Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: ĐĐ Pháp Tín
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 12/6/2020
150.
Kinh Nói Cho Dân Nagaravinda
(Nagaravindeyya
Sutta)
Như vầy tôi nghe:
Khi ghé ngang làng Nagaravinda,
Đức Thế Tôn đã dạy cho những người Bà la môn ở đó cách trả lời khi được hỏi bởi
các du sĩ ngoại đạo thế nào là một người đáng được cúng dường?. Lời dạy của Đức
Phật vừa là sự hướng dẫn cách trả lời vừa
là để người nghe lãnh hội thế nào là sự thanh tịnh nội tại. Hai khái niệm:
thanh tịnh và ứng cúng được xem là đỉnh điểm của văn hoá Bà la môn giáo. Chỉ có
Phạm thiên hay Thượng đế mới thanh tịnh tuyệt đối. Chỉ có đấng thanh tịnh tuyệt
đối mới được gọi là bậc ứng cúng. Những bà la môn trong là Nagaravinda vốn có túc
duyên lại ngưỡng kính Đức Phật. Khi nghe giảng dạy về sự không chấp trước đối với
căn, cảnh và thức thì phát tâm quy y Tam Bảo.
1197. Bậc đoạn tận
phiền não là bậc đáng cúng dường và để phiền não được đoạn tận cần thực tu, thực
chứng
Tôn giáo thường nhấn
mạnh ở niềm tin và lý tưởng. Đức Phật dạy rõ con đường dẫn đến giác ngộ giải
thoát y cứ trên sự thực hành cụ thể:
Môt thời Thế Tôn du
hành giữa dân chúng Kosala, cùng với Ðại chúng Tỷ-kheo và đi đến một làng
Bà- la-môn của dân chúng Kosala tên là Nagaravinda.
Các Bà-la-môn gia
chủ ở Nagaravinda được nghe như sau: "Sa-môn Gotama là Thích tử,
xuất gia từ gia tộc Sakka (Thích-ca), đang du hành giữa dân chúng Kosala,
cùng với Ðại chúng Tỷ-kheo và đã đến một làng Bà-la-môn của dân chúng
Kosala tên là Nagaravinda. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về
Tôn giả Gotama: "Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ
thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với
chúng Sa-môn, Bà- la-môn, các loài Trời và Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài
còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa. Ngài truyền dạy phạm hạnh
hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Lành thay nếu được yết kiến một A-la-hán
như vậy!"
Rồi các vị
Bà-la-môn gia chủ ở Nagaravinda đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, một số
người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên
những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên; một số
người chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số người
nói lên tên họ trước Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số người
im lặng ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với những Bà-la-môn gia chủ ở
Nagaravinda đang ngồi một bên:
Ố Này Gia chủ, nếu
những du sĩ ngoại đạo hỏi các Ông như sau: "Này Gia chủ, hạng
Sa-môn, Bà-la- môn nào không đáng tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng
dường?" Ðược hỏi vậy này các Gia chủ, các du sĩ ngoại đạo ấy
cần được trả lời như sau: "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với
các sắc do mắt nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội
tâm không tịch tịnh, sở hành thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp khi
thăng bằng, khi không thăng bằng. Những Sa-môn, Bà-la-môn như vậy không
đáng cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường. Vì sao vậy? Chúng tôi
đối với các sắc do mắt nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly
si, nội tâm không tịch tịnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp
khi thăng bằng, khi không thăng bằng, nhưng chúng tôi không thấy các vị
ấy hơn sở hành thăng bằng của chúng tôi. Do vậy các Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy không đáng được tôn trọng, cung kính, lễ bái, cúng dường.
Những vị Sa-môn,
Bà-la-môn nào, đối với các tiếng do tai nhận thức..., đối với các
hương do mũi nhận thức..., đối với các vị do lưỡi nhận thức...,
đối với các xúc do thân nhận thức..., đối với các pháp do ý nhận thức,
không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tịnh, sở hành
thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp khi thăng bằng, khi không thăng
bằng, các Sa-môn, Bà-la-môn ấy không đáng được tôn trọng, cung kính, lễ
bái, cúng dường. Vì cớ sao? Chúng tôi đối với các pháp do ý nhận thức,
không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tịnh, sở hành
thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp khi thăng bằng, khi không thăng
bằng; nhưng chúng tôi không thấy các vị ấy hơn sở hành thăng bằng của
chúng tôi. Do vậy, các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy không đáng được tôn trọng,
cung kính, đảnh lễ, cúng dường". Ðược hỏi như vậy, này các Gia
chủ, các Ông cần phải trả lời như vậy cho các du sĩ ngoại đạo ấy.
Nhưng này các Gia
chủ, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi các Ông như sau: "Này các Gia
chủ, hạng Sa-môn, Bà-la-môn nào đáng tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng
dường?" Khi được hỏi vậy, này các Gia chủ, các Ông cần phải trả
lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau: "Những Sa-môn, Bà-la-môn
nào, đối với các sắc do mắt nhận thức, ly tham, ly sân, ly si, nội tâm
tịch tịnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp được thăng
bằng. Các Sa-môn, Bà-la-môn như vậy đáng được tôn trọng, cung kính, đảnh
lễ, cúng dường. Vì sao vậy? Chúng tôi đối với các sắc do mắt nhận
thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tịnh,
sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp khi thì thăng bằng, khi không
thăng bằng; nhưng chúng tôi có thấy các vị ấy hơn sở hành thăng bằng
của chúng tôi. Do vậy, các Sa-môn, Bà-la-môn ấy đáng được tôn trọng, cung
kính, đảnh lễ, cúng dường.
Những Sa-môn,
Bà-la-môn nào đối với các tiếng do tai nhận thức..., đối với các hương
do mũi nhận thức..., đối với các vị do lưỡi nhận thức..., đối với
các xúc do thân nhận thức..., đối với các pháp do ý nhận thức, ly tham,
ly sân, ly si, nội tâm tịch tịnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý
nghiệp được thăng bằng, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy đáng được tôn
trọng, cung kính, lễ bái, cúng dường. Vì sao vậy? chúng tôi đối với các
pháp do ý nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không
tịch tịnh, sở hành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, khi thăng bằng,
khi không thăng bằng, nhưng chúng tôi có thấy các vị ấy hơn sở hành
thăng bằng của chúng tôi. Do vậy, những Sa-môn, Bà-la- môn ấy đáng được
tôn trọng, cung kính, lễ bái, cúng dường." Khi được hỏi vậy, này
các Gia chủ, các Ông hãy trả lời như vậy cho các vị du sĩ ngoại đạo
ấy.
Này các Gia chủ,
nhưng nếu du sĩ ngoại đạo ấy hỏi các Ông như sau: "Do căn cứ gì
về các Tôn giả (ấy), do truyền thống gì, các vị nói về các Tôn giả ấy
như sau: Chắc chắn các Tôn giả ấy là ly tham, hay đang đi trên con đường
điều phục tham, hay ly sân, hay đang đi trên con đường điều phục sân, hay
ly si, hay đang đi trên con đường điều phục si?" Khi được hỏi vậy,
này các Gia chủ, các Ông hãy trả lời các du sĩ ngoại đạo ấy như sau:
"Các Tôn giả ấy sống tại các trú xứ xa vắng trong các khu rừng nhàn
tịnh. Nhưng tại các chỗ như vậy, không có các sắc do mắt nhận thức để
họ có thể thấy, và sau khi thấy có lòng thích thú; nhưng tại các chỗ
như vậy, không có các tiếng do tai nhận thức để họ có thể nghe, và sau
khi nghe, có lòng thích thú; nhưng tại các chỗ như vậy, không có hương
do mũi nhận thức, để họ có thể ngửi và sau khi ngửi, có lòng thích thú;
nhưng tại các chỗ ấy như vậy không có các vị do lưỡi nhận thức, để
họ có thể nếm, và sau khi nếm, có lòng thích thú; nhưng tại các chỗ như
vậy, không có các xúc do thân nhận thức, để họ có thể cảm giác, và sau
khi cảm giác, có lòng thích thú. Chư Hiền giả, do căn cứ này, do những
truyền thống này, mà chúng tôi nói về các Tôn giả (ấy) như sau: "Thật
vậy, chư Tôn giả ấy ly tham hay đang đi trên con đường nhiếp phục tham,
hay ly sân, hay đang đi trên con đường nhiếp phục sân, hay ly si, hay đang
đi trên con đường nhiếp phục si". Khi được hỏi vậy, này các Gia
chủ, các Ông hãy trả lời các du sĩ ngoại đạo như vậy.
1198. Hiểu đích xác cách
trả lời cho người khác cũng là tìm được câu trả lời cho bản thân
Được hướng dẩn để trả
lời đúng nhưng từ câu trả lời những vị Bà la môn hiểu được đối tượng xứng đáng được
tôn kính, cúng dường và quay về nương tựa:
Khi nghe nói vậy,
các Bà-la-môn gia chủ ở Nagaravinda nói với Thế Tôn:
- Thật vi diệu
thay, Tôn giả Gotama! Thật vị diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người
dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che
kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối
để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế
Tôn dùng nhiều phương tiện để trình bày. Và nay chúng con xin quy y Tôn
giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng, mong Tôn giả Gotama nhận
chúng con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, chúng con trọn
đời quy ngưỡng!.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 150 [tóm
tắt]
Kinh Nói Cho Dân Chúng Nagaravinda
(Nagaravindeyya Sutta)
(M.iii,
290)
Đức Thế Tôn dạy
cho Bà-la-môn Nagaravinda cách phân biệt hạng Sa-môn, Bà-la-môn nào đáng cung
kính, tôn trọng, hạng nào không.
Những vị Sa-môn,
Bà-la-môn nào đối với các sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, do mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý nhận thức, không ly tham, ly sân, ly si, nội tâm không
tịch tĩnh, thân, ngữ, ý nghiệp khi thăng bằng, khi không thăng bằng, những
vị ấy không đáng tôn trọng, bởi vì chúng không khác chi người thế tục.
Những vị nào đối
với sắc... do sắc,.. nhận thức, ly tham, ly sân, ly si, nội tâm tịch
tịnh, thân, khẩu, ý nghiệp thăng bằng, những vị ấy đáng tôn trọng,
bởi vì những vị này có khác với người thế tục.
Sở dĩ biết được
chúng đã ly tham, hoặc trên con đường điều phục tham, sân, si là vì chúng
sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi nhàn tịch, tại đấy không có
sắc, thanh... để chúng có thể thấy, nghe... mà sinh tâm thích thú.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 150
[dàn ý]
Kinh Nói Cho Dân Chúng Nagaravinda
(Nagaravindeyya Sutta)
(M.iii, 290)
A.
Duyên khởi:
Các Bà-la-môn gia chủ
ở Nagaravinda đến yết kiến Thế Tôn và Thế Tôn thuyết giảng kinh này.
B.
Chánh kinh:
I. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn không
đáng cung kính và nguyên nhân vì sao. Ai đối với sáu trần, không ly tham, không
ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tịnh, các nghiệp khi thăng bằng, khi
không thăng bằng, không hơn các người gia chủ.
II. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đáng cung
kính và nguyên nhân vì sao đáng cung kính. Ai đối với 6 trần ly tham, ly sân,
ly si, nội tâm tịch tịnh, các nghiệp thăng bằng hơn các gia chủ.
III. Do căn cứ truyền thống gì các vị
ấy là ly tham, ly sân, ly si. Do các vị ấy sống trong rừng núi thâm sâu không bị
6 trần chi phối.
C. Kết luận:
Các gia chủ tán thán
Thế Tôn, xin quy y làm đệ tử cư sĩ.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 150
[toát yếu]
Kinh Nói Cho Dân Chúng Nagaravinda
(Nagaravindeyya Sutta)
(M.iii, 290)
I. Toát yếu
To the Nagaravindans.
The Buddha explains
to a group of brahmin householders what kind of recluses and brahmins should be
venerated.
Giảng cho những người
làng Nagaravinda.
Phật giảng cho một
nhóm gia chủ bà-la-môn biết hạng sa môn bà-la-môn nào đáng cung kính.
II. Tóm tắt
Khi du hành trong
làng Nagaravinda của những người bà-la-môn tại xứ Kosala, Phật bày cho các gia
chủ bà-la- môn cách trả lời các câu hỏi. Nếu được hỏi Sa môn bà-la- môn nào
không đáng tôn kính, cần phải đáp sa môn bà-la- môn nào không lìa tham sân si đối
với sắc thanh hương vị xúc pháp, ba nghiệp thân ngữ ý khi vầy khi khác (khi ma
khi Phật). Vì như vậy thì không khác gì thế tục. Sao biết một sa môn hay
bà-la-môn đã lìa tham sân hay đang trên đường ly dục? Vì thấy họ sống tại các
nơi không có sắc thanh hương vị xúc đáng ưa để khởi lòng tham. Các gia chủ
bà-la-môn hoan hỷ tín thọ và xin trọn đời quy y Phật.
III. Chú giải
Kinh này có vẻ mâu
thuẫn với kinh 152, Tu tập căn, trong đó Phật cốt nhấn mạnh ô nhiễm là do tâm
không do căn (mắt tai) hay cảnh (thanh sắc). Nhưng muốn đạt đếntrình độ căn tu
tập cao nhất của kinh 152, trước hết cũng phải qua giai đoạn đầu là ở rừng,
tránh né những nơi dễ kích động tham dục.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Khi du hành trong
làng
Na-ga-ra-vin-da
Của người bà-la-môn
Tại xứ Ko-sa-la,
Phật bày các gia chủ
Cách trả lời câu hỏi:
Sa môn bà-la-môn nào
Là không đáng tôn
kính?
Cần đáp ai chưa lìa
Tham sân và si mê
Sắc thanh hương vị
xúc;
Ba nghiệp thân ngữ ý
Khi thì vầy khi khác
(tức khi ma khi Phật).
Vì như vậy không khác
Những tục gia đệ tử.
Làm sao mà biết được
Sa môn bà-la-môn
Ðã lìa tham sân si
Hoặc đang lìa bỏ dục?
Vì thấy họ thường sống
Tại các nơi cư trú
Không có sắc thanh hương
Hay vị xúc đáng ưa
Ðể khởi lòng tham ái.
Các gia chủ làng này
Rất hoan hỷ tín thọ
Xin trọn đời quy y.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
150. Nagaravindeyyasuttaṃ
[Mūla]
434. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ yena nagaravindaṃ nāma
kosalānaṃ brāhmaṇānaṃ gāmo tadavasari. Assosuṃ kho nagaravindeyyakā
[nagaravindeyyā (ka.)] brāhmaṇagahapatikā : ''samaṇo khalu, bho, gotamo
sakyaputto sakyakulā pabbajito kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena
saddhiṃ nagaravindaṃ anuppatto. Taṃ kho
pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato : 'itipi so Bhagavā
arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro
purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho Bhagavāti. So imaṃ lokaṃ sadevakaṃ samārakaṃ sabrahmakaṃ
sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti. So
dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ,
kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāseti. Sādhu kho pana tathārūpānaṃ
arahataṃ dassanaṃ hotīti. Atha kho nagaravindeyyakā brāhmaṇagahapatikā yena Bhagavā
tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā appekacce bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ
nisīdiṃsu. Appekacce bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ
vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Appekacce yena Bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā
ekamantaṃ nisīdiṃsu. Appekacce bhagavato santike nāmagottaṃ sāvetvā ekamantaṃ
nisīdiṃsu. Appekacce tuṇhībhūtā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinne kho nagaravindeyyake brāhmaṇagahapatike
Bhagavā etadavoca :
435. ''Sace vo,
gahapatayo, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ puccheyyuṃ : 'kathaṃbhūtā,
gahapatayo, samaṇabrāhmaṇā na sakkātabbā na garukātabbā na mānetabbā na
pūjetabbāti? evaṃ puṭṭhā tumhe, gahapatayo, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ
evaṃ byākareyyātha : 'ye te samaṇabrāhmaṇā cakkhuviññeyyesu rūpesu avītarāgā
avītadosā avītamohā, ajjhattaṃ avūpasantacittā, samavisamaṃ caranti kāyena
vācāya manasā, evarūpā samaṇabrāhmaṇā na sakkātabbā na garukātabbā na mānetabbā
na pūjetabbā. Taṃ kissa hetu? mayampi hi cakkhuviññeyyesu rūpesu avītarāgā avītadosā avītamohā,
ajjhattaṃ avūpasantacittā, samavisamaṃ carāma kāyena vācāya manasā, tesaṃ no
samacariyampi hetaṃ uttari apassataṃ. Tasmā te bhonto samaṇabrāhmaṇā na
sakkātabbā na garukātabbā na mānetabbā na pūjetabbā. Ye te samaṇabrāhmaṇā
sotaviññeyyesu saddesu... ghānaviññeyyesu gandhesu... jivhāviññeyyesu rasesu...
kāyaviññeyyesu phoṭṭhabbesu... manoviññeyyesu dhammesu avītarāgā avītadosā
avītamohā, ajjhattaṃ avūpasantacittā, samavisamaṃ caranti kāyena vācāya manasā,
evarūpā samaṇabrāhmaṇā na sakkātabbā na garukātabbā na mānetabbā na pūjetabbā.
Taṃ kissa hetu? mayampi hi manoviññeyyesu dhammesu avītarāgā avītadosā avītamohā , ajjhattaṃ avūpasantacittā, samavisamaṃ carāma kāyena
vācāya manasā, tesaṃ no samacariyampi hetaṃ uttari apassataṃ. Tasmā te bhonto
samaṇabrāhmaṇā na sakkātabbā na garukātabbā na mānetabbā na pūjetabbāti. Evaṃ
puṭṭhā tumhe, gahapatayo, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ
byākareyyātha.
436. ''Sace pana vo,
gahapatayo, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ puccheyyuṃ : 'kathaṃbhūtā,
gahapatayo, samaṇabrāhmaṇā sakkātabbā garukātabbā mānetabbā pūjetabbāti? evaṃ
puṭṭhā tumhe, gahapatayo, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ
byākareyyātha : 'ye te samaṇabrāhmaṇā cakkhuviññeyyesu rūpesu vītarāgā vītadosā
vītamohā, ajjhattaṃ vūpasantacittā, samacariyaṃ caranti kāyena vācāya manasā,
evarūpā samaṇabrāhmaṇā sakkātabbā garukātabbā mānetabbā pūjetabbā. Taṃ kissa
hetu? mayampi hi [mayaṃ hi (?)] cakkhuviññeyyesu rūpesu avītarāgā avītadosā
avītamohā, ajjhattaṃ avūpasantacittā, samavisamaṃ carāma kāyena vācāya manasā,
tesaṃ no samacariyampi hetaṃ uttari passataṃ. Tasmā te bhonto samaṇabrāhmaṇā
sakkātabbā garukātabbā mānetabbā pūjetabbā. Ye te samaṇabrāhmaṇā sotaviññeyyesu
saddesu... ghānaviññeyyesu gandhesu... jivhāviññeyyesu rasesu... kāyaviññeyyesu
phoṭṭhabbesu... manoviññeyyesu dhammesu
vītarāgā vītadosā vītamohā, ajjhattaṃ vūpasantacittā, samacariyaṃ caranti
kāyena vācāya manasā, evarūpā samaṇabrāhmaṇā sakkātabbā garukātabbā mānetabbā
pūjetabbā. Taṃ kissa hetu? mayampi hi manoviññeyyesu dhammesu avītarāgā
avītadosā avītamohā ajjhattaṃ avūpasantacittā, samavisamaṃ carāma kāyena vācāya
manasā, tesaṃ no samacariyampi hetaṃ uttari passataṃ. Tasmā te bhonto samaṇabrāhmaṇā
sakkātabbā garukātabbā mānetabbā pūjetabbāti . Evaṃ puṭṭhā tumhe, gahapatayo,
tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ byākareyyātha.
437. ''Sace pana vo [sace
te (syā. kaṃ. pī. ka.)], gahapatayo, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ puccheyyuṃ :
'ke panāyasmantānaṃ ākārā, ke anvayā, yena tumhe āyasmanto evaṃ vadetha? addhā te āyasmanto
vītarāgā vā rāgavinayāya vā paṭipannā,
vītadosā vā dosavinayāya vā paṭipannā, vītamohā vā mohavinayāya vā paṭipannāti?
evaṃ puṭṭhā tumhe, gahapatayo, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ
byākareyyātha : 'tathā hi te āyasmanto araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti.
Natthi kho pana tattha tathārūpā cakkhuviññeyyā rūpā ye disvā disvā abhirameyyuṃ,
natthi kho pana tattha tathārūpā sotaviññeyyā saddā ye sutvā sutvā abhirameyyuṃ,
natthi kho pana tattha tathārūpā ghānaviññeyyā gandhā ye ghāyitvā ghāyitvā
abhirameyyuṃ , natthi kho pana tattha tathārūpā jivhāviññeyyā rasā ye sāyitvā
sāyitvā abhirameyyuṃ, natthi kho pana tattha tathārūpā kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā
ye phusitvā phusitvā abhirameyyuṃ. Ime kho no, āvuso, ākārā, ime anvayā, yena
mayaṃ [yena mayaṃ āyasmanto (sī. pī.), yena mayaṃ āyasmante (syā. kaṃ.)] evaṃ
vadema : addhā te āyasmanto vītarāgā vā rāgavinayāya vā paṭipannā, vītadosā vā
dosavinayāya vā paṭipannā, vītamohā vā mohavinayāya vā paṭipannāti. Evaṃ puṭṭhā
tumhe, gahapatayo, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ byākareyyāthāti.
Evaṃ vutte, nagaravindeyyakā brāhmaṇagahapatikā bhagavantaṃ etadavocuṃ :
''abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama! seyyathāpi, bho gotama,
nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ
ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya : 'cakkhumanto rūpāni
dakkhantīti evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito. Ete mayaṃ
bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsake no bhavaṃ
gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gateti.
Nagaravindeyyasuttaṃ
niṭṭhitaṃ aṭṭhamaṃ.
-ooOoo-
150.
Nagaravindeyyasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
435. Evaṃ me sutanti
nagaravindeyyasuttaṃ. Tattha samavisamaṃ carantīti kālena samaṃ caranti,
kālena visamaṃ. Samacariyampi hetanti samacariyampi hi etaṃ.
437. Ke ākārāti kāni kāraṇāni?
Ke anvayāti kā anubuddhiyo? Natthi kho pana tatthāti kasmā āha,
nanu araññe haritatiṇacampakavanādivasena atimanuññā rūpādayo pañca kāmaguṇā
atthīti? No natthi. Na panetaṃ vanasaṇḍena kathitaṃ, itthirūpādīni pana
sandhāyetaṃ kathitaṃ. Tāni hi purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhanti. Yathāha –
‘‘nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekarūpampi samanupassāmi, yaṃ evaṃ purisassa cittaṃ
pariyādāya tiṭṭhati, yathayidaṃ, bhikkhave, itthirūpaṃ. Itthirūpaṃ, bhikkhave,
purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatī’’ti (a. ni. 1.1) vitthāretabbaṃ. Sesaṃ
sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Nagaravindeyyasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Đoạn kinh sau đây: "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với các sắc do mắt nhận thức, không ly tham, không ly sân, không ly si, nội tâm không tịch tịnh, sở hành thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp khi thăng bằng, khi không thăng bằng. Những Sa-môn, Bà-la-môn như vậy không đáng cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường.
‘ye te samaṇabrāhmaṇā cakkhuviññeyyesu rūpesu avītarāgā avītadosā avītamohā, ajjhattaṃ avūpasantacittā, samavisamaṃ caranti kāyena vācāya manasā, evarūpā samaṇabrāhmaṇā na sakkātabbā na garukātabbā na mānetabbā na pūjetabbā. Chữ “không thăng bằng” nên được hiểu thế nào? - TT Pháp Tân
Thảo luận 3. Khái niệm “vì thanh tịnh nên gọi là bậc Ứng cúng” vốn nổi bậc trong bà la môn giáo vậy trong Phật pháp có điểm tương tự như vậy chăng? - ĐĐ Nguyên Thông
Thảo luận 4. Chúng ta thường nói “tham, sân, với tiền, tài, danh, lợi..” nhưng trong các bài kinh vừa qua thường đề cập tới “tham, sân, si đối với sắc, thinh, hương….hay nhãn, nhĩ, tỷ…” vậy có đồng dị thế nào? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 5. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment