bát
ấy dựng đầy với gạo ngon, cơm lành, các hột đen đã lấy ra, các
loại đồ ăn, đậy lại với một bát đồng khác rồi mang về hàng chợ
lại. Các người thấy vậy bèn hỏi: "Bạn mang cái gì có vẻ đẹp
đẽ ngon lành vậy?" Khi cầm cái bát lên, mở ra và nhìn vào, thì
đối với người ấy, ưa thích khởi lên, sự không ghê tởm khởi lên,
sự không yếm ố khởi lên. Người no còn muốn ăn các thứ ấy huống
nữa là người đói.
Này
Hiền giả, cũng vậy, đối với vị Tỷ-kheo nào, mà các ác, bất thiện
pháp, cảnh giới của dục này được thấy và được nghe là đã diệt
trừ, nếu Tỷ-kheo ấy sống ở biên giới gần làng mạc, chấp nhận biệt
thỉnh thực, mang y người gia chủ cúng, thời các đồng phạm hạnh cung
kính, tôn trọng lễ bái cúng dường Tỷ- kheo ấy. Vì sao vậy? Vì các
bậc Tôn giả này được thấy và được nghe các ác, bất thiện pháp
cảnh giới của dục này đã được diệt trừ.
024.
“Những tư tưởng lớn gặp nhau”
Tôn
giả Mahāmoggallāna sau khi nghe Tôn giả Sāriputta đã nói lên một thí dụ về
hai người cùng nghề và giỏi như nhau khi người nầy nhìn người kia đẽo một
vành xe cả hai đều giống nhau trong ý nghĩ cái gì nên làm. Một thí dụ để tán
thán pháp được giảng và tán thán người giảng pháp:
Ðược
nghe nói vậy, Tôn giả Mahāmoggallāna thưa với Tôn giả Sāriputta:
-- Hiền giả Sāriputta,
một ví dụ khởi lên cho tôi!
--
Hiền giả Moggallāna, hãy nói lên ví dụ ấy.
--
Hiền giả, một thời tôi ở thành Vương Xá, tại Giribbaja. Này Hiền
giả, rồi tôi đắp y vào buổi sáng, mang theo y bát, vào thành Vương
Xá để khất thực. Lúc bấy giờ, Samīti, con một người làm xe, đang
đẽo một vành xe, và tà mạng ngoại đạo Paṇḍuputta, trước là con của
một người làm xe, đang đứng một bên. Rồi tà mạng ngoại đạo Paṇḍuputta
trước là con một người làm xe, khởi lên ý nghĩ như sau: "Mong
rằng Samīti, con người thợ xe, hãy đẽo đường cong này, đường méo
này và các mắt gỗ này, để vành xe này không có cong, không có
đường méo, không có mắt gỗ, được trơn tru và được đặt vào trong
trục chính". Này Hiền giả, tà mạng ngoại đạo Panṇḍuputta, trước
là con một người làm xe suy nghĩ như thế nào, thời đúng như vậy,
Samīti, con người làm xe, đẽo đường cong này, đường méo này và các
mắt gỗ này của vành xe ấy. Này Hiền giả, tà mạng ngoại đạo Paṇḍuputta
trước là con người làm xe, hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ như sau:
"Hình như người này đang đẽo (vành xe ấy) như là với tâm của
anh ta, anh ta biết tâm ta vậy".
Này
Hiền giả, những ai không có lòng tin, vì mục đích sinh sống, không
phải vì lòng tin mà xuất gia, sống đời sống vô gia đình, những vị
gian ngụy, xảo trá, khi cuống, trạo cử, kiêu mạn, dao động, lắm lời,
tạp thoại, không hộ trì các căn, không tiết độ trong ăn uống,
không chú tâm cảnh giác, không tha thiết với hạnh Sa-môn, không
nhiệt thành tôn trọng Phật pháp, ưa sống sung túc, biếng nhác, dẫn
đầu về đọa lạc, chối bỏ trọng trách sống viễn ly, giải đãi không tinh
tấn, lãng quên không chú niệm, không định tâm, tâm tán loạn, liệt
tuệ, đần độn. Tôn giả Sāriputta với pháp môn này, như là với tâm
của Tôn giả, Tôn giả biết tâm của những hạng người ấy.
Những
kẻ Thiện nam tử, do lòng tin, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình; những vị nào không gian ngụy, không xảo trá, không khi
cuống, không trạo cử, không kiêu mạn, không dao động, không lắm
lời, không tạp thoại, hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống, chú
tâm cảnh giác, tha thiết với hạnh Sa-môn, nhiệt thành tôn trọng
Phật pháp, không sống trong sung túc, không biếng nhác, bỏ rơi gánh
nặng về đọa lạc, dẫn đầu về viễn ly, tinh cần, tinh tấn, nỗ lực,
chú tâm cảnh giác, định tâm, nhất tâm, có trí tuệ, không đần độn.
Những vị này sau khi nghe pháp môn này của Tôn giả Sariputta, hình
như đang uống, hình như đang nếm với lời nói và tâm ý. Thật lành
thay, một vị Tôn giả đồng phạm hạnh đã khiến cho vượt khỏi bất
thiện và an trú vào chánh thiện!
Này
Hiền giả, ví như một người đàn bà hay người đàn ông, còn đang
tuổi trẻ, tánh ưa trang sức, sau khi gội đầu xong, sau khi được một
vòng hoa sen xanh hay một vòng vũ sanh hoa, hay một vòng thiện tư hoa,
dùng hai tay cầm lấy vòng hoa ấy và đặt trên đỉnh đầu. Này Hiền
giả, cũng vậy những Thiện nam tử vì lòng tin đã xuất gia, từ bỏ gia
đình sống không gia đình, không gian ngụy... (như trên)... Thật lành
thay một Tôn giả đồng phạm hạnh đã khiến cho vượt khỏi bất thiện
và an trú vào chánh thiện!
Như
vậy hai vị cao đức ấy cùng nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 5 [tóm tắt]
Kinh Không Uế Nhiễm
(Anaṅgaṇa Sutta)
(M.i, 24)
Thế Tôn ở Sāvatthī,
Jetavana, Anāthapiṇḍika. Sāriputta gọi các Tỷ-kheo và giảng kinh này.
Có bốn hạng người ở đời:
(1-2) Hạng người có cấu uế,
không như thật biết mình có cấu uế, hay như thật biết mình có cấu
uế. Hạng đầu hạ liệt hơn vì hạng này không có hy vọng khởi lên ý
muốn diệt trừ cấu uế. Hạng thứ hai thù thắng hơn, vì biết mình có
cấu uế nên tinh tấn đoạn trừ cấu uế.
(3-4) Hai hạng người không
có cấu uế, một hạng không như thật biết mình không có cấu uế,
một hạng người biết mình không có cấu uế. Hạng đầu hạ liệt hơn,
vì có thể khởi tịnh tướng, và do vậy tâm bị ô nhiễm. Hạng thứ
hai sẽ không khởi lên tịnh tướng, nhờ vậy không có tham, sân, si...
Sāriputta lấy bốn ví dụ
tượng trưng cho bốn hạng người này. Hạng đầu như cái bát bằng
đồng bị bụi bặm đem về nhà lại quăng vào chỗ bụi bặm. Hạng thứ
hai như cái bát đầy bụi bặm đem về nhà để vào chỗ sạch sẽ và
thỉnh thoảng lau chùi. Hạng thứ ba như cái bát sạch sẽ nhưng đem về
nhà bỏ vào chỗ không sạch sẽ, và hạng thứ tư như cái bát sạch
sẽ, đem về nhà lại để vào chỗ sạch sẽ, lại biết lau chùi, nên cái
bát càng sạch sẽ hơn lên.
Rồi Sāriputta định nghĩa cấu
uế (anganam) tức là các ác pháp, các bất thiện pháp, các cảnh giới
của dục là đồng nghĩa với cấu uế. Và Sāriputta kể mười ba trường
hợp, trong ấy một Tỷ-kheo giữa tăng chúng khởi lên mười ba ý muốn,
nhưng không được toại nguyện, nên khởi lên bất mãn và phẫn nộ,
bất mãn là cấu uế.
Mười ba trường hợp như sau:
1/ Tỷ-kheo có phạm tội, muốn
rằng chúng Tăng không có biết.
2/ Tỷ-kheo có phạm tội, mong
rằng các Tỷ-kheo buộc tội trong chỗ kín, không tại chỗ đông người.
3/ Tỷ-kheo có phạm tội, muốn
rằng được Tỷ-kheo đồng hạng buộc tội.
4/ Muốn rằng trong khi giảng
pháp, bậc Đạo sư hỏi mình nhiều về chánh pháp.
5/ Muốn rằng các Tỷ-kheo để
mình đi trước, khi đi vào làng dùng cơm.
6/ Mong rằng tại chỗ ăn,
được chỗ ngồi, được nước uống, được đồ ăn khất thực tốt ngon.
7/ Mong rằng sau khi ăn, mình
được mời thuyết hoan hỷ pháp.
8/ Mong rằng mình được
thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi tịnh xá.
9/ Mong rằng mình được
thuyết pháp cho các Tỷ-kheo- ni..., nam cư sĩ..., nữ cư sĩ.
10/ Mong rằng các Tỷ-kheo chỉ
cung kính tôn trọng một mình ta, không tôn kính tôn trọng các
Tỷ-kheo khác.
11/ Mong rằng các Tỷ-kheo-ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ chỉ cung kính tôn trọng một mình ta, không cung
kính tôn trọng các Tỷ-kheo khác.
12-13/ Mong rằng mình nhận
được y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh thù
thắng nhất.
Cuối cùng Sāriputta xác định
rằng nếu vị Tỷ-kheo được thấy và được nghe còn cấu uế chưa diệt
trừ, thời dù Tỷ- kheo ấy sống ở trong rừng núi xa vắng, khất thực
từng nhà một, mang phấn tảo y, mặc y phục thô xấu, các vị đồng
Phạm hạnh cũng không cung kính tôn trọng vị Tỷ- kheo ấy. Trái lại,
vị Tỷ-kheo nào các ác bất thiện pháp, cảnh giới của dục được
thấy và được nghe đã được đoạn trừ, thời dù Tỷ-kheo ấy ở làng
mạc, chấp nhận biệt thỉnh thực, mang y phục của người gia chủ cúng,
thời các vị đồng Phạm hạnh tôn trọng cung kính người ấy.
Đến đây, Mahāmoggallāna kể
một ví dụ. Mahāmoggallāna kể chuyện có thấy Samīti, con một người
làm xe đang đẽo một vành xe, và một tà mạng ngoại đạo tên là Paṇḍuputta
đang đứng nhìn, người này trước kia là một người làm xe. Paṇḍuputta
vì biết đẽo vành xe nên nghĩ rằng Samīti hãy đẽo đường cong này,
đường méo này, để vành xe không có đường cong méo, và Samīti làm
y như Paṇḍuputta đã nghĩ. Khi ấy Paṇḍuputta phải nói rằng Samīti đang
đẽo vành xe với tâm của nó biết được tâm của mình. Cũng vậy
Sāriputta đã biết được tâm địa của những người xuất gia chơn
chánh hay không chơn chánh. Nhưng người không vì lòng tin xuất gia,
vì mục đích sinh sống, gian ngụy, xảo trá, lắm lời, không tiết độ
trong ăn uống, với pháp môn này, Sāriputta biết tâm các vị ấy. Còn
đối với những vị vì lòng tin xuất gia, sống không gian ngụy, xảo
trá, hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống, chúng sẽ nghe pháp môn
này như đang uống, đang nếm với lời nói và tâm ý.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 5 [dàn ý]
Kinh Không Uế Nhiễm
(Anaṅgaṇa Sutta)
(M.i, 24)
A. Duyên khởi:
Tôn giả Sāriputta gọi các Tỷ-kheo và thuyết giảng.
B. Chánh kinh:
I. Tôn giả Sāriputta nói có 4 hạng người ở đời:
1. Hạng có cấu uế và không biết mình có cấu uế,
2. Hạng có cấu uế và biết mình có cấu uế,
3. Hạng không có cấu uế và không biết mình không có cấu uế,
4. Hạng không có cấu uế và biết mình không có cấu uế.
II. Với câu hỏi của Tôn giả Moggallāna, Tôn giả Sāriputta giải thích vì sao hạng
không như thật biết mình có cấu uế và không có cấu uế là hạ liệt; còn hạng như
thật biết mình có cấu uế và biết mình không có cấu uế là ưu thắng.
III. Thế nào là cấu uế? 13 trường hợp cấu uế có thể xảy đến cho vị
Tỷ-kheo ở trong chúng.
IV. Tỷ-kheo có cấu uế, dù ở trong rừng, tu hạnh đầu đà... vẫn
không được các vị đồng phạm hạnh cung kính. Trái lại, vị Tỷ-kheo sống gần làng
mạc, nhưng không cấu uế, vẫn được các vị đồng phạm hạnh cung kính.
Tôn giả Moggallāna dùng ví dụ tán thán Tôn giả Sāriputta đã khéo
rõ biết tâm tư của vị xuất gia không chân chánh và vị xuất gia chân chánh.
C. Kết luận:
Hai vị Tôn giả cùng nhau khéo nói, cùng nhau tuỳ hỷ.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 5 [toát yếu]
Kinh Không Uế Nhiễm
(Anaṅgaṇa Sutta)
(M.i, 24)
I.
Toát yếu
Anangana
Sutta - Without blemishes.
The
venerable Sāriputta gives a discourse to the Bhikkhus on the meaning of
blemishes, explaining that a bhikkhus becomes blemished when he falls under the
sway of evil wishes.
Không
lỗi lầm.
Tôn
giả Xá-lợi-phất giảng cho các tỳ kheo ý nghĩa của cấu uế
-haylỗilầm-giải thích rằng một tỳ kheo có lỗi khi vị ấy bị thao
túng bởi những ước muốn xấu.
II.
Tóm tắt
Có
4 hạng người trên đời:
1. Có cấu uế
mà không tự biết;
2. Có cấu uế
và như thật biết mình có cấu uế;
3. Không cấu
uế nhưng không tự biết;
4.
Không cấu uế và biết như thật mình không cấu uế.
Trong
hai hạng có cấu uế, hạng tự biết hơn người không tự biết. Vì khi
có cấu uế mà không tự biết, vị ấy sẽ chết mang theo những cấu uế
còn nguyên vẹn; nhưng nếu tự biết còn cấu uế, vị ấy sẽ khởi lên
ước muốn tinh tấn diệt trừ cấu uế và sẽ từ trần với tâm không
còn ô nhiễm. Như người có cái bát dơ, lại bỏ quên nó vào nơi
bụi bặm thì càng ngày càng dơ. Ngược lại nếu thấy bát dơ, chủ
nhân đem lau chùi không để vào nơi bụi bặm, thì bát càng ngày càng
sáng sạch.
Trong hai hạng không cấu uế cũng vậy. Hạng
không cấu uế nhưng không tự biết một cách như thật là mình không
cấu uế, thì có thể có lúc do tiếp xúc sắc đẹp mà nổi tham, quên
quán thân bất tịnh, gọi là "tư niệm tịnh tướng" và từ
đó tham, sân làm ô nhiễm tâm vị ấy. Như một cái bát sạch mà chủ
nhân không biết dùng, lại liệng nó vào chỗ bụi bặm thì dần dà nó
sẽ thành bát dơ. Người không cấu uế và như thật tuệ tri mình
không cấu uế, thì sẽ không tư niệm tịnh tướng, luôn quán bất
tịnh nên tham không làm ô nhiễm tâm vị ấy. Vị ấy sẽ từ trần với
tâm không còn ô nhiễm. Như chủ nhân một cái bát sạch nhờ biết nó
sạch nên siêng lau chùi, giữ gìn không để nó lẫn lộn với rác
rưởi.
Do vậy, trong bốn hạng người thì hai hạng
"có biết" là hơn hai hạng kia.
Tiếp đến tôn giả kể ra những gì gọi là cấu
uế nơi tỳ kheo: đó là các suy tư bất thiện liên hệ đến dục, như
vị tỳ kheo nổi lên phẫn nộ bất mãn khi thầm mong nhiều chuyện mà
toàn gặp chuyện trái lại: khi có phạm giới, thầm mong đừng ai biết;
mong các tỳ kheo quở trách mình tại chỗ kín đáo đừng công khai; nếu
bị cử tội công khai, mong người quở trách phải là người ngang
hàng. Tại giảng đường, thầm mong Phật hỏi mình nhiều lần, đừng hỏi
ai khác. Vào xóm khất thực, thầm mong chúng tỷ kheo để mình dẫn
đầu; thầm mong mình được chỗ tốt nhất, thực phẩm tốt nhất; mong
các tỷ kheo để cho mình phát biểu sau khi ăn xong tại nhà gia chủ [thuyết
tùy hỷ pháp]. Khi đại chúng nhóm họp trong tịnh xá, thầm mong họ
mời mình thuyết pháp cho chúng tỷ kheo, tỳ kheo ni, nam hoặc nữ cư
sĩ. Thầm mong được chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni, nam, nữ cư sĩ tôn
trọng lễ bái cúng dường mình chớ không phải ai khác. Thầm mong
mình được tứ sự cúng dường loại tốt nhất.
Tất
cả những mong mỏi như trên, cùng với sự bất mãn phẫn nộ do cái
khổ "cầu không được" đều gọi là cấu uế, là cảnh giới
của dục.
Nơi
tỳ kheo nào chưa diệt trừ các cấu uế, thì dù vị ấy là người
sống ở rừng, tu đủ thứ khổ hạnh, vẫn không được các vị đồng phạm
hạnh cung kính tôn trọng. Người ấy được ví như một cái bát bề
ngoài đẹp đẽ nhưng đựng toàn thứ dơ bẩn gớm ghiếc như xác rắn
xác chuột. Trái lại một tỳ kheo dù sống gần làng mạc, không tu khổ
hạnh, nhưng đã diệt trừ cấu uế, thì vẫn được cung kính tôn trọng,
như một cái bát đẹp lại chứa toàn thực phẩm ngon lành.
III.
Chú giải
…
IV.
Pháp số
Ba độc:
tham sân si.
Ba nghiệp:
thân, ngữ, ý.
Bốn hạng
người: hai hạng có và hai hạng không cấu uế.
V.
Kệ tụng
A. Bốn hạng người
1. Ðời có bốn hạng người:
Có
lỗi mà tự tri,
Có lỗi, không tự tri
Có lỗi, không tự tri
Không
lỗi cũng gồm hai
Tự
biết, không tự biết.
2.
Hạng "có biết" là hơn:
Như
cái bát dơ dáy
Chủ biết mà lau chùi
Chủ biết mà lau chùi
Thì
sẽ thành bát sạch.
Cũng thế, người có lỗi
Tự biết, lo sửa đổi
Sẽ thành người trong sạch
Cũng thế, người có lỗi
Tự biết, lo sửa đổi
Sẽ thành người trong sạch
Chết
mang theo nghiệp lành.
3.
Có lỗi không tự biết
Như
bát dơ càng dơ
Vì lâu ngày không rửa;
Vì lâu ngày không rửa;
Người
xấu không tự biết
Chết
mang theo xấu xa.
4.
Người tốt không tự biết
Lại
giao du bạn xấu
Ðam mê theo thanh sắc
Ðam mê theo thanh sắc
Lâu
ngày thành kẻ hư.
Như
cái bát trong sáng
Mà đem liệng đống rác
Hoặc
chứa toàn thứ dơ
Ði
đời cái bát sạch.
5.
Người tự biết không lỗi
Lo
tư quán bất tịnh
Không rơi vào tham, sân
Không rơi vào tham, sân
Chết
với tâm vô nhiễm.
Như
cái bát trong sáng
Chủ lại siêng lau chùi
Chủ lại siêng lau chùi
Không
để bám bụi bặm
Càng
ngày càng sáng trong.
B. Cấu uế
của tâm:
6. Các ác bất thiện pháp
Và
cảnh giới của dục
Ấy
gọi là đồng nghĩa
Với
cấu uế của tâm.
7.
Thầm mong đợi một đường
Việc
xảy ra một nẻo
Nên
phẫn nộ bất mãn
Ðây
gọi là cấu uế.
8.
Khi lỡ phạm giới tội
Cầu
mong đừng ai biết
Người
biết, bèn nổi sân
Ðây
gọi là cấu uế.
9.
"Mong họ quở trách ta
Chỗ
kín đáo một chút
Chớ
đừng giữa công khai"
Sự
xảy ra ngược lại
Bị
quở trách giữa tăng
Ðương
sự bèn nổi sân Ðây gọi là cấu uế.
10.
"Ước chi người đồng đẳng
Quở trách tội lỗi mình"
Thực tế không được vậy
Bị người dưới chơi leo
Thực tế không được vậy
Bị người dưới chơi leo
Hậm
hực, lòng bất mãn
Ðây
gọi là cấu uế.
11.
Tại giảng đường, học
Pháp
Thầm mong thầy gọi mình
Thầy
lại gọi người khác
Lòng bất mãn không vui
Lòng bất mãn không vui
Ðây
gọi là cấu uế.
12.
"Mong ta được dẫn đầu
Khi
vào làng khất thực,"
Hóa
ra người dẫn đầu
Lại
là tỳ kheo khác,
Mình bất mãn không vui
Mình bất mãn không vui
Ðây
gọi là cấu uế.
13.
"Mong tại nơi thọ thực
Ta
ngồi chỗ tốt nhất
Ðược
thức uống tốt nhất
Và
thực phẩm hảo hạng."
Một
tỳ kheo khác được
Những
gì ta thầm mong
Ta
phẫn nộ, bất mãn
Ðây
gọi là cấu uế.
14.
"Mong sau khi ăn xong
Ta
thuyết tùy hỷ pháp"
Nhưng
sự tình xảy ra
Là tỳ kheo khác thuyết;
Là tỳ kheo khác thuyết;
Ta
phẫn nộ, bất mãn
Ðây
gọi là cấu uế.
15.
Khi bốn chúng tụ tập
Tại
một ngôi tịnh xá
Tỳ kheo ấy thầm mong
Tỳ kheo ấy thầm mong
Mình
được mời giảng pháp
Nhưng
sự tình xảy ra
Một tỳ kheo khác giảng;
Ta phẫn nộ, bất mãn
Một tỳ kheo khác giảng;
Ta phẫn nộ, bất mãn
Ðây
gọi là cấu uế.
16.
"Mong ta được bốn chúng
Lễ
bái và cúng dường"
Nhưng
một tỳ kheo khác
Ðã
được địa vị ấy
Ta phẫn nộ, bất mãn
Ta phẫn nộ, bất mãn
Ðây
gọi là cấu uế.
17.
"Mong ta sẽ có được
Những
vật dụng tối thắng
Về
tứ sự cúng dường"
Nhưng
người được, ta không
Ta
phẫn nộ, bất mãn
Ðây
gọi là cấu uế.
18.
Nơi vị tỳ kheo nào
Chưa
đoạn trừ cấu uế
Dù có tu khổ hạnh
Cũng không đáng tôn sùng.
Dù có tu khổ hạnh
Cũng không đáng tôn sùng.
Nơi
vị tỳ kheo nào
Ðã đoạn trừ cấu uế
Dù không tu khổ hạnh
Ðã đoạn trừ cấu uế
Dù không tu khổ hạnh
Cũng
đáng được tán dương.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
5. Anaṅgaṇasuttaṃ [Mūla]
57. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho āyasmā
sāriputto bhikkhū āmantesi : ''āvuso, bhikkhaveti. ''Āvusoti kho te bhikkhū
āyasmato sāriputtassa paccassosuṃ. Āyasmā sāriputto etadavoca : ''cattārome,
āvuso, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame cattāro? idhāvuso, ekacco
puggalo sāṅgaṇova samāno 'atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ nappajānāti.
Idha panāvuso, ekacco puggalo sāṅgaṇova samāno 'atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti
yathābhūtaṃ pajānāti. Idhāvuso, ekacco puggalo anaṅgaṇova samāno 'natthi me
ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ nappajānāti. Idha panāvuso, ekacco puggalo anaṅgaṇova
samāno 'natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ pajānāti. Tatrāvuso, yvāyaṃ
puggalo sāṅgaṇova samāno 'atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ nappajānāti,
ayaṃ imesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ sāṅgaṇānaṃyeva sataṃ hīnapuriso akkhāyati.
Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo sāṅgaṇova samāno 'atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti
yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ imesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ sāṅgaṇānaṃyeva sataṃ seṭṭhapuriso
akkhāyati . Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno 'natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti
yathābhūtaṃ nappajānāti, ayaṃ imesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ anaṅgaṇānaṃyeva sataṃ
hīnapuriso akkhāyati. Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno 'natthi me
ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ imesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ anaṅgaṇānaṃyeva
sataṃ seṭṭhapuriso akkhāyatīti.
58. Evaṃ vutte, āyasmā mahāmoggallāno āyasmantaṃ
sāriputtaṃ etadavoca : ''ko nu kho, āvuso sāriputta, hetu ko paccayo yenimesaṃ
dvinnaṃ puggalānaṃ sāṅgaṇānaṃyeva sataṃ eko hīnapuriso akkhāyati, eko seṭṭhapuriso
akkhāyati? ko panāvuso sāriputta, hetu
ko paccayo yenimesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ
anaṅgaṇānaṃyeva sataṃ eko hīnapuriso akkhāyati, eko seṭṭhapuriso akkhāyatīti?
59. ''Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo sāṅgaṇova samāno 'atthi
me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ nappajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ : na
chandaṃ janessati na vāyamissati na vīriyaṃ ārabhissati tassaṅgaṇassa pahānāya
so sarāgo sadoso samoho sāṅgaṇo saṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati. Seyyathāpi,
āvuso, kaṃsapāti ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā rajena ca malena ca
pariyonaddhā. Tamenaṃ sāmikā na ceva paribhuñjeyyuṃ na ca pariyodapeyyuṃ
[pariyodāpeyyuṃ (?)], rajāpathe ca naṃ nikkhipeyyuṃ. Evañhi sā, āvuso, kaṃsapāti
aparena samayena saṃkiliṭṭhatarā assa
malaggahitāti? ''evamāvusoti. ''Evameva kho, āvuso, yvāyaṃ puggalo sāṅgaṇova
samāno 'atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ nappajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ
: na chandaṃ janessati na vāyamissati na vīriyaṃ ārabhissati tassaṅgaṇassa
pahānāya so sarāgo sadoso samoho sāṅgaṇo saṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati.
''Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo sāṅgaṇova samāno 'atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti
yathābhūtaṃ pajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ : chandaṃ janessati vāyamissati
vīriyaṃ ārabhissati tassaṅgaṇassa pahānāya so arāgo adoso amoho anaṅgaṇo asaṃkiliṭṭhacitto
kālaṃ karissati. Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā
rajena ca malena ca pariyonaddhā. Tamenaṃ sāmikā paribhuñjeyyuñceva
pariyodapeyyuñca, na ca naṃ rajāpathe nikkhipeyyuṃ. Evañhi sā, āvuso, kaṃsapāti aparena samayena
parisuddhatarā assa pariyodātāti? ''evamāvusoti. ''Evameva kho, āvuso, yvāyaṃ
puggalo sāṅgaṇova samāno 'atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ pajānāti,
tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ : chandaṃ janessati vāyamissati vīriyaṃ ārabhissati tassaṅgaṇassa
pahānāya so arāgo adoso amoho anaṅgaṇo asaṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati.
''Tatrāvuso , yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno 'natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti
yathābhūtaṃ nappajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ
: subhanimittaṃ manasi karissati, tassa subhanimittassa manasikārā rāgo
cittaṃ anuddhaṃsessati so sarāgo sadoso samoho sāṅgaṇo saṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati. Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti
ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā parisuddhā pariyodātā. Tamenaṃ sāmikā na ceva
paribhuñjeyyuṃ na ca pariyodapeyyuṃ, rajāpathe ca naṃ nikkhipeyyuṃ. Evañhi sā,
āvuso, kaṃsapāti aparena samayena saṃkiliṭṭhatarā assa malaggahitāti?
''evamāvusoti. ''Evameva kho, āvuso, yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno 'natthi
me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ nappajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ :
subhanimittaṃ manasi karissati, tassa subhanimittassa manasikārā rāgo cittaṃ
anuddhaṃsessatiso sarāgo sadoso samoho sāṅgaṇo saṃkiliṭṭhacittokālaṃkarissati.
''Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno 'natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti
yathābhūtaṃ pajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ : subhanimittaṃ na manasi karissati,
tassa subhanimittassa amanasikārā rāgo cittaṃ nānuddhaṃsessati so arāgo adoso
amoho anaṅgaṇo asaṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati. Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti
ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā parisuddhā pariyodātā. Tamenaṃ sāmikā
paribhuñjeyyuñceva pariyodapeyyuñca, na ca naṃ rajāpathe nikkhipeyyuṃ. Evañhi
sā, āvuso, kaṃsapāti aparena samayena parisuddhatarā assa pariyodātāti?
''evamāvusoti. ''Evameva kho, āvuso,
yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno 'natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ
pajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ : subhanimittaṃ na manasi karissati, tassa
subhanimittassa amanasikārā rāgo cittaṃ nānuddhaṃsessati so arāgo adoso amoho
anaṅgaṇo asaṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati. ''Ayaṃ kho, āvuso moggallāna , hetu
ayaṃ paccayo yenimesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ sāṅgaṇānaṃyeva sataṃ eko hīnapuriso
akkhāyati, eko seṭṭhapuriso akkhāyati. Ayaṃ panāvuso moggallāna, hetu ayaṃ paccayo yenimesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ anaṅgaṇānaṃyeva
sataṃ eko hīnapuriso akkhāyati, eko seṭṭhapuriso akkhāyatīti.
60. ''Aṅgaṇaṃ aṅgaṇanti, āvuso, vuccati. Kissa nu kho etaṃ,
āvuso, adhivacanaṃ yadidaṃ aṅgaṇanti? ''pāpakānaṃ kho etaṃ, āvuso, akusalānaṃ
icchāvacarānaṃ adhivacanaṃ, yadidaṃ aṅgaṇanti. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa
bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya : 'āpattiñca vata āpanno assaṃ, na ca maṃ
bhikkhū jāneyyuṃ āpattiṃ āpannoti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ taṃ
bhikkhuṃ bhikkhū jāneyyuṃ : 'āpattiṃ āpannoti. 'Jānanti maṃ bhikkhū āpattiṃ
āpannoti : iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca
appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ. ''Ṭhānaṃ
kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā
uppajjeyya : 'āpattiñca vata āpanno assaṃ, anuraho maṃ bhikkhū codeyyuṃ, no saṅghamajjheti.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ taṃ bhikkhuṃ bhikkhū saṅghamajjhe
codeyyuṃ, no anuraho. 'Saṅghamajjhe maṃ bhikkhū codenti, no anurahoti : iti so
kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā
uppajjeyya : 'āpattiñca vata āpanno assaṃ, sappaṭipuggalo maṃ codeyya, no appaṭipuggaloti.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ taṃ bhikkhuṃ appaṭipuggalo codeyya, no
sappaṭipuggalo. 'Appaṭipuggalo maṃ codeti, no sappaṭipuggaloti : iti so kupito
hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā
uppajjeyya : 'aho vata mameva satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ
dhammaṃ deseyya, na aññaṃ bhikkhuṃ satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ
dhammaṃ deseyyāti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ aññaṃ bhikkhuṃ satthā
paṭipucchitvā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ
dhammaṃ deseyya, na taṃ bhikkhuṃ
satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā
bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyya. 'Aññaṃ bhikkhuṃ satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā
bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti, na maṃ satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ
dhammaṃ desetīti : iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca
appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ. ''Ṭhānaṃ
kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā
uppajjeyya : 'aho vata mameva bhikkhū purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya
paviseyyuṃ, na aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya
paviseyyunti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū
purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya paviseyyuṃ, na taṃ bhikkhuṃ bhikkhū
purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya paviseyyuṃ. 'Aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū
purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya pavisanti, na maṃ bhikkhū purakkhatvā
purakkhatvā gāmaṃ bhattāya pavisantīti : iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva
kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ,
āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya : 'aho vata
ahameva labheyyaṃ bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍaṃ, na añño bhikkhu
labheyya bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍanti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu
labheyya bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍaṃ, na so bhikkhu labheyya
bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍaṃ. 'Añño bhikkhu labhati bhattagge
aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍaṃ, nāhaṃ labhāmi bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ
aggapiṇḍanti : iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca
appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ
idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya : 'aho vata ahameva bhattagge
bhuttāvī anumodeyyaṃ, na añño bhikkhu bhattagge bhuttāvī anumodeyyāti. Ṭhānaṃ
kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu bhattagge bhuttāvī anumodeyya, na
so bhikkhu bhattagge bhuttāvī anumodeyya. 'Añño bhikkhu bhattagge bhuttāvī anumodati, nāhaṃ bhattagge bhuttāvī
anumodāmīti : iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca
appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ
idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya : 'aho vata ahameva ārāmagatānaṃ
bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyyaṃ, na añño bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ
deseyyāti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyya, na
so bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ
dhammaṃ deseyya. 'Añño bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti, nāhaṃ ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ
desemīti : iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca
appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ
idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya : 'aho vata ahameva ārāmagatānaṃ
bhikkhunīnaṃ dhammaṃ deseyyaṃ - pe - upāsakānaṃ dhammaṃ deseyyaṃ - pe -
upāsikānaṃ dhammaṃ deseyyaṃ, na añño bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ
deseyyāti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu ārāmagatānaṃ
upāsikānaṃ dhammaṃ deseyya, na so bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ
deseyya. 'Añño bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ deseti, nāhaṃ
ārāmagatānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ desemīti : iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva
kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ,
āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya : 'aho vata
mameva bhikkhū sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ [garukareyyuṃ (sī. syā. pī.)] māneyyuṃ
pūjeyyuṃ, na aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ
pūjeyyunti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū
sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, na taṃ bhikkhuṃ bhikkhū
sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ. 'Aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū
sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti
, na maṃ bhikkhū sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjentīti : iti so kupito
hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā
uppajjeyya : 'aho vata mameva bhikkhuniyo - pe - upāsakā - pe - upāsikā
sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, na aññaṃ bhikkhuṃ upāsikā
sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyunti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso,
vijjati yaṃ aññaṃ bhikkhuṃ upāsikā sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ,
na taṃ bhikkhuṃ upāsikā sakkareyyuṃ garuṃ
kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ. 'Aññaṃ bhikkhuṃ upāsikā sakkaronti garuṃ
karonti mānenti pūjenti, na maṃ upāsikā sakkaronti garuṃ karonti mānenti
pūjentīti : iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca
appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ
idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya : 'aho vata ahameva lābhī assaṃ paṇītānaṃ
cīvarānaṃ, na añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ cīvarānanti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ,
āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu lābhī
assa paṇītānaṃ cīvarānaṃ, na so bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ cīvarānaṃ. 'Añño
bhikkhu lābhī [lābhī assa (ka.)] paṇītānaṃ cīvarānaṃ, nāhaṃ lābhī [lābhī assaṃ (ka.)] paṇītānaṃ cīvarānanti :
iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo :
ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ. ''Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa
bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya : 'aho vata ahameva lābhī assaṃ paṇītānaṃ piṇḍapātānaṃ
- pe - paṇītānaṃ senāsanānaṃ - pe - paṇītānaṃ
gilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ, na añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ
gilānappaccayabhesajjaparikkhārānanti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ
añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ gilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ, na so
bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ gilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ. 'Añño
bhikkhu lābhī [lābhī assa (ka.)] paṇītānaṃ
gilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ, nāhaṃ lābhī [lābhī assaṃ (ka.)] paṇītānaṃ
gilānappaccayabhesajjaparikkhārānanti : iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva
kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo : ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ. ''Imesaṃ kho etaṃ,
āvuso, pāpakānaṃ akusalānaṃ icchāvacarānaṃ adhivacanaṃ, yadidaṃ aṅgaṇanti.
61. ''Yassa kassaci, āvuso, bhikkhuno ime pāpakā akusalā
icchāvacarā appahīnā dissanti ceva sūyanti ca, kiñcāpi so hoti āraññiko
pantasenāsano piṇḍapātiko sapadānacārī
paṃsukūliko lūkhacīvaradharo, atha kho naṃ sabrahmacārī na ceva sakkaronti na
garuṃ karonti na mānenti na pūjenti. Taṃ kissa hetu? te hi tassa āyasmato pāpakā akusalā icchāvacarā appahīnā
dissanti ceva sūyanti ca. Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti ābhatā āpaṇā vā
kammārakulā vā parisuddhā pariyodātā. Tamenaṃ sāmikā ahikuṇapaṃ vā kukkurakuṇapaṃ
vā manussakuṇapaṃ vā racayitvā aññissā kaṃsapātiyā paṭikujjitvā antarāpaṇaṃ paṭipajjeyyuṃ.
Tamenaṃ jano disvā evaṃ vadeyya : 'ambho, kimevidaṃ harīyati jaññajaññaṃ
viyāti? tamenaṃ uṭṭhahitvā apāpuritvā [avāpuritvā (sī.)] olokeyya. Tassa
sahadassanena amanāpatā ca saṇṭhaheyya, pāṭikulyatā [paṭikūlatā (ka.), pāṭikūlyatā
(syā.)] ca saṇṭhaheyya, jegucchatā ca [jegucchitā ca (pī. ka.)] saṇṭhaheyya
jighacchitānampi na bhottukamyatā assa, pageva suhitānaṃ. Evameva kho, āvuso,
yassa kassaci bhikkhuno ime pāpakā akusalā icchāvacarā appahīnā dissanti ceva
sūyanti ca, kiñcāpi so hoti āraññiko pantasenāsano piṇḍapātiko sapadānacārī paṃsukūliko
lūkhacīvaradharo, atha kho naṃ sabrahmacārī na ceva sakkaronti na garuṃ
karonti na mānenti na pūjenti. Taṃ kissa
hetu? te hi tassa āyasmato pāpakā akusalā icchāvacarā appahīnā dissanti ceva
sūyanti ca.
62. ''Yassa kassaci, āvuso, bhikkhuno ime pāpakā akusalā
icchāvacarā pahīnā dissanti ceva sūyanti ca, kiñcāpi so hoti gāmantavihārī nemantaniko gahapaticīvaradharo, atha kho naṃ
sabrahmacārī sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti. Taṃ kissa hetu ? te hi
tassa āyasmato pāpakā akusalā icchāvacarā pahīnā dissanti ceva sūyanti ca.
Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā parisuddhā
pariyodātā. Tamenaṃ sāmikā sālīnaṃ odanaṃ vicitakāḷakaṃ [vicinitakāḷakaṃ (ka.)]
anekasūpaṃ anekabyañjanaṃ racayitvā aññissā kaṃsapātiyā paṭikujjitvā antarāpaṇaṃ
paṭipajjeyyuṃ. Tamenaṃ jano disvā evaṃ vadeyya : 'ambho, kimevidaṃ harīyati
jaññajaññaṃ viyāti? tamenaṃ uṭṭhahitvā apāpuritvā olokeyya. Tassa saha
dassanena manāpatā ca saṇṭhaheyya, appāṭikulyatā ca saṇṭhaheyya, ajegucchatā ca
saṇṭhaheyya suhitānampi bhottukamyatā assa, pageva jighacchitānaṃ. Evameva kho,
āvuso, yassa kassaci bhikkhuno ime pāpakā akusalā icchāvacarā pahīnā dissanti
ceva sūyanti ca, kiñcāpi so hoti gāmantavihārī nemantaniko gahapaticīvaradharo,
atha kho naṃ sabrahmacārī sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti . Taṃ kissa
hetu? te hi tassa āyasmato pāpakā akusalā icchāvacarā pahīnā dissanti ceva
sūyanti cāti.
63. Evaṃ vutte, āyasmā mahāmoggallāno āyasmantaṃ
sāriputtaṃ etadavoca : ''upamā maṃ, āvuso sāriputta, paṭibhātīti. ''Paṭibhātu
taṃ, āvuso moggallānāti. ''Ekamidāhaṃ, āvuso, samayaṃ rājagahe viharāmi
giribbaje. Atha khvāhaṃ, āvuso, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisiṃ.
Tena kho pana samayena samīti yānakāraputto rathassa nemiṃ tacchati. Tamenaṃ paṇḍuputto
ājīvako purāṇayānakāraputto paccupaṭṭhito hoti. Atha kho, āvuso, paṇḍuputtassa
ājīvakassa purāṇayānakāraputtassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi : 'aho vatāyaṃ
samīti yānakāraputto imissā nemiyā imañca vaṅkaṃ imañca jimhaṃ imañca dosaṃ
taccheyya, evāyaṃ nemi apagatavaṅkā apagatajimhā apagatadosā suddhā assa
[suddhāssa (sī. pī.), suddhā (ka.)] sāre patiṭṭhitāti . Yathā yathā kho, āvuso,
paṇḍuputtassa ājīvakassa purāṇayānakāraputtassa cetaso parivitakko hoti, tathā
tathā samīti yānakāraputto tassā nemiyā
tañca vaṅkaṃ tañca jimhaṃ tañca dosaṃ tacchati. Atha kho, āvuso, paṇḍuputto
ājīvako purāṇayānakāraputto attamano attamanavācaṃ nicchāresi : 'hadayā hadayaṃ
maññe aññāya tacchatīti. ''Evameva kho, āvuso, ye te puggalā assaddhā,
jīvikatthā na saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā, saṭhā māyāvino ketabino [keṭubhino
(bahūsu)] uddhatā unnaḷā capalā mukharā vikiṇṇavācā, indriyesu aguttadvārā,
bhojane amattaññuno, jāgariyaṃ ananuyuttā, sāmaññe anapekkhavanto, sikkhāya na
tibbagāravā, bāhulikā sāthalikā, okkamane pubbaṅgamā, paviveke nikkhittadhurā,
kusītā hīnavīriyā muṭṭhassatī asampajānā asamāhitā vibbhantacittā duppaññā eḷamūgā, tesaṃ āyasmā
sāriputto iminā dhammapariyāyena hadayā hadayaṃ maññe aññāya tacchati. ''Ye
pana te kulaputtā saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā, asaṭhā amāyāvino
aketabino anuddhatā anunnaḷā acapalā amukharā avikiṇṇavācā, indriyesu
guttadvārā, bhojane mattaññuno, jāgariyaṃ anuyuttā, sāmaññe apekkhavanto,
sikkhāya tibbagāravā, na bāhulikā na
sāthalikā, okkamane nikkhittadhurā, paviveke pubbaṅgamā, āraddhavīriyā
pahitattā upaṭṭhitassatī sampajānā samāhitā ekaggacittā paññavanto aneḷamūgā,
te āyasmato sāriputtassa imaṃ dhammapariyāyaṃ sutvā pivanti maññe, ghasanti
maññe vacasā ceva manasā ca : 'sādhu vata, bho, sabrahmacārī akusalā vuṭṭhāpetvā
kusale patiṭṭhāpetīti. Seyyathāpi, āvuso, itthī vā puriso vā daharo yuvā maṇḍanakajātiko
sīsaṃnhāto uppalamālaṃ vā vassikamālaṃ vā atimuttakamālaṃ [adhimuttakamālaṃ
(syā.)] vā labhitvā ubhohi hatthehi paṭiggahetvā uttamaṅge sirasmiṃ patiṭṭhapeyya,
evameva kho, āvuso, ye te kulaputtā saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā, asaṭhā
amāyāvino aketabino anuddhatā anunnaḷā acapalā amukharā avikiṇṇavācā, indriyesu
guttadvārā, bhojane mattaññuno, jāgariyaṃ anuyuttā, sāmaññe apekkhavanto,
sikkhāya tibbagāravā, na bāhulikā na
sāthalikā, okkamane nikkhittadhurā, paviveke pubbaṅgamā, āraddhavīriyā
pahitattā upaṭṭhitassatī sampajānā
samāhitā ekaggacittā paññavanto aneḷamūgā, te āyasmato sāriputtassa imaṃ
dhammapariyāyaṃ sutvā pivanti maññe, ghasanti maññe vacasā ceva manasā ca :
'sādhu vata, bho, sabrahmacārī akusalā vuṭṭhāpetvā kusale patiṭṭhāpetīti. Itiha
te ubho mahānāgā aññamaññassa subhāsitaṃ samanumodiṃsūti.
Anaṅgaṇasuttaṃ niṭṭhitaṃ
pañcamaṃ.
-ooOoo-
5. Anaṅgaṇasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
57. Evaṃ me sutaṃ…pe… āyasmā sāriputtoti
anaṅgaṇasuttaṃ. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā – yathā cettha, evaṃ sabbasuttesu.
Tasmā ito paraṃ ettakampi avatvā apubbapadavaṇṇanaṃyeva karissāma.
Cattāroti gaṇanaparicchedo. Puggalāti sattā narā posā.
Ettāvatā ca puggalavādī mahātheroti na gahetabbaṃ, ayañhi āyasmā buddhaputtānaṃ
seṭṭho, so buddhassa bhagavato desanaṃ avilomentoyeva deseti.
Sammutiparamatthadesanākathāvaṇṇanā
Buddhassa
bhagavato duvidhā desanā sammutidesanā, paramatthadesanā cāti. Tattha puggalo
satto itthī puriso khattiyo brāhmaṇo devo māroti evarūpā sammutidesanā.
Aniccaṃ dukkhaṃ anattā, khandhā dhātū āyatanāni satipaṭṭhānāti evarūpā paramatthadesanā.
Tattha
bhagavā ye sammutivasena desanaṃ sutvā atthaṃ paṭivijjhitvā mohaṃ pahāya visesaṃ
adhigantuṃ samatthā, tesaṃ sammutidesanaṃ deseti. Ye pana paramatthavasena
desanaṃ sutvā atthaṃ paṭivijjhitvā mohaṃ pahāya visesamadhigantuṃ samatthā,
tesaṃ paramatthadesanaṃ deseti. Tatthāyaṃ upamā, yathā hi desabhāsākusalo tiṇṇaṃ
vedānaṃ atthasaṃvaṇṇanako ācariyo ye damiḷabhāsāya vutte atthaṃ jānanti, tesaṃ
damiḷabhāsāya ācikkhati. Ye andhakabhāsādīsu aññatarāya, tesaṃ tāya tāya
bhāsāya. Evaṃ te māṇavakā chekaṃ byattaṃ ācariyamāgamma khippameva sippaṃ uggaṇhanti.
Tattha ācariyo viya buddho bhagavā. Tayo vedā viya kathetabbabhāvena ṭhitāni tīṇi
piṭakāni. Desabhāsākosallamiva sammutiparamatthakosallaṃ. Nānādesabhāsā māṇavakā
viya sammutiparamatthadesanāpaṭivijjhanasamatthā veneyyasattā. Ācariyassa damiḷabhāsādiācikkhanaṃ
viya bhagavato sammutiparamatthavasena desanā veditabbā. Āha cettha –
‘‘Duve
saccāni akkhāsi, sambuddho vadataṃ varo;
Sammutiṃ
paramatthañca, tatiyaṃ nūpalabbhati.
Saṅketavacanaṃ
saccaṃ, lokasammutikāraṇā;
Paramatthavacanaṃ
saccaṃ, dhammānaṃ bhūtakāraṇā.
Tasmā
vohārakusalassa, lokanāthassa satthuno;
Sammutiṃ
voharantassa, musāvādo na jāyatī’’ti.
Apica aṭṭhahi
kāraṇehi bhagavā puggalakathaṃ katheti – hirottappadīpanatthaṃ,
kammassakatādīpanatthaṃ, paccattapurisakāradīpanatthaṃ, ānantariyadīpanatthaṃ,
brahmavihāradīpanatthaṃ, pubbenivāsadīpanatthaṃ, dakkhiṇāvisuddhidīpanatthaṃ,
lokasammutiyā appahānatthañcāti. ‘‘Khandhadhātuāyatanāni hirīyanti
ottappantī’’ti hi vutte mahājano na jānāti, sammohamāpajjati, paṭisattu hoti
‘‘kimidaṃ khandhadhātuāyatanāni hirīyanti ottappanti nāmā’’ti. ‘‘Itthī hirīyati
ottappati puriso khattiyo brāhmaṇo devo māro’’ti vutte pana jānāti, na
sammohamāpajjati, na paṭisattu hoti. Tasmā bhagavā hirottappadīpanatthaṃ
puggalakathaṃ katheti.
‘‘Khandhā
kammassakā dhātuyo āyatanānī’’ti vuttepi eseva nayo. Tasmā bhagavā kammassakatādīpanatthaṃ
puggalakathaṃ katheti.
‘‘Veḷuvanādayo
mahāvihārā khandhehi kārāpitā dhātūhi āyatanehī’’ti vuttepi eseva nayo. Tasmā
bhagavā paccattapurisakāradīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti.
‘‘Khandhā
mātaraṃ jīvitā voropenti pitaraṃ arahantaṃ ruhiruppādakammaṃ karonti, saṅghabhedakammaṃ
karonti, dhātuyo āyatanānī’’ti vuttepi eseva nayo. Tasmā bhagavā ānantariyadīpanatthaṃ
puggalakathaṃ katheti. ‘‘Khandhā mettāyanti dhātuyo āyatanānī’’ti vuttepi eseva
nayo. Tasmā bhagavā brahmavihāradīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti.
‘‘Khandhā
pubbenivāsamanussaranti dhātuyo āyatanānī’’ti vuttepi eseva nayo. Tasmā bhagavā
pubbenivāsadīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti. ‘‘Khandhā dānaṃ paṭiggaṇhanti
dhātuyo āyatanānī’’ti vuttepi mahājano na jānāti, sammohamāpajjati, paṭisattu
hoti ‘‘kimidaṃ khandhadhātuāyatanāni paṭiggaṇhanti nāmā’’ti. ‘‘Puggalā paṭiggaṇhanti
sīlavanto kalyāṇadhammā’’ti vutte pana jānāti, na sammohamāpajjati, na paṭisattu
hoti. Tasmā bhagavā dakkhiṇāvisuddhidīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti.
Lokasammutiñca
buddhā bhagavanto nappajahanti, lokasamaññāya lokaniruttiyaṃ lokābhilāpe ṭhitāyeva
dhammaṃ desenti. Tasmā bhagavā lokasammutiyā appahānatthampi
puggalakathaṃ katheti. Tasmā ayampi āyasmā lokavohārakusalatāya buddhassa
bhagavato desanaṃ avilomento lokasammutiyaṃ ṭhatvāva cattārome, āvuso,
puggalāti āha. Tasmā ettha paramatthavasena aggahetvā sammutivaseneva
puggalo veditabbo.
Santo saṃvijjamānāti lokasaṅketavasena atthi
upalabbhamānā. Lokasminti sattaloke. Sāṅgaṇova samānotiādīsu pana
aṅgaṇanti katthaci kilesā vuccanti. Yathāha ‘‘tattha katamāni tīṇi aṅgaṇāni?
Rāgo aṅgaṇaṃ, doso aṅgaṇaṃ, moho aṅgaṇa’’nti (vibha. 924). Katthaci yaṃkiñci
malaṃ vā paṅko vā, yathāha ‘‘tasseva rajassa vā aṅgaṇassa vā pahānāya
vāyamatī’’ti. Katthaci tathārūpo bhūmibhāgo, so bodhiyaṅgaṇaṃ cetiyaṅgaṇantiādīnaṃ
vasena veditabbo. Idha pana nānappakārā tibbakilesā ‘‘aṅgaṇa’’nti adhippetā.
Tathā hi vakkhati ‘‘pāpakānaṃ kho etaṃ, āvuso, akusalānaṃ icchāvacarānaṃ
adhivacanaṃ, yadidaṃ aṅgaṇa’’nti (ma. ni. 1.60). Saha aṅgaṇena sāṅgaṇo.
Sāṅgaṇova samānoti sakilesoyeva santo. Atthi me
ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ nappajānātīti mayhaṃ attano cittasantāne
kileso atthītipi na jānāti. ‘‘Ime kilesā nāma kakkhaḷā vāḷā jahitabbā na
gahitabbā visaduṭṭhasallasadisā’’ti evaṃ yāthāvasarasatopi na jānāti. Yo
atthīti ca jānāti, evañca jānāti. So ‘‘atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ
pajānātī’’ti vuccati. Yassa pana na ca maggena samūhatā kilesā, na ca
uppajjanti yena vā tena vā vāritattā, ayamidha anaṅgaṇoti adhippeto. Natthi
me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ nappajānātīti ‘‘mayhaṃ kilesā yena vā
tena vā vāritattā natthi, na maggena samūhatattā’’ti na jānāti, ‘‘te
uppajjamānā mahāanatthaṃ karissanti kakkhaḷā vāḷā visaduṭṭhasallasadisā’’ti evaṃ
yāthāvasarasatopi na jānāti. Yo pana ‘‘iminā kāraṇena natthī’’ti ca jānāti,
evañca jānāti, so ‘‘natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇanti yathābhūtaṃ pajānātī’’ti
vuccati. Tatrāti tesu catūsu puggalesu, tesu vā dvīsu sāṅgaṇesu, yvāyanti
yo ayaṃ, yāyantipi pāṭho.
58. Ko nu kho, āvuso, sāriputta, hetu ko paccayoti
ubhayenāpi kāraṇameva pucchati. Yenimesanti yena hetunā yena paccayena
imesaṃ dvinnaṃ eko seṭṭhapuriso eko hīnapurisoti akkhāyati, so ko hetu ko
paccayoti evamettha sambandho veditabbo. Tattha kiñcāpi ‘‘nappajānāti
pajānātī’’ti evaṃ vuttaṃ, pajānanā nappajānanāti idameva ubhayaṃ hetu ceva
paccayo ca.
59. Thero pana attano vicitrapaṭibhānatāya taṃ pākaṭataraṃ
katvā dassetuṃ puna tatrāvusotiādimāha. Tattha tassetaṃ pāṭikaṅkhanti
tassa puggalassa etaṃ pāṭikaṅkhitabbaṃ. Idameva esa pāpuṇissati, na aññanti
icchitabbaṃ, avassaṃ bhāvīti vuttaṃ hoti. ‘‘Na chandaṃ janessatī’’tiādinā
nayena vuttaṃ achandajananādiṃ sandhāyāha.
Tattha ca na
chandaṃ janessatīti appajānanto tassa aṅgaṇassa pahānatthaṃ
kattukamyatāchandaṃ na janessati. Na vāyamissatīti tato balavataraṃ
vāyāmaṃ na karissati, na vīriyaṃ ārabhissatīti thāmagatavīriyaṃ pana
neva ārabhissati, na pavattessatīti vuttaṃ hoti. Sāṅgaṇoti imehi
rāgādīhi aṅgaṇehi sāṅgaṇo. Saṃkiliṭṭhacittoti tehiyeva suṭṭhutaraṃ kiliṭṭhacitto
malīnacitto vibādhitacitto upatāpitacitto ca hutvā. Kālaṃ karissatīti
marissati.
Seyyathāpīti yathā nāma. Kaṃsapātīti kaṃsalohabhājanaṃ. Ābhatāti
ānītā. Āpaṇā vā kammārakulā vāti āpaṇato vā kaṃsapātikārakānaṃ kammārānaṃ
gharato vā. Rajenāti āgantukarajena paṃsuādinā. Malenāti tattheva
uṭṭhitena lohamalena. Pariyonaddhāti sañchannā. Na ceva paribhuñjeyyunti
udakakhādanīyapakkhipanādīhi paribhogaṃ na kareyyuṃ. Na ca pariyodapeyyunti
dhovanaghaṃsanādīhi na parisuddhaṃ kārāpeyyuṃ. Rajāpatheti rajapathe.
Ayameva vā pāṭho, rajassa āgamanaṭṭhāne vā vuṭṭhānuṭṭhāne vā heṭṭhāmañce vā
thusakoṭṭhake vā bhājanantare vā, yattha rajena okirīyatīti attho. Saṃkiliṭṭhatarā
assa malaggahitāti ettha rajāpathe nikkhipanena saṃkiliṭṭhatarā,
aparibhogāpariyodapanehi malaggahitatarāti vuttaṃ hoti, paṭipucchāvacanañcetaṃ.
Tenassa evamattho veditabbo, āvuso, sā kaṃsapāti evaṃ karīyamānā aparena kālena
saṃkiliṭṭhatarā ca malaggahitatarā ca mattikapātīti vā kaṃsapātīti vā itipi
dujjānā bhaveyya nu kho noti, thero taṃ paṭijānanto āha ‘‘evamāvuso’’ti. Puna
dhammasenāpati opammaṃ sampaṭipādento, evameva khotiādimāha. Tatthevaṃ
opammasaṃsandanā veditabbā – kiliṭṭhakaṃsapātisadiso sāṅgaṇo puggalo. Saṃkiliṭṭhakaṃsapātiyā
naparibhuñjanamādiṃ katvā rajāpathanikkhepo viya tassa puggalassa pabbajjaṃ
labhamānassa vejjakammādīsu pasutapuggalasantike pabbajjāpaṭilābho. Saṃkiliṭṭhakaṃsapātiyā
puna saṃkiliṭṭhatarabhāvo viya tassa puggalassa anukkamena ācariyupajjhāyānaṃ
anusikkhato vejjakammādikaraṇaṃ, ettha ṭhitassa sāṅgaṇakālakiriyā. Atha vā
anukkamena dukkaṭadubbhāsitavītikkamanaṃ, ettha ṭhitassa sāṅgaṇakālakiriyā.
Atha vā anukkamena pācittiyathullaccayavītikkamanaṃ, saṅghādisesavītikkamanaṃ,
pārājikavītikkamanaṃ, mātughātādiānantariyakaraṇaṃ, ettha ṭhitassa sāṅgaṇakālakiriyāti.
Saṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissatīti ettha ca
akusalacittena kālaṃ karissatīti na evamattho daṭṭhabbo. Sabbasattā hi
pakaticittena bhavaṅgacitteneva kālaṃ karonti. Ayaṃ pana avisodhetvā
cittasantānaṃ kālaṃ karissatīti etamatthaṃ sandhāya evaṃ vuttoti veditabbo.
Dutiyavāre pariyodapeyyunti
dhovanaghaṃsanasaṇhachārikāparimajjanādīhi parisuddhaṃ ādāsamaṇḍalasadisaṃ
kareyyuṃ. Na ca naṃ rajāpatheti pubbe vuttappakāre ṭhāne anikkhipitvā
karaṇḍamañjūsādīsu vā ṭhapeyyuṃ, paliveṭhetvā vā nāgadante lageyyuṃ. Sesaṃ
vuttanayānusāreneva gahetabbaṃ.
Upamāsaṃsandanā
cettha evaṃ veditabbā – kiliṭṭhakaṃsapātisadiso sāṅgaṇo bhabbapuggalo. Kiliṭṭhakaṃsapātiyā
paribhuñjanamādiṃ katvā suddhaṭṭhāne ṭhapanaṃ viya tassa puggalassa pabbajjaṃ
labhamānassa pesalabhikkhūnaṃ santike pabbajjāpaṭilābho. Ye ovadanti anusāsanti
appamattakampi pamādaṃ disvā daṇḍakammaṃ katvā punappunaṃ sikkhāpenti, saṃkiliṭṭhakaṃsapātiyā
aparakāle parisuddhapariyodātabhāvo viya tassa puggalassa ācariyupajjhāyānaṃ
anusikkhato anukkamena sammāvattapaṭipatti, ettha ṭhitassa anaṅgaṇakālakiriyā.
Atha vā anukkamena parisuddhe sīle patiṭṭhāya attano anurūpaṃ buddhavacanaṃ
uggaṇhitvā dhutaṅgāni samādāya attano anukūlakammaṭṭhānaṃ gahetvā
gāmantasenāsanavāsaṃ muñcitvā pantasenāsanavāso, ettha ṭhitassa anaṅgaṇakālakiriyā.
Atha vā anukkamena kasiṇaparikammaṃ katvā aṭṭhasamāpattinibbattanena
kilesavikkhambhanaṃ, vipassanāpādakajjhānā vuṭṭhāya vipassanāya kilesānaṃ tadaṅganivāraṇaṃ,
sotāpattiphalādhigamo…pe… arahattasacchikiriyāti ettha ṭhitassa accantaṃ anaṅgaṇakālakiriyā
eva.
Tatiyavāre subhanimittanti
rāgaṭṭhāniyaṃ iṭṭhārammaṇaṃ. Manasi karissatīti tasmiṃ vipannassati taṃ
nimittaṃ āvajjissati. Tassa subhanimittassa manasikārāti tassa
puggalassa subhanimittamanasikārakāraṇā. Anuddhaṃsessatīti hiṃsissati
adhibhavissati. Rāgo hi uppajjanto kusalavāraṃ pacchinditvā sayameva
akusalajavanaṃ hutvā tiṭṭhanto kusalacittaṃ anuddhaṃsetīti veditabbo. Sesaṃ
vuttanayānusāreneva gahetabbaṃ.
Opammasaṃsandanā
panettha evaṃ veditabbā – parisuddhakaṃsapātisadiso pakatiyā appakileso anaṅgaṇapuggalo.
Parisuddhakaṃsapātiyā naparibhuñjanaṃ ādiṃ katvā rajāpathe nikkhepo viya tassa
puggalassa pabbajjaṃ labhamānassāti ito paraṃ sabbaṃ paṭhamavārasadisameva.
Catutthavāre
subhanimittaṃ na manasi karissatīti tasmiṃ sativirahābhāvato taṃ nimittaṃ
nāvajjissati, sesaṃ dutiyavārānusārena veditabbaṃ. ‘‘Ayaṃ kho, āvuso’’tiādi
‘‘ko nu kho, āvuso’’tiādimhi vuttanayameva.
60. Idāni taṃ aṅgaṇaṃ nānappakārato pākaṭaṃ
kārāpetukāmenāyasmatā mahāmoggallānena ‘‘aṅgaṇaṃ aṅgaṇa’’ntiādinā nayena puṭṭho
taṃ byākaronto pāpakānaṃ kho etaṃ, āvusotiādimāha. Tattha icchāvacarānanti
icchāya avacarānaṃ, icchāvasena otiṇṇānaṃ pavattānaṃ nānappakārānaṃ
kopaappaccayānanti attho. Yaṃ idhekaccassāti yena idhekaccassa evaṃ
icchā uppajjeyya, taṃ ṭhānaṃ taṃ kāraṇaṃ vijjati atthi, upalabbhatīti vuttaṃ
hoti. Āpanno assanti āpanno bhaveyyaṃ. Na ca maṃ bhikkhū jāneyyunti
bhikkhū ca maṃ na jāneyyuṃ. Kiṃ panettha ṭhānaṃ, lābhatthikatā. Lābhatthiko hi
bhikkhu pakatiyāpi ca katapuñño manussehi sakkato garukato evaṃ cinteti
‘‘āpattiṃ āpannaṃ bhikkhuṃ therā ñatvā majjhimānaṃ ārocenti, te navakānaṃ,
navakā vihāre vighāsādādīnaṃ, te ovādaṃ āgatānaṃ bhikkhunīnaṃ, evaṃ kamena
catasso parisā jānanti. Evamassa lābhantarāyo hoti. Aho vatāhaṃ āpattiñca vata
āpanno assaṃ, na ca maṃ bhikkhū jāneyyu’’nti.
Yaṃ taṃ bhikkhuṃ bhikkhū jāneyyunti yena kāraṇena
taṃ bhikkhuṃ aññe bhikkhū jāneyyuṃ, taṃ kāraṇaṃ vijjati kho pana atthiyeva, no
natthi. Therā hi ñatvā majjhimānaṃ ārocenti. Evaṃ so pubbe vuttanayena catūsu
parisāsu pākaṭo hoti. Evaṃ pākaṭo ca ayasābhibhūto gāmasatampi pavisitvā
ummārasatesu ṭhānesu uñchitvā yathādhotena pattena nikkhamati. Tato jānanti
maṃ bhikkhū āpattiṃ āpannoti tehi camhi evaṃ nāsitoti cintetvā, iti so
kupito hoti appatīto so iminā kāraṇena kupito ceva hoti kodhābhibhūto
appatīto ca domanassābhibhūto.
Yo ceva
kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo ubhayametaṃ aṅgaṇanti, āvuso, yo cāyaṃ
saṅkhārakkhandhasaṅgahito kopo, yo ca vedanākkhandhasaṅgahito appaccayo, etaṃ
ubhayaṃ aṅgaṇanti evamettha attho daṭṭhabbo. Idañca tādisānaṃ puggalānaṃ vasena
vuttaṃ. Lobho pana imassa aṅgaṇassa pubbabhāgavasena, moho sampayogavasenāpi
gahitoyeva hoti.
Anuraho manti purimasadisameva bhikkhuṃ gahetvā
vihārapaccante senāsanaṃ pavesetvā dvāraṃ thaketvā codente icchati. Ṭhānaṃ
kho panetanti etaṃ kāraṇaṃ vijjati, yaṃ taṃ bhikkhuṃ catuparisamajjhe ānetvā
byattā vinītā ‘‘tayā asukamhi nāma ṭhāne vejjakammaṃ kata’’ntiādinā nayena
codeyyuṃ. So catūsu parisāsu pākaṭo hoti. Evaṃ pākaṭo ca ayasābhibhūtoti sabbaṃ
purimasadisameva.
Sappaṭipuggaloti samāno puggalo. Samānoti sāpattiko. Paṭipuggaloti
codako. Ayaṃ sāpattikeneva codanaṃ icchati, tvampi imañcimañca āpattiṃ āpanno,
taṃ tāva paṭikarohi pacchā maṃ codessasīti vattuṃ sakkāti maññamāno. Apica
jātiādīhipi samāno puggalo sappaṭipuggalo. Ayañhi attano jātiyā kulena
bāhusaccena byattatāya dhutaṅgenāti evamādīhipi samāneneva codanaṃ icchati,
tādisena vuttaṃ nātidukkhaṃ hotīti maññamāno. Appaṭipuggaloti ettha
ayutto paṭipuggalo appaṭipuggalo. Imehi āpattādīhi asadisattā paṭisattu paṭisallo
codako bhavituṃ ayuttoti vuttaṃ hoti. Iti so kupitoti iti so imāya appaṭipuggalacodanāya
evaṃ kupito hoti.
Catutthavāre
aho vatāti ‘‘aho vata re amhākaṃ paṇḍitakā, aho vata re amhākaṃ
bahussutakā tevijjakā’’ti (dī. ni. 1.291) garahāyaṃ dissati. ‘‘Aho vata maṃ
daharaṃyeva samānaṃ rajje abhisiñceyyu’’nti (mahāva. 57) patthanāyaṃ. Idha
patthanāyameva. Paṭipucchitvā paṭipucchitvāti punappunaṃ pucchitvā. Ayaṃ
bhikkhu lābhatthiko bhagavato attānaṃ paṭipucchitabbaṃ icchati, tañca kho
anumatipucchāya, no maggaṃ vā phalaṃ vā vipassanaṃ vā antaraṃ katvā. Ayañhi
passati bhagavantaṃ sāriputtādayo mahāthere ‘‘taṃ kiṃ maññasi, sāriputta,
moggallāna, kassapa, rāhula cakkhuṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’’ti evaṃ parisamajjhe
paṭipucchitvā paṭipucchitvā dhammaṃ desentaṃ, manusse ca ‘‘tesa paṇḍitā therā
satthu cittaṃ ārādhentī’’ti vaṇṇaṃ bhaṇante, lābhasakkārañca upaharante. Tasmā
taṃ lābhasakkāraṃ icchanto evaṃ cintetvā nikhaṇitvā ṭhapitakhāṇu viya bhagavato
puratova hoti.
Iti so kupitoti atha bhagavā taṃ amanasikaritvāva aññaṃ theraṃ paṭipucchitvā
dhammaṃ deseti, tena so kupito hoti bhagavato ca therassa ca. Kathaṃ bhagavato
kuppati? ‘‘Ahaṃ pabbajitakālato pabhuti gandhakuṭipariveṇato bahinikkhamanaṃ na
jānāmi, sabbakālaṃ chāyāva na vijahāmi, maṃ nāma pucchitvā dhammadesanāmattampi
natthi. Taṃmuhuttaṃ diṭṭhamattakameva theraṃ pucchitvā dhammaṃ desetī’’ti evaṃ
bhagavato kuppati. Kathaṃ therassa kuppati? ‘‘Ayaṃ mahallakatthero bhagavato
purato khāṇu viya nisīdati, kadā nu kho imaṃ dhammakammikā abhabbaṭṭhānaṃ
pāpetvā nīharissanti, ayañhi yadi imasmiṃ vihāre na bhaveyya, avassaṃ bhagavā
mayā saddhiṃ sallapeyyā’’ti evaṃ therassa kuppati.
Purakkhatvā purakkhatvāti purato purato
katvā, samparivāretvāti vuttaṃ hoti. Ayampi lābhatthikoyeva, ayañhi passati
bahussute bhikkhū mahāparivārena gāmaṃ pavisante, cetiyaṃ vandante, tesañca taṃ
sampattiṃ disvā upāsake pasanne pasannākāraṃ karonte. Tasmā evaṃ icchati. Kupitoti
ayampi dvīsu ṭhānesu kuppati bhikkhūnaṃ therassa ca. Kathaṃ bhikkhūnaṃ? ‘‘Ime
yadeva mayhaṃ uppajjati cīvaraṃ vā piṇḍapāto vā, taṃ gahetvā paribhuñjanti,
mayhaṃ pana pattacīvaraṃ gahetvā piṭṭhito āgacchantopi natthī’’ti evaṃ
bhikkhūnaṃ kuppati. Kathaṃ therassa? ‘‘Eso mahallakatthero tesu tesu ṭhānesu
sayameva paññāyati, kudāssu nāma naṃ dhammakammikā nikkaḍḍhissanti, imasmiṃ
asati avassaṃ maṃyeva parivāressantī’’ti.
Bhattaggeti bhojanaṭṭhāne. Aggāsananti saṅghattherāsanaṃ.
Aggodakanti dakkhiṇodakaṃ. Aggapiṇḍanti saṅghattherapiṇḍaṃ.
Sabbattha vā agganti paṇītādhivacanametaṃ. Tattha ahameva labheyyanti
icchā nātimahāsāvajjā. Na añño bhikkhu labheyyāti pana atimahāsāvajjā.
Ayampi lābhatthiko pāsādiko hoti cīvaradhāraṇādīhi, kadāci pabbajati, kadāci
vibbhamati. Tena so pubbe laddhapubbaṃ āsanādiṃ pacchā alabhanto evaṃ cintesi. Na
so bhikkhu labheyyāti na so bhikkhu therānaṃ aggāsanādīsu tadanusārena majjhimānaṃ
aññesañca navānaṃ kadāci yaṃ vā taṃ vā sabbanihīnaṃ āsanādiṃ labhati. Kupitoti
ayampi dvīsu ṭhānesu kuppati manussānañca therānañca. Kathaṃ manussānaṃ? ‘‘Ime
maṅgalādīsu maṃ nissāya bhikkhū labhanti, ete, ‘bhante, ettake bhikkhū gahetvā
amhākaṃ anukampaṃ karothā’ti vadanti, idāni taṃmuhuttaṃ diṭṭhamattakaṃ
mahallakattheraṃ gahetvā gatā, hotu idāni, nesaṃ kicce uppanne jānissāmī’’ti
evaṃ manussānaṃ kuppati. Kathaṃ therānaṃ? ‘‘Ime nāma yadi na bhaveyyuṃ, maṃyeva
manussā nimanteyyu’’nti evaṃ therānaṃ kuppati.
Anumodeyyanti anumodanaṃ kareyyaṃ. Ayampi lābhatthiko yaṃ vā taṃ
vā khaṇḍānumodanaṃ jānāti, ‘‘so anumodanaṭṭhāne bahū mātugāmā āgacchanti, tā maṃ
sañjānitvā tato pabhuti thālakabhikkhaṃ dassantī’’ti patthento evaṃ cintesi. Ṭhānanti
bahussutānaṃ anumodanā bhāro, tena bahussuto anumodeyyāti vuttaṃ hoti. Kupitoti
ayampi tīsu ṭhānesu kuppati manussānaṃ therassa dhammakathikassa ca. Kathaṃ
manussānaṃ? ‘‘Ime pubbe maṃyeva upasaṅkamitvā yācanti ‘amhākaṃ nāgatthero
amhākaṃ sumanatthero anumodatū’ti, ajja pana nāvocu’’nti evaṃ manussānaṃ
kuppati. Kathaṃ therassa? ‘‘Ayaṃ saṅghatthero ‘tumhākaṃ kulupakaṃ nāgattheraṃ
sumanattheraṃ upasaṅkamatha, ayaṃ anumodissatī’ti na bhaṇatī’’ti evaṃ therassa
kuppati. Kathaṃ dhammakathikassa? ‘‘Therena vuttamatteyeva pahāraṃ laddhakukkuṭo
viya turitaturitaṃ vassati, imaṃ nāma nikkaḍḍhantā natthi, imasmiñhi asati
ahameva anumodeyya’’nti evaṃ dhammakathikassa kuppati.
Ārāmagatānanti vihāre sannipatitānaṃ. Ayampi lābhatthiko yaṃ vā
taṃ vā khaṇḍadhammakathaṃ jānāti, so passati tādisesu ṭhānesu
dviyojanatiyojanato sannipatitvā bhikkhū sabbarattikāni dhammassavanāni suṇante,
tuṭṭhacitte ca dahare vā sāmaṇere vā sādhu sādhūti mahāsaddena sādhukāraṃ
dente, tato dutiyadivase antogāmagate bhikkhū upāsakā pucchanti ‘‘ke, bhante,
dhammaṃ kathesu’’nti. Te bhaṇanti ‘‘asuko ca asuko cā’’ti. Taṃ sutvā pasannā
manussā dhammakathikānaṃ mahāsakkāraṃ karonti. So taṃ icchamāno evaṃ cintesi. Ṭhānanti
bahussutānaṃ vinicchayakusalānaṃ dhammadesanā bhāro, tena bahussuto deseyyāti
vuttaṃ hoti. Kupitoti catuppadikaṃ gāthampi vattuṃ okāsaṃ alabhamāno
kupito hoti attano mandabhāvassa ‘‘ahañhi mando duppañño kuto labhissāmi
desetu’’nti.
Bhikkhunīnanti ovādatthaṃ vā uddesatthaṃ vā paripucchatthaṃ vā
pūjākaraṇatthaṃ vā ārāmaṃ āgantvā sannipatitabhikkhunīnaṃ. Ayampi lābhatthiko,
tassevaṃ hoti imā mahākulā pabbajitā bhikkhuniyo, tāsu kulesu pavisetvā
nisinnāsu manussā pucchissanti ‘‘kassa santike ovādaṃ vā uddesaṃ vā paripucchaṃ
vā gaṇhathā’’ti. Tato vakkhanti ‘‘asuko nāma ayyo bahussuto, tassa detha
karothā’’ti, tenassa evaṃ icchā uppajjati. Ṭhānanti ovādādayo nāma
bahussutānaṃ bhāro, tena bahussuto deseyyāti vuttaṃ hoti. Kupitoti
ayampi dvīsu ṭhānesu kuppati, tāsañca bhikkhunīnaṃ ‘‘imā pubbe maṃ nissāya
uposathappavāraṇādīni labhanti, tā idāni taṃmuhuttaṃ diṭṭhamattakamahallakattherassa
santikaṃ gatā’’ti. Dhammakathikassa ca ‘‘esa imāsaṃ sahasā ovādaṃ
adāsiyevā’’ti.
Upāsakānanti, ārāmagatānaṃ upāsakānaṃ. Nissaṭṭhakammantā nāma
mahāupāsakā honti, te puttabhātukānaṃ kammaṃ niyyātetvā dhammaṃ suṇantā
vicaranti, ayaṃ tesaṃ desetuṃ icchati, kiṃ kāraṇā? Ime pasīditvā upāsikānampi
ārocessanti, tato saddhiṃ upāsikāhi mayhameva lābhasakkāraṃ upaharissantīti. Ṭhānaṃ
bahussuteneva yojetabbaṃ. Kupitoti ayampi dvīsu ṭhānesu kuppati,
upāsakānañca ‘‘ime aññattha suṇanti, amhākaṃ kulupakassa santike suṇāmāti
nāgacchanti, hotu idāni, tesaṃ uppanne kicce jānissāmī’’ti dhammakathikassa ca,
‘‘ayametesaṃ desetī’’ti.
Upāsikānanti ārāmagatānaṃ. Upāsikā nāma āsanapūjādikaraṇatthaṃ
vā uposathadivase vā dhammassavanatthaṃ sannipatitā. Sesaṃ upāsakavāre
vuttanayameva.
Sakkareyyunti sakkaccañca kareyyuṃ, sundarañca kareyyuṃ. Iminā
attani kāraṃ karīyamānaṃ sakkaccaṃ katañca sundarañca pattheti. Garuṃ
kareyyunti bhāriyaṃ kareyyuṃ. Iminā bhikkhūhi attānaṃ garuṭṭhāne ṭhapīyamānaṃ
pattheti. Māneyyunti piyāyeyyuṃ. Pūjeyyunti evaṃ sakkarontā garuṃ
karontā mānentā paccayehi pūjeyyunti paccayapūjaṃ pattheti. Ṭhānanti
‘‘piyo garu bhāvaniyo’’ti vuttappakāro bahussuto ca sīlavā ca etaṃ vidhiṃ
arahati tena bhikkhū evarūpaṃ evaṃ kareyyunti vuttaṃ hoti. Kupitoti
ayampi dvīsu ṭhānesu kuppati bhikkhūnañca ‘‘ime etaṃ sakkarontī’’ti therassa ca
‘‘imasmiṃ asati maṃyeva sakkareyyu’’nti. Esa nayo ito paresu tīsu vāresu.
Paṇītānaṃ cīvarānanti paṭṭadukūlapaṭṭuṇṇakoseyyādīnaṃ
mahagghasukhumasukhasamphassānaṃ cīvarānaṃ. Idhāpi ahameva lābhī assanti
icchā nātimahāsāvajjā. Na añño bhikkhu lābhī assāti pana mahāsāvajjā.
Paṇītānaṃ piṇḍapātānanti
sappitelamadhusakkarādipūritānaṃ seṭṭhapiṇḍapātānaṃ. Paṇītānaṃ senāsanānanti
anekasatasahassagghanakānaṃ mañcapīṭhādīnaṃ paṇītānaṃ. Gilānappaccayabhesajjaparikkhārānanti
sappitelamadhuphāṇitādīnaṃ uttamabhesajjānaṃ. Sabbatthāpi ṭhānaṃ bahussutehi
puññavantehi ca yojetabbaṃ. Kupitoti sabbatthāpi dvīsu ṭhānesu kuppati,
manussānañca ‘‘imesaṃ nāma paricitabhāvopi natthi, dīgharattaṃ ekato vasantassa
paṃsukūlatthāya vā piṇḍapātatthāya vā sappitelādikāraṇā vā gharapaṭipāṭiyā
carantassāpi me ekadivasampi kiñci paṇītaṃ paccayaṃ na denti. Āgantukaṃ
mahallakaṃ pana disvāva yaṃ icchati, taṃ dentī’’ti, therassa ca ‘‘ayampi
mahallako imesaṃ attānaṃ dassentoyeva carati, kudāssu nāma naṃ dhammakammikā
nikkaḍḍheyyuṃ, evaṃ imasmiṃ asati ahameva lābhī assa’’nti.
Imesaṃ kho, etaṃ āvusoti imesaṃ heṭṭhā ekūnavīsativārehi
vuttānaṃ icchāvacarānaṃ.
61. Dissanti ceva sūyanti cāti na icchāvacarā
cakkhunā dissanti, na sotena sūyanti, manoviññāṇavisayattā.
Appahīnaicchāvacarassa pana puggalassa icchāvacaravasena pavattakāyakammaṃ
disvā diṭṭhā viya vacīkammaṃ sutvā sutā viya ca honti, tena vuttaṃ ‘‘dissanti
ceva sūyanti cā’’ti. Paccakkhakāle dissanti, ‘‘asuko kira bhikkhu īdiso’’ti
tirokkhakāle sūyanti. Kiñcāpīti anuggahagarahavacanaṃ. Tena āraññikattaṃ
anuggaṇhāti, icchāvacarānaṃ appahānaṃ garahati.
Tatrāyaṃ yojanā,
kiñcāpi so bhikkhu gāmantasenāsanaṃ paṭikkhipitvā āraññiko hoti, ante
pantasenāsane vasati, ime cassa ettakā icchāvacarā appahīnā. Kiñcāpi so
atirekalābhaṃ paṭikkhipitvā piṇḍapātiko hoti. Kiñcāpi so loluppacāraṃ vajjetvā
sapadānacārī hoti. Kiñcāpi so gahapaticīvaraṃ paṭikkhipitvā paṃsukūliko hoti.
Lūkhacīvaradharoti ettha pana lūkhanti
satthalūkhaṃ suttalūkhaṃ rajanalūkhanti tīhi kāraṇehi lūkhaṃ veditabbaṃ. Tattha
satthena khaṇḍākhaṇḍikaṃ chinnaṃ satthalūkhaṃ nāma, taṃ agghena
parihāyati, thūladīghasuttakena sibbitaṃ suttalūkhaṃ nāma, taṃ phassena
parihāyati kharasamphassaṃ hoti. Rajanena rattaṃ rajanalūkhaṃ nāma, taṃ
vaṇṇena parihāyati dubbaṇṇaṃ hoti. Kiñcāpi so bhikkhu evaṃ
satthalūkhasuttalūkharajanalūkhacīvaradharo hoti, ime cassa ettakā icchāvacarā
appahīnā dissanti ceva sūyanti ca, atha kho naṃ viññū sabrahmacārī neva
sakkaronti…pe… na pūjentīti. Taṃ kissa hetūti ettha tanti
nipātamattaṃ, kissa hetūti kiṃ kāraṇā. Te hi tassa…pe… sūyanti ca
yasmā tassa te pāpakā sūyanti cāti vuttaṃ hoti. Imesaṃ icchāvacarānaṃ
appahīnattāti ayamettha adhippāyo.
Idāni
tamatthaṃ upamāya pākaṭaṃ karonto seyyathāpītiādimāha. Tattha kuṇapanti
matakaḷevaraṃ. Ahissa kuṇapaṃ ahikuṇapaṃ. Evaṃ itarāni. Atipaṭikūlajigucchanīyabhāvato
cettha imāneva tīṇi vuttānīti veditabbāni. Aññesañhi sasasūkarādīnaṃ kuṇapaṃ
manussā kaṭukabhaṇḍādīhi abhisaṅkharitvā paribhuñjantipi. Imesaṃ pana kuṇapaṃ
abhinavampi jigucchantiyeva, ko pana vādo kālātikkamena pūtibhūte. Racayitvāti
vaḍḍhetvā, paripūretvāti attho, kuṇapaṃ gahetvā kaṃsapātiyaṃ pakkhipitvāti
vuttaṃ hoti. Aññissāti aparāya. Paṭikujjitvāti pidahitvā. Antarāpaṇanti
āpaṇānamantare mahājanasaṃkiṇṇaṃ racchāmukhaṃ. Paṭipajjeyyunti gaccheyyuṃ.
Jaññajaññaṃ viyāti cokkhacokkhaṃ viya manāpamanāpaṃ viya. Apica
vadhukāpaṇṇākāraṃ viyāti vuttaṃ hoti. Vadhukāti janetti vuccati, tassā
nīyamānaṃ paṇṇākāraṃ jaññaṃ, ubhayatthāpi ādaravasena vā pasaṃsāvasena vā
punaruttaṃ. ‘‘Jaññajaññaṃ byā’’tipi pāṭho.
Apāpuritvāti vivaritvā. Tassa saha dassanena amanāpatā ca saṇṭhaheyyāti
tassa kuṇapassa dassanena saheva tassa janassa amanāpatā tiṭṭheyya. Amanāpatāti
ca ‘‘amanāpamida’’nti uppannacittacetasikānametaṃ adhivacanaṃ. Esa nayo paṭikulyajegucchatāsu.
Jighacchitānampīti chātānampi. Na bhottukamyatā assāti
bhuñjitukāmatā na bhaveyya. Pageva suhitānanti dhātānaṃ pana paṭhamatarameva
bhuñjitukāmatā na bhaveyyāti vuttaṃ hoti.
Tatrāyaṃ
upamāsaṃsandanā – parisuddhakaṃsapātisadisaṃ imassa pabbajjāliṅgaṃ, kuṇaparacanaṃ
viya icchāvacarānaṃ appahānaṃ, aparakaṃsapātiyā paṭikujjhanaṃ viya āraññikaṅgādīhi
icchāvacarappaṭicchādanaṃ, kaṃsapātiṃ vivaritvā kuṇapadassanena janassa
amanāpatā viya āraññikaṅgādīni anādiyitvā icchāvacaradassanena sabrahmacārīnaṃ
asakkārakaraṇāditāti.
62. Sukkapakkhe pana, kiñcāpīti anuggahapasaṃsāvacanaṃ,
tena āraññikattaṃ anuggaṇhāti, icchāvacarappahānaṃ pasaṃsati. Nemantanikoti
nimantanapaṭiggāhako. Vicitakāḷakanti vicinitvā apanītakāḷakaṃ. Anekasūpaṃ
anekabyañjananti ettha sūpo nāma hatthahāriyo vuccati. Byañjananti
uttaribhaṅgaṃ, tena macchamaṃsamuggasūpādīhi anekasūpaṃ, nānappakāramaṃsādibyañjanehi
anekabyañjananti vuttaṃ hoti. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.
Upamāsaṃsandane
ca sālivarabhattaracanaṃ viya icchāvacarappahānaṃ, aparakaṃsapātiyā paṭikujjhanaṃ
viya appicchatāsamuṭṭhānehi gāmantavihārādīhi icchāvacarappahānappaṭicchādakaṃ,
kaṃsapātiṃ vivaritvā sālivarabhattadassanena janassa manāpatā viya
gāmantavihārādīni anādiyitvā icchāvacarappahānadassanena sabrahmacārīnaṃ
sakkārakaraṇāditā veditabbā.
63. Upamā maṃ, āvuso sāriputta, paṭibhātīti mayhaṃ,
āvuso sāriputta, upamā upaṭṭhāti. Ekaṃ upamaṃ vattukāmo ahanti adhippāyo. Paṭibhātu
tanti tuyhaṃ paṭibhātu upaṭṭhātu, vada tvanti adhippāyo. Ekamidāhanti
ettha idāti nipātamattaṃ, ekasmiṃ samaye ahanti vuttaṃ hoti, bhummatthe
upayogavacanaṃ. Rājagahe viharāmi giribbajeti, rājagahanti tassa
nagarassa nāmaṃ. Samantato pana giriparikkhepena vajo viya saṇṭhitattā giribbajanti
vuccati. Tasmiṃ nagare viharāmi, taṃ nissāya ahaṃ viharāmīti vuttaṃ hoti. Atha
khvāhanti atha kho ahaṃ. Ettha ca athāti aññādhikāravacanārambhe
nipāto. Khoti padapūraṇamatte. Pubbaṇhasamayanti divasassa
pubbabhāgasamayaṃ. Pubbaṇhasamayeti attho, pubbaṇhe vā samayaṃ pubbaṇhasamayaṃ,
pubbaṇhe ekaṃ khaṇanti vuttaṃ hoti, evaṃ accantasaṃyoge upayogavacanaṃ
labbhati. Nivāsetvāti paridahitvā, vihāranivāsanaparivattanavasenetaṃ
veditabbaṃ. Gāmappavesanatthāya vā saṇṭhapetvā nivāsanavasena, na hi so tato
pubbe anivattho ahosi.
Pattacīvaramādāyāti pattaṃ hatthena cīvaraṃ
kāyena ādiyitvā. Piṇḍāyāti piṇḍapātatthāya. Samītīti tassa nāmaṃ.
Yānakāraputtoti rathakāraputto. Paṇḍuputtoti paṇḍussa putto. Ājīvakoti
naggasamaṇako. Purāṇayānakāraputtoti porāṇayānakārakulassa putto. Paccupaṭṭhitoti
upagantvā ṭhito. Vaṅkaṃ nāma ekato kuṭilaṃ. Jimhaṃ nāma
sappagatamaggasadisaṃ. Dosanti phegguvisamagaṇṭhikādi. Yathā yathāti
kālatthe nipāto, yadā yadā yasmiṃ tasmiṃ kāleti vuttaṃ hoti. Tathā tathāti
ayampi kālatthoyeva, tasmiṃ tasmiṃ kāleti vuttaṃ hoti. So attano suttānulomena
cintesi, itaro tena cintitakkhaṇe cintitaṭṭhānameva tacchati. Attamanoti
sakamano tuṭṭhamano pītisomanassehi gahitamano. Attamanavācaṃ nicchāresīti
attamanatāya vācaṃ, attamanabhāvassa vā yuttaṃ vācaṃ nicchāresi udīrayi,
pabyāharīti vuttaṃ hoti. Hadayā hadayaṃ maññe aññāyāti cittena cittaṃ
jānitvā viya.
Assaddhāti buddhadhammasaṅghesu saddhāvirahitā. Jīvikatthāti
iṇabhayādīhi pīḷitā bahi jīvituṃ asakkontā idha jīvikatthikā hutvā. Na
saddhāti na saddhāya. Saṭhā māyāvinoti māyāsāṭheyyehi yuttā. Ketabinoti
sikkhitakerāṭikā, nipphannathāmagatasāṭheyyāti vuttaṃ hoti. Sāṭheyyañhi
abhūtaguṇadassanato abhūtabhaṇḍaguṇadassanasamaṃ katvā ‘‘kerāṭiya’’nti vuccati.
Unnaḷāti uggatanaḷā, uṭṭhitatucchamānāti vuttaṃ hoti. Capalāti
pattacīvaramaṇḍanādinā cāpallena yuttā. Mukharāti mukhakharā,
kharavacanāti vuttaṃ hoti, vikiṇṇavācāti asaṃyatavacanā, divasampi
niratthakavacanappalāpino. Indriyesu aguttadvārāti chasu indriyesu asaṃvutakammadvārā.
Bhojane amattaññunoti bhojane yā mattā jānitabbā pariyesanapaṭiggahaṇaparibhogesu
yuttatā, tassā ajānanakā. Jāgariyaṃ ananuyuttāti jāgare ananuyuttā. Sāmaññe
anapekkhavantoti samaṇadhamme nirapekkhā, dhammānudhammappaṭipattirahitāti
attho. Sikkhāya na tibbagāravāti sikkhāpadesu bahulagāravā na honti,
āpattivītikkamabahulā vā. Bāhulikātiādi dhammadāyāde vuttaṃ, kusītātiādi
bhayabherave. Dhammapariyāyenāti dhammadesanāya.
Saddhā agārasmāti pakatiyāpi saddhā,
pabbajitāpi saddhāya agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā. Pivanti maññe ghasanti
maññeti pivanti viya ghasanti viya. Attamanavācaṃ nicchārentā vacasā pivanti
viya, abbhanumodantā manasā ghasanti viya. Sādhu vatāti sundaraṃ vata. Sabrahmacārīti
rassampi vaṭṭati dīghampi. Rasse sati sāriputtassa upari hoti, dīghe sati
sabrahmacārīnaṃ. Yadā sāriputtassa upari hoti, tadā sabrahmacārī sāriputto amhe
akusalā vuṭṭhāpetvāti attho. Yadā sabrahmacārīnaṃ, tadā sabrahmacārayo akusalā
vuṭṭhāpetvāti attho. Daharoti taruṇo. Yuvāti yobbanabhāve ṭhito. Maṇḍanakajātikoti
alaṅkārakasabhāvo. Tattha koci taruṇopi yuvā na hoti yathā atitaruṇo, koci
yuvāpi maṇḍanakajātiko na hoti yathā upasantasabhāvo, ālasiyabyasanādīhi vā
abhibhūto, idha pana daharo ceva yuvā ca maṇḍanakajātiko ca adhippeto, tasmā
evamāha. Uppalādīni lokasammatattā vuttāni. Itiha teti evaṃ te. Ubho
mahānāgāti dvepi mahānāgā, dvepi hi ete aggasāvakā ‘‘mahānāgā’’ti vuccanti.
Tatrāyaṃ vacanattho, chandādīhi na gacchantīti nāgā, tena tena maggena
pahīne kilese na āgacchantīti nāgā, nānappakārakaṃ āguṃ na karontīti nāgā,
ayamettha saṅkhepo. Vitthāro pana mahāniddese (mahāni. 80) vuttanayeneva
veditabbo. Apica –
‘‘Āguṃ na
karoti kiñci loke,
Sabbasaṃyoge
visajja bandhanāni;
Sabbattha
na sajjatī vimutto,
Nāgo tādi
pavuccate tathattā’’ti. (su. ni. 527; mahāni. 80);
Evamettha
attho veditabbo. Mahantā nāgā mahānāgā, aññehi khīṇāsavanāgehi pujjatarā
ca pāsaṃsatarā cāti attho. Aññamaññassāti añño aññassa. Samanumodiṃsūti
samaṃ anumodiṃsu. Tattha imāya upamāya mahāmoggallāno anumodi, paṭibhātu taṃ
āvusoti dhammasenāpati. Tena vuttaṃ ‘‘aññamaññassa subhāsitaṃ samanumodiṃsū’’ti.
Sammutiparamatthadesanākathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Anaṅgaṇasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Có những người nói rằng “tôi không làm gì ác là tốt rồi”. Những uế nhiễm Tôn giả Sāriputta không nằm trong thập ác. Như vậy phải chăng sự tu tập phải đi xa hơn điều “không làm ác hạnh”? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết bài học
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment