Sunday, June 28, 2020

Bài học. Chủ Nhật, ngày 28 tháng 6, 2020

Thắng Pháp Abhidhamma
Giảng sư: TT Giác Đẳng

Giáo trình Thắng Pháp Abhidhamma NGÀY  28/6/2020 
Bài 4
Thắng Pháp Tạng trong Tam Tạng


Tam tạng (Tipitaka) là toàn bộ hệ thống kinh điển Phật giáo được kết tập và phân chia vào Đại Hội Kết Tập Giáo Điển ba tháng sau khi Đức Thế Tôn viên tịch tại Ràjagaha (Vương Xá Thành). Tam Tạng gồm có:
Luật Tạng (Vinayapitaka) chứa đựng những giới luật của cá nhân những tu sĩ và cộng đồng Tăng lữ thuộc cả hai tỳ kheo, tỳ kheo ni.
Kinh Tạng (Suttapitaka) chứa đựng những lời dạy của Đức Phật và những bậc cao đồ trong nhiều duyên sự khác nhau.
Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma) chứa đựng những giáo nghĩa được giảng theo giáo trình có hệ thống.

Nếu làm một so sánh thì cách trình bày pháp theo Kinh Tạng giống nhưng nói về các nhãn hiệu thuốc  Tylenol, Paracetamol còn nói theo Thắng Pháp Tạng giống như nói về hoạt chất acetaminophen trong các loại thuốc đó. Kinh Tạng thường được thuyết theo ngôn ngữ đại chúng và tuỳ căn  duyên. Thắng Pháp Tạng được thuyết theo ngôn ngữ kinh viện theo cách trường lớp.
Thắng Pháp Tạng gồm bảy bộ:

Bộ thứ nhất là Dhammasaṅgaṇī là bộ Chư Pháp Yếu Nghĩa (Ngài Tịnh Sự dịch là bộ Pháp Tụ) với nội dung bao gồm các từ vựng với định nghĩa theo Thắng Pháp Tạng. Tập sớ của bộ nầy là quyển Atthasàlini có thể xem gần giống như một quyển từ vựng của Thắng Pháp.

Bộ thứ hai được gọi là Vibhaṅga là bộ Chư Pháp Phân Tích (Ngài Tịnh Sự dịch là bộ Pháp Tụ) là bắt đầu từ tổng quan đi sâu vào chi pháp qua cách chia chẻ. Phương pháp nầy được xem rất phổ thông trong Tam Tạng Pàli và pháp hành tứ niệm xứ.

Bộ thứ ba được gọi là Dhātukathā là bộ Nguyên Tố Tổng Thuyết (Ngài Tịnh Sự dịch là bộ Nguyên Chất Ngữ) với sự trình bày từ nguyên tố đến kết cấu tổng thể đối ngược với cách trình bày của bộ Chư Pháp Phân Tích.

Bộ thứ tư được gọi là Puggalapaññatti là bộ Định Chế Sanh Loại  (Ngài Tịnh Sự dịch là bộ Nhân Chế Định) mang nội dung trình bày về các hạng người, nói rõ hơn là những cá tánh (personality). Mới đọc sơ qua thì nội dung bộ kinh nầy có vẻ như thuộc về Kinh Tạng hơn Thắng Pháp Tạng nhưng kỳ thật là cách trình bày con người qua sở hành với cá tánh khác biệt. Cả Kinh Tạng và Thắng Pháp Tạng không bao giờ có sự phân cách hoàn toàn.    

Bộ thứ năm là Kathāvatthu là bộ Giáo Nghĩa Truyền Thống (Ngài Tịnh Sự dịch là bộ Ngữ Tông) một tác phẩm biên soạn bởi Tôn giả Moggaliputtatissa được đưa vào kỳ Trùng Tuyên Giáo Điển kỳ III tại Patàliputta. Bộ sách nầy đưa ra những phản biện đối với những lập thuyết đi trái với kinh điển truyền thống. Đây là thời kỳ manh nha của các bộ phái để rồi hơn hai trăm năm sau chính thức ra đời Phật Giáo Phát Triển. Bộ kinh nầy mới đọc qua thì dường như không mang ngôn ngữ và trình bày của Thắng Pháp (Abhidhamma) nhưng lại là những cơ sở lý luận dựa trên Thắng Pháp. Chính vì vậy một số học giả Nhật Bản ngày nay cho rằng Phật giáo Nam Truyền chịu ảnh hưởng của Abhidhamma.

Bộ thứ sáu được gọi là Yamaka là bộ Biện Chứng Đối Trọng  (Ngài Tịnh Sự dịch là bộ Song Đối) căn bản là bộ sách về lý luận (logic) dựa trên phương pháp đối chứng. Tam Tạng Pàli không có một chuyên ngành về lý luận (nyàya) (như Phật giáo Đại Thừa có nhân minh luận) tuy vậy rãi rác trong Kinh Tạng vẫn có nhiều đoạn ghi lại những cơ sở lý luận (logic). Đây là bộ sách duy nhất trong Tam Tạng đưa ra những biện chứng pháp mặc dù tất cả dựa trên Thắng Pháp Abhidhamma.

Bộ thứ bảy được gọi là Paṭṭhāna là bộ Duyên Hệ Đại Toàn (Ngài Tịnh Sự dịch là bộ Đại Xứ) nói về sự tương quan của các pháp theo duyên hệ (paccaya) đây là bộ sách lớn nhất của Thắng Pháp Tạng và mang những ý nghĩa cũng như phân tích tế nhị nhất.

Thuật ngữ dhammakhandha thường được dịch là “pháp môn” như trong cụm từ “tám muôn bốn ngàn pháp môn” thường được hiểu như “phương pháp tu hành”. Kỳ thật thì không có cơ sở nào để nói rằng Đức Phật đã dạy 84.000 pháp tu. Trong Tam Tạng Pàli chữ dhammakhandha có chỉ cho đoạn kinh hay đoạn văn. Một bài kinh có nhiều đoạn văn nhưng có thể chỉ đề cập một pháp tu thôi. Tính về dhammakhandha thì số lượng trong Thắng Pháp Tạng nhiều bằng Luật Tạng và Kinh Tạng cộng lại. Tuy nhiên có nhiều dhammakhadha nhưng thường là rất ngắn nên nhìn qua sự đồ sộ của sách được in ấn thì Kinh Tạng lớn hơn Thắng Pháp Tạng và Luật Tạng.

 Nên thận trọng với câu nói thường được dịch từ câu Abhidhamma Sabhāva Gambhiro - Thắng Pháp ưu việt về trình bày pháp bản thể. Chữ sabhāva chỉ cho cách trình bày vĩ mô (micro). Thí dụ cũng nói về thuốc chúng ta thường nghe tên thuốc nầy, tên thuốc kia nhưng trong viện bào chế người ta nói về dược tính qua những hoạt chất (active ingredients) mới nghe rất xa lạ nhưng là cách nói chính xác nhất. Kinh Tạng cũng chứa đựng những điều rất vi diệu và cũng là bản thể của các pháp như uẩn, xứ, giới, đế nhưng quan ngôn ngữ marco.

 Một sinh viên đi vào các bộ môn thường có những tư liệu như từ điển, văn phạm, mỹ từ pháp … cho nhiều nhu cầu khác nhau. Một người học Thắng Pháp nếu biết sử dụng thì các bộ Thắng Pháp giúp ích nhiều. Không may đa số người học thường thấy khó sử dụng chánh tạng nên chỉ làm quen với những tác phẩm hậu tác.

Thắng Pháp Tạng giống như giáo trình dạy trường lớp hơn là sưu tập những bài pháp thường tìm thấy ở Kinh Tạng.
Trong bảy bộ của Thắng Pháp Tạng thì bộ thứ năm “Giáo Nghĩa Truyền Thống – Kathàvatthu” được đưa vào chánh tạng hơn hai trăm năm sau Phật viên tịch.
Trong Thắng Pháp Tạng vẫn hàm chứa nhiều khái niệm “rất Kinh Tạng” như một trong bộ Chư Pháp Yếu Nghĩa (Dhammasangini), bộ Định Chế Sanh Loại (Puggalapaññatti), Bộ Giáo Nghĩa Truyền Thống (Kathàvatthu)

Miến Điện là vùng đất thịnh hành môn Thắng Pháp Abhidhamma. Pháp Luân được thiết kết theo biểu đồ duyên hệ (paccaya) được trình bày trong bộ thứ bảy của Thắng Pháp Tạng cho thấy sự tôn vinh cao độ đối với giáo nghĩa nầy:

Bài học trước là: Thắng Pháp Tạng trong Tam Tạng
Bài học tiếp theo sẽ là: Bố cục của giáo trình Thắng Pháp.



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành



       
     


 III Trắc Nghiệm

No comments:

Post a Comment