Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Siêu
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 22/6/2020
6. Kinh Ước Nguyện (Ākaṅkheyya Sutta)
Tên kinh được gọi là Kinh Ước Nguyện vì nội dung bài kinh đề cập về ước
vọng của một tỳ kheo trong cuộc sống hằng ngày cũng như những thành tựu xa hơn
trong hành trình tu tập. Nói chính xác thì bài kinh nầy Đức Phật giảng về lợi ích của hành trì giới
bổn. Sự nghiêm trì có học pháp là căn bản bước đầu của giới, định, tuệ. Chính
sự tu tập mỹ mãn tam học khiến những ước vọng trong đời sống phạm hạnh được
thành tựu. Qua những mong ước của một tỳ kheo tu tập mà Đức Phật đề cập cho
thấy một số khía cạnh quan trọng của thành quả tu hành.
025. Hành trì iới bổn Pàtimokkha
Phật ngôn mở đầu pháp thoại với lời kêu gọi sống đầy đủ giới hạnh (sampannasīlā, bhikkhave, viharatha)
với
những điểm sau:
a. Thực hành viên mãn
giới bổn (sampannapātimokkhā);
b. Sống phòng hộ với sự phòng hộ của
giới bổn (pātimokkhasaṁvarasaṁvutā viharatha);
c. Đầy đủ tư cách của người chỉ lui tới những nơi thích đáng
(ācāragocarasampannā);
d. Ý thức sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt (aṇumattesu vajjesu
bhayadassāvino);
e. Chơn chánh thọ trì các học giới
(samādāya sikkhatha sikkhāpadesu).
Pātimokkha là từ của của pāti+mokkha.
Pāti nghĩa là hộ trì, gìn giữ, canh gác; mokkha nghĩa là giải thoát,
khai phóng. Là danh từ riêng chỉ cho giới bổn Đức Phật ban hành cho tỳ kheo và
tỳ kheo ni . Giới bổn tỳ kheo có 227 học giới; giới bổn tỳ kheo ni có 311 học
giới. (Trong Hán tạng thuật ngữ Pàtimokkha dịch là “Biệt biệt giải thoát” có ý
nghĩa “giữ một điều giới luật thì giải thoát một trói buộc”. Ý nghĩa nầy không
có trong Tạng Pàli mặc dù đôi khi một số dịch giả của sử dụng)
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế
Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anāthapiṇḍika
(Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo".
-- "Bạch
Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng
như sau:
-- Các Tỷ-kheo,
hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự
phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm
trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học
giới.
026. Những ước
nguyện và hoài bảo của những vị xuất gia
Những mong cầu suông
thường không thành tựu như “ôm cây đợi thỏ”. Trái lại những sở cầu có thế như
nguyên nếu một vị tu sĩ có những đức tánh
sau:
a. Đầy
đủ giới hạnh (sīlesvevassa paripūrakārī)
b. Nội
tâm an tịnh (ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto
c. Định
tâm không gián đoạn (anirākatajjhāno)
d. Thành
tựu minh sát (vipassanāya samannāgato)
e. Là người chuộng sống nơi trống vắng
(brūhetā suññāgārānaṃ)
[Những ước muốn
trong cuộc sống hằng ngày]
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta được các
đồng phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính và tôn trọng!",
Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm
tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích
sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta được các vật
dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm
trị bệnh!", Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên
trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán
hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta nay hưởng
thọ các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và
các dược phẩm trị bệnh! Mong rằng hành động của những vị tạo ra
các vật dụng ấy được quả báo lớn, được lợi ích lớn!",
Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú
xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng những bà con
huyết thống với ta, khi họ chết và mệnh chung, nghĩ (đến ta) với tâm
hoan hỷ (và nhờ vậy) được quả báo lớn, lợi ích lớn!", Tỷ-
kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ
không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta nhiếp phục lạc
và bất lạc, chớ không phải bất lạc nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống
luôn luôn nhiếp phục bất lạc được khởi lên!", Tỷ-kheo ấy phải
thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta nhiếp phục
khiếp đảm và sợ hãi, chớ không phải khiếp đảm và sợ hãi nhiếp
phục ta! Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi
được khởi lên!", Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới
luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
[Những ước muốn
thiền định đạo quả]
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng, tùy theo ý
muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta
chứng được bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc
trú!", Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như
trên)... trú xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Có những giải thoát tịch
tĩnh, siêu thoát Sắc giới, thuộc Vô sắc giới. Mong rằng ta có thể
cảm xúc với thân và sống an trú trong cảnh giới ấy!", Tỷ-kheo
ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không
tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta trừ diệt ba
kiết sử, chứng quả Dự lưu, không còn bị đọa lạc, chắc chắn hướng
đến Chánh giác!", Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới
luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng trừ diệt ba kiết
sử, làm cho muội lược tham, sân, si, ta chứng được Nhứt Lai, chỉ
phải trở lại đời một lần nữa để đoạn tận khổ đau!", Tỷ-kheo
ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không
tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng, trừ diệt năm
hạ phần kiết sử, ta được hóa sanh, chứng được Niết-bàn ngay tại
cảnh giới ấy, không còn trở lui thế giới này nữa!", Tỷ-kheo ấy
phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... các trú xứ
không tịnh.
[Những ước muốn
xa hơn thiền định và đạo quả]
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta chứng được
các loại thần thông! Một thân ta hiện ra nhiều thân, nhiều thân ta
hiện ra một thân; ta hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua
thành, qua núi như đi ngang hư không, ta độn thổ trồi lên ngang qua
đất liền như ở trong nước; ta đi trên nước không chìm như trên
đất liền; ta ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn
tay, ta chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai
lực, đại oai thần như vậy; ta có thể, thân ta có thần thông bay cho
đến Phạm Thiên!", Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới
luật... (như trên)...các trú xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng, với thiên nhĩ
thanh tịnh siêu nhân, ta có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và
loài Người, ở xa hay ở gần!", Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên
mãn giới luật... (như trên)... các trú xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng với tâm của ta,
ta biết được tâm của các chúng sanh và loài Người. Tâm có tham, ta
biết tâm có tham. Tâm không tham, ta biết tâm không tham. Tâm có
sân, ta biết tâm có sân. Tâm không sân, ta biết tâm không sân. Tâm
có si, ta biết tâm có si. Tâm không si, ta biết tâm không si. Tâm
chuyên chú, ta biết tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, ta biết tâm tán
loạn. Tâm đại hành, ta biết tâm đại hành. Tâm không đại hành, ta
biết tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng, ta biết tâm chưa vô
thượng. Tâm vô thượng, ta biết tâm vô thượng. Tâm Thiền định, ta
biết tâm Thiền định. Tâm không Thiền định, ta biết tâm không Thiền
định. Tâm giải thoát, ta biết tâm giải thoát. Tâm không giải thoát,
ta biết tâm không giải thoát!" Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên
mãn giới luật... (như trên)... các trú xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta nhớ đến các
đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời,
mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi
đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại
kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp, ta nhớ rằng:
"Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai
cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này,
thọ mạng đến mức như thế này, Sau khi chết tại chỗ kia, ta được
sanh chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế
này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như
thế này, thọ mạng đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta
được sanh ra ở đây!", Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới
luật... (như trên)... các trú xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng với thiên nhãn
thuần tịnh, siêu nhân, ta thấy sự sống và sự chết của chúng sanh.
Ta biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp
đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của
chúng. Các Tôn giả, chúng sanh nào làm những ác hạnh về thân, về
lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp
theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn các Tôn giả, chúng sanh
nào làm những thiện hạnh về thân, về lời và về ý, không phỉ báng
các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến.
Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các
thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, ta với thiên nhãn
thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, ta biết rõ
rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô
xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ!",
Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm
tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích
sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Với sự diệt trừ các lậu
hoặc, sau khi tự tri tự chứng, ta chứng đạt và an trú ngay trong hiện
tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc!",
Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm
tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích
sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo,
hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự
phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm
trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học các học
giới. Như vậy, phàm đã nói gì, chính duyên ở đây mà nói vậy.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy, các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế
Tôn.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 6 [tóm tắt]
Kinh Ước Nguyện
(Ākaṅkheyya Sutta)
(M.i, 33)
Đức Phật khuyên các Tỷ-kheo
sống đầy đủ giới, đầy đủ giới bổn, sống chế ngự với sự chế ngự
của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong các
lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập các học pháp. Đức Phật đề cập
đến mười bảy ước nguyện của vị Tỷ-kheo và muốn các ước nguyện
này thành tựu, Tỷ-kheo cần phải viên mãn giới luật, kiên trì, nội
tâm tịch tịnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh,
sống tại các trú xứ không tịnh. Mười bảy ước nguyện như sau:
1/ Mong rằng ta được các
đồng Phạm hạnh kính trọng.
2/ Mong rằng ta nhận được y
phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
3/ Mong rằng những ai đã cúng
dường bốn món vật dụng cho ta được quả báo lớn, lợi ích lớn.
4/ Mong rằng các bà con huyết
thống khi mạng chung nghĩ đến ta với tâm hoan hỷ và nhờ vậy được
quả báo lớn, lợi ích lớn.
5/ Mong rằng ta nhiếp phục lạc
và bất lạc, không để bất lạc nhiếp phục ta.
6/ Mong rằng ta nhiếp phục sợ
hãi và khiếp đãm, không để sợ hãi và khiếp đãm nhiếp phục ta.
7/ Mong rằng ta chứng được
bốn thiền không có khó khăn.
8/ Mong rằng ta có thể xúc
cảm với thân và sống an trú trong những cảnh giới giải thoát tịch
tịnh, siêu thoát sắc giới, vô sắc giới.
9/ Mong rằng ta diệt trừ ba
kiết sử, chứng được Dự lưu, chắc chắn không còn đọa lạc, hướng
đến chánh giác.
10/ Mong rằng ta diệt ba kiết
sử, làm muội lược tham, sân, si, chứng được Nhất lai.
11/ Mong rằng ta trừ diệt năm
hạ phần kiết sử, được hóa sanh từ cảnh giới ấy, chứng
được Niết-bàn, không còn
trở lui thế giới này nữa. 12/ Mong rằng ta chứng được Thần túc
thông. 13/ Mong rằng ta chứng được Thiên nhĩ thông. 14/ Mong rằng ta
chứng được Tha tâm thông.
15/ Mong rằng ta chứng được
Túc mạng thông.
16/ Mong rằng ta chứng được
Thiên nhãn thông.
17/ Mong rằng ta chứng được
Lậu tận thông, chứng được tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 6 [dàn ý]
Kinh Ước Nguyện
(Ākaṅkheyya Sutta)
(M.i, 33)
A. Duyên khởi
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và thuyết giảng.
B. Chánh kinh:
Thế Tôn đề cao giới hạnh, thuyết 13 ước nguyện của vị Tỷ-kheo và điều
kiện để thành tựu 13 ước nguyện ấy (tức là hành trì Giới, Định, Tuệ).
I. 6 ước
nguyện về nếp sống giữa chúng Tăng.
II. 2 ước
nguyện về Thiền sắc giới và Thiền vô sắc giới.
III. 3 uớc
nguyện về quả Dự lưu, Nhất lai, Bất lai.
IV. 6 ước
nguyện về 6 thông: Thần túc, Thiên nhĩ, Tha tâm, Túc mạng, Thiên nhãn, Lậu tận.
V. Thế
Tôn đề cao giới hạnh.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 6 [toát yếut]
Kinh Ước Nguyện
(Ākaṅkheyya Sutta)
(M.i, 33)
I. Toát yếu
Ākankheyya Sutta - If a bhikkhu wish.
The Buddha begins by stressing the importance of
virtue as the foundation for a bhikkhu’s training; he then goes on to enumerate
the benefits that a bhikkhu can reap by properly fulfilling the training.
Tỳ kheo nên cầu mong những gì.
Mở đầu, Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của
giới, nền tảng việc tu tập của một tỳ kheo. Kế đến Ngài kể ra
những lợi lạc mà một tỳ kheo có thể gặt hái được nhờ viên mãn
các học giới.
II.
Tóm tắt
Trước hết, Phật nhấn mạnh về Giới vì là căn
bản tu hành. Nếu tỳ kheo có những ước nguyện như: Mong được các
vị đồng tu yêu kính; mong được tứ sự cúng dường; mong thí chủ
được phước lớn khi cúng dường mình; mong bà con lúc lâm chung chỉ
cần nghĩ đến mình cũng có quả báo lợi lạc. Mong nhiếp phục được
lạc khổ, không bị lạc và khổ làm động tâm; nhiếp phục sợ hãi
khiếp đảm; mong chứng 4 thiền 4 định vô sắc; mong diệt trừ được ba
kiết sử chứng quả Dự lưu; mong chứng Nhất lai; Bất hoàn; mong chứng
các thần thông như thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, tùy nghiệp thú
trí, mong diệt trừ lậu hoặc.
Muốn thành tựu các ước nguyện ấy, tỳ kheo
cần phải "thành tựu viên mãn giới, kiên trì, nội tâm tịch
tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống
tại các trú xứ không tịnh."
III. Chú giải
Trong
lời dạy này, Phật đã tóm thâu cả ba vô lậu học: "Thành tựu
viên mãn giới" là Giới học. "Kiên trì, nội tâm tịch tĩnh,
không gián đoạn thiền định" là Ðịnh học. "Thành tựu quán
hạnh" là Tuệ học. Còn "thích sống tại các trú xứ không
tịnh" là điều kiện để có thể hoàn thành các mục tiêu vừa kể.
IV. Pháp
số
Ba
kiết sử: thân kiến, nghi, Giới cấm thủ. Trừ ba kiết
sử đắc quả Dự lưu, không còn đọa lạc, chắn chắn giải thoát.
Ba
vô lậu học: Giới, định, tuệ.
Bốn
giải thoát tịch tĩnh hay bốn không, bốn
tịch tịnh trú: Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi
tưởng phi phi tưởng, là bốn thiền chứng thuộc vô sắc giới.
Bốn
quả sa môn: Dự lưu, Nhất lai (diệt ba kết sử, muội lược
tham sân si, chỉ còn trở lại một lần trên đời này), Bất hoàn
(không trở lui đời này), A-la-hán sạch hết ô nhiễm vi tế.
Bốn
vật dụng hay tứ y: vật dùng về ăn mặc ở bệnh.
Bốn
thiền: Gọi là hiện tại lạc trú, gồm sơ
thiền với 5 thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm; nhị thiền bỏ
tầm tứ; tam thiền bỏ hỷ; tứ thiền bỏ lạc, chỉ còn xả niệm thanh
tịnh.
Sáu
thông: Thần túc, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng,
thiên nhãn và lậu tận; là ba minh nói rộng.
V. Kệ
tụng
1-Ðấng đạo sư nhắc nhủ
Tỳ kheo sống phòng hộ
Với Giới biệt giải thoát
Với chánh niệm, uy nghi
Và thấy được hiểm nguy
Trong từng lỗi nhỏ nhặt
Bởi vì Giới dẫn đầu
Trong tất cả thiện pháp.
2. Nếu tỳ kheo ước nguyện:
"Ðược pháp hữu yêu kính";
"Ðược bốn vật cần dùng";
Và "mong thí chủ mình
Sẽ được quả báo lớn"
Hãy viên mãn Giới luật,
Thích sống nơi nhàn tịnh
Và siêng tu thiền định
Ðể thành tựu tuệ quán.
3. Nếu tỳ kheo ước nguyện:
"Mong bà con dòng họ
Lâm chung nghĩ đến mình
Với tâm niệm hân hoan
Sẽ được phước báo lớn"
Nếu tỳ kheo ước nguyện:
"Mong sợ hãi khổ vui
Không sợ hãi khiếp đảm"
Hãy viên mãn Giới luật,
Thích sống nơi nhàn tịnh
Và siêng tu thiền định
Ðể thành tựu tuệ quán.
4. Nếu tỳ kheo ước nguyện
"Mong ta chứng bốn thiền
Ðược hiện tại lạc trú"
"Mong ta chứng bốn Không
Thành tựu tịch tịnh trú"
Hãy viên mãn Giới luật
Thích sống nơi nhàn tịnh
Và siêng tu thiền định
Ðể thành tựu tuệ quán.
5. Nếu tỳ kheo ước nguyện
"Mong ta chứng Dự lưu
Diệt trừ ba kiết sử"
"Mong ta chứng Nhất lai
Muội lược tham sân si"
"Mong ta chứng Bất hoàn
Trừ năm "hạ kiết sử"
Hãy viên mãn Giới luật,
Thích sống nơi nhàn tịnh
Ðể thành tựu tuệ quán.
6. Nếu tỳ kheo ước nguyện
"Mong ta chứng thần thông
Biến hóa theo nhiều cách"
"Mong ta chứng thiên nhĩ
Nghe đủ tiếng gần, xa"
"Mong ta chứng túc mạng
Biết các đời quá khứ"
"Mong ta chứng thiên nhãn
Thấy sống chết chúng sinh"
Nếu tỳ kheo ước nguyện
"Mong ta chứng lậu tận
Ðạt tâm, tuệ giải thoát
Ngay
trong đời hiện tại"
Hãy viên mãn Giới luật,
Hãy viên mãn Giới luật,
Thích sống nơi nhàn tịnh
Và siêng tu thiền định
Ðể thành tựu tuệ quán.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
6.
Ākaṅkheyyasuttaṃ [Mūla]
64. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca : ''sampannasīlā, bhikkhave, viharatha sampannapātimokkhā
pātimokkhasaṃvarasaṃvutā viharatha ācāragocarasampannā aṇumattesu vajjesu
bhayadassāvino samādāya sikkhatha sikkhāpadesu.
65. ''Ākaṅkheyya ce,
bhikkhave, bhikkhu : 'sabrahmacārīnaṃ piyo ca assaṃ manāpo ca garu ca bhāvanīyo
cāti [manāpo garubhāvaniyo cāti (sī.)], sīlesvevassa paripūrakārī ajjhattaṃ
cetosamathamanuyutto anirākatajjhāno vipassanāya samannāgato brūhetā
suññāgārānaṃ. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu : 'lābhī assaṃ cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārānanti,
sīlesvevassa paripūrakārī ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto anirākatajjhāno
vipassanāya samannāgato brūhetā suññāgārānaṃ. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave,
bhikkhu : 'yesāhaṃ cīvarapiṇḍapātasenāsana gilānappaccayabhesajjaparikkhāraṃ
paribhuñjāmi tesaṃ te kārā mahapphalā assu
mahānisaṃsāti, sīlesvevassa paripūrakārī ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto
anirākatajjhāno vipassanāya samannāgato brūhetā suññāgārānaṃ. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu : 'ye maṃ [ye me (sī.
syā.)] ñātī sālohitā petā kālaṅkatā [kālakatā (sī. syā. pī.)] pasannacittā
anussaranti tesaṃ taṃ mahapphalaṃ assa mahānisaṃsanti, sīlesvevassa
paripūrakārī ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto anirākatajjhāno vipassanāya
samannāgato brūhetā suññāgārānaṃ.
66. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu : 'aratiratisaho assaṃ,
na ca maṃ arati saheyya, uppannaṃ aratiṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyyanti,
sīlesvevassa paripūrakārī - pe - brūhetā suññāgārānaṃ. ''Ākaṅkheyya ce,
bhikkhave, bhikkhu : 'bhayabheravasaho assaṃ, na ca maṃ bhayabheravaṃ saheyya,
uppannaṃ bhayabheravaṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyyanti, sīlesvevassa
paripūrakārī - pe - brūhetā suññāgārānaṃ. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu :
'catunnaṃ jhānānaṃ ābhicetasikānaṃ diṭṭhadhammasukhavihārānaṃ nikāmalābhī assaṃ
akicchalābhī akasiralābhīti, sīlesvevassa paripūrakārī - pe - brūhetā
suññāgārānaṃ. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu : 'ye te santā vimokkhā
atikkamma rūpe āruppā, te kāyena phusitvā vihareyyanti, sīlesvevassa
paripūrakārī - pe - brūhetā suññāgārānaṃ.
67. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu : 'tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ
parikkhayā sotāpanno assaṃ avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇoti,
sīlesvevassa paripūrakārī - pe - brūhetā suññāgārānaṃ. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu : 'tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ
parikkhayā rāgadosamohānaṃ tanuttā sakadāgāmī assaṃ sakideva imaṃ lokaṃ āgantvā
dukkhassantaṃ kareyyanti, sīlesvevassa paripūrakārī - pe - brūhetā suññāgārānaṃ.
''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu :
'pañcannaṃ orambhāgiyānaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā opapātiko assaṃ tattha
parinibbāyī anāvattidhammo tasmā lokāti, sīlesvevassa paripūrakārī - pe - brūhetā suññāgārānaṃ.
68. ''Ākaṅkheyya ce,
bhikkhave, bhikkhu : 'anekavihitaṃ iddhividhaṃ paccanubhaveyyaṃ : ekopi hutvā
bahudhā assaṃ, bahudhāpi hutvā eko assaṃ āvibhāvaṃ tirobhāvaṃ tirokuṭṭaṃ
tiropākāraṃ tiropabbataṃ asajjamāno gaccheyyaṃ, seyyathāpi ākāse pathaviyāpi
ummujjanimujjaṃ kareyyaṃ, seyyathāpi udake udakepi abhijjamāne gaccheyyaṃ,
seyyathāpi pathaviyaṃ ākāsepi pallaṅkena kameyyaṃ, seyyathāpi pakkhī sakuṇo
imepi candimasūriye evaṃmahiddhike evaṃmahānubhāve pāṇinā parāmaseyyaṃ
parimajjeyyaṃ yāva brahmalokāpi kāyena vasaṃ vatteyyanti, sīlesvevassa
paripūrakārī - pe - brūhetā suññāgārānaṃ. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu : 'dibbāya sotadhātuyā
visuddhāya atikkantamānusikāya ubho sadde suṇeyyaṃ : dibbe ca mānuse ca ye dūre
santike cāti, sīlesvevassa paripūrakārī - pe - brūhetā suññāgārānaṃ.
''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu : 'parasattānaṃ
parapuggalānaṃ cetasā ceto paricca pajāneyyaṃ : sarāgaṃ vā cittaṃ sarāgaṃ
cittanti pajāneyyaṃ, vītarāgaṃ vā cittaṃ vītarāgaṃ cittanti pajāneyyaṃ sadosaṃ
vā cittaṃ sadosaṃ cittanti pajāneyyaṃ, vītadosaṃ vā cittaṃ vītadosaṃ cittanti
pajāneyyaṃ samohaṃ vā cittaṃ samohaṃ cittanti pajāneyyaṃ, vītamohaṃ vā cittaṃ
vītamohaṃ cittanti pajāneyyaṃ saṃkhittaṃ vā cittaṃ saṃkhittaṃ cittanti
pajāneyyaṃ, vikkhittaṃ vā cittaṃ vikkhittaṃ cittanti pajāneyyaṃ mahaggataṃ vā
cittaṃ mahaggataṃ cittanti pajāneyyaṃ, amahaggataṃ vā cittaṃ amahaggataṃ
cittanti pajāneyyaṃ sauttaraṃ vā cittaṃ sauttaraṃ cittanti pajāneyyaṃ, anuttaraṃ
vā cittaṃ anuttaraṃ cittanti pajāneyyaṃ samāhitaṃ vā cittaṃ samāhitaṃ cittanti pajāneyyaṃ, asamāhitaṃ vā cittaṃ
asamāhitaṃ cittanti pajāneyyaṃ vimuttaṃ vā cittaṃ vimuttaṃ cittanti pajāneyyaṃ,
avimuttaṃ vā cittaṃ avimuttaṃ cittanti
pajāneyyanti, sīlesvevassa paripūrakārī - pe - brūhetā suññāgārānaṃ.
''Ākaṅkheyya
ce, bhikkhave, bhikkhu : 'anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussareyyaṃ,
seyyathidaṃ : ekampi jātiṃ dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi
jātiyo dasapi jātiyo vīsampi jātiyo tiṃsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo
paññāsampi jātiyo jātisatampi jātisahassampi jāti satasahassampi anekepi saṃvaṭṭakappe
anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṃvaṭṭavivaṭṭakappe : amutrāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto
evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto, so tato cuto
amutra udapādiṃ tatrāpāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī
evamāyupariyanto, so tato cuto idhūpapannoti. Iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ
pubbenivāsaṃ anussareyyanti, sīlesvevassa paripūrakārī - pe - brūhetā
suññāgārānaṃ. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu : 'dibbena cakkhunā
visuddhena atikkantamānusakena satte passeyyaṃ cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte
suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage satte pajāneyyaṃ : ime vata
bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā
manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā,
te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā ime vā
pana bhonto sattā kāyasucaritena
samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ
anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā, te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannāti, iti dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena
satte passeyyaṃ cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate
duggate yathākammūpage satte pajāneyyanti, sīlesvevassa paripūrakārī ajjhattaṃ
cetosamathamanuyutto anirākatajjhāno vipassanāya samannāgato brūhetā
suññāgārānaṃ.
69. ''Ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu : 'āsavānaṃ khayā
anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭhevadhamme sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja vihareyyanti, sīlesvevassa paripūrakārī
ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto anirākatajjhāno vipassanāya samannāgato brūhetā
suññāgārānaṃ. ''Sampannasīlā, bhikkhave, viharatha sampannapātimokkhā
pātimokkhasaṃvarasaṃvutā viharatha ācāragocarasampannā aṇumattesu vajjesu
bhayadassāvino samādāya sikkhatha sikkhāpadesūti : iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ
paṭicca vuttanti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato
bhāsitaṃ abhinandunti.
Ākaṅkheyyasuttaṃ niṭṭhitaṃ chaṭṭhaṃ.
6. Ākaṅkheyyasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
64. Evaṃ me sutanti
ākaṅkheyyasuttaṃ. Tattha sampannasīlāti tividhaṃ sampannaṃ paripuṇṇasamaṅgimadhuravasena.
Tattha –
‘‘Sampannaṃ sālikedāraṃ, suvā bhuñjanti kosiya;
Paṭivedemi te brahme, na naṃ vāretumussahe’’ti. (jā.
1.14.1);
Idaṃ paripuṇṇasampannaṃ nāma. ‘‘Iminā
pātimokkhasaṃvarena upeto hoti samupeto upāgato samupāgato upapanno sampanno
samannāgato’’ti (vibha. 511) idaṃ samaṅgisampannaṃ nāma. ‘‘Imissā,
bhante, mahāpathaviyā heṭṭhimatalaṃ sampannaṃ, seyyathāpi khuddamadhuṃ aneḷakaṃ,
evamassāda’’nti (pārā. 17) idaṃ madhurasampannaṃ nāma. Idha pana paripuṇṇasampannampi
samaṅgisampannampi vaṭṭati. Tasmā sampannasīlāti paripuṇṇasīlā hutvātipi
sīlasamaṅgino hutvātipi evamettha attho vedibbo. Sīlanti kenaṭṭhena sīlaṃ?
Sīlanaṭṭhena sīlaṃ. Tassa vitthārakathā visuddhimagge vuttā.
Tattha ‘‘paripuṇṇasīlā’’ti iminā atthena
khettadosavigamena khettapāripūrī viya sīladosavigamena sīlapāripūrī vuttā
hoti. Yathā hi khettaṃ bījakhaṇḍaṃ vappakhaṇḍaṃ udakakhaṇḍaṃ ūsakhaṇḍanti
catudosasamannāgataṃ aparipūraṃ hoti.
Tattha bījakhaṇḍaṃ nāma yattha antarantarā
bījāni khaṇḍāni vā pūtīni vā honti, tāni yattha vapanti, tattha sassaṃ na uṭṭheti,
khettaṃ khaṇḍaṃ hoti. Vappakhaṇḍaṃ nāma yattha akusalo bījāni vapanto
antarantarā nipāteti. Evañhi sabbattha sassaṃ na uṭṭheti, khettaṃ khaṇḍaṃ hoti.
Udakakhaṇḍaṃ nāma yattha katthaci udakaṃ atibahu vā na vā hoti, tatrāpi
hi sassāni na uṭṭhenti, khettaṃ khaṇḍaṃ hoti. Ūsakhaṇḍaṃ nāma yattha
kassako kismiñci padese naṅgalena bhūmiṃ cattāro pañca vāre kasanto atigambhīraṃ
karoti, tato ūsaṃ uppajjati, tatrāpi hi sassaṃ na uṭṭheti, khettaṃ khaṇḍaṃ
hoti, tādisañca khettaṃ na mahapphalaṃ hoti na mahānisaṃsaṃ, tatrāpi hi bahumpi
vapitvā appaṃ labhati. Imesaṃ pana catunnaṃ dosānaṃ vigamā khettaṃ paripuṇṇaṃ
hoti. Tādisañca khettaṃ mahapphalaṃ hoti mahānisaṃsaṃ. Evameva khaṇḍaṃ chiddaṃ
sabalaṃ kammāsanti catudosasamannāgataṃ sīlaṃ aparipūraṃ hoti. Tādisañca sīlaṃ
na mahapphalaṃ hoti, na mahānisaṃsaṃ. Imesaṃ pana catunnaṃ dosānaṃ vigamā
sīlakhettaṃ paripuṇṇaṃ hoti, tādisañca sīlaṃ mahapphalaṃ hoti mahānisaṃsaṃ.
‘‘Sīlasamaṅgino’’ti iminā panatthena sīlena samaṅgibhūtā
samodhānaṃ gatā samannāgatā hutvā viharathāti idameva vuttaṃ hoti. Tattha dvīhi
kāraṇehi sampannasīlatā hoti sīlavipattiyā ca ādīnavadassanena sīlasampattiyā
ca ānisaṃsadassanena. Tadubhayampi visuddhimagge vitthāritaṃ.
Tattha ‘‘sampannasīlā’’ti ettāvatā kira bhagavā
catupārisuddhisīlaṃ uddisitvā ‘‘pātimokkhasaṃvarasaṃvutā’’ti iminā tattha jeṭṭhakasīlaṃ
vitthāretvā dassesīti dīpavihāravāsī sumanatthero āha. Antevāsiko panassa tepiṭakacūḷanāgatthero
āha – ubhayatthāpi pātimokkhasaṃvaro bhagavatā vutto, pātimokkhasaṃvaroyeva hi
sīlaṃ. Itarāni pana tīṇi sīlanti vuttaṭṭhānaṃ nāma atthīti ananujānanto vatvā
āha – ‘‘indriyasaṃvaro nāma chadvārarakkhāmattakameva, ājīvapārisuddhi dhammena
samena paccayuppattimattakaṃ, paccayanissitaṃ paṭiladdhapaccaye idamatthanti
paccavekkhitvā paribhuñjanamattakaṃ. Nippariyāyena pātimokkhasaṃvarova sīlaṃ.
Yassa so bhinno, ayaṃ chinnasīso viya puriso hatthapāde sesāni rakkhissatīti na
vattabbo. Yassa pana so arogo, ayaṃ acchinnasīso viya puriso jīvitaṃ sesāni
puna pākatikāni katvā rakkhituṃ sakkoti. Tasmā ‘sampannasīlā’ti iminā
pātimokkhasaṃvaraṃ uddisitvā ‘sampannapātimokkhā’ti tasseva vevacanaṃ vatvā taṃ
vitthāretvā dassento ‘pātimokkhasaṃvarasaṃvutā’tiādimāhā’’ti.
Tattha pātimokkhasaṃvarasaṃvutāti pātimokkhasaṃvarena
samannāgatā. Ācāragocarasampannāti ācārena ca gocarena ca sampannā. Aṇumattesūti
appamattakesu. Vajjesūti akusaladhammesu. Bhayadassāvīti
bhayadassino. Samādāyāti sammā ādiyitvā. Sikkhatha sikkhāpadesūti
sikkhāpadesu taṃ taṃ sikkhāpadaṃ samādiyitvā sikkhatha. Apica samādāya
sikkhatha sikkhāpadesūti yaṃkiñci sikkhākoṭṭhāsesu sikkhitabbaṃ kāyikaṃ
vācasikañca, taṃ sabbaṃ samādāya sikkhathāti ayamettha saṅkhepo, vitthārato
pana sabbānetāni pātimokkhasaṃvarādīni padāni visuddhimagge vuttāni.
65. Ākaṅkheyya ceti idaṃ
kasmā āraddhaṃ? Sīlānisaṃsadassanatthaṃ. Sacepi acirapabbajitānaṃ vā duppaññānaṃ
vā evamassa ‘‘bhagavā sīlaṃ pūrethāti vadati, ko nu kho sīlapūraṇe ānisaṃso, ko
viseso, kā vaḍḍhī’’ti? Tesaṃ sattarasa ānisaṃse dassetuṃ evamāha. Appeva nāma
etaṃ sabrahmacārīnaṃ piyamanāpatādiāsavakkhayapariyosānaṃ ānisaṃsaṃ sutvāpi
sīlaṃ paripūreyyunti. Visakaṇṭakavāṇijo viya. Visakaṇṭakavāṇijo nāma guḷavāṇijo
vuccati.
So kira guḷaphāṇitakhaṇḍasakkharādīni sakaṭenādāya
paccantagāmaṃ gantvā ‘‘visakaṇṭakaṃ gaṇhatha, visakaṇṭakaṃ gaṇhathā’’ti
ugghosesi. Taṃ sutvā gāmikā ‘‘visaṃ nāma kakkhaḷaṃ, yo naṃ khādati, so marati,
kaṇṭakampi vijjhitvā māreti, ubhopete kakkhaḷā, ko ettha ānisaṃso’’ti
gehadvārāni thakesuṃ, dārake ca palāpesuṃ. Taṃ disvā vāṇijo ‘‘avohārakusalā ime
gāmikā, handa ne upāyena gaṇhāpemī’’ti ‘‘atimadhuraṃ gaṇhatha, atisāduṃ gaṇhatha,
guḷaṃ phāṇitaṃ sakkharaṃ samagghaṃ labbhati, kūṭamāsakakūṭakahāpaṇādīhipi
labbhatī’’ti ugghosesi. Taṃ sutvā gāmikā haṭṭhatuṭṭhā āgantvā bahumpi mūlaṃ
datvā gahesuṃ. Tattha vāṇijassa ‘‘visakaṇṭakaṃ gaṇhathā’’ti ugghosanaṃ viya
bhagavato ‘‘sampannasīlā, bhikkhave, viharatha…pe… samādāya sikkhatha
sikkhāpadesū’’ti vacanaṃ. ‘‘Ubhopete kakkhaḷā, ko ettha ānisaṃso’’ti gāmikānaṃ
cintanaṃ viya bhagavā ‘‘sampannasīlā viharathā’’ti āha, ‘‘sīlañca nāmetaṃ
kakkhaḷaṃ pharusaṃ khiḍḍādipaccanīkaṃ, ko nu kho sampannasīlānaṃ ānisaṃso’’ti
bhikkhūnaṃ cintanaṃ. Atha tassa vāṇijassa ‘‘atimadhuraṃ gaṇhathā’’tiādivacanaṃ
viya bhagavato piyamanāpatādiāsavakkhayapariyosānaṃ sattarasaānisaṃsappakāsanatthaṃ
‘‘ākaṅkheyya ce’’tiādivacanaṃ veditabbaṃ.
Tattha ākaṅkheyya ceti yadi ākaṅkheyya yadi
iccheyya. Piyo ca assanti piyacakkhūhi sampassitabbo, sinehuppattiyā
padaṭṭhānabhūto bhaveyyanti vuttaṃ hoti. Manāpoti tesaṃ manavaḍḍhanako,
tesaṃ vā manena pattabbo, mettacittena pharitabboti vuttaṃ hoti. Garūti
tesaṃ garuṭṭhāniyo pāsāṇacchattasadiso. Bhāvanīyoti ‘‘addhā ayamāyasmā
jānaṃ jānāti passaṃ passatī’’ti evaṃ sambhāvanīyo. Sīlesvevassa paripūrakārīti
catupārisuddhisīlesuyeva paripūrakārī assa, anūnena paripūritākārena
samannāgato bhaveyyāti vuttaṃ hoti. Ajjhattaṃ cetosamathamanuyuttoti
attano cittasamathe yutto, ettha hi ajjhattanti vā attanoti vā etaṃ ekatthaṃ,
byañjanameva nānaṃ. Bhummatthe panetaṃ samathanti upayogavacanaṃ. Anūti iminā
upasaggena yoge siddhaṃ. Anirākatajjhānoti bahi anīhaṭajjhāno,
avināsitajjhāno vā, nīharaṇavināsatthañhi idaṃ nirākaraṇaṃ nāma. Thambhaṃ niraṃkatvā
nivātavuttītiādīsu cassa payogo daṭṭhabbo.
Vipassanāya samannāgatoti sattavidhāya anupassanāya yutto, sattavidhā anupassanā nāma
aniccānupassanā dukkhānupassanā anattānupassanā nibbidānupassanā
virāgānupassanā nirodhānupassanā paṭinissaggānupassanāti. Tā visuddhimagge
vitthāritā. Brūhetā suññāgārānanti vaḍḍhetā suññāgārānaṃ, ettha ca
samathavipassanāvasena kammaṭṭhānaṃ gahetvā rattindivaṃ suññāgāraṃ pavisitvā
nisīdamāno bhikkhu ‘‘brūhetā suññāgārāna’’nti veditabbo. Ekabhūmakādipāsāde
kurumānopi pana neva suññāgārānaṃ brūhetāti daṭṭhabboti.
Ettāvatā ca yathā taṇhāvicaritadesanā paṭhamaṃ taṇhāvasena
āraddhāpi taṇhāpadaṭṭhānattā mānadiṭṭhīnaṃ mānadiṭṭhiyo osaritvā kamena
papañcattayadesanā jātā, evamayaṃ desanā paṭhamaṃ adhisīlasikkhāvasena
āraddhāpi sīlapadaṭṭhānattā samathavipassanānaṃ samathavipassanāyo osaritvā
kamena sikkhattayadesanā jātāti veditabbā.
Ettha hi ‘‘sīlesvevassa paripūrakārī’’ti ettāvatā
adhisīlasikkhā vuttā. ‘‘Ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto anirākatajjhāno’’ti
ettāvatā adhicittasikkhā, ‘‘vipassanāya samannāgato’’ti ettāvatā
adhipaññāsikkhā, ‘‘brūhetā suññāgārāna’’nti iminā pana samathavasena
suññāgāravaḍḍhane adhicittasikkhā, vipassanāvasena adhipaññāsikkhāti evaṃ dvepi
sikkhā saṅgahetvā vuttā. Ettha ca ‘‘ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto
anirākatajjhāno’’ti imehi padehi sīlānurakkhikā eva cittekaggatā kathitā.
‘‘Vipassanāyā’’ti iminā padena sīlānurakkhiko saṅkhārapariggaho.
Kathaṃ cittekaggatā sīlamanurakkhati? Yassa hi
cittekaggatā natthi, so byādhimhi uppanne vihaññati, so byādhivihato
vikkhittacitto sīlaṃ vināsetvāpi byādhivūpasamaṃ kattā hoti. Yassa pana
cittekaggatā atthi, so taṃ byādhidukkhaṃ vikkhambhetvā samāpattiṃ samāpajjati,
samāpannakkhaṇe dukkhaṃ dūrāpakataṃ hoti, balavatarasukhamuppajjati. Evaṃ
cittekaggatā sīlaṃ anurakkhati.
Kathaṃ saṅkhārapariggaho sīlamanurakkhati? Yassa hi saṅkhārapariggaho
natthi, tassa ‘‘mama rūpaṃ mama viññāṇa’’nti attabhāve balavamamattaṃ hoti, so
tathārūpesu dubbhikkhabyādhibhayādīsu sampattesu sīlaṃ vināsetvāpi attabhāvaṃ
posetā hoti. Yassa pana saṅkhārapariggaho atthi, tassa attabhāve balavamamattaṃ
vā sineho vā na hoti, so tathārūpesu dubbhikkhabyādhibhayādīsu sampattesu
sacepissa antāni bahi nikkhamanti, sacepi ussussati visussati, khaṇḍākhaṇḍiko
vā hoti satadhāpi sahassadhāpi, neva sīlaṃ vināsetvā attabhāvaṃ posetā hoti.
Evaṃ saṅkhārapariggaho sīlamanurakkhati. ‘‘Brūhetā suññāgārāna’’nti iminā pana
tasseva ubhayassa brūhanā vaḍḍhanā sātaccakiriyā dassitā.
Evaṃ bhagavā yasmā ‘‘sabrahmacārīnaṃ piyo cassaṃ
manāpo ca garu ca bhāvanīyo cā’’ti ime cattāro dhamme ākaṅkhantena natthaññaṃ
kiñci kātabbaṃ, aññadatthu sīlādiguṇasamannāgatena bhavitabbaṃ, idiso hi
sabrahmacārīnaṃ piyo hoti manāpo garu bhāvanīyo. Vuttampi hetaṃ –
‘‘Sīladassanasampannaṃ, dhammaṭṭhaṃ saccavādinaṃ;
Attano kamma kubbānaṃ, taṃ jano kurute piya’’nti.
(dha. pa. 217);
Tasmā ‘‘ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu
sabrahmacārīnaṃ piyo cassaṃ manāpo ca garu ca bhāvanīyo cāti sīlesvevassa
paripūrakārī…pe… suññāgārāna’’nti vatvā idāni yasmā paccayalābhādiṃ
patthayantenāpi idameva karaṇīyaṃ, na aññaṃ kiñci, tasmā ‘‘ākaṅkheyya ce,
bhikkhave, bhikkhu lābhī assa’’ntiādimāha. Na cettha bhagavā lābhanimittaṃ
sīlādiparipūraṇaṃ kathetīti veditabbo. Bhagavā hi ghāsesanaṃ chinnakatho na
vācaṃ payuttaṃ bhaṇeti, evaṃ sāvake ovadati, so kathaṃ lābhanimittaṃ
sīlādiparipūraṇaṃ kathessati, puggalajjhāsayavasena panetaṃ vuttaṃ. Yesañhi evaṃ
ajjhāsayo bhaveyya ‘‘sace mayaṃ catūhi paccayehi na kilameyyāma, sīlādiṃ pūretuṃ
sakkuṇeyyāmā’’ti, tesaṃ ajjhāsayavasena bhagavā evamāha. Apica rasānisaṃso esa
sīlassa, yadidaṃ cattāro paccayā nāma. Tathā hi paṇḍitamanussā koṭṭhādīsu ṭhapitaṃ
nīharitvā puttādīnampi adatvā attanāpi aparibhuñjitvā sīlavantānaṃ dentīti
sīlassa sarasānisaṃsadassanatthaṃ petaṃ vuttaṃ.
Tatiyavāre yesāhanti yesaṃ ahaṃ. Tesaṃ te
kārāti tesaṃ devānaṃ vā manussānaṃ vā te mayi katā paccayadānakārā. Devāpi
hi sīlādiguṇayuttānaṃ paccaye denti, na kevalaṃ manussāyeva, sakko viya
āyasmato mahākassapassa. Mahapphalā mahānisaṃsāti ubhayametaṃ atthato
ekaṃ, byañjanameva nānaṃ. Mahantaṃ vā lokiyasukhaṃ phalantīti mahapphalā.
Mahato lokuttarasukhassa ca paccayā hontīti mahānisaṃsā. Sīlādiguṇayuttassa
hi kaṭacchubhikkhāpi pañcaratanamattāya bhūmiyā paṇṇasālāpi katvā dinnā anekāni
kappasahassāni duggativinipātato rakkhati, pariyosāne ca amatāya
parinibbānadhātuyāpaccayo hoti. ‘‘Khīrodanaṃ ahamadāsi’’ntiādīni (vi. va. 413)
cettha vatthūni, sakalameva vā petavatthu vimānavatthu ca sādhakaṃ.
Tasmā paccayadāyakehi attani katānaṃ kārānaṃ mahapphalataṃ icchantenāpi
sīlādiguṇayutteneva bhavitabbanti dasseti.
Catutthavāre ñātīti sassusasurapakkhikā. Sālohitāti
ekalohitasambaddhā pītipitāmahādayo. Petāti peccabhāvaṃ gatā. Kālaṅkatāti
matā. Tesaṃ tanti tesaṃ taṃ mayi pasannacittataṃ vā pasannena cittena
anussaraṇaṃ vā. Yassa hi bhikkhuno kālaṅkato pitā vā mātā vā ‘‘amhākaṃ ñātako
thero sīlavā kalyāṇadhammo’’ti pasannacitto hutvā taṃ bhikkhuṃ anussarati,
tassa so cittappasādopi taṃ anussaraṇamattampi mahapphalaṃ mahānisaṃsameva
hoti, anekāni kappasatasahassāni duggatito vāretuṃ ante ca amataṃ pāpetuṃ
samatthameva hoti. Vuttañhetaṃ bhagavatā ‘‘ye te, bhikkhave, bhikkhū
sīlasampannā samādhisampannā paññā, vimutti, vimuttiñāṇadassanasampannā,
dassanaṃpāhaṃ, bhikkhave, tesaṃ bhikkhūnaṃ bahukāraṃ vadāmi. Savanaṃ, anussatiṃ,
anupabbajjaṃ, upasaṅkamanaṃ, payirupāsanaṃpāhaṃ, bhikkhave, tesaṃ bhikkhūnaṃ
bahukāraṃ vadāmī’’ti (itivu. 104). Tasmā ñātisālohitānaṃ attani cittappasādassa
anussatiyā ca mahapphalataṃ icchantenāpi sīlādiguṇayutteneva, bhavitabbanti
dasseti.
66. Pañcamavāre aratiratisaho
assanti aratiyā ratiyā ca saho abhibhavitā ajjhottharitā bhaveyyaṃ. Ettha
ca aratīti adhikusalesu dhammesu pantasenāsanesu ca ukkaṇṭhā. Ratīti
pañcakāmaguṇarati. Na ca maṃ arati saheyyāti mañca arati na abhibhaveyya
na maddeyya na ajjhotthareyya. Uppannanti jātaṃ nibbattaṃ. Sīlādiguṇayutto
hi aratiñca ratiñca sahati ajjhottharati madditvā tiṭṭhati. Tasmā īdisaṃ attānaṃ
icchantenāpi sīlādiguṇayutteneva bhavitabbanti dasseti.
Chaṭṭhavāre bhayaṃ cittutrāsopi ārammaṇampi. Bheravaṃ
ārammaṇameva. Sesaṃ pañcamavāre vuttanayameva. Sīlādiguṇayutto hi bhayabheravaṃ
sahati ajjhottharati madditvā tiṭṭhati ariyakoṭiyavāsīmahādattatthero viya.
Thero kira maggaṃ paṭipanno aññataraṃ pāsādikaṃ araññaṃ
disvā ‘‘idhevajja samaṇadhammaṃ katvā gamissāmī’’ti maggā okkamma aññatarasmiṃ
rukkhamūle saṅghāṭiṃ paññapetvā pallaṅkaṃ ābhujitvā nisīdi. Rukkhadevatāya
dārakā therassa sīlatejena sakabhāvena saṇṭhātuṃ asakkontā vissaramakaṃsu.
Devatāpi rukkhaṃ cālesi. Thero acalova nisīdi. Sā devatā dhūmāyi, pajjali, neva
sakkhi theraṃ cāletuṃ, tato upāsakavaṇṇenāgantvā vanditvā aṭṭhāsi. ‘‘Ko eso’’ti
vuttā ‘‘ahaṃ, bhante, etasmiṃ rukkhe adhivatthā devatā’’ti avoca. Tvaṃ ete
vikāre akāsīti. Āma bhanteti. Kasmāti ca vuttā āha – ‘‘tumhākaṃ, bhante,
sīlatejena dārakā sakabhāvena saṇṭhātuṃ asakkontā vissaramakaṃsu, sāhaṃ tumhe
palāpetuṃ evamakāsi’’nti. Thero āha – ‘‘atha kasmā idha, bhante, mā vasatha,
mayhaṃ aphāsūti paṭikacceva nāvacāsi. Idāni pana mā kiñci avaca, ariyakoṭiyamahādatto
amanussabhayena gatoti vacanato lajjāmi, tenāhaṃ idheva vasissaṃ, tvaṃ pana
ajjekadivasaṃ yattha katthaci vasāhī’’ti. Evaṃ sīlādiguṇayutto bhayabheravasaho
hoti. Tasmā īdisamattānaṃ icchantenāpi sīlādiguṇayutteneva bhavitabbanti
dasseti.
Sattamavāre ābhicetasikānanti abhicetoti
abhikkantaṃ visuddhacittaṃ vuccati, adhicittaṃ vā, abhicetasi jātāni
ābhicetasikāni, abhiceto sannissitānīti vā ābhicetasikāni. Diṭṭhadhammasukhavihārānanti
diṭṭhadhamme sukhavihārānaṃ. Diṭṭhadhammoti paccakkho attabhāvo vuccati,
tattha sukhavihārabhūtānanti attho, rūpāvacarajjhānānametaṃ adhivacanaṃ. Tāni
hi appetvā nisinnā jhāyino imasmiṃyeva attabhāve asaṃkiliṭṭhaṃ nekkhammasukhaṃ
vindanti, tasmā ‘‘diṭṭhadhammasukhavihārānī’’ti vuccanti. Nikāmalābhīti
nikāmena lābhī attano icchāvasena lābhī, icchiticchitakkhaṇe samāpajjituṃ
samatthoti vuttaṃ hoti. Akicchalābhīti sukheneva paccanīkadhamme
vikkhambhetvā samāpajjituṃ samatthoti vuttaṃ hoti. Akasiralābhīti
akasirānaṃ vipulānaṃ lābhī, yathāparicchedeyeva vuṭṭhātuṃ samatthoti vuttaṃ
hoti. Ekacco hi lābhīyeva hoti, na pana sakkoti icchiticchitakkhaṇe samāpajjituṃ.
Ekacco sakkoti tathā samāpajjituṃ, pāribandhike pana kicchena vikkhambheti.
Ekacco tathā samāpajjati, pāribandhike ca akiccheneva vikkhambheti, na sakkoti
nāḷikāyantaṃ viya yathāparicchedeyeva ca vuṭṭhātuṃ. Yo pana imaṃ tividhampi
sampadaṃ icchati, sopi sīlesvevassa paripūrakārīti.
Evaṃ abhiññāpādake jhāne vutte kiñcāpi abhiññānaṃ vāro
āgato, atha kho naṃ bhagavā aggahetvāva yasmā na kevalaṃ abhiññāpādakajjhānāni
ca abhiññāyoyeva ca sīlānaṃ ānisaṃso, apica kho cattāri āruppajhānānipi tayo ca
heṭṭhimā ariyamaggā, tasmā taṃ sabbaṃ pariyādiyitvā dassetuṃ ākaṅkheyya
ce…pe… ye te santāti evamādimāha.
Tattha santāti aṅgasantatāya ceva ārammaṇasantatāya
ca. Vimokkhāti paccanīkadhammehi vimuttattā ārammaṇe ca adhimuttattā. Atikkamma
rūpeti rūpāvacarajjhāne atikkamitvā, ye te vimokkhā atikkamma rūpe santāti
padasambandho, itarathā hi atikkamma rūpe kiṃ karotīti na paññāyeyyuṃ. Āruppāti
ārammaṇato ca vipākato ca rūpavirahitā. Kāyena phusitvāti nāmakāyena
phusitvā pāpuṇitvā, adhigantvāti vuttaṃ hoti. Sesaṃ vuttānameva. Idaṃ vuttaṃ
hoti ‘‘yopi bhikkhu ime vimokkhe phusitvā viharitukāmo, sopi sīlesvevassa
paripūrakārī’’ti.
67. Navamavāre tiṇṇaṃ saṃyojanānanti
sakkāyadiṭṭhivicikicchāsīlabbataparāmāsasaṅkhātānaṃ tiṇṇaṃ bandhanānaṃ. Tāni hi
saṃyojenti khandhagatibhavādīhi khandhagatibhavādayo, kammaṃ vā phalena, tasmā saṃyojanānīti
vuccanti, bandhanānīti attho. Parikkhayāti parikkhayena. Sotāpannoti
sotaṃ āpanno. Sototi ca maggassetaṃ adhivacanaṃ. Sotāpannoti taṃsamaṅgipuggalassa.
Yathāha ‘‘soto sototi hidaṃ, sāriputta, vuccati. Katamo nu kho, sāriputta,
sototi? Ayameva hi, bhante, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo. Seyyathidaṃ, sammādiṭṭhi…pe…
sammāsamādhīti. Sotāpanno sotāpannoti hidaṃ, sāriputta, vuccati. Katamo nu kho,
sāriputta, sotāpannoti? Yo hi, bhante, iminā aṭṭhaṅgikena maggena samannāgato,
ayaṃ vuccati sotāpanno, yoyaṃ āyasmā evaṃnāmo evaṃgotto’’ti. Idha pana maggena
phalassa nāmaṃ dinnaṃ, tasmā phalaṭṭho ‘‘sotāpanno’’ti veditabbo. Avinipātadhammoti
vinipātetīti vinipāto, nāssa vinipāto dhammoti avinipātadhammo, na attānaṃ
apāye vinipātasabhāvoti vuttaṃ hoti. Kasmā? Ye dhammā apāyagamaniyā, tesaṃ
pahīnattā. Sambodhi paraṃ ayanaṃ gati assāti sambodhiparāyaṇo,
uparimaggattayaṃ avassaṃ sampāpakoti attho. Kasmā? Paṭiladdhapaṭhamamaggattā. Sīlesvevāti
īdiso hotukāmopi sīlesvevassa paripūraṇārīti.
Dasamavāre paṭhamamaggena parikkhīṇānipi tīṇi saṃyojanāni
sakadāgāmimaggassa vaṇṇabhaṇanatthaṃ vuttāni. Rāgadosamohānaṃ tanuttāti
etesaṃ tanubhāvena, tanuttakaraṇenāti vuttaṃ hoti. Tattha dvīhi kāraṇehi
tanuttaṃ veditabbaṃ adhiccuppattiyā ca pariyuṭṭhānamandatāya ca. Sakadāgāmissa
hi vaṭṭānusārimahājanasseva kilesā abhiṇhaṃ na uppajjanti, kadāci karahaci
uppajjanti viraḷākārā hutvā, viraḷavāpite khette aṅkurā viya. Uppajjamānāpi ca
vaṭṭānusārimahājanasseva maddantā pharantā chādentā andhakāraṃ karontā na
uppajjanti, mandamandā uppajjanti tanukākārā hutvā, abbhapaṭalamiva
makkhikāpattamiva ca.
Tattha keci therā bhaṇanti ‘‘sakadāgāmissa kilesā
kiñcāpi cirena uppajjanti, bahalāva uppajjanti, tathā hissa puttā ca dhītaro ca
dissantī’’ti, etaṃ pana appamāṇaṃ. Puttadhītaro hi aṅgapaccaṅgaparāmasanamattenapi
hontīti. Dvīhiyeva kāraṇehissa kilesānaṃ tanuttaṃ veditabbaṃ adhiccuppattiyā ca
pariyuṭṭhānamandatāya cāti.
Sakadāgāmīti sakiṃ
āgamanadhammo. Sakideva imaṃ lokaṃ āgantvāti ekavāraṃyeva imaṃ
manussalokaṃ paṭisandhivasena āgantvā. Yopi hi idha sakadāgāmimaggaṃ bhāvetvā
idheva parinibbāti, sopi idha na gahito. Yopi idha maggaṃ bhāvetvā devesu
upapajjitvā tattheva parinibbāti. Yopi devaloke maggaṃ bhāvetvā tattheva
parinibbāti. Yopi devaloke maggaṃ bhāvetvā idheva manussaloke nibbattitvā
parinibbāti. Yo pana idha maggaṃ bhāvetvā devaloke nibbatto, tattha yāvatāyukaṃ
ṭhatvā puna idheva upapajjitvā parinibbāti, ayamidha gahitoti veditabbo. Dukkhassantaṃ
kareyyanti vaṭṭadukkhassa paricchedaṃ kareyyaṃ. Sīlesvevāti īdiso
hotukāmopi sīlesvevassa paripūrakārīti.
Ekādasamavāre pañcannanti gaṇanaparicchedo. Orambhāgiyānanti
oraṃ vuccati heṭṭhā, heṭṭhābhāgiyānanti attho, kāmāvacaraloke
uppattipaccayānanti adhippāyo. Saṃyojanānanti bandhanānaṃ, tāni
kāmarāgabyāpādasaṃyojanehi saddhiṃ pubbe vuttasaṃyojanāneva veditabbāni. Yassa
hi etāni appahīnāni, so kiñcāpi bhavagge uppanno hoti, atha kho āyuparikkhayā
kāmāvacare nibbattatiyeva, gilitabalisamacchūpamo svāyaṃ puggalo dīghasuttakena
pāde baddhavihaṅgūpamo cāti veditabbo. Pubbe vuttānampi cettha vacanaṃ vaṇṇabhaṇanatthamevāti
veditabbaṃ. Opapātikoti sesayonipaṭikkhepavacanametaṃ. Tatthaparinibbāyīti
tattheva brahmaloke parinibbāyī. Anāvattidhammo tasmā lokāti tato
brahmalokā paṭisandhivasena puna anāvattisabhāvo. Sīlesvevāti īdiso
hotukāmopi sīlesvevassa paripūrakārīti.
68. Evaṃ anāgāmimagge vutte
kiñcāpi catutthamaggassa vāro āgato, atha kho naṃ bhagavā aggahetvāva yasmā na
kevalā āsavakkhayābhiññā eva sīlānaṃ ānisaṃso, apica kho lokiyapañcābhiññāyopi,
tasmā tāpi dassetuṃ, yasmā ca āsavakkhaye kathite desanā niṭṭhitā hoti, evañca
sati imesaṃ guṇānaṃ akathitattā ayaṃ kathā muṇḍābhiññākathā nāma bhaveyya,
tasmā ca abhiññāpāripūriṃ katvā dassetumpi, yasmā ca anāgāmimagge ṭhitassa
sukhena iddhivikuppanā ijjhati, samādhiparibandhānaṃ kāmarāgabyāpādānaṃ
samūhatattā, anāgāmī hi sīlesu ca samādhimhi ca paripūrakārī, tasmā yuttaṭṭhāneyeva
lokiyābhiññāyo dassetumpi ‘‘ākaṅkheyya ce…pe… anekavihita’’nti evamādimāhāti
ayamanusandhi.
Tattha ‘‘anekavihitaṃ iddhividha’’ntiādinā nayena
āgatānaṃ pañcannampi lokiyābhiññānaṃ pāḷivaṇṇanā saddhiṃ bhāvanānayena visuddhimagge
vuttā.
69. Chaṭṭhābhiññāya āsavānaṃ
khayāti arahattamaggena sabbakilesānaṃ khayā. Anāsavanti
āsavavirahitaṃ. Cetovimuttiṃ paññāvimuttinti ettha cetovacanena
arahattaphalasampayuttova samādhi, paññāvacanena taṃsampayuttā paññāva vuttā.
Tattha ca samādhi rāgato vimuttattā cetovimutti, paññā avijjāya
vimuttattā paññāvimuttīti veditabbā. Vuttañcetaṃ bhagavatā ‘‘yo hissa,
bhikkhave, samādhi, tadassa samādhindriyaṃ. Yā hissa, bhikkhave, paññā, tadassa
paññindriyaṃ. Iti kho, bhikkhave, rāgavirāgā cetovimutti, avijjāvirāgā
paññāvimuttī’’ti, apicettha samathaphalaṃ cetovimutti, vipassanāphalaṃ paññāvimuttīti
veditabbā.
Diṭṭheva dhammeti imasmiṃyeva
attabhāve. Sayaṃ abhiññā sacchikatvāti attanoyeva paññāya paccakkhaṃ
katvā, aparapaccayena ñatvāti attho. Upasampajja vihareyyanti pāpuṇitvā
sampādetvā vihareyyaṃ. Sīlesvevāti evaṃ sabbāsave niddhunitvā
cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ adhigantukāmopi sīlesvevassa paripūrakārīti.
Evaṃ bhagavā sīlānisaṃsakathaṃ yāva arahattā kathetvā
idāni sabbampi taṃ sīlānisaṃsaṃ sampiṇḍetvā dassento nigamanaṃ āha
‘‘sampannasīlā, bhikkhave…pe… idametaṃ paṭicca vutta’’nti. Tassāyaṃ saṅkhepattho,
‘‘sampannasīlā, bhikkhave, viharatha…pe… samādāya sikkhatha sikkhāpadesū’’ti
iti yaṃ taṃ mayā pubbe evaṃ vuttaṃ, idaṃ sabbampi sampannasīlo bhikkhu
sabrahmacārīnaṃ piyo hoti manāpo, garu bhāvanīyo paccayānaṃ lābhī,
paccayadāyakānaṃ mahapphalakaro, pubbañātīnaṃ anussaraṇacetanāya
phalamahattakaro, aratiratisaho, bhayabheravasaho, rūpāvacarajjhānānaṃ
arūpāvacarajjhānānañca lābhī, heṭṭhimāni tīṇi sāmaññaphalāni pañca lokiyābhiññā
āsavakkhayañāṇanti ca ime ca guṇe sayaṃ abhiññā sacchikattā hoti, etaṃ paṭicca
idaṃ sandhāya vuttanti. Idamavoca bhagavā, attamanā te bhikkhu bhagavato
bhāsitaṃ abhinandunti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Ākaṅkheyyasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Người xuất gia có nên nuôi dưỡng những ước muốn để làm động lực cho sự tu tập? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Tại sao trong bài kinh nầy có vẻ như muốn điều nầy mà lại nỗ lực làm điều kia? - TT Pháp Đăng
Thảo luận 3. Một người tin rằng "nếu mình tu tập tinh tấn sẽ không bao giờ đói" sự tin tưởng mãnh liệt nầy có cuồng tín chăng? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 4. Có câu nói "nên cẩn thận với những ước muốn thầm kín trong lòng vì chúng ta thường đi theo những ước muốn đó mà không hay" Câu nói nầy có xác thực chăng? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 5. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
Thảo luận 4. Có câu nói "nên cẩn thận với những ước muốn thầm kín trong lòng vì chúng ta thường đi theo những ước muốn đó mà không hay" Câu nói nầy có xác thực chăng? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 5. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment