Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 3/6/2020
142. Kinh Phân Biệt Cúng Dường
(Dakkhiṇāvibhaṅga Sutta)
Dakkhiṇā thường được
dịch là cúng dường có nghĩa là sự bố thí cao trọng tác thành phước sự. Bài kinh
nầy ghi lại câu chuyện đặc biệt liên quan tới cuộc đời của Đức Phật. Di mẫu Mahāpajāpatī
Gotamī vừa là dì ruột vừa là kế mẫu của Đức Thế Tôn. Bà là người đã tự thân chăm
sóc dưỡng nuôi thái tử Siddattha từ lúc sơ sinh với tất cả sự thương yêu hơn cả
con đẻ của mình. Sau nầy hiểu đạo và chứng sơ quả bà mang một bộ y cúng dường Đức Phật. Thay vị thọ nhận,
Bậc Đạo Sư khuyên nên cúng dường đến tăng chúng. Pháp thoại của Đức Phật là những
phân tích sâu xa về thế nào là những cúng dường với nhiều phúc quả khác nhau.
1170. Thương kính Phật
với tấm lòng của bà mẹ
Khi Đức Thế Tôn về thăm
cố hương trong số những người trông mong chờ đợi được gặp lại Ngài phải nói tới
Di mẫu Mahāpajāpatī Gotamī. Bà dùng đôi bàn tay ngà ngọc của mình để trồng bông
vải, tự dệt, tự cắt may thành y ca sa cúng dâng Đức Phật:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn
trú giữa dòng họ Sakka (Thích-Ca), ở Kapilavatthu (Ca-ty-la-vệ), tại tinh
xá Nigrodha (Ni-câu-luật Thọ Viên). Rồi Mahāpajāpatī Gotamī (Củ đàm Nữ
Ma-ha-ba-xà-bà-đề), đem theo một cặp y mới, đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Mahāpajāpatī
Gotamī bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, cặp
y mới này do con cắt và dệt đặc biệt cho Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, mong
Thế Tôn vì lòng từ mẫn hãy nhận lấy cho con.
Khi được nghe nói vậy,
Thế Tôn nói với Mahāpajāpatī Gotamī:
-- Này Gotamī, hãy
cúng dường Tăng chúng. Bà cúng dường Tăng chúng, thời Ta sẽ được cung
kính, và cả Tăng chúng cũng vậy.
Lần thứ hai, Mahāpajāpatī
Gotamī bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, cặp
y mới này do con cắt và dệt.. hãy nhận lấy cho con. Lần thứ hai, Thế
Tôn nói với Mahāpajāpatī Gotamī:
-- Này Gotamī, hãy cúng dường Tăng chúng.. và cả
Tăng chúng cũng vậy.
Lần thứ ba, Mahāpajāpatī
Gotamī bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, cặp
y mới này do con cắt và dệt ... hãy nhận lấy cho con. Lần thứ ba, Thế
Tôn nói với Mahāpajāpatī Gotamī :
-- Này Gotami, hãy cúng dường Tăng chúng... và cả
tăng chúng cũng vậy. Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Ānanda bạch Thế
Tôn:
-- Thế Tôn hãy nhận
cặp y mới cho Mahāpajāpatī Gotamī! Bạch Thế Tôn, Mahāpajāpatī Gotamī đã
giúp ích nhiều cho Thế Tôn, là thúc mẫu, là dưỡng mẫu, đã nuôi dưỡng
Thế Tôn, đã cho Thế Tôn bú sữa, vì rằng sau khi sanh thân mẫu của Thế
Tôn mệnh chung, chính bà đã cho Thế Tôn bú sữa. Bạch Thế Tôn, và Thế Tôn
cũng giúp ích nhiều cho Mahāpajāpatī Gotamī. Bạch Thế Tôn, chính nhờ Thế
Tôn, Mahāpajāpatī Gotamī đã quy y Phật, quy Pháp, quy y Tăng. Bạch Thế Tôn,
chính nhờ Thế Tôn, Mahāpajāpatī từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không
cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say các
loại rượu đem lại. Bạch Thế Tôn, chính nhờ Thế Tôn, Mahāpajāpatī Gotamī
có đầy đủ lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật, đầy đủ lòng tịnh
tín bất động đối với Pháp, đầy đủ lòng tịnh tín bất động đối với
chúng Tăng, đầy đủ các giới luật làm bậc Thánh hoan hỷ. Bạch Thế Tôn,
chính nhờ Thế Tôn, Mahāpajāpatī Gotamī không còn nghi ngờ đối với Khổ,
không còn nghi ngờ đối với Khổ tập, không còn nghi ngờ đối với Khổ diệt,
không còn nghi ngờ đối với con Ðường đưa đến khổ diệt. Bạch Thế Tôn,
Thế Tôn cũng đã giúp ích nhiều cho Mahāpajāpatī Gotamī.
1172. Thương mẹ với tấm
lòng của Phật
Đức Phật thay vì làm
di mẫu hoan hỷ bằng cách đơn giản là thọ nhận, Ngài đã hướng dẫn bà với những bài
học quan trọng theo chánh pháp:
Người thi ân và báo
ân trong ý nghĩa cao đẹp nhất
-- Thật là như vậy,
này Ānanda! Thật là như vậy, này Ānanda! Này Ānanda, nếu do nhờ một
người, mà một người khác được quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,
thời này Ānanda, Ta nói rằng người này không có một đền ơn nào xứng
đáng đối với người kia về đảnh lễ, đứng đậy, chấp tay, về làm những
việc thích hợp và về dâng cúng các sự cúng dường như y, đồ ăn khất
thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Nếu do nhờ một
người mà một người khác từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ
bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say các loại rượu
men, rượu nấu, thời này Ānanda, Ta nói rằng người này không có một đền
ơn nào xứng đáng đối với người kia... dược phẩm trị bệnh.
Này Ānanda, nếu do
nhờ một người mà một người khác đầy đủ tịnh tín bất động đối với
Phật, đối với Pháp, đối với Tăng, đầy đủ các giới luật, thời này Ānanda,
Ta nói rằng người này không có một đền ơn nào xứng đáng đối với
người kia... dược phẩm trị bệnh.
Này Ānanda, nếu do
nhờ một người mà một người khác không có nghi ngờ đối với Khổ, không
có nghi ngờ đối với Khổ tập, không có nghi ngờ đối với Khổ diệt,
không có khi ngờ đối với con Ðường đưa đến khổ diệt, thời này Ānanda,
Ta nói rằng người này không có một đền ơn nào xứng đáng đối với
người kia... dược phẩm trị bệnh.
Những đối tượng cúng
dường và phúc quả dị biệt
Này Ānanda, có mười
bốn loại cúng dường phân loại theo hạng người. Bố thí các đức Như
Lai, bậc A- la-hán, Chánh Ðẳng Giác, là cúng dường thứ nhất, phân loại
theo hạng người. Bố thí các vị Ðộc Giác Phật, là cúng dường thứ hai,
phân loại theo hạng người. Bố thí các bậc A-la-hán, đệ tử Như Lai, là
cúng dường thứ ba, phân loại theo hạng người. Bố thí các vị trên con
đường chứng quả A-la-hán là cúng dường thứ tư, phân loại theo hạng
người. Bố thí các vị chứng quả Bất lai, là cúng dường thứ năm, phân
loại theo hạng người. Bố thí các vị trên con đường chứng quả Bất lai
là cúng dường thứ sáu, phân loại theo hạng người. Bố thí các vị chứng
quả Nhất lai là cúng dường thứ bảy, phân loại theo hạng người. Bố thí
các vị trên con đường chứng quả Nhất lai là cúng dường thứ tám, phân
loại theo hạng người. Bố thí các vị chứng quả Dự lưu là cúng dường
thứ chín, phân loại theo hạng người. Bố thí các vị trên con đường
chứng quả Dự lưu là cúng dường thứ mười, phân loại theo hạng
người. Bố thí những vị ngoại học (bāhiraka) đã ly tham trong các dục
vọng là cúng dường thứ mười một, phân loại theo hạng người. Bố thí
những phàm phu gìn giữ giới luật là cúng dường thứ mười hai, phân
loại theo hạng người. Bố thí những phàm phu theo ác giới là cúng dường
thứ mười ba, phân loại theo hạng người được bố thí. Bố thí các loại
bàng sanh là cúng dường thứ mười bốn, phân loại theo hạng người.
Tại đây, này Ānanda,
sau khi bố thí cho các loại bàng sanh, cúng dường này có hy vọng đem lại
trăm phần công đức. Sau khi bố thí cho những phàm phu theo ác giới, cúng
dường này có hy vọng đem lại ngàn phần công đức. Sau khi bố thí cho các
phàm phu gìn giữ giới luật, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm ngàn
lần công đức. Sau khi bố thí cho các người ngoại học đã ly tham trong
các dục vọng, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm ngàn ức lần công
đức. Sau khi bố thí cho các vị trên con đường chứng quả Dự lưu, cúng
dường này có hy vọng đem lại vô số vô lượng công đức. Còn nói gì đến
những vị đã chứng quả Dự lưu? Còn nói gì đến những vị trên con đường
chứng quả Nhất lai? Còn nói gì đến những vị đã chứng quả Nhất lai? Còn
nói gì đến những vị trên con đường chứng quả Bất lai? Còn nói gì đến
những vị đã chứng quả Bất lai? Còn nói gì đến những vị trên con đường
chứng quả A-la-hán? Còn nói gì đến những vị đã chứng quả A-la-hán đệ
tử Như Lai? Còn nói gì đến những vị Ðộc Giác Phật? Còn nói gì đến các
Như Lai bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác?
Bảy sự cúng dường đến
Tăng chúng
Này Ānanda, có bảy
loại cúng dường cho Tăng chúng. Bố thí cho cả hai Tăng chúng với đức
Phật là vị cầm đầu là cúng dường Tăng chúng thứ nhất. Bố thí cho cả
hai Tăng chúng, sau khi đức Phật đã nhập diệt là cúng dường Tăng chúng
thứ hai. Bố thí cho chúng Tỷ-kheo Tăng là cúng dường Tăng chúng thứ ba.
Bố thí cho chúng Tỷ-kheo ni là cúng dường Tăng chúng thứ tư. Bố thí và
nói rằng: "Mong Tăng chúng chỉ định cho tôi một số Tỷ-kheo và
Tỷ-kheo ni như vậy", là cúng dường Tăng chúng thứ năm. Bố thí và
nói rằng: "Mong rằng Tăng chúng chỉ định cho tôi một số Tỷ-kheo
như vậy", là cúng dường Tăng chúng thứ sáu. Bố thí và nói rằng:
"Mong rằng Tăng chúng chỉ định cho một số Tỷ-kheo ni như vậy",
là cúng dường Tăng chúng thứ bảy.
Nhưng này Ānanda,
trong thời gian tương lai sẽ có những hạng chuyển tánh (gotrabhuno),
với những áo cà-sa vàng xung quanh cổ, theo ác giới, ác pháp, và cuộc bố
thí đối với chúng Tăng theo ác giới. Nhưng này Ānanda, khi Ta nói rằng
cúng dường cho Tăng chúng là vô số và vô lượng, thời này Ānanda, Ta
không có muốn nói rằng bất cứ phương tiện gì, một sự bố thí phân
loại theo cá nhân lại có kết quả to lớn hơn đối với cúng dường cho
Tăng chúng.
Bốn sự cúng dường
trên phương diện thanh tịnh
Này Ānanda, có bốn
sự thanh tịnh của các loại cúng dường. Thế nào là bốn? Này Ānanda, có
loại cúng dường được thanh tịnh bởi người cho, nhưng không bởi
người nhận. Này Ānanda, có loại cúng dường được thanh tịnh bởi
người nhận, nhưng không bởi người cho. Này Ānanda, có loại cúng dường
không được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi người nhận. Này Ānanda,
có loại cúng dường được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi người
nhận.
Và này Ānanda, thế
nào là loại cúng dường được thanh tịnh bởi người cho, nhưng không
bởi người nhận? Ở đây, này Ānanda, người cho giữ giới, theo thiện
pháp, còn những người nhận theo ác giới, theo ác pháp. Như vậy, này Ānanda,
là loại cúng dường được thanh tịnh bởi người cho, nhưng không bởi
người nhận.
Và này Ānanda, thế
nào là loại cúng dường được thanh tịnh bởi người nhận, nhưng không
bởi người cho? Ở đây, này Ānanda, người cho theo ác giới, theo ác pháp,
còn những người nhận giữ giới, theo thiện pháp. Như vậy, này Ānanda,
là loại cúng dường được thanh tịnh bởi người nhận, nhưng không bởi
người cho.
Và này Ānanda, thế
nào là loại cúng dường không được thanh tịnh bởi người cho và cũng
bởi người nhận? Ở đây, này Ānanda, người cho theo ác giới, theo ác pháp,
và người nhận cũng theo ác giới, theo ác pháp. Như vậy, này Ānanda, là
sự cúng dường không được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi
người nhận.
Và này Ānanda, thế
nào là loại cúng dường được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi
người nhận? Ở đây, này Ānanda, người cho giữ giới, theo thiện pháp; và
người nhận cũng giữ giới, theo thiện pháp. Như vậy, này Ānanda, là sự
cúng dường được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi người nhận.
Này Ānanda, như vậy
là bốn sự thanh tịnh của các loại cúng dường.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Bậc Thiện Thệ sau khi nói như vậy, bậc Ðạo sư lại nói thêm:
Ai đầy đủ giới luật,
Bố thí cho ác giới;
Vật thí được đúng
pháp,
Với tâm khéo hoan
hỷ,
Với lòng tin vững
vàng
Vào quả lớn của
nghiệp,
Sự cúng dường như
vậy,
Thanh tịnh bởi
người cho.
Ai không giữ giới
luật,
Bố thí cho thiện
giới;
Vật thí không đúng
pháp,
Với tâm không hoan
hỷ,
Không lòng tin vững
vàng,
Vào quả lớn của
nghiệp,
Sự cúng dường như
vậy,
Thanh tịnh bởi
người nhận.
Ai không giữ giới
luật,
Bố thí cho ác giới;
Vật thí không đúng
pháp,
Với tâm không hoan
hỷ,
Không lòng tin vững
vàng,
Vào quả lớn của
nghiệp,
Sự cúng dường như
vậy
Cả hai không thanh
tịnh.
Ai đầy đủ giới luật,
Bố thí cho thiện
giới;
Vật thí được đúng
pháp,
Với tâm khéo hoan
hỷ,
Với lòng tin vững
vàng,
Vào quả lớn của
nghiệp,
Ta nói bố thí ấy
Chắc chắn có quả
lớn.
Ai xuất ly tham ái
Bố thí không tham
ái,
Vật thí được đúng
pháp.
Với tâm khéo hoan
hỷ,
Với lòng tin vững
vàng,
Vào quả lớn của
nghiệp,
Ta nói bố thí ấy
Là quảng đại tài
thí.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 142 [tóm
tắt]
Kinh Phân Biệt Cúng Dường
(Dakkhināvibhaṅga Sutta)
(M.iii,
253)
I. Có mười bốn
loại cúng dường, kể theo thứ tự được công đức từ ít đến nhiều vô
lượng:
1/ Bố thí cho bàng
sanh.
2/ Bố thí phàm phu
theo ác giới.
3/ Bố thí phàm phu
giữ giới.
4/ Bố thí những vị
ngoại đạo học đã ly tham dục.
5/ Bố thí những
người hướng về quả Dự lưu.
6/ Bố thí những
người đã chứng quả Dự lưu.
7/ Bố thí những
người hướng về quả Nhất lai.
8/ Bố thí những
người đã chứng quả Nhất lai.
9/ Bố thí những
người hướng về quả Bất hoàn.
10/ Bố thí những
người đã chứng quả Bất hoàn.
11/ Bố thí những
người hướng đến quả A-la-hán.
12/ Bố thí những
người đã chứng quả A-la-hán.
13/ Cúng dường các
vị Độc Giác Phật.
14/ Cúng dường các
đức Như Lai.
II. Lại có bảy
loại cúng dường Tăng chúng, công đức lớn nhất được kể trước:
1/ Bố thí cho cả
hai Tăng chúng với đức Phật cầm đầu.
2/ Bố thí cho cả
hai Tăng chúng sau khi đức Phật nhập diệt.
3/ Bố thí cho chúng
Tỷ-kheo.
4/ Bố thí chúng
Tỷ-kheo-ni.
5/ Bố thí cho một
số Tỷ-kheo và một số Tỷ-kheo-ni.
6/ Bố thí một số
Tỷ-kheo.
7/ Bố thí một số
Tỷ-kheo-ni.
III. Có bốn sự
thanh tịnh các loại cúng dường:
1/ Có loại cúng
dường thanh tịnh bởi người cho, không bởi người nhận: người cho
giữ giới, người nhận không.
2/ Có loại cúng
dường thanh tịnh bởi người nhận, không bởi người cho.
3/ Có loại cúng
dường được thanh tịnh bởi cả hai bên: người cho, người nhận đều
giữ giới.
4/ Có loại cúng
dường không được thanh tịnh bởi cả hai bên: người cho, người nhận
đều theo ác giới.
Bố thí cho người
xuất ly tham ái, vật thí đúng pháp và người bố thí tâm hoan hỷ, có lòng
tin vững vàng vào quả báo, thì đó là sự bố thí tài vật lớn nhất.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 142 [dàn
ý]
Kinh Phân Biệt Cúng Dường
(Dakkhināvibhaṅga Sutta)
(M.iii,
253)
A. Duyên khởi:
Mahāpajāpatī đến cúng
dường Thế Tôn một cặp y. Thế Tôn không nhận, bảo nên đem cúng dường chúng Tăng.
Tôn giả nanda yêu cầu Thế Tôn nên nhận cặp y vì Mahāpajāpatī đã giúp ích nhiều
cho Thế Tôn. Và Thế Tôn cũng đã giúp ích nhiều cho Mahāpajāpatī. Thế Tôn bèn
thuyết giảng kinh này.
B. Chánh kinh:
I. Thế Tôn xác nhận
công đức thật vô lượng, nếu một ai giúp đỡ người khác quy y ba ngôi báu, giữ
gìn giới luật, có lòng tịnh tín bất động đối với ba ngôi báu, không còn nghi ngờ
đối với bốn sự thật.
II. Thế Tôn phân tích
có 14 loại cúng dường phân loại theo hạng người và số lượng công đức do các loại
cúng dường này đem đến.
III. Thế Tôn phân
tích 7 loại cúng dường cho Tăng chúng và xác nhận cúng dường cho chúng Tăng có
kết quả công đức to lớn hơn cúng dường cho cá nhân.
IV. Thế Tôn phân tích
có 4 sự thanh tịnh trong các loại cúng dường.
C. Kết luận:
Thế Tôn với một số
bài kệ nói lên sự thanh tịnh trong các loại cúng dường.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 142 [toát
yếu]
Kinh Phân Biệt Cúng Dường
(Dakkhināvibhaṅga Sutta)
(M.iii,
253)
I. Toát yếu
The Exposition of Offerings.
The Buddha enumerates
fourteen kinds of personal offerings and seven kinds of
offerings made to the Sangha.
Trình bày về các sự cúng dường.
Phật kể ra 14 loại
cúng dường cá nhân và bảy loại cúng dường cho tập thể.
II. Tóm tắt
Một hôm bà di mẫu của
Phật đến cúng dường Ngài một cặp y mới do chính tay bà dệt đặc biệt cho Thế
Tôn. Phật dạy bà hãy đem cúng dường Tăng chúng, thì cũng như cúng dường cả Phật
và Tăng. Bà năn nỉ ba lần, Phật vẫn dạy như trên.
Thấy thế tôn giả
A-nan xin Phật nhận cặp y vì bà Di mẫu có ơn nuôi dưỡng Ngài từ lúc sơ sinh sau
khi Ma-gia hoàng hậu từ trần. Và chính Phật cũng đã giúp bà quy y Tam bảo, giữ
năm giới, có lòng tin bất động đối với Phật Pháp Tăng và Giới. Chính nhờ đức Thế
Tôn mà bà hết hoài nghi đối với bốn thánh đế Khổ Tập Diệt Ðạo. Ðức Thế Tôn xác
nhận đúng như thế, và dạy nếu ai nhờ một người nào mà được quy y Tam bảo, giữ
năm giới, có tịnh tín đối với Tam bảo và giới luật, hết nghi ngờ về bốn chân
lý, thì không có sự đền ơn nào cho tương xứng.
Kế tiếp Phật dạy có
14 loại bố thí:
1/Trên hết là cúng dường
đức Như Lai, Ứng cúng Chánh đẳng giác, kế đến tuần tự:
2/ Ðộc giác;
3/ Các vị đã chứng quả
A-la-hán;
4/ Các vị trên đạo lộ
A-la-hán;
5/ Bất hoàn quả;
6/ Bất hoàn đạo;
7/ Nhất lai quả;
8/ Nhất lai đạo;
9/ Dự lưu quả;
10/ Dự lưu đạo;
11/ Vị ngoại học
(bāhiraka) ly tham;
12/ phàm phu giữ giới;
13/ phàm phu phá giới;
14/ các loại bàng sanh.
Trong đó, bố thí cho
bàng sanh đem lại một trăm công đức (lợi ích), cho phàm phu phá giới một ngàn
công đức, cho phàm phu giữ giới một trăm ngàn công đức, cho ngoại học ly tham một
trăm ngàn ức công đức. Bố thí cho các vị ở Dự lưu đạo có hy vọng đem lại vô số công
đức, huống hồ các vị đã chứng Dự lưu quả và trên nữa cho đến cúng dường Phật?
Lại nữa, đối với tăng
chúng có bảy loại cúng dường: Một là cúng Phật tại thế và hai bộ tăng là nhất.
Thứ đến là sau khi Phật Niết-bàn, cúng dường cả hai bộ tăng. Thứ ba là cúng dường
Tăng bộ. Thứ tư là cúng dường Ni bộ. Thứ năm là cúng một số tăng và một số ni
theo chỉ định của tăng. Thứ sáu là cúng riêng một số ni theo chỉ định. Trong
tương lai có những hạng ác tăng khoác áo ca sa nhưng mặc dù vậy, sự bố thí cho
họ cũng được công đức vô lượng khi người bố thí muốn qua họ mà cúng dường tăng
bảo.
Cuối cùng Phật dạy về
bốn sự thanh tịnh do bố thí: Một là thanh tịnh bởi người cho; là người cho giữ
giới, theo thiện pháp, người nhận phá giới theo ác pháp. Hai là thanh tịnh do
người nhận; là người nhận giữ giới theo thiện pháp còn người cho thì ngược lại.
Ba là cả người cho lẫn người nhận đều thanh tịnh, là cả hai bên đều có giới. Bốn
là cả người cho lẫn người nhận đều không thanh tịnh; là cả hai bên đều phá giới.
Và sự bố thí thanh tịnh
nhất là khi người cho người nhận đều có giới; vật thí đúng pháp; cho với tâm
hoan hỷ vững tin vào nghiệp quả.
III. Chú giải
Kinh này dễ hiểu.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Một hôm bà di mẫu
Ðến cúng dường đức
Phật Một cặp y đặc biệt
Bà dệt cho Thế Tôn.
Phật dạy nên cúng dường
Cho toàn thể chúng
tăng
Với Phật vị dẫn đầu
Hơn là riêng cúng Phật.
Sau ba lần năn nỉ,
Phật vẫn dạy như
trên.
Tôn giả Ānanda
Thương tình bèn can
thiệp
Xin Ngài nhận cặp y
Bởi vì bà Di mẫu
Có ơn cho bú mớm
Có công lao nuôi dưỡng
Lúc sanh mẫu mệnh
chung
Và cũng nhờ Thế Tôn
Mà bà theo Tam Bảo,
Thọ trì năm cấm giới,
Có lòng tin bất động
Ở Phật Pháp Tăng Giới.
Chính nhờ đức Thế Tôn
Mà bà hết hoài nghi
Về Khổ, Tập, Diệt, Ðạo
Bốn chân lý cao cả.
Phật xác nhận đúng thế,
Nếu ai nhờ người nào
Ðược quy y Tam bảo,
Thọ trì năm cấm giới
Tịnh tín, hết nghi ngờ
Bốn chân lý cao cả,
Thì cái ơn lớn ấy
Khó tương xứng đáp đền.
Kế tiếp Thế Tôn dạy
Mười bốn loại bố thí
Trên hết là cúng Phật
Như Lai Chánh đẳng
giác,
Tuần tự tiếp theo đó:
Ðộc giác rồi La-hán;
Trên đường chứng
La-hán;
Bất hoàn quả và đạo;
Nhất lai quả và đường;
Dự lưu quả và đạo;
Vị ngoại học ly tham;
Phàm phu có giữ giới;
Phàm phu không giữ giới;
Ðến các loại bàng
sanh.
Trong mười bốn loại ấy
Bố thí cho bàng sanh
Cũng có trăm công đức
Cho phàm phu phá giới
Ðược một ngàn công đức,
Cho phàm phu giữ giới
Một trăm ngàn công đức,
Cho ngoại học ly tham
Trăm ngàn ức công đức.
Cho vị Dự lưu đạo
Có vô số công đức,
Huống là Dự lưu quả
Cho đến cúng Như Lai?
Lại đối với tăng
chúng
Có bảy loại cúng dường:
Phật và hai bộ tăng
Lúc còn sinh tiền Phật
Là cúng dường bậc nhất.
Ðến cúng hai bộ tăng
Sau khi Phật Niết-bàn,
Rồi đến cúng Tăng bộ
Thứ tư, cúng Ni bộ.
Thứ năm, xin đại
chúng
Chỉ định ít tăng, ni,
Sáu, cúng một số tăng
Theo tăng chúng chỉ định.
Bảy, cúng một số ni.
Trong tương lai sẽ có
Ác tăng khoác ca sa
Nhưng cúng dường tăng
chúng
Công đức vẫn to lớn
Hơn phân loại cá
nhân.
Và cuối cùng Phật dạy
Về bốn kiểu thanh tịnh
Trong hành vi bố thí:
Một, sạch bởi người
cho
Giữ giới, theo thiện
pháp,
Còn người nhận phá giới.
Hai, sạch do người nhận
Khi người nhận giữ giới
Người cho thì ngược lại.
Ba là sạch hai chiều
Người cho lẫn kẻ nhận
Bốn, cả hai không sạch.
Sự bố thí sạch nhất
Khi người cho kẻ nhận
Ðều có giới, theo thiện;
Vật bố thí đúng pháp;
Cho với tâm hoan hỷ;
Vững tin vào nghiệp
quả.
Bố thí được như vậy
Là quảng đại tài thí.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
142. Dakkhiṇāvibhaṅgasuttaṃ [Mūla]
376.
Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā sakkesu
viharati kapilavatthusmiṃ nigrodhārāme. Atha kho mahāpajāpati [mahāpajāpatī
(sī. syā. kaṃ. pī.)] gotamī navaṃ dussayugaṃ ādāya yena Bhagavā tenupasaṅkami
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnā kho
mahāpajāpati gotamī bhagavantaṃ etadavoca : ''idaṃ me, bhante, navaṃ dussayugaṃ
bhagavantaṃ uddissa sāmaṃ kantaṃ sāmaṃ vāyitaṃ. Taṃ me, bhante, Bhagavā
paṭiggaṇhātu anukampaṃ upādāyāti. Evaṃ vutte, Bhagavā mahāpajāpatiṃ
gotamiṃ etadavoca : ''saṅghe, gotami, dehi. Saṅghe te dinne ahañceva pūjito
bhavissāmi saṅgho cāti. Dutiyampi kho mahāpajāpati gotamī bhagavantaṃ etadavoca
: ''idaṃ me, bhante, navaṃ dussayugaṃ bhagavantaṃ uddissa sāmaṃ kantaṃ sāmaṃ
vāyitaṃ. Taṃ me, bhante, Bhagavā paṭiggaṇhātu anukampaṃ upādāyāti.
Dutiyampi kho Bhagavā mahāpajāpatiṃ gotamiṃ etadavoca : ''saṅghe,
gotami, dehi. Saṅghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṅgho cāti. Tatiyampi
kho mahāpajāpati gotamī bhagavantaṃ etadavoca : ''idaṃ me, bhante, navaṃ
dussayugaṃ bhagavantaṃ uddissa sāmaṃ kantaṃ sāmaṃ vāyitaṃ. Taṃ me, bhante, Bhagavā
paṭiggaṇhātu anukampaṃ upādāyāti. Tatiyampi kho Bhagavā mahāpajāpatiṃ
gotamiṃ etadavoca : ''saṅghe, gotami, dehi .
Saṅghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṅgho cāti.
377.
Evaṃ vutte, āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca : ''paṭiggaṇhātu, bhante, Bhagavā
mahāpajāpatiyā gotamiyā navaṃ dussayugaṃ. Bahūpakārā [bahukārā (syā. kaṃ.)],
bhante, mahāpajāpati gotamī bhagavato mātucchā āpādikā posikā khīrassa dāyikā
bhagavantaṃ janettiyā kālaṅkatāya thaññaṃ pāyesi. Bhagavāpi, bhante, bahūpakāro
mahāpajāpatiyā gotamiyā. Bhagavantaṃ, bhante, āgamma mahāpajāpati gotamī buddhaṃ
saraṇaṃ gatā, dhammaṃ saraṇaṃ gatā, saṅghaṃ saraṇaṃ gatā. Bhagavantaṃ, bhante,
āgamma mahāpajāpati gotamī pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā
kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā.
Bhagavantaṃ, bhante, āgamma mahāpajāpati gotamī buddhe aveccappasādena
samannāgatā , dhamme aveccappasādena samannāgatā, saṅghe
aveccappasādena samannāgatā ariyakantehi sīlehi samannāgatā. Bhagavantaṃ, bhante,
āgamma mahāpajāpati gotamī dukkhe nikkaṅkhā, dukkhasamudaye nikkaṅkhā,
dukkhanirodhe nikkaṅkhā, dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya nikkaṅkhā. Bhagavāpi,
bhante, bahūpakāro mahāpajāpatiyā gotamiyāti.
378.
''Evametaṃ , ānanda. Yaṃ hānanda, puggalo puggalaṃ
āgamma buddhaṃ saraṇaṃ gato hoti, dhammaṃ saraṇaṃ gato hoti, saṅghaṃ saraṇaṃ
gato hoti, imassānanda, puggalassa iminā puggalena na suppatikāraṃ vadāmi,
yadidaṃ : abhivādana-paccuṭṭhānaañjalikamma sāmīcikammacīvarapiṇḍapātasenāsanagilā-
nappaccayabhesajjaparikkhārānuppadānena. ''Yaṃ hānanda, puggalo puggalaṃ āgamma
pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā paṭivirato hoti, kāmesumicchācārā paṭivirato
hoti, musāvādā paṭivirato hoti, surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato hoti,
imassānanda, puggalassa iminā puggalena na suppatikāraṃ vadāmi, yadidaṃ :
abhivādana-paccuṭṭhāna-añjalikamma-sāmīcikammacīvarapiṇḍapātasenāsanagilā-
nappaccayabhesajjaparikkhārānuppadānena. ''Yaṃ hānanda, puggalo puggalaṃ āgamma
buddhe aveccappasādena samannāgato hoti, dhamme... saṅghe... ariyakantehi
sīlehi samannāgato hoti, imassānanda, puggalassa iminā puggalena na suppatikāraṃ
vadāmi, yadidaṃ : abhivādana-paccuṭṭhāna-añjalikamma-sāmīcikammacīvarapiṇḍapātasenāsanagilā-nappaccayabhesajjaparikkhārānuppadānena.
''Yaṃ
hānanda, puggalo puggalaṃ āgamma dukkhe nikkaṅkho hoti, dukkhasamudaye nikkaṅkho
hoti, dukkhanirodhe nikkaṅkho hoti, dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya nikkaṅkho
hoti, imassānanda, puggalassa iminā puggalena na suppatikāraṃ vadāmi, yadidaṃ :
abhivādana-paccuṭṭhānaañjalikamma-sāmīcikamma-cīvarapiṇḍapātasenāsanagilā- nappaccayabhesajjaparikkhārānuppadānena.
379.
''Cuddasa kho panimānanda, pāṭipuggalikā dakkhiṇā. Katamā cuddasa? tathāgate arahante sammāsambuddhe dānaṃ deti : ayaṃ paṭhamā
pāṭipuggalikā dakkhiṇā. Paccekasambuddhe [paccekabuddhe (sī. pī.)] dānaṃ deti : ayaṃ dutiyā pāṭipuggalikā dakkhiṇā.
Tathāgatasāvake arahante dānaṃ deti : ayaṃ tatiyā pāṭipuggalikā dakkhiṇā.
Arahattaphalasacchikiriyāya paṭipanne dānaṃ deti : ayaṃ catutthī pāṭipuggalikā
dakkhiṇā. Anāgāmissa dānaṃ deti : ayaṃ pañcamī pāṭipuggalikā dakkhiṇā.
Anāgāmiphalasacchikiriyāya paṭipanne dānaṃ deti : ayaṃ chaṭṭhī pāṭipuggalikā
dakkhiṇā. Sakadāgāmissa dānaṃ deti : ayaṃ sattamī pāṭipuggalikā dakkhiṇā. Sakadāgāmiphalasacchikiriyāya paṭipanne
dānaṃ deti : ayaṃ aṭṭhamī pāṭipuggalikā dakkhiṇā. Sotāpanne dānaṃ deti : ayaṃ
navamī pāṭipuggalikā dakkhiṇā. Sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanne dānaṃ
deti : ayaṃ dasamī pāṭipuggalikā dakkhiṇā. Bāhirake kāmesu vītarāge dānaṃ deti
: ayaṃ ekādasamī pāṭipuggalikā dakkhiṇā. Puthujjanasīlavante dānaṃ deti : ayaṃ
dvādasamī pāṭipuggalikā dakkhiṇā. Puthujjanadussīle dānaṃ deti : ayaṃ terasamī
pāṭipuggalikā dakkhiṇā. Tiracchānagate dānaṃ deti : ayaṃ cuddasamī pāṭipuggalikā
dakkhiṇāti. ''Tatrānanda, tiracchānagate dānaṃ datvā sataguṇā dakkhiṇā pāṭikaṅkhitabbā,
puthujjanadussīle dānaṃ datvā sahassaguṇā dakkhiṇā pāṭikaṅkhitabbā,
puthujjanasīlavante dānaṃ datvā satasahassaguṇā dakkhiṇā pāṭikaṅkhitabbā, bāhirake kāmesu vītarāge dānaṃ
datvā koṭisatasahassaguṇā dakkhiṇā pāṭikaṅkhitabbā,
sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanne dānaṃ datvā asaṅkheyyā appameyyā dakkhiṇā
pāṭikaṅkhitabbā, ko pana vādo sotāpanne, ko pana vādo
sakadāgāmiphalasacchikiriyāya paṭipanne, ko pana vādo sakadāgāmissa, ko pana
vādo anāgāmiphalasacchikiriyāya paṭipanne, ko pana vādo anāgāmissa, ko pana
vādo arahattaphalasacchikiriyāya paṭipanne, ko pana vādo arahante, ko pana vādo
paccekasambuddhe, ko pana vādo tathāgate arahante sammāsambuddhe!
380.
''Satta kho panimānanda, saṅghagatā dakkhiṇā. Katamā satta? buddhappamukhe
ubhatosaṅghe dānaṃ deti : ayaṃ paṭhamā saṅghagatā dakkhiṇā. Tathāgate
parinibbute ubhatosaṅghe dānaṃ deti : ayaṃ dutiyā saṅghagatā dakkhiṇā.
Bhikkhusaṅghe dānaṃ deti : ayaṃ tatiyā saṅghagatā dakkhiṇā. Bhikkhunisaṅghe
dānaṃ deti : ayaṃ catutthī saṅghagatā dakkhiṇā. 'Ettakā me bhikkhū ca
bhikkhuniyo ca saṅghato uddissathāti dānaṃ deti : ayaṃ
pañcamī saṅghagatā dakkhiṇā. 'Ettakā me bhikkhū saṅghato uddissathāti dānaṃ deti :
ayaṃ chaṭṭhī saṅghagatā dakkhiṇā. 'Ettakā me bhikkhuniyo saṅghato uddissathāti
dānaṃ deti : ayaṃ sattamī saṅghagatā dakkhiṇā. ''Bhavissanti kho panānanda, anāgatamaddhānaṃ gotrabhuno
kāsāvakaṇṭhā dussīlā pāpadhammā. Tesu dussīlesu saṅghaṃ
uddissa dānaṃ dassanti. Tadāpāhaṃ, ānanda, saṅghagataṃ dakkhiṇaṃ asaṅkheyyaṃ
appameyyaṃ vadāmi. Na tvevāhaṃ, ānanda, kenaci pariyāyena saṅghagatāya dakkhiṇāya
pāṭipuggalikaṃ dānaṃ mahapphalataraṃ vadāmi.
381.
''Catasso kho imā, ānanda, dakkhiṇā visuddhiyo. Katamā catasso? atthānanda,
dakkhiṇā dāyakato visujjhati no paṭiggāhakato. Atthānanda, dakkhiṇā paṭiggāhakato
visujjhati no dāyakato. Atthānanda, dakkhiṇā neva dāyakato visujjhati no paṭiggāhakato.
Atthānanda, dakkhiṇā dāyakato ceva visujjhati paṭiggāhakato ca.
''Kathañcānanda, dakkhiṇā dāyakato visujjhati no paṭiggāhakato? idhānanda,
dāyako hoti sīlavā kalyāṇadhammo, paṭiggāhakā honti dussīlā pāpadhammā : evaṃ
kho, ānanda, dakkhiṇā dāyakato visujjhati no paṭiggāhakato. ''Kathañcānanda,
dakkhiṇā paṭiggāhakato visujjhati no dāyakato? idhānanda, dāyako hoti dussīlo
pāpadhammo, paṭiggāhakā honti sīlavanto [sīlavantā (sī.)] kalyāṇadhammā : evaṃ
kho, ānanda, dakkhiṇā paṭiggāhakato visujjhati no dāyakato. ''Kathañcānanda,
dakkhiṇā neva dāyakato visujjhati no paṭiggāhakato? idhānanda, dāyako ca hoti
dussīlo pāpadhammo, paṭiggāhakā ca honti dussīlā pāpadhammā : evaṃ kho,
ānanda, dakkhiṇā neva dāyakato visujjhati no paṭiggāhakato.
''Kathañcānanda,
dakkhiṇā dāyakato ceva visujjhati paṭiggāhakato ca? idhānanda, dāyako ca hoti
sīlavā kalyāṇadhammo, paṭiggāhakā ca honti sīlavanto kalyāṇadhammā : evaṃ kho, ānanda, dakkhiṇā dāyakato ceva visujjhati
paṭiggāhakato ca. Imā kho, ānanda, catasso dakkhiṇā visuddhiyoti. Idamavoca Bhagavā.
Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā :
382.
Dhammena
laddhaṃ [laddhā (sī. pī.)] supasannacitto.
Abhisaddahaṃ
kammaphalaṃ uḷāraṃ,
Sā
dakkhiṇā dāyakato visujjhati..
''Yo
dussīlo sīlavantesu dadāti dānaṃ,
Adhammena
laddhaṃ appasannacitto.
Anabhisaddahaṃ
kammaphalaṃ uḷāraṃ,
Sā
dakkhiṇā paṭiggāhakato visujjhati..
''Yo
dussīlo dussīlesu dadāti dānaṃ,
Adhammena
laddhaṃ appasannacitto.
Na
taṃ dānaṃ vipulapphalanti brūmi..
''Yo
sīlavā sīlavantesu dadāti dānaṃ,
Dhammena
laddhaṃ supasannacitto.
Abhisaddahaṃ
kammaphalaṃ uḷāraṃ,
Taṃ
ve dānaṃ vipulapphalanti brūmi [sā dakkhiṇā nevubhato visujjhati (sī. pī.)]..
''Yo
vītarāgo vītarāgesu dadāti dānaṃ,
Dhammena
laddhaṃ supasannacitto.
Taṃ
ve dānaṃ āmisadānānamagga [taṃ ve dānaṃ vipulanti brūmi (sī.)] nti..
Dakkhiṇāvibhaṅgasuttaṃ niṭṭhitaṃ
dvādasamaṃ.
Vibhaṅgavaggo niṭṭhito
catuttho.
Tassuddānaṃ
:
Bhaddekānandakaccāna,
lomasakaṅgiyāsubho.
Mahākammasaḷāyatanavibhaṅgā,
uddesaaraṇā dhātu saccaṃ..
Dakkhiṇāvibhaṅgasuttanti.
-ooOoo-
142. Dakkhiṇāvibhaṅgasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
376. Evaṃ me sutanti
dakkhiṇāvibhaṅgasuttaṃ. Tattha mahāpajāpati gotamīti gotamīti
gottaṃ. Nāmakaraṇadivase panassā laddhasakkārā brāhmaṇā lakkhaṇasampattiṃ disvā
– ‘‘sace ayaṃ dhītaraṃ labhissati, cakkavattirañño aggamahesī bhavissati. Sace
puttaṃ labhissati, cakkavattirājā bhavissatīti ubhayathāpi mahatīyevassā pajā
bhavissatī’’ti byākariṃsu. Athassā mahāpajāpatīti nāmaṃ akaṃsu. Idha
pana gottena saddhiṃ saṃsanditvā mahāpajāpatigotamīti vuttaṃ. Navanti
ahataṃ. Sāmaṃ vāyitanti na sahattheneva vāyitaṃ, ekadivasaṃ pana dhātigaṇaparivutā
sippikānaṃ vāyanaṭṭhānaṃ āgantvā vemakoṭiṃ gahetvā vāyanākāraṃ akāsi. Taṃ
sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Kadā pana gotamiyā
bhagavato dussayugaṃ dātuṃ cittaṃ uppannanti. Abhisambodhiṃ patvā paṭhamagamanena
kapilapuraṃ āgatakāle. Tadā hi piṇḍāya paviṭṭhaṃ satthāraṃ gahetvā
suddhodanamahārājā sakaṃ nivesanaṃ pavesesi, atha bhagavato rūpasobhaggaṃ disvā
mahāpajāpatigotamī cintesi – ‘‘sobhati vata me puttassa attabhāvo’’ti. Athassā
balavasomanassaṃ uppajji. Tato cintesi – ‘‘mama puttassa ekūnatiṃsa vassāni
agāramajjhe vasantassa antamaso mocaphalamattampi mayā dinnakameva ahosi,
idānipissa cīvarasāṭakaṃ dassāmī’’ti. ‘‘Imasmiṃ kho pana rājagehe bahūni
mahagghāni vatthāni atthi, tāni maṃ na tosenti, sahatthā katameva maṃ toseti,
sahatthā katvā dassāmī’’ti cittaṃ uppādesi.
Athantarāpaṇā kappāsaṃ
āharāpetvā sahattheneva pisitvā pothetvā sukhumasuttaṃ kantitvā antovatthusmiṃyeva
sālaṃ kārāpetvā sippike pakkosāpetvā sippikānaṃ attano
paribhogakhādanīyabhojanīyameva datvā vāyāpesi, kālānukālañca dhātigaṇaparivutā
gantvā vemakoṭiṃ aggahesi. Niṭṭhitakāle sippikānaṃ mahāsakkāraṃ katvā dussayugaṃ
gandhasamugge pakkhipitvā vāsaṃ gāhāpetvā – ‘‘mayhaṃ puttassa cīvarasāṭakaṃ
gahetvā gamissāmī’’ti rañño ārocesi. Rājā maggaṃ paṭiyādāpesi, vīthiyo
sammajjitvā puṇṇaghaṭe ṭhapetvā dhajapaṭākā ussāpetvā rājagharadvārato paṭṭhāya
yāva nigrodhārāmā maggaṃ paṭiyādāpetvā pupphābhikiṇṇaṃ akaṃsu. Mahāpajāpatipi
sabbālaṅkāraṃ alaṅkaritvā dhātigaṇaparivutā samuggaṃ sīse ṭhapetvā bhagavato
santikaṃ gantvā idaṃ me, bhante, navaṃ dussayugantiādimāha.
Dutiyampi khoti ‘‘saṅghe gotami dehī’’ti vutte
– ‘‘pahomahaṃ, bhante, dussakoṭṭhāgārato bhikkhusatassāpi bhikkhusahassassāpi
bhikkhusatasahassassāpi cīvaradussāni dātuṃ, idaṃ pana me bhagavantaṃ uddissa
sāmaṃ kantaṃ sāmaṃ vāyitaṃ, taṃ me, bhante, bhagavā paṭiggaṇhātū’’ti
nimantayamānā āha. Evaṃ yāvatatiyaṃ yāci, bhagavāpi paṭikkhipiyeva.
Kasmā pana bhagavā
attano diyyamānaṃ bhikkhusaṅghassa dāpetīti? Mātari anukampāya. Evaṃ kirassa
ahosi – ‘‘imissā maṃ ārabbha pubbacetanā muñcacetanā paracetanāti tisso cetanā
uppannā, bhikkhusaṅghampissā ārabbha uppajjantu, evamassā cha cetanā ekato
hutvā dīgharattaṃ hitāya sukhāya pavattissantī’’ti. Vitaṇḍavādī panāha – ‘‘saṅghe
dinnaṃ mahapphalanti tasmā evaṃ vutta’’nti. So vattabbo – ‘‘kiṃ tvaṃ satthu
dinnato saṅghe dinnaṃ mahapphalataraṃ vadasī’’ti āma vadāmīti. Suttaṃ āharāti.
Saṅghe gotami dehi, saṅghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṅgho cāti. Kiṃ
panassa suttassa ayameva atthoti? Āma ayamevāti. Yadi evaṃ ‘‘tena hānanda,
vighāsādānaṃ pūvaṃ dehī’’ti ca (pāci. 269) ‘‘tena hi tva, kaccāna, vighāsādānaṃ
guḷaṃ dehī’’ti (mahāva. 284) ca vacanato vighāsādānaṃ dinnaṃ mahapphalatarañca
bhaveyya. Evampi hi ‘‘satthā attano diyyamānaṃ dāpetī’’ti.
Rājarājamahāmattādayopi attano āgataṃ paṇṇākāraṃ hatthigopakādīnaṃ dāpenti, te
rājādīhi mahantatarā bhaveyyuṃ. Tasmā mā evaṃ gaṇha –
‘‘Nayimasmiṃ loke
parasmiṃ vā pana,
Buddhena seṭṭho
sadiso vā vijjati;
Yamāhuneyyānamaggataṃ
gato,
Puññatthikānaṃ
vipulaphalesina’’nti. –
Vacanato hi satthārā
uttaritaro dakkhiṇeyyo nāma natthi. Evamassā cha cetanā ekato hutvā dīgharattaṃ
hitāya sukhāya bhavissantīti sandhāya yāvatatiyaṃ paṭibāhitvā saṅghassa dāpesi.
Pacchimāya janatāya
saṅghe cittīkārajananatthaṃ cāpi evamāha. Evaṃ kirassa ahosi – ‘‘ahaṃ na ciraṭṭhitiko,
mayhaṃ pana sāsanaṃ bhikkhusaṅghe patiṭṭhahissati, pacchimā janatā saṅghe
cittīkāraṃ janetū’’ti yāvatatiyaṃ paṭibāhitvā saṅghassa dāpesi. Evañhi sati –
‘‘satthā attano diyyamānampi saṅghassa dāpesi, saṅgho nāma dakkhiṇeyyo’’ti
pacchimā janatā saṅghe cittīkāraṃ uppādetvā cattāro paccaye dātabbe maññissati,
saṅgho catūhi paccayehi akilamanto buddhavacanaṃ uggahetvā samaṇadhammaṃ
karissati. Evaṃ mama sāsanaṃ pañca vassasahassāni ṭhassatīti. ‘‘Paṭiggaṇhātu,
bhante, bhagavā’’ti vacanatopi cetaṃ veditabbaṃ ‘‘satthārā uttaritaro dakkhiṇeyyo
nāma natthī’’ti. Na hi ānandattherassa mahāpajāpatiyā āghāto vā veraṃ vā atthi.
Na thero – ‘‘tassā dakkhiṇā mā mahapphalā ahosī’’ti icchati. Paṇḍito hi thero
bahussuto sekkhapaṭisambhidāpatto, so satthu dinnassa mahapphalabhāve
sampassamānova paṭiggaṇhātu, bhante, bhagavāti gahaṇatthaṃ yāci.
Puna vitaṇḍavādī āha –
‘‘saṅghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṅgho cā’’ti vacanato satthā saṅghapariyāpanno
vāti. So vattabbo – ‘‘jānāsi pana tvaṃ kati saraṇāni, kati aveccappasādā’’ti
jānanto tīṇīti vakkhati, tato vattabbo – tava laddhiyā satthu saṅghapariyāpannattā
dveyeva honti. Evaṃ sante ca – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, imehi tīhi saraṇagamanehi
pabbajjaṃ upasampada’’nti (mahāva. 34) evaṃ anuññātā pabbajjāpi upasampadāpi na
ruhati. Tato tvaṃ neva pabbajito asi, na gihi. Sammāsambuddhe ca gandhakuṭiyaṃ
nisinne bhikkhū uposathampi pavāraṇampi saṅghakammānipi karonti, tāni satthu saṅghapariyāpannattā
kuppāni bhaveyyuṃ, na ca honti. Tasmā na vattabbametaṃ ‘‘satthā saṅghapariyāpanno’’ti.
377. Āpādikāti saṃvaḍḍhikā,
tumhākaṃ hatthapādesu hatthapādakiccaṃ asādhentesu hatthe ca pāde ca vaḍḍhetvā
paṭijaggikāti attho. Posikāti divasassa dve tayo vāre nhāpetvā bhojetvā
pāyetvā tumhe posesi. Thaññaṃ pāyesīti nandakumāro kira bodhisattato
katipāheneva daharo, tasmiṃ jāte mahāpajāpati attano puttaṃ dhātīnaṃ datvā sayaṃ
bodhisattassa dhātikiccaṃ sādhayamānā attano thaññaṃ pāyesi. Taṃ sandhāya thero
evamāha. Iti mahāpajāpatiyā bahūpakārataṃ kathetvā idāni tathāgatassa
bahūpakārataṃ dassento bhagavāpi, bhantetiādimāha. Tattha bhagavantaṃ,
bhante, āgammāti bhagavantaṃ paṭicca nissāya sandhāya.
378. Atha bhagavā dvīsu upakāresu
atirekataraṃ anumodanto evametantiādimāha. Tattha yaṃ hānanda,
puggalo puggalaṃ āgammāti yaṃ ācariyapuggalaṃ antevāsikapuggalo āgamma. Imassānanda,
puggalassa iminā puggalenāti imassa ācariyapuggalassa iminā
antevāsikapuggalena. Na suppaṭikāraṃ vadāmīti paccūpakāraṃ na sukaraṃ
vadāmi, abhivādanādīsu ācariyaṃ disvā abhivādanakaraṇaṃ abhivādanaṃ
nāma. Yasmiṃ vā disābhāge ācariyo vasati, iriyāpathe vā kappento tadabhimukho
vanditvā gacchati, vanditvā nisīdati, vanditvā nipajjati, ācariyaṃ pana
dūratova disvā paccuṭṭhāya paccuggamanakaraṇaṃ paccuṭṭhānaṃ nāma.
Ācariyaṃ pana disvā añjaliṃ paggayha sīse ṭhapetvā ācariyaṃ namassati, yasmiṃ
vā disābhāge so vasati, tadabhimukhopi tatheva namassati, gacchantopi ṭhitopi
nisinnopi añjaliṃ paggayha namassatiyevāti idaṃ añjalikammaṃ nāma.
Anucchavikakammassa pana karaṇaṃ sāmīcikammaṃ nāma. Cīvarādīsu cīvaraṃ
dento na yaṃ vā taṃ vā deti, mahagghaṃ satamūlikampi pañcasatamūlikampi
sahassamūlikampi detiyeva. Piṇḍapātādīsupi eseva nayo. Kiṃ bahunā, catūhi paṇītapaccayehi
cakkavāḷantaraṃ pūretvā sinerupabbatena kūṭaṃ gahetvā dentopi ācariyassa
anucchavikaṃ kiriyaṃ kātuṃ na sakkotiyeva.
379. Cuddasa kho panimāti
kasmā ārabhi? Idaṃ suttaṃ pāṭipuggalikaṃ dakkhiṇaṃ ārabbha samuṭṭhitaṃ.
Ānandattheropi ‘‘paṭiggaṇhātu, bhante, bhagavā’’ti pāṭipuggalikadakkhiṇaṃyeva
samādapeti, cuddasasu ca ṭhānesu dinnadānaṃ pāṭipuggalikaṃ nāma hotīti dassetuṃ
imaṃ desanaṃ ārabhi. Ayaṃ paṭhamāti ayaṃ dakkhiṇā guṇavasenapi paṭhamā
jeṭṭhakavasenapi. Ayañhi paṭhamā aggā jeṭṭhikā, imissā dakkhiṇāya pamāṇaṃ nāma
natthi. Dutiyatatiyāpi paramadakkhiṇāyeva, sesā paramadakkhiṇabhāvaṃ na pāpuṇanti.
Bāhirake kāmesu vītarāgeti kammavādikiriyavādimhi lokiyapañcābhiññe. Puthujjanasīlavanteti
puthujjanasīlavā nāma gosīladhātuko hoti, asaṭho amāyāvī paraṃ apīḷetvā
dhammena samena kasiyā vā vaṇijjāya vā jīvikaṃ kappetā. Puthujjanadussīleti
puthujjanadussīlā nāma kevaṭṭamacchabandhādayo paraṃ pīḷāya jīvikaṃ kappetā.
Idāni pāṭipuggalikadakkhiṇāya
vipākaṃ paricchindanto tatrānandātiādimāha. Tattha tiracchānagateti
yaṃ guṇavasena upakāravasena posanatthaṃ dinnaṃ, idaṃ na gahitaṃ. Yampi ālopaaḍḍhaālopamattaṃ
dinnaṃ, tampi na gahitaṃ. Yaṃ pana sunakhasūkarakukkuṭakākādīsu yassa kassaci
sampattassa phalaṃ paṭikaṅkhitvā yāvadatthaṃ dinnaṃ, idaṃ sandhāya vuttaṃ
‘‘tiracchānagate dānaṃ datvā’’ti. Sataguṇāti satānisaṃsā. Pāṭikaṅkhitabbāti
icchitabbā. Idaṃ vuttaṃ hoti – ayaṃ dakkhiṇā āyusataṃ vaṇṇasataṃ sukhasataṃ balasataṃ
paṭibhānasatanti pañca ānisaṃsasatāni deti, attabhāvasate āyuṃ deti, vaṇṇaṃ,
sukhaṃ, balaṃ, paṭibhānaṃ deti, nipparitasaṃ karoti. Bhavasatepi vutte ayameva
attho. Iminā upāyena sabbattha nayo netabbo.
Sotāpattiphalasacchikiriyāya
paṭipanneti ettha heṭṭhimakoṭiyā
tisaraṇaṃ gato upāsakopi sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno nāma, tasmiṃ
dinnadānampi asaṅkhyeyyaṃ appameyyaṃ. Pañcasīle patiṭṭhitassa tato uttari
mahapphalaṃ, dasasīle patiṭṭhitassa tato uttari, tadahupabbajitassa sāmaṇerassa
tato uttari, upasampannabhikkhuno tato uttari, upasampannasseva
vattasampannassa tato uttari, vipassakassa tato uttari, āraddhavipassakassa
tato uttari, uttamakoṭiyā pana maggasamaṅgī sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno
nāma. Etassa dinnadānaṃ tato uttari mahapphalameva.
Kiṃ pana maggasamaṅgissa
sakkā dānaṃ dātunti? Āma sakkā. Āraddhavipassako hi pattacīvaramādāya gāmaṃ piṇḍāya
pavisati, tassa gehadvāre ṭhitassa hatthato pattaṃ gahetvā khādanīyabhojanīyaṃ
pakkhipanti. Tasmiṃ khaṇe bhikkhuno maggavuṭṭhānaṃ hoti, idaṃ dānaṃ maggasamaṅgino
dinnaṃ nāma hoti. Atha vā panesa āsanasālāya nisinno hoti, manussā gantvā patte
khādanīyabhojanīyaṃ ṭhapenti, tasmiṃ khaṇe tassa maggavuṭṭhānaṃ hoti, idampi
dānaṃ maggasamaṅgino dinnaṃ nāma. Atha vā panassa vihāre vā āsanasālāya vā
nisinnassa upāsakā pattaṃ ādāya attano gharaṃ gantvā khādanīyabhojanīyaṃ
pakkhipanti, tasmiṃ khaṇe tassa maggavuṭṭhānaṃ hoti, idampi dānaṃ maggasamaṅgino
dinnaṃ nāma. Tattha soṇḍiyaṃ udakassa viya sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanne
dinnadānassa asaṅkhyeyyatā veditabbā. Tāsu tāsu mahānadīsu mahāsamudde ca
udakassa viya sotāpannādīsu dinnadānassa uttaritaravasena asaṅkhyeyyatā
veditabbā. Pathaviyā khayamaṇḍalamatte padese paṃsuṃ ādiṃ katvā yāva
mahāpathaviyā paṃsuno appameyyatāyapi ayamattho dīpetabbo.
380. Satta kho panimāti kasmā
ārabhi? ‘‘Saṅghe gotami dehi, saṅghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṅgho
cā’’ti hi vuttaṃ, tattha sattasu ṭhānesu dinnadānaṃ saṅghe dinnaṃ nāma hotīti
dassetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha buddhappamukhe ubhatosaṅgheti ekato
bhikkhusaṅgho, ekato bhikkhunisaṅgho, satthā majjhe nisinno hotīti ayaṃ
buddhappamukho ubhatosaṅgho nāma. Ayaṃ paṭhamāti imāya dakkhiṇāya
samappamāṇā dakkhiṇā nāma natthi. Dutiyadakkhiṇādayo pana etaṃ paramadakkhiṇaṃ
na pāpuṇanti.
Kiṃ pana tathāgate
parinibbute buddhappamukhassa ubhatosaṅghassa dānaṃ dātuṃ sakkāti? Sakkā. Kathaṃ?
Ubhatosaṅghassa hi pamukhe sadhātukaṃ paṭimaṃ āsane ṭhapetvā ādhārakaṃ ṭhapetvā
dakkhiṇodakaṃ ādiṃ katvā sabbaṃ satthu paṭhamaṃ datvā ubhatosaṅghassa dātabbaṃ,
evaṃ buddhappamukhassa ubhatosaṅghassa dānaṃ dinnaṃ nāma hoti. Tattha yaṃ
satthu dinnaṃ, taṃ kiṃ kātabbanti? Yo satthāraṃ paṭijaggati vattasampanno
bhikkhu, tassa dātabbaṃ. Pitusantakañhi puttassa pāpuṇāti, bhikkhusaṅghassa
dātumpi vaṭṭati, sappitelāni pana gahetvā dīpā jalitabbā, sāṭakaṃ gahetvā paṭākā
āropetabbāti. Bhikkhusaṅgheti aparicchinnakamahābhikkhusaṅghe.
Bhikkhunisaṅghepi eseva nayo.
Gotrabhunoti gottamattakameva anubhavamānā,
nāmamattasamaṇāti attho. Kāsāvakaṇṭhāti kāsāvakaṇṭhanāmakā. Te kira ekaṃ
kāsāvakhaṇḍaṃ hatthe vā gīvāya vā bandhitvā vicarissanti. Gharadvāraṃ pana tesaṃ
puttabhariyā kasivaṇijjādikammāni ca pākatikāneva bhavissanti. Tesu
dussīlesu saṅghaṃ uddissa dānaṃ dassantīti ettha dussīlasaṅghanti na vuttaṃ.
Saṅgho hi dussīlo nāma natthi. Dussīlā pana upāsakā tesu dussīlesu bhikkhusaṅghaṃ
uddissa saṅghassa demāti dānaṃ dassanti. Iti bhagavatā buddhappamukhe saṅghe
dinnadakkhiṇāpi guṇasaṅkhāya asaṅkhyeyyāti vuttaṃ. Kāsāvakaṇṭhasaṅghe
dinnadakkhiṇāpi guṇasaṅkhāyeva asaṅkhyeyyāti vuttā. Saṅghagatā dakkhiṇā hi saṅghe
cittīkāraṃ kātuṃ sakkontassa hoti, saṅghe pana cittīkāro dukkaro hoti.
Yo hi saṅghagataṃ
dakkhiṇaṃ dassāmīti deyyadhammaṃ paṭiyādetvā vihāraṃ gantvā, – ‘‘bhante, saṅghaṃ
uddissa ekaṃ theraṃ dethā’’ti vadati, atha saṅghato sāmaṇeraṃ labhitvā ‘‘sāmaṇero
me laddho’’ti aññathattaṃ āpajjati, tassa dakkhiṇā saṅghagatā na hoti.
Mahātheraṃ labhitvāpi ‘‘mahāthero me laddho’’ti somanassaṃ uppādentassāpi na
hotiyeva. Yo pana sāmaṇeraṃ vā upasampannaṃ vā daharaṃ vā theraṃ vā bālaṃ vā paṇḍitaṃ
vā yaṃkiñci saṅghato labhitvā nibbematiko hutvā saṅghassa demīti saṅghe
cittīkāraṃ kātuṃ sakkoti, tassa dakkhiṇā saṅghagatā nāma hoti.
Parasamuddavāsino kira evaṃ karonti.
Tattha hi eko
vihārasāmi kuṭumbiko ‘‘saṅghagataṃ dakkhiṇaṃ dassāmī’’ti saṅghato uddisitvā ekaṃ
bhikkhuṃ dethāti yāci. So ekaṃ dussīlabhikkhuṃ labhitvā nisinnaṭṭhānaṃ
opuñjāpetvā āsanaṃ paññāpetvā upari vitānaṃ bandhitvā gandhadhūmapupphehi
pūjetvā pāde dhovitvā telena makkhetvā buddhassa nipaccakāraṃ karonto viya saṅghe
cittīkārena deyyadhammaṃ adāsi. So bhikkhu pacchābhattaṃ vihārajagganatthāya
kudālakaṃ dethāti gharadvāraṃ āgato, upāsako nisinnova kudālaṃ pādena khipitvā
‘‘gaṇhā’’ti adāsi. Tamenaṃ manussā āhaṃsu – ‘‘tumhehi pātova etassa katasakkāro
vattuṃ na sakkā, idāni upacāramattakampi natthi, kiṃ nāmeta’’nti. Upāsako –
‘‘saṅghassa so ayyā cittīkāro, na etassā’’ti āha. Kāsāvakaṇṭhasaṅghassa
dinnadakkhiṇaṃ pana ko sodhetīti? Sāriputtamoggallānādayo asīti mahātherā
sodhentīti. Apica therā ciraparinibbutā, there ādiṃ katvā yāvajja dharamānā khīṇāsavā
sodhentiyeva.
Na tvevāhaṃ, ānanda, kenaci pariyāyena saṅghagatāya
dakkhiṇāyāti ettha atthi buddhappamukho saṅgho, atthi etarahi saṅgho, atthi
anāgate kāsāvakaṇṭhasaṅgho. Buddhappamukho saṅgho etarahi saṅghena na
upanetabbo, etarahi saṅgho anāgate kāsāvakaṇṭhasaṅghena saddhiṃ na upanetabbo.
Tena teneva samayena kathetabbaṃ. Saṅghato uddisitvā gahitasamaṇaputhujjano hi
pāṭipuggaliko sotāpanno, saṅghe cittīkāraṃ kātuṃ sakkontassa puthujjanasamaṇe
dinnaṃ mahapphalataraṃ. Uddisitvā gahito sotāpanno pāṭipuggaliko
sakadāgāmītiādīsupi eseva nayo. Saṅghe cittīkāraṃ kātuṃ sakkontassa hi khīṇāsave
dinnadānato uddisitvā gahite dussīlepi dinnaṃ mahapphalatarameva. Yaṃ pana
vuttaṃ ‘‘sīlavato kho, mahārāja, dinnaṃ mahapphalaṃ, no tathā dussīle’’ti, taṃ
imaṃ nayaṃ pahāya ‘‘catasso kho imānanda, dakkhiṇā visuddhiyo’’ti imasmiṃ
catukke daṭṭhabbaṃ.
381. Dāyakato visujjhatīti
mahapphalabhāvena visujjhati, mahapphalā hotīti attho. Kalyāṇadhammoti
sucidhammo, na pāpadhammo. Dāyakato visujjhatīti cettha
vessantaramahārājā kathetabbo. So hi jūjakabrāhmaṇassa dārake datvā pathaviṃ
kampesi.
Paṭiggāhakato visujjhatīti ettha kalyāṇīnadīmukhadvāravāsikevaṭṭo
kathetabbo. So kira dīghasomattherassa tikkhattumpi piṇḍapātaṃ datvā maraṇamañce
nipanno ‘‘ayyassa maṃ dīghasomattherassa dinnapiṇḍapāto uddharatī’’ti āha.
Neva dāyakatoti ettha vaḍḍhamānavāsiluddako
kathetabbo. So kira petadakkhiṇaṃ dento ekassa dussīlasseva tayo vāre adāsi,
tatiyavāre ‘‘amanusso dussīlo maṃ vilumpatī’’ti viravi, ekassa
sīlavantabhikkhuno datvā pāpitakāleyevassa pāpuṇi.
Dāyakato ceva
visujjhatīti ettha asadisadānaṃ
kathetabbaṃ.
Sā dakkhiṇā dāyakato
visujjhatīti ettha yathā nāma
cheko kassako asārampi khettaṃ labhitvā samaye kasitvā paṃsuṃ apanetvā
sārabījāni patiṭṭhapetvā rattindivaṃ ārakkhe pamādaṃ anāpajjanto aññassa
sārakhettato adhikataraṃ dhaññaṃ labhati, evaṃ sīlavā dussīlassa datvāpi phalaṃ
mahantaṃ adhigacchatīti. Iminā upāyena sabbapadesu visujjhanaṃ veditabbaṃ.
Vītarāgo vītarāgesūti ettha vītarāgo nāma
anāgāmī, arahā pana ekantavītarāgova, tasmā arahatā arahato dinnadānameva aggaṃ.
Kasmā? Bhavālayassa bhavapatthanāya abhāvato. Nanu khīṇāsavo dānaphalaṃ na
saddahatīti? Dānaphalaṃ saddahantā khīṇāsavasadisā na honti. Khīṇāsavena
katakammaṃ pana nicchandarāgattā kusalaṃ vā akusalaṃ vā na hoti, kiriyaṭṭhāne
tiṭṭhati, tenevassa dānaṃ aggaṃ hotīti vadanti.
Kiṃ pana
sammāsambuddhena sāriputtattherassa dinnaṃ mahapphalaṃ, udāhu sāriputtattherena
sammāsambuddhassa dinnanti. Sammāsambuddhena sāriputtattherassa dinnaṃ
mahapphalanti vadanti. Sammāsambuddhañhi ṭhapetvā añño dānassa vipākaṃ jānituṃ
samattho nāma natthi. Dānañhi catūhi sampadāhi dātuṃ sakkontassa tasmiṃyeva
attabhāve vipākaṃ deti. Tatrimā sampadā – deyyadhammassa dhammena samena paraṃ
apīḷetvā uppannatā, pubbacetanādivasena cetanāya mahattatā, khīṇāsavabhāvena guṇātirekatā,
taṃdivasaṃ nirodhato vuṭṭhitabhāvena vatthusampannatāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Dakkhiṇāvibhaṅgasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Catutthavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Phải chăng sự kiện ghi nhận trong bài kinh nầy xẩy ra trước khi tôn giả Ananda trở thành thị giả chính thức của Đức Thế Tôn?
Thảo luận 2. Câu Phật ngôn: “Này Gotamī, hãy cúng dường Tăng chúng. Bà cúng dường Tăng chúng, thời Ta sẽ được cung kính, và cả Tăng chúng cũng vậy. (saṅghe, gotami, dehi. saṅghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṅgho cā ti)” phải chăng cho thấy bất cứ khi nào cúng dường đến tập thể Tăng chúng cũng có nghĩa là thể hiện sự tôn kính đối với Đức Phật? - TT Pháp Tân
Thảo luận 2. Câu Phật ngôn: “Này Gotamī, hãy cúng dường Tăng chúng. Bà cúng dường Tăng chúng, thời Ta sẽ được cung kính, và cả Tăng chúng cũng vậy. (saṅghe, gotami, dehi. saṅghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṅgho cā ti)” phải chăng cho thấy bất cứ khi nào cúng dường đến tập thể Tăng chúng cũng có nghĩa là thể hiện sự tôn kính đối với Đức Phật? - TT Pháp Tân
Thảo luận 3. Câu Phật ngôn: Thật là như vậy, này Ānanda! Thật là như vậy, này Ānanda! Này Ānanda, nếu do nhờ một người, mà một người khác được quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, thời này Ānanda, Ta nói rằng người này không có một đền ơn nào xứng đáng đối với người kia về đảnh lễ, đứng đậy, chấp tay, về làm những việc thích hợp và về dâng cúng các sự cúng dường như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
(evametaṃ, ānanda. yaṃ hānanda, puggalo puggalaṃ āgamma buddhaṃ saraṇaṃ gato hoti, dhammaṃ saraṇaṃ gato hoti, saṅghaṃ saraṇaṃ gato hoti, imassānanda, puggalassa iminā puggalena na suppatikāraṃ vadāmi, yadidaṃ abhivādana-paccuṭṭhānāñjalikamma sāmīcikammacīvarapiṇḍapātasenāsanagilā- nappaccayabhesajjaparikkhārānuppadānena).
Phải chăng cho thấy một người giúp người khác thành tựu chánh kiến là sự báo ân và thi ân cao trọng nhất? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 4. Câu Phật ngôn:Bố thí những vị ngoại học đã ly tham trong các dục vọng là cúng dường thứ mười một, phân loại theo hạng người (ayaṃ dasamī pāṭipuggalikā dakkhiṇā. bāhirake kāmesu vītarāge dānaṃ deti) Bố thí những phàm phu gìn giữ giới luật là cúng dường thứ mười hai, phân loại theo hạng người. Phải chăng người ngoại học (bāhirake) chỉ cho tu sĩ ngoại đạo? - TT Pháp Tân
Thảo luận 5. Câu Phật ngôn:Nhưng này Ānanda, trong thời gian tương lai sẽ có những hạng chuyển tánh (gotrabhuno), với những áo cà-sa vàng xung quanh cổ, theo ác giới, ác pháp, và cuộc bố thí đối với chúng Tăng theo ác giới. Nhưng này Ānanda, khi Ta nói rằng cúng dường cho Tăng chúng là vô số và vô lượng, thời này Ānanda, Ta không có muốn nói rằng bất cứ phương tiện gì, một sự bố thí phân loại theo cá nhân lại có kết quả to lớn hơn đối với cúng dường cho Tăng chúng.
(bhavissanti kho panānanda, anāgatamaddhānaṃ gotrabhuno kāsāvakaṇṭhā dussīlā pāpadhammā. tesu dussīlesu saṅghaṃ uddissa dānaṃ dassanti. tadāpāhaṃ, ānanda, saṅghagataṃ dakkhiṇaṃ asaṅkheyyaṃ appameyyaṃ vadāmi. na tvevāhaṃ, ānanda, kenaci pariyāyena saṅghagatāya dakkhiṇāya pāṭipuggalikaṃ dānaṃ mahapphalataraṃ vadāmi)nên được hiểu thế nào? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 6. Câu Phật ngôn: Này Ānanda, có bốn sự thanh tịnh của các loại cúng dường. Thế nào là bốn? Này Ānanda, có loại cúng dường được thanh tịnh bởi người cho, nhưng không bởi người nhận. Này Ānanda, có loại cúng dường được thanh tịnh bởi người nhận, nhưng không bởi người cho. Này Ānanda, có loại cúng dường không được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi người nhận. Này Ānanda, có loại cúng dường được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi người nhận.
(catasso kho imā, ānanda, dakkhiṇā visuddhiyo. katamā catasso? atthānanda, dakkhiṇā dāyakato visujjhati no paṭiggāhakato. atthānanda, dakkhiṇā paṭiggāhakato visujjhati no dāyakato. atthānanda, dakkhiṇā neva dāyakato visujjhati no paṭiggāhakato. atthānanda, dakkhiṇā dāyakato ceva visujjhati paṭiggāhakato ca). Như vậy phải chăng người bố thí cúng dường có thể đơn phương thanh tịnh hoá phước sự? - TT Pháp Tân
Thảo luận 4. Câu Phật ngôn:Bố thí những vị ngoại học đã ly tham trong các dục vọng là cúng dường thứ mười một, phân loại theo hạng người (ayaṃ dasamī pāṭipuggalikā dakkhiṇā. bāhirake kāmesu vītarāge dānaṃ deti) Bố thí những phàm phu gìn giữ giới luật là cúng dường thứ mười hai, phân loại theo hạng người. Phải chăng người ngoại học (bāhirake) chỉ cho tu sĩ ngoại đạo? - TT Pháp Tân
Thảo luận 5. Câu Phật ngôn:Nhưng này Ānanda, trong thời gian tương lai sẽ có những hạng chuyển tánh (gotrabhuno), với những áo cà-sa vàng xung quanh cổ, theo ác giới, ác pháp, và cuộc bố thí đối với chúng Tăng theo ác giới. Nhưng này Ānanda, khi Ta nói rằng cúng dường cho Tăng chúng là vô số và vô lượng, thời này Ānanda, Ta không có muốn nói rằng bất cứ phương tiện gì, một sự bố thí phân loại theo cá nhân lại có kết quả to lớn hơn đối với cúng dường cho Tăng chúng.
(bhavissanti kho panānanda, anāgatamaddhānaṃ gotrabhuno kāsāvakaṇṭhā dussīlā pāpadhammā. tesu dussīlesu saṅghaṃ uddissa dānaṃ dassanti. tadāpāhaṃ, ānanda, saṅghagataṃ dakkhiṇaṃ asaṅkheyyaṃ appameyyaṃ vadāmi. na tvevāhaṃ, ānanda, kenaci pariyāyena saṅghagatāya dakkhiṇāya pāṭipuggalikaṃ dānaṃ mahapphalataraṃ vadāmi)nên được hiểu thế nào? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 6. Câu Phật ngôn: Này Ānanda, có bốn sự thanh tịnh của các loại cúng dường. Thế nào là bốn? Này Ānanda, có loại cúng dường được thanh tịnh bởi người cho, nhưng không bởi người nhận. Này Ānanda, có loại cúng dường được thanh tịnh bởi người nhận, nhưng không bởi người cho. Này Ānanda, có loại cúng dường không được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi người nhận. Này Ānanda, có loại cúng dường được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi người nhận.
(catasso kho imā, ānanda, dakkhiṇā visuddhiyo. katamā catasso? atthānanda, dakkhiṇā dāyakato visujjhati no paṭiggāhakato. atthānanda, dakkhiṇā paṭiggāhakato visujjhati no dāyakato. atthānanda, dakkhiṇā neva dāyakato visujjhati no paṭiggāhakato. atthānanda, dakkhiṇā dāyakato ceva visujjhati paṭiggāhakato ca). Như vậy phải chăng người bố thí cúng dường có thể đơn phương thanh tịnh hoá phước sự? - TT Pháp Tân
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment