Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Tân
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 27/6/2020
9. Kinh Chánh Tri Kiến (Sammādiṭṭhi Sutta)
Tên kinh được gọi là
Kinh Chánh Tri Kiến vì nội dung đề cập tới chánh kiến hay sự hiểu biết chơn
chánh. Tại chùa Kỳ Viên Jetavana (Kỳ-đà Lâm) lúc bấy giờ Tôn giả
Sāriputta (Xá-lợi-phất) giảng pháp cho chư tỳ kheo. Ngài nêu rõ cái nhìn
chân chánh của một tỳ kheo là tri kiến dựa trên phân biệt thiện và bất thiện, tứ
thực hay những dưỡng tố duy trì sự hiện hữu, tứ đế, thập nhị duyên khởi, và ba
lậu hoặc.
039. Cái nhìn đúng đắn,
hiểu biết chính xác, niềm tin bất thối và có sở đắc trong giáo pháp
Tôn giả Sāriputta tự
nêu một câu hỏi để làm tiền đề về chánh tri kiến:
Như vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn
ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta
(Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo".--"Hiền giả", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Sāriputta. Tôn giả Sariputta nói như sau:
--
Chư Hiền, chánh tri kiến, chánh tri kiến, được gọi là như vậy. Chư
Hiền, cho đến như thế nào, một Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có
tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu
pháp này?
--
Chúng tôi từ xa đến để được hiểu ý nghĩa lời nói ấy từ Tôn giả
Sāriputta. Thật lành thay, nếu Tôn giả Sāriputta giảng cho ý nghĩa lời
nói ấy. Sau khi nghe Tôn giả Sāriputta, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
-- Chư Hiền,
vậy hãy nghe, hãy khéo tác ý. Ta sẽ giảng.
--
Thưa vâng, Hiền giả!
-
Các Tỷ-kheo vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta nói như
sau:
040. Chánh tri kiến là hiểu biết đúng đắn về thiện ác
Muốn hiểu rõ thiện và
bất thiện cần hiểu cả hai phương diện sở hành và gốc rễ.
--
Chư Hiền, khi Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được
căn bổn bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri được căn bổn
thiện, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến
chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là bất thiện, thế nào là căn bổn bất thiện, thế
nào là thiện, thế nào là căn bổn thiện? Chư Hiền, sát sanh là bất
thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các dục là
bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác
khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, tham dục là bất
thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện. Chư Hiền, như vậy
gọi là bất thiện.
Và
chư Hiền, thế nào là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn bất
thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất thiện. Chư
Hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện.
Và
này chư Hiền, thế nào là thiện? Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ
lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện,
từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác
khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không tham dục là
thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện. Chư Hiền, như
vậy gọi là thiện.
Chư
Hiền, thế nào là căn bổn thiện? Không tham là căn bổn thiện, không
sân là căn bổn thiện, không si là căn bổn thiện. Chư Hiền, như
vậy gọi là căn bổn thiện.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri bất thiện như vậy, tuệ tri căn
bổn bất thiện như vậy, tuệ tri thiện như vậy, tuệ tri căn bổn
thiện như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy
sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên "Tôi
là", đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau
ngay trong hiện tại. Chư Hiền, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri
kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành
tựu diệu pháp này.
040.
Chánh tri kiến là hiểu biết đúng đắn về chất liệu nuôi dưỡng sự sống
Sự
hiện hữu của tất cả chúng sanh do duyên nghiệp tạo thành chứ không phải tự
nhiên mà có hay do một đấng sáng tạo làm nên. Những chất liệu tác thành và nuôi
dưỡng Phật học gọi là tứ thực:
--
Lành thay, Hiền giả!
Các
Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sāriputta và
hỏi thêm Tôn giả Sāriputta câu hỏi như sau:
-
Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này vị
Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin
Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức
ăn, tuệ tri tập khởi của thức ăn, tuệ tri đoạn diệt của thức ăn,
và tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn, chư Hiền khi
ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng
tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là thức ăn, thế nào là tập khởi của thức ăn, thế
nào là đoạn diệt của thức ăn, thế nào là con đường đưa đến đoạn
diệt của thức ăn? Chư Hiền, có bốn loại thức ăn này, khiến các
loài chúng sanh đã sanh được an trú hay các loài hữu tình sẽ sanh
được hỗ trợ cho sanh. Thế nào là bốn? Ðoàn thực, loại thô hay loại
tế, xúc thực là thứ hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ
tư. Từ tập khởi của ái có tập khởi của thức ăn, từ đoạn diệt
của ái có đoạn diệt của thức ăn. Thánh Ðạo Tám Ngành này là con
đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn, tức là: Chánh Tri kiến,
Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn,
Chánh Niệm, Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức ăn như vậy, tuệ tri tập
khởi của thức ăn như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thức ăn như vậy,
tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn như vậy, khi ấy,
vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ
tận gốc kiến mạn tùy miên "Tôi là", đoạn trừ vô minh,
khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Chư Hiền,
như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có
lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
041.
Chánh tri kiến là hiểu biết đúng đắn về sự khổ, cội nguồn của khổ, sự diệt khổ,
và con đường thoát khổ
Chánh
tri kiến theo Phật Pháp là hiểu rõ bản chất của đau khổ và sự thoát khổ theo
giáo lý tứ đế:
--
Lành thay, Hiền giả!
Các
Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sāriputta liền
hỏi thêm Tôn giả Sāriputta câu hỏi như sau:
--
Này Hiền giả, có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này Thánh đệ tử
có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt
đối và thành tựu diệu pháp này?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri Khổ,
tuệ tri Tập khởi của khổ, tuệ tri Ðoạn diệt của khổ, tuệ tri con
Ðường đưa đến đoạn diệt của khổ, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có
chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối
và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là Khổ, thế nào là Tập khởi của khổ, thế nào là
Ðoạn diệt của khổ, thế nào là con Ðường đưa đến đoạn diệt của
khổ? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi
khổ ưu não là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại năm thủ uẩn
là khổ. Chư Hiền, như vậy gọi là Khổ.
Chư
Hiền, thế nào là Tập khởi của khổ? Chính là ái đưa đến tái sanh,
cùng khởi hỷ dục và tham hướng đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và
tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái, phi
hữu ái. Chư Hiền, như vậy gọi là Tập khởi của khổ.
Chư
Hiền, thế nào là Ðoạn diệt của khổ? Ðó là sự đoạn diệt ly tham,
không có dư tàn, sự quăng bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô
chấp khát ái ấy.
Chư
Hiền, thế nào là con Ðường đưa đến đoạn diệt của khổ? Chính là
Thánh Ðạo Tám Ngành đưa đến khổ diệt, tức là Chánh tri kiến...
Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri Khổ như vậy, tuệ tri Tập khởi
của khổ như vậy, tuệ tri Ðoạn diệt của khổ như vậy, tuệ tri con
Ðường đưa đến đoạn diệt của khổ như vậy, khi ấy vị ấy đoạn trừ
tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên,... (như trên)... và
thành tựu diệu pháp này.
042.
Chánh tri kiến là hiểu biết đúng đắn giáo lý duyên khởi
Sự
hiện hữu là giòng tiếp nối của những những tác động “do cái nầy sanh nên khiến
cái kia sanh”. Các pháp hữu vi đều vừa
năng duyên và vừa là sở duyên.
(Già và chết)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp
môn nào khác, nhờ pháp môn này Thánh đệ tử... (như trên)... thành
tựu diệu pháp này?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri già
chết, tuệ tri tập khởi của già chết, tuệ tri đoạn diệt của già
chết, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của già chết, chư Hiền,
khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến,... (như trên)... và thành tựu
diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là già chết, thế nào là tập khởi của già chết, thế
nào là đoạn diệt của già chết, thế nào là con đường đưa đến đoạn
diệt của già chết? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào, trong từng mỗi
loại hữu tình, sự già cả, suy lão, rụng răng, tóc bạc da nhăn,
tuổi thọ ngày một hao mòn, bại hoại các căn; chư Hiền, như vậy
gọi là già. Chư Hiền thế nào là chết? Thuộc bất kỳ hữu tình giới
nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại,
hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài;
chư Hiền, như vậy gọi là chết. Già như vậy và chết như vậy, chư
Hiền, như vậy gọi là già chết. Từ sự tập khởi của sanh, có sự
tập khởi của già chết, từ sự đoạn diệt của sanh, có sự đoạn diệt
của già chết. Thánh Ðạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn
diệt của già chết, tức là: Chánh Tri kiến... (như trên)... Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri già chết như vậy, tuệ tri tập
khởi của già chết như vậy, tuệ tri đoạn diệt của già chết như
vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của già chết như vậy, khi
ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên...
(như trên)..., và thành tựu diệu pháp này.
(Sanh)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp
môn nào khác...?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri sanh,
tuệ tri tập khởi của sanh, tuệ tri đoạn diệt của sanh, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của sanh, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử
có chánh tri kiến... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là sanh, thế nào là tập khởi của sanh, thế nào là
đoạn diệt của sanh, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của
sanh? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình,
sự sanh, hiện khởi, xuất hiện, hiện diện, hiện hành các uẩn, tụ
đắc các xứ; Chư Hiền, như vậy gọi là sanh. Từ sự tập khởi của
hữu có sự tập khởi của sanh, từ sự đoạn diệt của hữu, có sự đoạn
diệt của sanh, và Thánh Ðạo Tám Ngành này là con đường đưa đến
đoạn diệt của sanh, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri được sanh như vậy, tuệ tri được
tập khởi của sanh như vậy, tuệ tri được đoạn diệt của sanh như
vậy, tuệ tri được con đường đưa đến đoạn diệt của sanh như vậy,
khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... (như trên)... như
vậy... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.
(Hữu)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có pháp môn nào
khác...?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hữu,
tuệ tri tập khởi của hữu, tuệ tri đoạn diệt của hữu, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của hữu, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử
có chánh tri kiến... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là hữu, thế nào là tập khởi của hữu, thế nào là
đoạn diệt của hữu, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của
hữu? Chư Hiền, có ba hữu này: dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Từ
tập khởi của thủ, có tập khởi của hữu; từ đoạn diệt của thủ có
đoạn diệt của hữu và Thánh Ðạo Tám Ngành này là con đường đưa
đến đoạn diệt của hữu, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hữu như vậy, tuệ tri tập khởi
của hữu như vậy, tuệ tri đoạn diệt của hữu như vậy, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của hữu như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ
tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
(Thủ)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp
môn nào khác...?
-
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri tập
khởi của thủ, tuệ tri đoạn diệt của thủ, tuệ tri con đường đưa đến
đoạn diệt của thủ, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và
thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là thủ, thế nào là tập khởi của thủ, thế nào là
đoạn diệt của thủ, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của
thủ? Chư Hiền, có bốn thủ này: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ,
ngã luận thủ. Từ tập khởi của ái, có tập khởi của thủ; từ đoạn
diệt của ái, có đoạn diệt của thủ; và Thánh Ðạo Tám Ngành này là
con đường đưa đến đoạn diệt của thủ, tức là: Chánh Tri kiến...
Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thủ như vậy, tuệ tri tập khởi
của thủ như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thủ như vậy, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của thủ như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ
tất cả tham tùy miên và thành tựu diệu pháp này.
(Ái)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có pháp môn nào
khác...?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền khi nào Thánh đệ tử tuệ tri ái, tuệ
tri tập khởi của ái, tuệ tri đoạn diệt của ái, tuệ tri con đường
đưa đến đoạn diệt của ái, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến...
và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là ái, thế nào là tập khởi của ái, thế nào là
đoạn diệt của ái, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của ái?
Chư Hiền, có sáu loại ái này: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái,
xúc ái, pháp ái. Từ tập khởi của thọ, có tập của ái, từ đoạn
diệt của thọ, có đoạn diệt của ái, và Thánh Ðạo Tám Ngành này là
con đường đưa đến đoạn diệt của ái, tức là: Chánh Tri kiến...
Chánh Ðịnh.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri ái như vậy, tuệ tri tập khởi của ái như vậy, tuệ tri đoạn diệt của ái như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của ái như vậy, khi ấy, vị ấy, đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp.
(Thọ)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp
môn nào khác...?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thọ,
tuệ tri tập khởi của thọ, tuệ tri đoạn diệt của thọ, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của thọ, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri
kiến... và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là thọ, thế nào là tập khởi của thọ, thế nào là
đoạn diệt của thọ, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của
thọ? Chư Hiền, có sáu loại thọ này: thọ do nhãn xúc sanh, thọ do
nhĩ xúc sanh, thọ do tỷ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân
xúc sanh, thọ do ý xúc sanh. Từ tập khởi của xúc, có tập khởi của
thọ; từ đoạn diệt của xúc, có đoạn diệt của thọ; và Thánh Ðạo
Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của thọ, tức là:
Chánh Tri kiến... Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thọ như vậy, tuệ tri tập khởi
của thọ như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thọ như vậy, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của thọ như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ
tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
(Xúc)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp
môn nào khác...?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri xúc,
tuệ tri tập khởi của xúc, tuệ tri đoạn diệt của xúc, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của xúc, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri
kiến... và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là xúc, thế nào là tập khởi của xúc, thế nào là
đoạn diệt của xúc, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của
xúc? Chư Hiền, có sau loại xúc này: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc,
thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Từ tập khởi của sáu nhập, có tập
khởi từ xúc; từ đoạn diệt của sáu nhập, có đoạn diệt của xúc, và
Thánh Ðạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của xúc,
tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Ðịnh. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử
tuệ tri xúc như vậy, tuệ tri tập khởi của xúc như vậy, tuệ tri
đoạn diệt của xúc như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt
của xúc như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên...
và thành tựu diệu pháp này.
(Nhập)
--
Lành thay, Hiền giả...câu hỏi như sau: Hiền giả, có thể có pháp
môn nào khác...?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri sáu
nhập, tuệ tri tập khởi của sáu nhập, tuệ tri đoạn diệt của sáu
nhập, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập, khi ấy
Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là sáu nhập, thế nào là tập khởi của sáu nhập, thế
nào là đoạn diệt của sáu nhập, thế nào là con đường đưa đến đoạn
diệt của sáu nhập? Chư Hiền, có sáu nhập này: nhãn nhập, nhĩ
nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập. Từ tập khởi của danh
sắc có tập khởi của sáu nhập; từ đoạn diệt của danh sắc có đoạn
diệt của sáu nhập; và Thánh Ðạo Tám Ngành này là con đường đưa
đến đoạn diệt của sáu nhập, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào vị Thánh đệ tử tuệ tri sáu nhập như vậy, tuệ tri tập
khởi của sáu nhập như vậy, tuệ tri đoạn diệt của sáu nhập như
vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập như vậy, khi
ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu hạnh
pháp này.
(Danh sắc)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp
môn nào khác...?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri danh
sắc, tuệ tri tập khởi của danh sắc, tuệ tri đoạn diệt của danh sắc,
tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc, khi ấy Thánh đệ
tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là danh sắc, thế nào là tập khởi của danh sắc, thế
nào là đoạn diệt của danh sắc, thế nào là con đường đưa đến đoạn
diệt của danh sắc? Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý, chư Hiền, như vậy
gọi là danh; bốn đại và sắc do bốn đại tạo thành, chư Hiền, như
vậy gọi là sắc; như vậy đây là danh và đây là sắc, Chư Hiền, như
vậy gọi là danh sắc. Từ tập khởi của thức, có tập khởi của danh
sắc; từ đoạn diệt của thức, có đoạn diệt của danh sắc; và Thánh
Ðạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc,
tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri danh sắc như vậy, tuệ tri tập
khởi của danh sắc như vậy, tuệ tri đoạn diệt của danh sắc như vậy,
tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc như vậy, khi ấy,
vị ấy, đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp
này.
(Thức)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp
môn nào khác...?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức,
tuệ tri tập khởi của thức, tuệ tri đoạn diệt của thức, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của thức, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri
kiến... và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là thức, thế nào là tập khởi của thức, thế nào là
đoạn diệt của thức, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của
thức? Chư Hiền, có sáu loại thức này: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Từ tập khởi của hành, có tập
khởi của thức; từ đoạn diệt của hành có đoạn diệt của thức; và
Thánh Ðạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của thức,
tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức như vậy, tuệ tri tập khởi
của thức như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thức như vậy, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của thức như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ
tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
(Hành)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp
môn nào khác...?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hành,
tuệ tri tập khởi của hành, tuệ tri đoạn diệt của hành, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của hành, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri
kiến... và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là hành, thế nào là tập khởi của hành, thế nào là
đoạn diệt của hành, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của
hành? Chư Hiền, có ba loại hành này: thân hành, ngữ hành, tâm
hành. Từ tập khởi của vô minh, có tập khởi của hành; từ đoạn diệt
của vô minh, có đoạn diệt của hành; và Thánh Ðạo Tám Ngành này là
con đường đưa đến đoạn diệt của hành, tức là: Chánh Tri kiến...
Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hành như vậy, tuệ tri tập khởi
của hành như vậy, tuệ tri đoạn diệt của hành như vậy, tuệ tri con
đường đưa đến đoạn diệt của hành như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ
tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
(Vô minh)
--
Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp
môn nào khác...?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri vô
minh, tuệ tri tập khởi của vô minh, tuệ tri đoạn diệt của vô minh,
tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh, khi ấy, Thánh đệ
tử có chánh tri kiến... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là vô minh, thế nào là tập khởi của vô minh, thế
nào là đoạn diệt của vô minh, thế nào là con đường đưa đến đoạn
diệt của vô minh? Sự không tuệ tri về khổ, không tuệ tri về khổ
tập, không tuệ tri về khổ diệt, không tuệ tri về con đường đưa đến
khổ diệt, Chư Hiền, như vậy gọi là vô minh. Từ tập khởi của lậu
hoặc, có tập khởi của vô minh; từ đoạn diệt của lậu hoặc, có đoạn
diệt của vô minh; và Thánh Ðạo Tám Ngành này là con đường đưa đến
đoạn diệt của vô minh, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri vô minh như vậy, tuệ tri tập khởi
của vô minh như vậy, tuệ tri đoạn diệt của vô minh như vậy, tuệ tri
con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh như vậy, khi ấy, vị ấy
đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
--
Lành thay, Hiền giả!
043.
Chánh tri kiến là hiểu biết đúng đắn về bờ mê và bến giác
Lậu
hoặc, vô minh được hiểu là đầu mối của sanh tử; tuệ giác thành tựu do bát chánh
đạo được hiểu là bến bờ giải thoát:
Các
vị Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sariputta,
liền hỏi thêm Tôn giả Sāriputta câu hỏi như sau:
--
Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này
Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin
pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?
--
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri lậu
hoặc, tuệ tri tập khởi của lậu hoặc, tuệ tri đoạn diệt của lậu
hoặc, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc. Chư Hiền,
khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có
lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Chư
Hiền, thế nào là lậu hoặc, thế nào là tập khởi của lậu hoặc, thế
nào là đoạn diệt của lậu hoặc, thế nào là con đường đưa đến đoạn
diệt của lậu hoặc? Chư Hiền, có ba lậu hoặc này: dục lậu, hữu
lậu, vô minh lậu. Từ tập khởi của vô minh có tập khởi của lậu
hoặc; từ đoạn diệt của vô minh có đoạn diệt của lậu hoặc và Thánh
Ðạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc,
tức là: Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh
Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh.
Chư
Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri lậu hoặc như vậy, tuệ tri tập
khởi của lậu hoặc như vậy, tuệ tri đoạn diệt của lậu hoặc như
vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc như vậy, khi
ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên,
nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên "Tôi là", đoạn trừ vô minh,
khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Chư Hiền,
như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có
lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Tôn
giả Sāriputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ
lời giảng của Tôn giả Sāriputta.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 9 [tóm tắt]
Kinh Chánh Tri Kiến
(Sammādiṭṭhi Sutta)
(M.i, 46)
Tôn giả Sāriputta thuyết kinh
này. Ngài giải thích thế nào là Chánh tri kiến, một Thánh đệ tử
có Chánh tri kiến phải như thế nào để có Chánh tri kiến, có tri
kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp
này. Vị Thánh đệ tử cần phải quán tri mười sáu đề tài, như vậy
mới có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp
tuyệt đối, và có thành tựu diệu pháp.
1/ Quán tri bất thiện, căn
bổn bất thiện, quán tri thiện, căn bổn bất thiện. Bất thiện là sát
sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời
độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục (byāpādo), tà kiến. Căn bản
của bất thiện là tham, sân, si (lobha, dosa, moha). Thiện là từ bỏ
sát sanh... là chánh kiến. Căn bản của thiện là không tham, không
sân, không si.
2/ Quán tri các thức ăn,
thức ăn tập khởi, thức ăn đoạn diệt và con đường đọa đến thức ăn
đoạn diệt. Có bốn thức ăn, duy trì sự sống cho các chúng sanh và
hỗ trợ cho các chúng sanh sẽ sanh được sanh. Đó là đoàn thực, xúc
thực, tư niệm thực, thức thực. Tập khởi của thức ăn là ái. Ái
diệt là thức ăn diệt. Thánh đạo tám ngành là con đường đưa đến
đoạn diệt của thức ăn. Nhờ quán tri như vậy, vị ấy đoạn trừ tham
tùy miên, tẩy sạch sân tuỳ miên, nhổ tận gốc ngã hữu kiến mạn
tùy miên (asmiti diṭṭhimānanusayam), làm cho vô minh đoạn, minh khởi,
diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại.
3/ Quán tri khổ, khổ tập,
khổ diệt, con đường đọa đến khổ diệt. Sanh, già, bệnh, chết, sầu bi
khổ ưu não, cầu không được, và tóm lại năm thủ uẩn là khổ. Tập
khởi của khổ là ái, đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tầm
cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.
Ái diệt là khổ diệt. Con đường đưa đến khổ diệt là Chánh đạo Tám
chi.
4/ Già chết, già chết tập
khởi, già chết đoạn diệt, con đường đọa đến già chết đoạn diệt.
Già là sự già cả, suy lão, rụng răng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ
ngày một hao mòn, bại hoại các căn; chết là sự mệnh một, từ trần,
hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ
hình hài. Tập khởi của già chết là sanh. Sanh đoạn diệt là già
chết đoạn diệt. Con đường đưa đến già chết đoạn diệt là Chánh đạo
Tám chi.
5/ Sanh, sanh tập khởi, sanh
đoạn diệt, con đường đọa đến sanh đoạn diệt. Sanh là sự sanh, hiện
khởi, xuất hiện, hiện diện, hiện hành các uẩn, tụ đắc các xứ. Tập
khởi của sanh là hữu. Hữu đoạn diệt là sanh đoạn diệt. Con đường
đưa đến sanh đoạn diệt là Chánh đạo Tám chi.
6/ Hữu, hữu tập khởi, hữu
đoạn diệt, con đường đọa đến hữu đoạn diệt. Hữu là dục hữu, sắc
hữu, vô sắc hữu. Tập khởi của hữu là thủ. Thủ diệt là hữu diệt.
Con đường đưa đến hữu đoạn diệt là Chánh đạo Tám chi.
7/ Thủ, thủ tập khởi, thủ
đoạn diệt, con đường đọa đến thủ đoạn diệt. Thủ có bốn: dục thủ,
kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Tập khởi của thủ là ái. Ái
đoạn diệt là thủ đoạn diệt. Con đường đưa đến thủ đoạn diệt là
Chánh đạo Tám chi.
8/ Ái, ái tập khởi, ái đoạn
diệt, con đường đọa đến ái đoạn diệt. Ái có sáu: sắc ái, thanh
ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Tập khởi của ái là thọ.
Thọ đoạn diệt là ái đoạn diệt. Con đường đưa đến ái đoạn diệt là
Chánh đạo Tám chi.
9/ Thọ, thọ tập khởi, thọ
đoạn diệt, con đường đọa đến thọ đoạn diệt. Thọ có sáu: thọ do
mắt xúc chạm sanh, thọ do tai xúc chạm sanh, thọ do mũi xúc chạm
sanh, thọ do lưỡi xúc chạm sanh, thọ do thân xúc chạm sanh, thọ do ý
xúc chạm sanh. Tập khởi của thọ là xúc. Xúc đoạn diệt là thọ đoạn
diệt. Con đường đưa đến thọ đoạn diệt là Chánh đạo Tám chi.
10/ Xúc, xúc tập khởi, xúc
đoạn diệt, con đường đọa đến xúc đoạn diệt. Xúc có sáu: nhãn xúc,
nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Tập khởi của xúc là
lục nhập. Lục nhập diệt là xúc diệt. Con đường đưa đến xúc diệt
là Chánh đạo Tám chi.
11/ Lục nhập, lục nhập tập
khởi, lục nhập đoạn diệt, con đường đọa đến lục nhập đoạn diệt.
Lục nhập là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Tập khởi của lục nhập
là danh sắc. Danh sắc diệt là lục nhập diệt. Con đường đưa đến lục
nhập diệt là Chánh đạo Tám chi.
12/ Danh sắc, danh sắc tập
khởi, danh sắc đoạn diệt, con đường đọa đến danh sắc đoạn diệt. Danh
là thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý. Sắc là bốn đại chủng và bốn đại
sở tạo sắc. Tập khởi của danh sắc là thức. Thức diệt là danh sắc
diệt. Con đường đưa đến danh sắc diệt là Chánh đạo Tám chi.
13/ Thức, thức tập khởi,
thức diệt, con đường đọa đến thức diệt. Thức có sáu: nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Tập khởi của
thức là hành. Hành diệt là thức diệt. Con đường đưa đến thức diệt
là Chánh đạo Tám chi.
14/ Hành, hành tập khởi,
hành diệt, con đường đọa đến hành diệt. Hành có ba: thân hành,
khẩu hành, tâm hành. Tập khởi của hành là vô minh. Vô minh diệt là
hành diệt. Con đường đưa đến hành diệt là Chánh đạo Tám chi.
15/ Vô minh, vô minh tập
khởi, vô minh diệt, con đường đọa đến vô minh diệt. Do không rõ
biết (annānam) khổ, không rõ biết khổ tập, không rõ biết khổ diệt,
không rõ biết con đường đưa đến khổ diệt là vô minh. Tập khởi của
vô minh là lậu hoặc. Lậu hoặc diệt là vô minh diệt. Con đường đưa
đến vô minh diệt là Chánh đạo Tám chi.
16/ Lậu hoặc, lậu hoặc tập
khởi, lậu hoặc diệt, con đường đọa đến lậu hoặc diệt. Các lậu
hoặc gồm có dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Tập khởi của lậu hoặc
là vô minh. Vô minh diệt là lậu hoặc diệt. Con đường đưa đến lậu
hoặc diệt là Chánh đạo Tám chi.
Khi nào vị Thánh đệ tử có
quán tri lậu hoặc như vậy, lậu hoặc tập khởi như vậy, lậu hoặc
đoạn diệt như vậy, con đường đưa đến lậu hoặc đoạn diệt như vậy,
vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ
tận gốc ngã hữu kiến mạn tùy miên, đoạn trừ vô minh, khiến minh
khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại.
Như vậy gọi là vị Thánh đệ
tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp
tuyệt đối, và thành tựu diệu pháp này.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 9 [dàn ý]
Kinh Chánh Tri Kiến
(Sammādiṭṭhi Sutta)
(M.i, 46)
A. Duyên khởi:
Theo lời các Tỷ-kheo yêu cầu, Tôn giả Sāriputta giải thích thế nào
là Chánh tri kiến, thế nào là có lòng tịnh tín đối với pháp, thế nào là thành tựu
diệu pháp này.
B. Chánh kinh:
Tôn giả giải thích Chánh tri kiến đối với 16 pháp. Nhờ chánh tri
kiến đoạn tận các tuỳ miên, chấm dứt các khổ đau.
I. Đối với
bất thiện, căn bản bất thiện, đối với thiện và căn bản thiện.
II. Đối với
4 thức ăn: Đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực.
III. Đối với
khổ, khổ tập, khổ diệt, con đường đưa đến khổ diệt.
IV. Đối với
già chết, già chết tập khởi, già chết đoạn diệt, con đường đưa đến già chết đoạn
diệt.
V. Đối với
sanh, sanh tập khởi, sanh đoạn diệt, con đường đưa đến sanh đoạn diệt.
VI. Đối với
hữu, hữu tập khởi, hữu đoạn diệt, con đường đưa đến hữu đoạn diệt.
VII. Đối với
thủ, thủ tập khởi, thủ đoạn diệt, con đường đưa đến thủ đoạn diệt.
VIII. Đối với
ái, ái tập khởi, ái đoạn diệt, con đường đưa đến ái đoạn diệt.
IX. Đối với
thọ, thọ tập khởi, thọ đoạn diệt, con đường đưa đến thọ đoạn diệt.
X. Đối với
xúc, xúc tập khởi, xúc đoạn diệt, con đường đưa đến xúc đoạn diệt.
XI. Đối với
6 nhập, 6 nhập tập khởi, 6 nhập đoạn diệt, con đường đưa đến 6 nhập đoạn diệt.
XII. Đối với
danh sắc, danh sắc tập khởi, danh sắc đoạn diệt, con đường đưa đến danh sắc đoạn
diệt.
XIII. Đối với
thức, thức tập khởi, thức đoạn diệt, con đường đưa đến thức đoạn diệt.
XIV. Đối với
hành, hành tập khởi, hành đoạn diệt, con đường đưa đến hành đoạn diệt.
XV. Đối với
vô minh, vô minh tập khởi, vô minh đoạn diệt, con đường đưa đến vô minh đoạn diệt.
XVI. Đối với
lậu hoặc, lậu hoặc tập khởi, lậu hoặc đoạn diệt, con đường đưa đến lậu hoặc đoạn
diệt.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Sāriputta thuyết giảng.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 9 [toát yếu]
Kinh Chánh Tri Kiến
(Sammādiṭṭhi Sutta)
(M.i, 46)
I. Toát yếu
Sammāditthi Sutta - Right view.
A long and important discourse by the venerable
Sāriputta, with separate sections on the wholesome and unwholesome, nutriment,
the four Noble Truths, the twelve factors of dependent origination, and the
taints.
Cái thấy chân chính.
Một bản kinh dài và quan trọng do tôn giả
Xá-lợi-phất thuyết giảng, với nhiều đoạn tách biệt nói về thiện
và bất thiện, về thức ăn, về Bốn chân lý cao cả, về 12 nhân duyên
và các ô nhiễm.
II.
Tóm tắt
Tôn giả Xá-lợi-phất giảng về 16 pháp môn nhờ
đó một thánh đệ tử được gọi là có sự thấy biết chân chính.
1. Tuệ tri bất thiện và gốc rễ của bất thiện;
thiện và gốc rễ của thiện:
Khi tuệ tri như trên, vị thánh đệ tử đoạn trừ
tất cả tùy miên tham, sân, nhổ tận gốc kiến chấp và kiêu mạn
"tôi là ", đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận
khổ đau ngay trong hiện tại. Như thế vị ấy được gọi là người có
tri kiến chính trực, có lòng tin tuyệt đối và thành tựu diệu pháp
này.
2. Tuệ tri thức ăn, tập khởi, đoạn diệt và con
đường đưa đến đoạn diệt thức ăn.
Ở đây cần hiểu "thức ăn" theo nghĩa
rộng, là yếu tố chính làm cho sinh tử tiếp nối không dứt.
3. Tuệ tri Khổ: Khổ, Tập khởi của khổ, đoạn
diệt của khổ và con đường đưa đến đoạn diệt khổ.
Khổ là sinh, già, bệnh, chết, và tất cả khổ
đau trong cuộc tồn sinh khi đã có ra năm uẩn.
Tập khởi của khổ là ái đưa đến tái sinh,
cùng với hỷ và tham, tìm cầu khoái lạc chỗ này chỗ kia. Đoạn diệt
của khổ là ly tham, không còn dư tàn các loại ái. Con đường đưa
đến đoạn diệt khổ là thánh đạo tám ngành.
4. Tuệ tri Già chết: tập khởi, đoạn diệt và
con đường đưa đến đoạn diệt của Già chết.
Từ tập khởi của Sinh, có tập khởi của Già
chết; từ đoạn diệt của Sinh, có đoạn diệt của Già chết. Con đường
đưa đến đoạn diệt của Già chết là thánh đạo tám ngành.
5. Tuệ tri Sinh, tập khởi, đoạn diệt và con
đường đưa đến đoạn diệt của Sinh.
Từ tập khởi của Hữu, có tập khởi của Sinh;
từ đoạn diệt của Hữu, có đoạn diệt của Sinh. Con đường đưa đến
đoạn diệt của Sinh là thánh đạo tám ngành.
6. Tuệ tri Hữu, tập khởi, đoạn diệt và con
đường đưa đến đoạn diệt của Hữu.
Từ tập khởi của Thủ, có tập khởu của Hữu;
từ đoạn diệt của Thủ, có đoạn diệt của Hữu. Con đường đưa đến
đoạn diệt của Hữu là thánh đạo tám ngành.
7. Tuệ tri Thủ, tập khởi, đoạn diệt và con
đường đưa đến đoạn diệt của Thủ.
Từ tập khởi của Ái, có tập khởi của Thủ; từ
đoạn diệt của Ái, có đoạn diệt của Thủ. Con đường đưa đến đoạn
diệt của Thủ là thánh đạo tám ngành.
8. Tuệ tri Ái, tập khởi, đoạn diệt và con
đường đưa đến đoạn diệt của Ái.
Từ tập khởi của Thọ, có tập khởi của Ái; từ
đoạn diệt của thọ, có đoạn diệt của Ái. Con đường đưa đến đoạn
diệt của Ái là thánh đạo tám ngành.
9. Tuệ tri Thọ, tập khởi, đoạn diệt và con
đường đưa đến đoạn diệt của Thọ.
Từ tập khởi của Xúc, có tập khởi của Thọ;
từ đoạn diệt của Xúc, có đoạn diệt của Thọ. Con đường đưa đến
đoạn diệt của Thọ là thánh đạo tám ngành.
10. Tuệ tri Xúc, tập khởi, đoạn diệt và con
đường đưa đến đoạn diệt của xúc.
Từ tập khởi của Sáu nhập, có tập khởi của
Xúc; từ đoạn diệt của Sáu nhập, có đoạn diệt của Xúc. Con đường
đưa đến đoạn diệt của Xúc là thánh đạo tám ngành.
11. Tuệ tri Sáu nhập, tập khởi, đoạn diệt và
con đường đưa đến đoạn diệt Sáu nhập.
Từ tập
khởi của Danh-sắc, có tập khởi của Sáu nhập; từ đoạn diệt của
Danh-sắc, có đoạn diệt của Sáu nhập. Con đường đưa đến đoạn diệt
của Sáu nhập là thánh đạo tám ngành.
12. Tuệ tri Danh-sắc, tập khởi, đoạn diệt và
đường đưa đến đoạn diệt Danh-sắc.
Từ tập khởi của Thức, có tập khởi của
Danh-sắc; từ đoạn diệt của Thức, có đoạn diệt của Danh-sắc. Con
đường đưa đến đoạn diệt của Danh-sắc là thánh đạo tám ngành.
13. Tuệ tri Thức, tập khởi, đoạn diệt và con
đường đưa đến đoạn diệt Thức.
Từ tập khởi của Hành, có tập khởi của Thức;
từ đoạn diệt của Hành, có đoạn diệt của Thức. Con đường đưa đến
đoạn diệt của Thức là thánh đạo tám ngành.
14. Tuệ tri Hành, tập khởi, đoạn diệt và con
đường đưa đến đoạn diệt Hành.
Từ tập khởi của Vô minh, có tập khởi của
Hành; từ đoạn diệt của Vô minh, có đoạn diệt của Hành. Con đường
đưa đến đoạn diệt của Hành là thánh đạo tám ngành.
15. Tuệ tri Vô minh, tập khởi, đoạn diệt và con
đường đưa đến đoạn diệt Vô minh.
Từ tập khởi của Lậu hoặc, có tập khởi của
Vô minh; từ đoạn diệt của Lậu hoặc, có đoạn diệt của Vô minh. Con
đường đưa đến đoạn diệt của Vô minh là thánh đạo tám ngành.
16. Tuệ tri Lậu hoặc, tập khởi, đoạn diệt và
con đường đưa đến đoạn diệt Lậu hoặc.
Từ tập khởi của Vô minh, có tập khởi của Lậu
hoặc; từ đoạn diệt của Vô minh, có đoạn diệt của Lậu hoặc. Con
đường đưa đến đoạn diệt của Lậu hoặc là thánh đạo tám ngành.
III.
Chú giải
Chánh kiến có hai: thế gian và xuất thế. Chánh
kiến thế gian cũng có hai: thấy nhân quả như người ngoài đạo cũng
thấy; và cái thấy phù hợp với bốn thánh đế chỉ có trong Phật
giáo. Chánh kiến xuất thế là tuệ tri Bốn thánh đế nhờ đã đạt bốn
đạo bốn quả. Ở đây tôn giả Xá-lợi-phất ám chỉ chánh kiến xuất
thế gian của bậc hữu học khi nói đến "lòng tin tuyệt đối "
và "thành tựu diệu pháp".
Gốc rễ bất thiện, vì chính tham sân si điều
động tất cả hành vi bất thiện về thân ngữ ý.
Thùy miên khuynh hướng vi tế trong tâm.
Tuệ tri thiện và gốc rễ thiện... Vị thánh đệ
tử tuệ tri bốn điều theo Bốn chân lý: tất cả hành nghiệp thiện bất
thiện là chân lý về Khổ; gốc rễ thiện và bất thiện là chân lý
về Tập; sự không sinh khởi cả hai loại hành vi cùng với gốc rễ của
chúng, là chân lý về Diệt; và con đường để thực hiện Diệt ấy là
chân lý về Đạo. Khi tuệ tri như trên, vị thánh đệ tử đạt đến một
trong các giai đoạn đầu của Hữu học là các đạo quả Dự lưu, Nhất
lai, có chánh kiến siêu thế, nhưng chưa gọi là đã tận trừ các
nhiễm ô phiền não. Đoạn kế tiếp "đoạn trừ tất cả tham sân tùy
miên", cho đến "diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại" là
sự tu tập đạo lộ Bất hoàn cho đến quả vị A-la-hán: tham sân tùy
miên diệt ở Bất hoàn đạo, vô minh và kiến mạn tùy miên "TÔI LÀ"
diệt ở A-la-hán đạo.
Bất thiện là 10 nghiệp ác: 3 thuộc thân, 4
thuộc ngữ và ba thuộc ý: tham, sân, tà kiến. Gốc rễ bất thiện là
tham sân si.
Thiện là từ bỏ 10 bất thiện nói trên. Gốc rễ
thiện là không tham không sân không si.
Thức ăn có bốn loại: đoàn, xúc, tư niệm và
thức. Đoàn thực ("đoàn" là nắm cơm, theo kiểu ăn bốc) nuôi
thể xác hay sắc; xúc thực (sự tiếp xúc căn trần) nuôi thọ; tư
niệm thực nuôi dưỡng thức; thức thực nuôi dưỡng danh sắc.
Tập khởi là nhóm họp nhiều yếu tố để khởi
lên; nói "nguyên nhân" thì dễ hiểu hơn nhưng không lột
hết được ý "duyên khởi" của Phật, là không có cái gì là
"nguyên nhân đầu tiên", cũng không có một nhân duy nhất mà
còn rất nhiều "duyên" hỗ trợ dẫn đến quả.
Ái được gọi là nguồn gốc của thức ăn, vì do
ái trong đời trước mà có ra con người hiện tại tiếp tục lệ thuộc
và tiêu thụ bốn loại thức ăn nói trên. Có ba loại: dục ái (say mê
khoái lạc giác quan), hữu ái (say mê khoái lạc cõi trời) và phi hữu
ái (say mê hư vô tịch mịch).
Mười hai đoạn từ 4 - 15 là 12 chi duyên khởi
theo chiều nghịch, bắt đầu từ già chết. Mười hai chi làm nên
"cây nhân sinh" này theo Thanh tịnh đạo, giống như một dây
leo có 12 đốt, muốn phá bỏ nó để chấm dứt sinh tử luân hồi, ta có
thể nắm bất cứ một đốt nào để lôi tuốt lên cả gốc lẫn ngọn.
Điều cần thiết là phải nắm thật vững chắc, tức là tuệ tri theo
nguyên lý tứ diệu đế.
Hữu có ba, là dục, sắc và vô sắc - Hữu vừa
chỉ cõi vừa chỉ hành nghiệp đưa chúng sinh sinh vào cõi ấy. Cõi
dục là nơi tái sinh của chúng sinh nhiều ham muốn đối với khoái lạc
giác quan. Cõi sắc là nơi chúng sinh tham cái đẹp, như cõi trời ở
cõi dục, vì ham muốn ở đây thanh tao hơn. Cõi vô sắc là nơi chúng
sinh say mê tư duy thiền định. Chúng sinh trong cả ba cõi đều bị trói
buộc và không cố định, ví dụ từ vô sắc có thể đọa xuống cõi sắc
hoặc cõi dục. Như tư tưởng vốn vô sắc nhưng ví dụ nghĩ đến đồ
chua một lát thì miệng có thể ra nhiều nước bọt, thành
"sắc" (sắc có nghĩa là vật chất thô và tế, do 4 đại tạo).
Thủ là sự nắm giữ, chấp chặt. Có 4: dục thủ,
kiến thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ. Dục thủ là chủ trương
hưởng lạc; ngã luận thủ đồng nghĩa với "ngã kiến" hay một
trong 20 quan niệm về bản ngã đề cập trong kinh số 44.
Giới cấm thủ là chủ trương phải tuân giữ
một số nghi thức, khổ hạnh nào đó để thanh lọc tội lỗi. Kiến thủ
là ôm giữ bất cứ một quan điểm nào ngoài hai "thủ" vừa
kể.
Ái có sáu loại do có sáu đối tượng là sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Thọ (cảm nhận, chịu đựng) có sáu loại, phát
sinh do sáu giác quan mắt tai mũi lưỡi thân ý tiếp xúc với đối
tượng.
Xúc có sáu loại do có sáu giác quan: nhãn
xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Sáu nhập còn gọi là sáu căn hay sáu nội xứ,
tức sáu giác quan mắt tai mũi lưỡi thân ý.
Danh sắc: "Danh" gồm 5 pháp là thọ,
tưởng, tư, xúc, tác ý (t "tâm sở biến hành" trong Duy
thức. Ví dụ một cái nhìn đơn thuần là đủ 5 yếu tố: trước hết là
sự tiếp xúc của con mắt với đối tượng, kế đến là tác ý hay để
ý, rồi tưởng hay hoạt động của trí nhớ để đặt tên, xếp loại...
Kèm theo là cảm giác hay thọ là hoạt động của cảm xúc do thói quen.
Cuối cùng tư là hoạt động của ý chí, khuynh hướng ưa, chán hoặc
dửng dưng đối với đối tượng trước mắt). "Sắc" gồm tứ
đại tạo nên thể xác: chất rắn như xương thuộc địa đại, chất lỏng
thuộc thủy đại, hơi ấm thuộc hỏa đại, sự chuyển động hay gió trong
cơ thể thuộc phong đại.
Thức có sáu loại: tức cái biết của mắt vv,
gọi là nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.
Hành ở đây là "khuynh hướng hành
động" hay nghiệp, có ba: thân hành, khẩu hành, ý hành.
Vô minh là không tuệ tri về Khổ, Tập, Diệt,
Đạo.
Lậu hoặc: Có ba lậu hoặc là dục lậu, hữu lậu
và vô minh lậu. Trong lậu hoặc đã có sẵn vô minh. Vô minh sinh ra
lậu hoặc rồi lậu hoặc lại sinh ra vô minh. Nên hiểu là, vô minh
trong một đời nào cũng có cái nhân hay điều kiện là vô minh từ đời
trước đấy. Bởi thế không thể chỉ rõ cái mối đầu của vô minh, và
cũng không có mối đầu cho dòng sinh tử.
IV. Pháp
số
Ba
ái: dục ái, hữu ái, phi hữu ái [tham ngũ dục, tham cõi trời và tham
hư vô].
Ba
hành: thân, ngữ, ý hành.
Ba
lậu hoặc
Ba
thiện căn: vô tham, vô sân, vô si.
Ba
bất thiện căn: tham, sân, si.
Ba
hữu: dục, sắc, và vô sắc.
Bốn
tùy miên: tham, sân, kiến, mạn.
Bốn
thức ăn: Đoàn, xúc, tư niệm, thức.
Bốn
đại sở tạo sắc.
Bốn
chân lý
Bốn
thủ: dục, giới cấm, kiến, ngã luận.
Năm
thủ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức bị chấp thủ là
"tôi"
và "của tôi".
Năm
biến hành tâm sở: xúc, tác, ý, thọ, tưởng, tư.
Sáu
ái: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ái.
Sáu
thọ: thọ do nhãn xúc sinh, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh.
Sáu
xúc: nhãn xúc... ý xúc.
Sáu
nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu cái cửa qua đó ngoại vật
đi vào tâm thức.
Sáu
thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thiệt, thân, ý thức. Tám thánh đạo hay
Thánh đạo tám ngành.
Mười
thiện nghiệp: sự không làm mười bất thiện.
Mười
bất thiện nghiệp: ba của thân là sát, đạo, dâm; 4 ngữ nghiệp là
nói dối, hai lưỡi, thô tục và phù phiếm; 3 của ý là tham, sân và
tà kiến.
Mười
hai nhân duyên: từ vô minh đến già chết.
V. Kệ
tụng
A. Tuệ tri thiện bất thiện:
1.
Chánh tri kiến thành tựu
Khi
vị thánh đệ tử
Tuệ tri thiện bất thiện
Tuệ tri thiện bất thiện
Cùng
gốc rễ của chúng
2.
Bất thiện gồm mười điều:
Sát
sinh và trộm cắp
Tà hạnh trong các dục
Nói dối và đâm thọc
Tà hạnh trong các dục
Nói dối và đâm thọc
Ác
khẩu và thêu dệt
Tham,
sân cùng tà kiến.
Gốc
rễ của bất thiện
Là tham sân và si.
Là tham sân và si.
3.
Thiện là bỏ mười ác
Và
gốc rễ của thiện
Là không tham, sân, si
Là không tham, sân, si
Khi
tuệ tri như vậy
Nhổ
tận tham tùy miên
Và
kiến, mạn tùy miên
Không
còn chấp "Tôi là"
Vô
minh diệt, minh sinh.
B. Tuệ tri thức ăn:
1. Bốn loại thức ăn này:
Đoàn,
xúc, tư niệm, thức
Khiến
dòng sống tiếp tục
Để
tái diễn khổ sầu.
2. Thức ăn này do "ái"
Diệt ái, hết thức ăn
Phương pháp đoạn diệt ái
Là thánh đạo tám ngành.
3. Tuệ tri thức ăn này
Theo nguyên lý Bốn diệu
Đệ tử sạch tham ái
Diệt khổ ngay hiện tại.
4. Nhổ tận tham tùy miên
Và kiến, mạn tùy miên
Không còn chấp "Tôi là"
Vô minh diệt, minh sinh.
C.
Tuệ tri Khổ:
Khổ
là sinh, già chết
Sầu bi khổ não ưu
Kèm theo thân năm uẩn
Sầu bi khổ não ưu
Kèm theo thân năm uẩn
Nguồn
gốc đống khổ này
Là
"ái" khiến tái sinh
Tìm
hỷ lạc cùng khắp:
Dục,
hữu và phi hữu.
Muốn
giải thoát khổ này
Hãy
từ bỏ khát ái
Đoạn
diệt không dư tàn.
Phương
pháp đoạn diệt khổ
Là
tám ngành thánh đạo.
D.
Tuệ tri Già chết
Hoặc
tuệ tri Già chết
Theo
nguyên lý Bốn diệu:
Nỗi
đau ê ẩm này
Không có nếu không sinh
Không có nếu không sinh
Muốn
đoạn trừ Già chết
Hãy
đoạn trừ tái sinh
Con
đường đoạn tận Sinh
Là
tám ngành thánh đạo.
E.
Tuệ tri Sinh
Hoặc
tuệ tri về Sinh
Cùng tập khởi, đoạn diệt.
Cùng tập khởi, đoạn diệt.
Sinh
bắt nguồn từ Hữu
[Khuynh
hướng muốn có mặt]
Muốn
đoạn diệt Sinh
Thì đừng ham có mặt
Con đường đoạn diệt Sinh
Là tám ngành thánh đạo.
Thì đừng ham có mặt
Con đường đoạn diệt Sinh
Là tám ngành thánh đạo.
F.
Tuệ tri Hữu
Hoặc
tuệ tri về Hữu
Tập khởi cùng đoạn diệt.
Tập khởi cùng đoạn diệt.
Có
ba loại hữu này
Dục,
sắc và vô sắc
Hữu là do chấp thủ
Muốn có mặt ở đây
Con đường đoạn diệt Hữu
Hữu là do chấp thủ
Muốn có mặt ở đây
Con đường đoạn diệt Hữu
Là tám
ngành thánh đạo.
G.
Tuệ tri Thủ
Hoặc
tuệ tri về Thủ
Tập khởi cùng đoạn diệt.
Tập khởi cùng đoạn diệt.
Có
bốn chấp thủ này
Dục
thủ và kiến thủ
Giới
thủ và ngã luận
Nguồn
gốc thủ là ái
Diệt ái thì thủ diệt
Con đường đoạn diệt
Diệt ái thì thủ diệt
Con đường đoạn diệt
Thủ
Là tám ngành thánh đạo.
H. Tuệ tri Ái
Hoặc
tuệ tri về Ái
Tập khởi cùng đoạn diệt.
Tập khởi cùng đoạn diệt.
Ái
gồm có sáu loại
Yêu sắc, thanh, hương, vị
Yêu sắc, thanh, hương, vị
Xúc,
và pháp vô hình.
Nguồn
gốc ái là thọ
Dứt thọ thì ái diệt
Con đường đoạn diệt Ái
Dứt thọ thì ái diệt
Con đường đoạn diệt Ái
Là
tám ngành thánh đạo.
I.
Tuệ tri Thọ
Hoặc
tuệ tri về Thọ
Tập khởi cùng đoạn diệt
Tập khởi cùng đoạn diệt
Có
sáu loại thọ này
Do
có sáu giác quan
Nên nguồn gốc của Thọ
Nên nguồn gốc của Thọ
Là
căn, trần tiếp xúc
Dứt xúc thì thọ diệt
Con đường đoạn diệt Thọ
Dứt xúc thì thọ diệt
Con đường đoạn diệt Thọ
Là
tám ngành thánh đạo.
J.
Tuệ tri Xúc
Hoặc
tuệ tri về Xúc
Tập khởi cùng đoạn diệt
Tập khởi cùng đoạn diệt
Có
sáu loại xúc này
Do
có sáu giác quan
Nên nguồn gốc của Xúc
Là mắt tai mũi lưỡi...
Không giác quan, không xúc
Nên nguồn gốc của Xúc
Là mắt tai mũi lưỡi...
Không giác quan, không xúc
Con
đường đoạn diệt
Xúc
Là tám ngành thánh đạo.
K.
Tuệ tri Sáu nhập:
Hoặc
tuệ tri Sáu nhập:
Qua
đó sáu đối tượng
Đi vào trong tâm thức
Đi vào trong tâm thức
Còn
gọi "sáu giác quan".
Nguồn
gốc của Sáu nhập
Chính
là danh và sắc:
Diệt được cái nguồn gốc
Diệt được cái nguồn gốc
Thì
sáu nhập không sinh.
Con
đường đoạn Sáu nhập
Là
tánh ngành thánh đạo.
L.
Tuệ tri Danh sắc
Hoặc
tuệ tri Danh sắc
Sắc
là thân vật lý
Phần tâm lý là danh
Phần tâm lý là danh
Nguồn
gốc nó là Thức
Diệt
được cái nguồn gốc
Thì
danh sắc không sinh.
Con
đường đoạn Danh sắc
Là
tám ngành thánh đạo.
M.
Tuệ tri Thức
Hoặc tuệ tri về Thức
Gồm s’au loại tất cả
Cùng tập khởi, đoạn diệt
Nguồn gốc nó là Hành
Diệt được cái nguồn gốc
Thì Thức sẽ không sinh
Con đường đoạn diệt Thức
Là tám ngành thánh đạo.
N.
Tuệ tri về Hành
Hoặc tuệ tri về Hành
Gồm ba: thân, ngữ, ý
Cùng tập khởi, đoạn diệt
Nguồn gốc là Vô minh
Diệt được cái nguồn gốc
Thì Hành sẽ không sinh
Con đường đoạn diệt ấy
Là tám ngành thánh đạo.
O.
Tuệ tri vô minh
Hoặc
tuệ tri Vô minh
Cùng
tập khởi, đoạn diệt
Vô
minh là không sáng
Đối
với bốn chân lý.
Vô minh do Lậu hoặc
Vô minh do Lậu hoặc
Diệt
được gốc của nó
Thì vô minh cũng diệt
Thì vô minh cũng diệt
Con
đường đoạn Vô minh
Là
tám ngành thánh đạo.
P.
Tuệ tri Lậu hoặc
Hoặc tuệ tri Lậu hoặc
Gồm dục, hữu, vô minh
Vô minh sinh ba hoặc
Ba hoặc dưỡng vô minh.
Dứt sạch được vô minh
Thì không còn lậu hoặc.
Con đường đoạn Lậu hoặc
Là tám ngành thánh đạo.
KẾT:
Ai
tuệ tri như vậy
Là có chính tri kiến
Có đức tin chân chính
Là có chính tri kiến
Có đức tin chân chính
Thành
tựu diệu pháp này.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
9. Sammādiṭṭhisuttaṃ [Mūla]
89. Evaṃ me sutaṃ
: ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Tatra kho āyasmā sāriputto bhikkhū āmantesi : ''āvuso bhikkhaveti. ''Āvusoti
kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa paccassosuṃ. Āyasmā sāriputto etadavoca :
'''sammādiṭṭhi [sammādiṭṭhī (sī. syā.)] sammādiṭṭhīti, āvuso, vuccati.
Kittāvatā nu kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti? ''dūratopi kho
mayaṃ, āvuso, āgaccheyyāma āyasmato sāriputtassa santike etassa bhāsitassa
atthamaññātuṃ. Sādhu vatāyasmantaṃyeva sāriputtaṃ paṭibhātu etassa bhāsitassa
attho. Āyasmato sāriputtassa sutvā bhikkhū dhāressantīti. ''Tena hi, āvuso, suṇātha,
sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmīti. ''Evamāvusoti kho te bhikkhū āyasmato
sāriputtassa paccassosuṃ. Āyasmā sāriputto etadavoca : ''yato kho, āvuso,
ariyasāvako akusalañca pajānāti, akusalamūlañca pajānāti, kusalañca pajānāti,
kusalamūlañca pajānāti : ettāvatāpi kho,
āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme
aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ
saddhammaṃ. Katamaṃ panāvuso, akusalaṃ, katamaṃ akusalamūlaṃ, katamaṃ kusalaṃ,
katamaṃ kusalamūlaṃ? pāṇātipāto kho, āvuso, akusalaṃ, adinnādānaṃ akusalaṃ,
kāmesumicchācāro akusalaṃ, musāvādo akusalaṃ, pisuṇā vācā [pisuṇavācā (ka.)]
akusalaṃ, pharusā vācā [pharusavācā (ka.)] akusalaṃ, samphappalāpo akusalaṃ,
abhijjhā akusalaṃ, byāpādo akusalaṃ, micchādiṭṭhi akusalaṃ : idaṃ vuccatāvuso
akusalaṃ. Katamañcāvuso, akusalamūlaṃ? lobho akusalamūlaṃ, doso akusalamūlaṃ,
moho akusalamūlaṃ : idaṃ vuccatāvuso, akusalamūlaṃ. ''Katamañcāvuso , kusalaṃ? pāṇātipātā veramaṇī kusalaṃ,
adinnādānā veramaṇī kusalaṃ, kāmesumicchācārā veramaṇī kusalaṃ, musāvādā veramaṇī
kusalaṃ, pisuṇāya vācāya veramaṇī kusalaṃ, pharusāya vācāya veramaṇī kusalaṃ,
samphappalāpā veramaṇī kusalaṃ, anabhijjhā kusalaṃ, abyāpādo kusalaṃ, sammādiṭṭhi
kusalaṃ : idaṃ vuccatāvuso, kusalaṃ. Katamañcāvuso, kusalamūlaṃ? alobho
kusalamūlaṃ, adoso kusalamūlaṃ, amoho kusalamūlaṃ : idaṃ vuccatāvuso, kusalamūlaṃ.
''Yato kho, āvuso, ariyasāvako evaṃ akusalaṃ pajānāti, evaṃ akusalamūlaṃ
pajānāti, evaṃ kusalaṃ pajānāti, evaṃ kusalamūlaṃ pajānāti, so sabbaso
rāgānusayaṃ pahāya, paṭighānusayaṃ paṭivinodetvā, 'asmīti diṭṭhimānānusayaṃ
samūhanitvā, avijjaṃ pahāya vijjaṃ uppādetvā, diṭṭhevadhamme dukkhassantakaro
hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato,
āgato imaṃ saddhammanti.
90. ''Sādhāvusoti kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa
bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ uttari [uttariṃ (sī.
syā. pī.)] pañhaṃ apucchuṃ [apucchiṃsu (syā.)] : ''siyā panāvuso, aññopi
pariyāyo yathā ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme
aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti? ''siyā, āvuso. Yato kho,
āvuso, ariyasāvako āhārañca pajānāti, āhārasamudayañca pajānāti,
āhāranirodhañca pajānāti, āhāranirodhagāminiṃ paṭipadañca pajānāti : ettāvatāpi
kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena
samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ.
Katamo panāvuso, āhāro, katamo āhārasamudayo, katamo āhāranirodho, katamā
āhāranirodhagāminī paṭipadā? cattārome, āvuso, āhārā bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā,
sambhavesīnaṃ vā anuggahāya. Katame cattāro? kabaḷīkāro āhāro oḷāriko vā sukhumo vā, phasso dutiyo, manosañcetanā
tatiyā, viññāṇaṃ catutthaṃ. Taṇhāsamudayā āhārasamudayo, taṇhānirodhā
āhāranirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo āhāranirodhagāminī paṭipadā,
seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo
sammāvācā sammākammanto , sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi. ''Yato
kho, āvuso, ariyasāvako evaṃ āhāraṃ pajānāti, evaṃ āhārasamudayaṃ pajānāti, evaṃ
āhāranirodhaṃ pajānāti, evaṃ āhāranirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so sabbaso
rāgānusayaṃ pahāya, paṭighānusayaṃ paṭivinodetvā, 'asmīti diṭṭhimānānusayaṃ
samūhanitvā, avijjaṃ pahāya vijjaṃ uppādetvā, diṭṭhevadhamme dukkhassantakaro
hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti.
91. ''Sādhāvusoti kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa
bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ uttari pañhaṃ apucchuṃ :
''siyā panāvuso, aññopi pariyāyo yathā ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa
diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti? ''siyā,
āvuso. Yato kho, āvuso, ariyasāvako dukkhañca pajānāti, dukkhasamudayañca
pajānāti, dukkhanirodhañca pajānāti, dukkhanirodhagāminiṃ paṭipadañca pajānāti
: ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamaṃ panāvuso,
dukkhaṃ, katamo dukkhasamudayo, katamo dukkhanirodho, katamā
dukkhanirodhagāminī paṭipadā? jātipi dukkhā, jarāpi dukkhā, maraṇampi dukkhaṃ,
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsāpi dukkhā, appiyehi sampayogopi dukkho, piyehi
vippayogopi dukkho, yampicchaṃ na
labhati tampi dukkhaṃ, saṃkhittena pañcupādānakkhandhā
[pañcupādānakkhandhāpi (ka.)] dukkhā : idaṃ vuccatāvuso, dukkhaṃ. Katamo
cāvuso, dukkhasamudayo? yāyaṃ taṇhā
ponobbhavikā nandīrāgasahagatā [ponobhavikā (sī. pī.)]
tatratatrābhinandinī [nandirāgasahagatā (sī. pī.)], seyyathidaṃ, kāmataṇhā
bhavataṇhā vibhavataṇhā : ayaṃ
vuccatāvuso, dukkhasamudayo. Katamo cāvuso, dukkhanirodho? yo tassāyeva taṇhāya
asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo : ayaṃ vuccatāvuso,
dukkhanirodho. Katamā cāvuso, dukkhanirodhagāminī paṭipadā? ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ, sammādiṭṭhi
- pe - sammāsamādhi : ayaṃ vuccatāvuso, dukkhanirodhagāminī paṭipadā. ''Yato
kho, āvuso, ariyasāvako evaṃ dukkhaṃ pajānāti, evaṃ dukkhasamudayaṃ pajānāti,
evaṃ dukkhanirodhaṃ pajānāti, evaṃ dukkhanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so
sabbaso rāgānusayaṃ pahāya, paṭighānusayaṃ paṭivinodetvā, 'asmīti diṭṭhimānānusayaṃ
samūhanitvā, avijjaṃ pahāya vijjaṃ uppādetvā, diṭṭhevadhamme dukkhassantakaro
hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti.
92. ''Sādhāvusoti kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa
bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ uttari pañhaṃ apucchuṃ :
''siyā panāvuso, aññopi pariyāyo yathā ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa
diṭṭhi, dhamme aveccappasādena
samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti? ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso,
ariyasāvako jarāmaraṇañca pajānāti, jarāmaraṇasamudayañca pajānāti, jarāmaraṇanirodhañca
pajānāti, jarāmaraṇanirodhagāminiṃ paṭipadañca pajānāti : ettāvatāpi kho,
āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena
samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamaṃ panāvuso, jarāmaraṇaṃ, katamo
jarāmaraṇasamudayo, katamo jarāmaraṇanirodho, katamā jarāmaraṇanirodhagāminī paṭipadā?
yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhi tamhi sattanikāye jarā jīraṇatā khaṇḍiccaṃ
pāliccaṃ valittacatā āyuno saṃhāni indriyānaṃ paripāko : ayaṃ vuccatāvuso,
jarā. Katamañcāvuso, maraṇaṃ? yā [yaṃ (pī. ka.), satipaṭṭhānasuttepi] tesaṃ
tesaṃ sattānaṃ tamhā tamhā sattanikāyā
cuti cavanatā bhedo antaradhānaṃ maccu maraṇaṃ kālaṃkiriyā khandhānaṃ bhedo, kaḷevarassa
nikkhepo, jīvitindriyassupacchedo : idaṃ vuccatāvuso, maraṇaṃ. Iti ayañca jarā
idañca maraṇaṃ : idaṃ vuccatāvuso, jarāmaraṇaṃ. Jātisamudayā jarāmaraṇasamudayo,
jātinirodhā jarāmaraṇanirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo jarāmaraṇanirodhagāminī
paṭipadā, seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi. ''Yato kho, āvuso, ariyasāvako evaṃ jarāmaraṇaṃ
pajānāti, evaṃ jarāmaraṇasamudaṃ pajānāti, evaṃ jarāmaraṇanirodhaṃ pajānāti,
evaṃ jarāmaraṇanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ
pajānāti, so sabbaso rāgānusayaṃ pahāya - pe - dukkhassantakaro hoti :
ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme
aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti.
93. ''Sādhāvusoti kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso -
pe - ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso,
ariyasāvako jātiñca pajānāti, jātisamudayañca pajānāti, jātinirodhañca
pajānāti, jātinirodhagāminiṃ paṭipadañca pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso,
ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena
samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamā panāvuso, jāti, katamo jātisamudayo,
katamo jātinirodho, katamā jātinirodhagāminī paṭipadā? yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ
tamhi tamhi sattanikāye jāti sañjāti okkanti abhinibbatti khandhānaṃ pātubhāvo,
āyatanānaṃ paṭilābho : ayaṃ vuccatāvuso, jāti. Bhavasamudayā jātisamudayo,
bhavanirodhā jātinirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo jātinirodhagāminī paṭipadā,
seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi. ''Yato kho, āvuso, ariyasāvako
evaṃ jātiṃ pajānāti, evaṃ jātisamudayaṃ pajānāti, evaṃ jātinirodhaṃ pajānāti,
evaṃ jātinirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so sabbaso rāgānusayaṃ pahāya - pe
- dukkhassantakaro hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato,
āgato imaṃ saddhammanti.
94. ''Sādhāvusoti kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso -
pe - ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso, ariyasāvako bhavañca pajānāti,
bhavasamudayañca pajānāti, bhavanirodhañca pajānāti, bhavanirodhagāminiṃ paṭipadañca
pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ
saddhammaṃ. Katamo panāvuso, bhavo, katamo bhavasamudayo, katamo
bhavanirodho, katamā bhavanirodhagāminī paṭipadā? tayome, āvuso, bhavā :
kāmabhavo, rūpabhavo, arūpabhavo. Upādānasamudayā bhavasamudayo, upādānanirodhā
bhavanirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo bhavanirodhagāminī paṭipadā,
seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi. ''Yato kho, āvuso, ariyasāvako
evaṃ bhavaṃ pajānāti, evaṃ bhavasamudayaṃ pajānāti, evaṃ bhavanirodhaṃ
pajānāti, evaṃ bhavanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so sabbaso rāgānusayaṃ
pahāya - pe - dukkhassantakaro hoti. Ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi
hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ
saddhammanti.
95. ''Sādhāvusoti kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso -
pe - ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso, ariyasāvako upādānañca pajānāti,
upādānasamudayañca pajānāti,
upādānanirodhañca pajānāti, upādānanirodhagāminiṃ paṭipadañca pajānāti :
ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme
aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamaṃ panāvuso, upādānaṃ,
katamo upādānasamudayo, katamo upādānanirodho, katamā upādānanirodhagāminī paṭipadā?
cattārimāni, āvuso, upādānāni : kāmupādānaṃ,
diṭṭhupādānaṃ, sīlabbatupādānaṃ, attavādupādānaṃ. Taṇhāsamudayā
upādānasamudayo, taṇhānirodhā upādānanirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo upādānanirodhagāminī paṭipadā,
seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi. ''Yato kho, āvuso, ariyasāvako
evaṃ upādānaṃ pajānāti, evaṃ upādānasamudayaṃ pajānāti, evaṃ upādānanirodhaṃ
pajānāti, evaṃ upādānanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so sabbaso rāgānusayaṃ
pahāya - pe - dukkhassantakaro hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako
sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato
imaṃ saddhammanti.
96. ''Sādhāvusoti
kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso - pe - ''siyā, āvuso. Yato kho,
āvuso, ariyasāvako taṇhañca pajānāti, taṇhāsamudayañca pajānāti, taṇhānirodhañca
pajānāti, taṇhānirodhagāminiṃ paṭipadañca pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso,
ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamā
panāvuso, taṇhā, katamo taṇhāsamudayo, katamo taṇhānirodho, katamā taṇhānirodhagāminī
paṭipadā? chayime, āvuso, taṇhākāyā : rūpataṇhā, saddataṇhā, gandhataṇhā,
rasataṇhā, phoṭṭhabbataṇhā, dhammataṇhā. Vedanāsamudayā taṇhāsamudayo,
vedanānirodhā taṇhānirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo taṇhānirodhagāminī
paṭipadā, seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi. ''Yato kho, āvuso,
ariyasāvako evaṃ taṇhaṃ pajānāti, evaṃ taṇhāsamudayaṃ pajānāti, evaṃ taṇhānirodhaṃ
pajānāti, evaṃ taṇhānirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so sabbaso rāgānusayaṃ
pahāya - pe - dukkhassantakaro hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako
sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato
imaṃ saddhammanti.
97. ''Sādhāvusoti kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso -
pe - ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso, ariyasāvako vedanañca pajānāti,
vedanāsamudayañca pajānāti, vedanānirodhañca pajānāti, vedanānirodhagāminiṃ paṭipadañca
pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako
sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato,
āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamā panāvuso, vedanā, katamo vedanāsamudayo, katamo
vedanānirodho, katamā vedanānirodhagāminī
paṭipadā? chayime, āvuso, vedanākāyā : cakkhusamphassajā vedanā,
sotasamphassajā vedanā, ghānasamphassajā vedanā, jivhāsamphassajā vedanā,
kāyasamphassajā vedanā, manosamphassajā vedanā. Phassasamudayā vedanāsamudayo,
phassanirodhā vedanānirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo vedanānirodhagāminī
paṭipadā, seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi. ''Yato kho, āvuso, ariyasāvako evaṃ vedanaṃ
pajānāti, evaṃ vedanāsamudayaṃ pajānāti, evaṃ vedanānirodhaṃ pajānāti, evaṃ
vedanānirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so sabbaso rāgānusayaṃ pahāya - pe -
dukkhassantakaro hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti,
ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti.
98. ''Sādhāvusoti kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso -
pe - ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso, ariyasāvako phassañca pajānāti,
phassasamudayañca pajānāti, phassanirodhañca pajānāti, phassanirodhagāminiṃ paṭipadañca
pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamo panāvuso,
phasso, katamo phassasamudayo, katamo phassanirodho, katamā phassanirodhagāminī
paṭipadā? chayime, āvuso, phassakāyā : cakkhusamphasso, sotasamphasso ,
ghānasamphasso, jivhāsamphasso, kāyasamphasso, manosamphasso. Saḷāyatanasamudayā
phassasamudayo, saḷāyatananirodhā phassanirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo
phassanirodhagāminī paṭipadā, seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi.
''Yato kho, āvuso, ariyasāvako evaṃ phassaṃ pajānāti, evaṃ phassasamudayaṃ
pajānāti, evaṃ phassanirodhaṃ pajānāti, evaṃ phassanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ
pajānāti, so sabbaso rāgānusayaṃ pahāya - pe - dukkhassantakaro hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako
sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato
imaṃ saddhammanti.
99. ''Sādhāvusoti kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso -
pe - ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso, ariyasāvako saḷāyatanañca pajānāti, saḷāyatanasamudayañca
pajānāti, saḷāyatananirodhañca pajānāti, saḷāyatananirodhagāminiṃ paṭipadañca
pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato,
āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamaṃ panāvuso, saḷāyatanaṃ, katamo saḷāyatanasamudayo,
katamo saḷāyatananirodho, katamā saḷāyatananirodhagāminī paṭipadā ? chayimāni,
āvuso, āyatanāni : cakkhāyatanaṃ, sotāyatanaṃ, ghānāyatanaṃ, jivhāyatanaṃ,
kāyāyatanaṃ, manāyatanaṃ. Nāmarūpasamudayā saḷāyatanasamudayo, nāmarūpanirodhā
saḷāyatananirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo saḷāyatananirodhagāminī paṭipadā,
seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi. ''Yato kho, āvuso, ariyasāvako
evaṃ saḷāyatanaṃ pajānāti, evaṃ saḷāyatanasamudayaṃ pajānāti, evaṃ saḷāyatananirodhaṃ
pajānāti , evaṃ saḷāyatananirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so sabbaso
rāgānusayaṃ pahāya...pe... dukkhassantakaro hoti : ettāvatāpi kho, āvuso,
ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena
samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti.
100. ''Sādhāvusoti kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso -
pe - ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso, ariyasāvako nāmarūpañca pajānāti,
nāmarūpasamudayañca pajānāti, nāmarūpanirodhañca pajānāti,
nāmarūpanirodhagāminiṃ paṭipadañca pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso,
ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena
samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamaṃ panāvuso, nāmarūpaṃ, katamo
nāmarūpasamudayo, katamo nāmarūpanirodho, katamā nāmarūpanirodhagāminī paṭipadā?
vedanā, saññā, cetanā, phasso, manasikāro
: idaṃ vuccatāvuso, nāmaṃ cattāri ca mahābhūtāni, catunnañca mahābhūtānaṃ
upādāyarūpaṃ : idaṃ vuccatāvuso, rūpaṃ. Iti idañca nāmaṃ idañca rūpaṃ : idaṃ
vuccatāvuso, nāmarūpaṃ. Viññāṇasamudayā nāmarūpasamudayo, viññāṇanirodhā
nāmarūpanirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo nāmarūpanirodhagāminī paṭipadā,
seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi. ''Yato kho, āvuso, ariyasāvako
evaṃ nāmarūpaṃ pajānāti, evaṃ
nāmarūpasamudayaṃ pajānāti, evaṃ nāmarūpanirodhaṃ pajānāti, evaṃ
nāmarūpanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so sabbaso rāgānusayaṃ pahāya - pe - dukkhassantakaro
hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti.
101. ''Sādhāvusoti kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso -
pe - ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso, ariyasāvako viññāṇañca pajānāti, viññāṇasamudayañca
pajānāti, viññāṇanirodhañca pajānāti, viññāṇanirodhagāminiṃ paṭipadañca
pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamaṃ panāvuso,
viññāṇaṃ, katamo viññāṇasamudayo, katamo viññāṇanirodho, katamā viññāṇanirodhagāminī
paṭipadā? chayime, āvuso, viññāṇakāyā : cakkhuviññāṇaṃ, sotaviññāṇaṃ,
ghānaviññāṇaṃ, jivhāviññāṇaṃ, kāyaviññāṇaṃ, manoviññāṇaṃ. Saṅkhārasamudayā
viññāṇasamudayo, saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo
viññāṇanirodhagāminī paṭipadā, seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi.
''Yato kho, āvuso, ariyasāvako evaṃ viññāṇaṃ pajānāti, evaṃ viññāṇasamudayaṃ
pajānāti, evaṃ viññāṇanirodhaṃ pajānāti, evaṃ viññāṇanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ
pajānāti , so sabbaso rāgānusayaṃ pahāya
- pe - dukkhassantakaro hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi
hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ
saddhammanti.
102. ''Sādhāvusoti
kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso - pe - ''siyā, āvuso. Yato kho,
āvuso, ariyasāvako saṅkhāre ca pajānāti, saṅkhārasamudayañca pajānāti, saṅkhāranirodhañca
pajānāti, saṅkhāranirodhagāminiṃ paṭipadañca pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso,
ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena
samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katame panāvuso, saṅkhārā, katamo saṅkhārasamudayo,
katamo saṅkhāranirodho, katamā saṅkhāranirodhagāminī
paṭipadā? tayome, āvuso, saṅkhārā : kāyasaṅkhāro, vacīsaṅkhāro, cittasaṅkhāro.
Avijjāsamudayā saṅkhārasamudayo, avijjānirodhā saṅkhāranirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko
maggo saṅkhāranirodhagāminī paṭipadā, seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe -
sammāsamādhi. ''Yato kho, āvuso, ariyasāvako evaṃ saṅkhāre pajānāti, evaṃ saṅkhārasamudayaṃ
pajānāti, evaṃ saṅkhāranirodhaṃ pajānāti, evaṃ saṅkhāranirodhagāminiṃ paṭipadaṃ
pajānāti, so sabbaso rāgānusayaṃ pahāya, paṭighānusayaṃ paṭivinodetvā, 'asmīti
diṭṭhimānānusayaṃ samūhanitvā, avijjaṃ pahāya vijjaṃ uppādetvā, diṭṭheva dhamme
dukkhassantakaro hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti,
ujugatāssa diṭṭhi, dhamme
aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti.
103. ''Sādhāvusoti kho - pe - apucchuṃ : siyā panāvuso -
pe - ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso, ariyasāvako avijjañca pajānāti,
avijjāsamudayañca pajānāti, avijjānirodhañca pajānāti, avijjānirodhagāminiṃ paṭipadañca
pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamā panāvuso,
avijjā, katamo avijjāsamudayo, katamo avijjānirodho, katamā avijjānirodhagāminī
paṭipadā? yaṃ kho, āvuso, dukkhe aññāṇaṃ, dukkhasamudaye aññāṇaṃ, dukkhanirodhe
aññāṇaṃ, dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya aññāṇaṃ : ayaṃ vuccatāvuso, avijjā.
Āsavasamudayā avijjāsamudayo, āsavanirodhā avijjānirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko
maggo avijjānirodhagāminī paṭipadā, seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe -
sammāsamādhi. ''Yato kho, āvuso,
ariyasāvako evaṃ avijjaṃ pajānāti, evaṃ avijjāsamudayaṃ pajānāti, evaṃ
avijjānirodhaṃ pajānāti, evaṃ avijjānirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so
sabbaso rāgānusayaṃ pahāya, paṭighānusayaṃ paṭivinodetvā, 'asmīti diṭṭhimānānusayaṃ
samūhanitvā, avijjaṃ pahāya vijjaṃ uppādetvā, diṭṭheva dhamme dukkhassantakaro
hoti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako
sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato,
āgato imaṃ saddhammanti.
104. ''Sādhāvusoti
kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā
āyasmantaṃ sāriputtaṃ uttari pañhaṃ apucchuṃ : ''siyā panāvuso, aññopi
pariyāyo yathā ariyasāvako sammādiṭṭhi
hoti, ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ
saddhammanti? ''siyā, āvuso. Yato kho, āvuso, ariyasāvako āsavañca pajānāti,
āsavasamudayañca pajānāti, āsavanirodhañca pajānāti, āsavanirodhagāminiṃ paṭipadañca
pajānāti : ettāvatāpi kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, ujugatāssa diṭṭhi,
dhamme aveccappasādena samannāgato, āgato imaṃ saddhammaṃ. Katamo panāvuso,
āsavo, katamo āsavasamudayo, katamo āsavanirodho, katamā āsavanirodhagāminī paṭipadāti?
tayome, āvuso, āsavā : kāmāsavo, bhavāsavo, avijjāsavo. Avijjāsamudayā
āsavasamudayo, avijjānirodhā āsavanirodho, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo
āsavanirodhagāminī paṭipadā, seyyathidaṃ : sammādiṭṭhi - pe - sammāsamādhi.
''Yato kho, āvuso, ariyasāvako evaṃ āsavaṃ pajānāti, evaṃ āsavasamudayaṃ
pajānāti, evaṃ āsavanirodhaṃ pajānāti,
evaṃ āsavanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ pajānāti, so sabbaso rāgānusayaṃ pahāya, paṭighānusayaṃ
paṭivinodetvā, 'asmīti diṭṭhimānānusayaṃ samūhanitvā, avijjaṃ pahāya vijjaṃ
uppādetvā, diṭṭheva dhamme dukkhassantakaro hoti : ettāvatāpi kho, āvuso,
ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti , ujugatāssa diṭṭhi, dhamme aveccappasādena
samannāgato, āgato imaṃ saddhammanti. Idamavocāyasmā sāriputto. Attamanā te
bhikkhū āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ abhinandunti.
Sammādiṭṭhisuttaṃ
niṭṭhitaṃ navamaṃ. [Ito paraṃ kesuci potthakesu imāpi gāthāyo evaṃ dissanti :
dukkhaṃ jarāmaraṇaṃ upādānaṃ, saḷāyatanaṃ nāmarūpaṃ. Viññāṇaṃ yā sā pare,
katamā panāvuso padānaṃ.. Kiṃ jāti taṇhā ca vedanā, avijjāya catukkanayo.
Cattāri pare katamā, panāvuso padānaṃ kevalaṃ.. Āhāro ca bhavo phasso, saṅkhāro
āsavapañcamo. Yāva pañca pare katamā, panāvuso padānaṃ kiṃ.. Katamanti
chabbidhā vuttaṃ, katamāni catubbidhāni. Katamo pañcavidho vutto, sabbesaṃ
ekasaṅkhānaṃ pañcanayapadāni cāti.. ]
-ooOoo-
9. Sammādiṭṭhisuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
89. Evaṃ me sutanti sammādiṭṭhisuttaṃ. Tattha ‘‘sammādiṭṭhi
sammādiṭṭhīti, āvuso, vuccati, kittāvatā nu kho, āvuso’’ti vā ‘‘katamaṃ
panāvuso, akusala’’nti vā evaṃ yattakā therena pucchā vuttā, sabbā
kathetukamyatā pucchā eva.
Tattha
yasmā jānantāpi sammādiṭṭhīti vadanti ajānantāpi bāhirakāpi sāsanikāpi
anussavādivasenāpi attapaccakkhenāpi, tasmā taṃ bahūnaṃ vacanaṃ upādāya
dvikkhattuṃ āmasanto ‘‘sammādiṭṭhi sammādiṭṭhīti, āvuso, vuccatī’’ti āha.
Ayañhi ettha adhippāyo, aparehipi sammādiṭṭhīti vuccati, athāparehipi sammādiṭṭhīti
vuccati, svāyaṃ evaṃ vuccamāno atthañca lakkhaṇañca upādāya kittāvatā nu kho,
āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hotīti. Tattha sammādiṭṭhīti sobhanāya
pasatthāya ca diṭṭhiyā samannāgato. Yadā pana dhammeyeva ayaṃ sammādiṭṭhisaddo
vattati, tadāssa sobhanā pasatthā ca diṭṭhi sammādiṭṭhīti evamattho veditabbo.
Sā cāyaṃ
sammādiṭṭhi duvidhā hoti lokiyā lokuttarāti. Tattha kammassakatāñāṇaṃ
saccānulomikañāṇañca lokiyā sammādiṭṭhi, saṅkhepato vā sabbāpi sāsavā paññā.
Ariyamaggaphalasampayuttā paññā lokuttarā sammādiṭṭhi. Puggalo pana tividho
hoti puthujjano sekkho asekkho ca. Tattha puthujjano duvidho hoti bāhirako
sāsaniko ca. Tattha bāhirako kammavādī kammassakatādiṭṭhiyā sammādiṭṭhi hoti,
no saccānulomikāya attadiṭṭhiparāmāsakattā. Sāsaniko dvīhipi. Sekkho niyatāya
sammādiṭṭhiyā sammādiṭṭhi. Asekkho asekkhāya. Idha pana niyatāya niyyānikāya
lokuttarakusalasammādiṭṭhiyā samannāgato ‘‘sammādiṭṭhī’’ti adhippeto. Tenevāha
‘‘ujugatāssa diṭṭhi dhamme aveccappasādena samannāgato āgato imaṃ saddhamma’’nti,
lokuttarakusalasammādiṭṭhiyeva hi antadvayamanupagamma ujubhāvena gatattā,
kāyavaṅkādīni ca sabbavaṅkāni samucchinditvā gatattā ujugatā hoti, tāyeva ca diṭṭhiyā
samannāgato navappakārepi lokuttaradhamme aveccappasādena acalappasādena
samannāgato hoti, sabbadiṭṭhigahanāni ca vinibbeṭhento sabbakilese pajahanto
jātisaṃsārā nikkhamanto paṭipattiṃ pariniṭṭhapento ariyena maggena āgato imaṃ
sambuddhappaveditaṃ amatogadhaṃ nibbānasaṅkhātaṃ saddhammanti vuccati.
Yato khoti kālaparicchedavacanametaṃ,
yasmiṃ kāleti vuttaṃ hoti. Akusalañca pajānātīti dasākusalakammapathasaṅkhātaṃ
akusalañca pajānāti, nirodhārammaṇāya pajānanāya kiccavasena ‘‘idaṃ dukkha’’nti
paṭivijjhanto akusalaṃ pajānāti. Akusalamūlañca pajānātīti tassa mūlapaccayabhūtaṃ
akusalamūlañca pajānāti, teneva pakārena ‘‘ayaṃ dukkhasamudayo’’ti paṭivijjhanto.
Esa nayo kusalañca kusalamūlañcāti etthāpi. Yathā cettha, evaṃ ito paresu
sabbavāresu kiccavaseneva vatthupajānanā veditabbā. Ettāvatāpīti ettakena iminā
akusalādippajānanenāpi. Sammādiṭṭhi hotīti vuttappakārāya lokuttarasammādiṭṭhiyā
samannāgato hoti. Ujugatāssa…pe… imaṃ saddhammanti ettāvatā saṃkhittadesanā niṭṭhitā
hoti. Desanāyeva cesā saṃkhittā, tesaṃ pana bhikkhūnaṃ vitthāravaseneva
sammāmanasikārappaṭivedho veditabbo.
Dutiyavāre
pana desanāpi vitthārena manasikārappaṭivedhopi vitthāreneva vuttoti veditabbo.
Tattha ‘‘saṃkhittadesanāya dve heṭṭhimamaggā, vitthāradesanāya dve uparimamaggā
kathitā’’ti bhikkhū āhaṃsu vitthāradesanāvasāne ‘‘sabbaso rāgānusayaṃ pahāyā’’tiādivacanaṃ
sampassamānā. Thero panāha ‘‘saṃkhittadesanāyapi cattāro maggā rāsito kathitā,
vitthāradesanāyapī’’ti. Yā cāyaṃ idha saṃkhittavitthāradesanāsu vicāraṇā
āvikatā, sā sabbavāresu idha vuttanayeneva veditabbā. Apubbānuttānapadavaṇṇanāmattameva
hi ito paraṃ karissāma.
Akusalakammapathavaṇṇanā
Tattha paṭhamavārassa
tāva vitthāradesanāya ‘‘pāṇātipāto kho, āvuso, akusala’’ntiādīsu
akosallappavattiyā akusalaṃ veditabbaṃ, parato vattabbakusalappaṭipakkhato vā.
Taṃ lakkhaṇato sāvajjadukkhavipākaṃ saṃkiliṭṭhaṃ vā. Ayaṃ tāvettha sādhāraṇapadavaṇṇanā.
Asādhāraṇesu
pana pāṇassa atipāto pāṇātipāto, pāṇavadho pāṇaghātoti vuttaṃ hoti. Pāṇoti
cettha vohārato satto, paramatthato jīvitindriyaṃ. Tasmiṃ pana pāṇe pāṇasaññino
jīvitindriyupacchedakaupakkamasamuṭṭhāpikā kāyavacīdvārānaṃ
aññataradvārappavattā vadhakacetanā pāṇātipāto. So guṇavirahitesu
tiracchānagatādīsu pāṇesu khuddake pāṇe appasāvajjo, mahāsarīre mahāsāvajjo.
Kasmā? Payogamahantatāya. Payogasamattepi vatthumahantatāya. Guṇavantesu
manussādīsu appaguṇe pāṇe appasāvajjo, mahāguṇe mahāsāvajjo. Sarīraguṇānaṃ pana
samabhāve sati kilesānaṃ upakkamānañca mudutāya appasāvajjo, tibbatāya
mahāsāvajjoti veditabbo. Tassa pañca sambhārā honti pāṇo, pāṇasaññitā,
vadhakacittaṃ, upakkamo, tena maraṇanti. Cha payogā sāhatthiko, āṇattiko,
nissaggiyo, thāvaro, vijjāmayo, iddhimayoti. Imasmiṃ panettha vitthārīyamāne
atipapañco hoti, tasmā naṃ na vitthārayāma, aññañca evarūpaṃ. Atthikehi pana
samantapāsādikaṃ vinayaṭṭhakathaṃ (pārā. aṭṭha. 2.172) oloketvā gahetabbo.
Adinnassa
ādānaṃ adinnādānaṃ, parassa haraṇaṃ theyyaṃ, corikāti vuttaṃ hoti. Tattha
adinnanti parapariggahitaṃ, yattha paro yathākāmakāritaṃ āpajjanto adaṇḍāraho
anupavajjo ca hoti. Tasmiṃ pana parapariggahite parapariggahitasaññino
tadādāyakaupakkamasamuṭṭhāpikā theyyacetanā adinnādānaṃ. Taṃ hīne parasantake
appasāvajjaṃ, paṇīte mahāsāvajjaṃ. Kasmā? Vatthupaṇītatāya. Vatthusamatte sati
guṇādhikānaṃ santake vatthusmiṃ mahāsāvajjaṃ. Taṃ taṃ guṇādhikaṃ upādāya tato
tato hīnaguṇassa santake vatthusmiṃ appasāvajjaṃ. Tassa pañca sambhārā honti
parapariggahitaṃ, parapariggahitasaññitā, theyyacittaṃ, upakkamo, tena haraṇanti.
Cha payogā sāhatthikādayova. Te ca kho yathānurūpaṃ theyyāvahāro,
pasayhāvahāro, paṭicchannāvahāro, parikappāvahāro, kusāvahāroti imesaṃ avahārānaṃ
vasena pavattāti ayamettha saṅkhepo. Vitthāro pana samantapāsādikāyaṃ (pārā. aṭṭha.
1.92) vutto.
Kāmesumicchācāroti
ettha pana kāmesūti methunasamācāresu. Micchācāroti ekantanindito lāmakācāro.
Lakkhaṇato pana asaddhammādhippāyena kāyadvārappavattā agamanīyaṭṭhānavītikkamacetanā
kāmesumicchācāro.
Tattha
agamanīyaṭṭhānaṃ nāma purisānaṃ tāva māturakkhitā, piturakkhitā,
mātāpiturakkhitā, bhāturakkhitā, bhaginirakkhitā, ñātirakkhitā, gottarakkhitā,
dhammarakkhitā, sārakkhā, saparidaṇḍāti māturakkhitādayo dasa; dhanakkītā,
chandavāsinī, bhogavāsinī, paṭavāsinī, odapattakinī, obhaṭacumbaṭā, dāsī ca
bhariyā ca, kammakārī ca bhariyā ca, dhajāhatā, muhuttikāti etā ca
dhanakkītādayo dasāti vīsati itthiyo. Itthīsu pana dvinnaṃ sārakkhāsaparidaṇḍānaṃ,
dasannañca dhanakkītādīnanti dvādasannaṃ itthīnaṃ aññe purisā, idaṃ agamanīyaṭṭhānaṃ
nāma. So panesa micchācāro sīlādiguṇarahite agamanīyaṭṭhāne appasāvajjo,
sīlādiguṇasampanne mahāsāvajjo. Tassa cattāro sambhārā agamanīyavatthu, tasmiṃ
sevanacittaṃ, sevanapayogo, maggenamaggappaṭipattiadhivāsananti. Eko payogo
sāhatthiko eva.
Musāti visaṃvādanapurekkhārassa
atthabhañjako vacīpayogo kāyapayogo vā. Visaṃvādanādhippāyena panassa paravisaṃvādanakakāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā
cetanā musāvādo. Aparo nayo musāti abhūtaṃ atacchaṃ vatthu. Vādoti tassa
bhūtato tacchato viññāpanaṃ. Lakkhaṇato pana atathaṃ vatthuṃ tathato paraṃ
viññāpetukāmassa tathāviññattisamuṭṭhāpikā cetanā musāvādo. So yamatthaṃ
bhañjati, tassa appatāya appasāvajjo, mahantatāya mahāsāvajjo. Apica gahaṭṭhānaṃ
attano santakaṃ adātukāmatāya natthītiādinayappavatto appasāvajjo, sakkhinā
hutvā atthabhañjanatthaṃ vutto mahāsāvajjo. Pabbajitānaṃ appakampi telaṃ vā
sappiṃ vā labhitvā hasādhippāyena ‘‘ajja gāme telaṃ nadīmaññe sandatī’’ti purāṇakathānayena
pavatto appasāvajjo, adiṭṭhaṃyeva pana diṭṭhantiādinā nayena vadantānaṃ
mahāsāvajjo. Tassa cattāro sambhārā honti atathaṃ vatthu, visaṃvādanacittaṃ,
tajjo vāyāmo, parassa tadatthavijānananti. Eko payogo sāhatthikova. So kāyena
vā kāyappaṭibaddhena vā vācāya vā visaṃvādakakiriyākaraṇe daṭṭhabbo. Tāya ce
kiriyāya paro tamatthaṃ jānāti, ayaṃ kiriyāsamuṭṭhāpikacetanākkhaṇeyeva
musāvādakammunā bajjhati.
Pisuṇā
vācātiādīsu yāya vācāya yassa taṃ vācaṃ bhāsati, tassa hadaye attano piyabhāvaṃ
parassa ca suññabhāvaṃ karoti, sā pisuṇā vācā. Yāya pana attānampi parampi
pharusampi karoti, sā vācā sayampi pharusā neva kaṇṇasukhā na hadayasukhā vā,
ayaṃ pharusā vācā. Yena samphaṃ palapati niratthakaṃ, so samphappalāpo. Tesaṃ
mūlabhūtā cetanāpi pisuṇāvācādināmameva labhati, sā eva ca idha adhippetāti.
Tattha saṃkiliṭṭhacittassa paresaṃ vā bhedāya attano piyakamyatāya vā
kāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā cetanā pisuṇā vācā. Sā yassa bhedaṃ karoti, tassa
appaguṇatāya appasāvajjā, mahāguṇatāya mahāsāvajjā. Tassā cattāro sambhārā
bhinditabbo paro, ‘‘iti ime nānā bhavissanti vinā bhavissantī’’ti
bhedapurekkhāratā vā, ‘‘ahaṃ piyo bhavissāmi vissāsiko’’ti piyakamyatā vā,
tajjo vāyāmo, tassa tadatthavijānananti.
Parassa
mammacchedakakāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā ekantapharusā cetanā pharusā vācā. Tassa
āvibhāvatthamidaṃ vatthu – eko kira dārako mātuvacanaṃ anādiyitvā araññaṃ
gacchati, taṃ mātā nivattetuṃ asakkontī ‘‘caṇḍā taṃ mahiṃsī anubandhatū’’ti
akkosi. Athassa tattheva araññe mahiṃsī uṭṭhāsi. Dārako ‘‘yaṃ mama mātā mukhena
kathesi taṃ mā hotu, yaṃ cittena cintesi taṃ hotū’’ti saccakiriyamakāsi. Mahiṃsī
tattheva baddhā viya aṭṭhāsi. Evaṃ mammacchedakopi payogo cittasaṇhatāya
pharusā vācā na hoti. Mātāpitaro hi kadāci puttake evampi vadanti ‘‘corā vo khaṇḍākhaṇḍikaṃ
karontū’’ti, uppalapattampi ca nesaṃ upari patantaṃ na icchanti.
Ācariyupajjhāyā ca kadāci nissitake evaṃ vadanti ‘‘kiṃ ime ahirikā anottappino
caranti niddhamatha ne’’ti. Atha kho nesaṃ āgamādhigamasampattiṃ icchanti.
Yathā ca cittasaṇhatāya pharusā vācā na hoti, evaṃ vacanasaṇhatāya apharusā
vācāpi na hoti. Na hi mārāpetukāmassa ‘‘imaṃ sukhaṃ sayāpethā’’ti vacanaṃ
apharusā vācā hoti. Cittapharusatāya panesā pharusā vācāva. Sā yaṃ sandhāya
pavattitā, tassa appaguṇatāya appasāvajjā, mahāguṇatāya mahāsāvajjā. Tassā tayo
sambhārā akkositabbo paro, kupitacittaṃ, akkosanāti.
Anatthaviññāpakakāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā
akusalacetanā samphappalāpo. So āsevanamandatāya appasāvajjo,
āsevanamahantatāya mahāsāvajjo. Tassa dve sambhārā bhāratayuddhasītāharaṇādiniratthakakathāpurekkhāratā,
tathārūpīkathākathananti.
Abhijjhāyatīti
abhijjhā, parabhaṇḍābhimukhī hutvā tanninnatāya pavattatīti attho. Sā ‘‘aho
vata idaṃ mamassā’’ti evaṃ parabhaṇḍābhijjhāyanalakkhaṇā. Adinnādānaṃ viya
appasāvajjā ca mahāsāvajjā ca. Tassā dve sambhārā parabhaṇḍaṃ, attano pariṇāmanañca.
Parabhaṇḍavatthuke hi lobhe uppannepi na tāva kammapathabhedo hoti, yāva ‘‘aho
vatīdaṃ mamassā’’ti attano na pariṇāmeti.
Hitasukhaṃ
byāpādayatīti byāpādo. So paravināsāya manopadosalakkhaṇo, pharusā vācā viya
appasāvajjo mahāsāvajjo ca. Tassa dve sambhārā parasatto ca, tassa ca
vināsacintā. Parasattavatthuke hi kodhe uppannepi na tāva kammapathabhedo hoti,
yāva ‘‘aho vatāyaṃ ucchijjeyya vinasseyyā’’ti tassa vināsaṃ na cinteti.
Yathābhuccagahaṇābhāvena
micchā passatīti micchādiṭṭhi. Sā ‘‘natthi dinna’’ntiādinā nayena
viparītadassanalakkhaṇā. Samphappalāpo viya appasāvajjā mahāsāvajjā ca. Apica
aniyatā appasāvajjā, niyatā mahāsāvajjā. Tassā dve sambhārā vatthuno ca
gahitākāraviparītatā, yathā ca taṃ gaṇhāti, tathābhāvena tassupaṭṭhānanti.
Imesaṃ pana
dasannaṃ akusalakammapathānaṃ dhammato koṭṭhāsato ārammaṇato vedanāto mūlatoti
pañcahākārehi vinicchayo veditabbo.
Tattha
dhammatoti etesu hi paṭipāṭiyā satta, cetanādhammāva honti, abhijjhādayo tayo
cetanāsampayuttā.
Koṭṭhāsatoti
paṭipāṭiyā satta, micchādiṭṭhi cāti ime aṭṭha kammapathā eva honti, no mūlāni.
Abhijjhābyāpādā kammapathā ceva mūlāni ca. Abhijjhā hi mūlaṃ patvā lobho
akusalamūlaṃ hoti. Byāpādo doso akusalamūlaṃ.
Ārammaṇatoti
pāṇātipāto jīvitindriyārammaṇato saṅkhārārammaṇo hoti. Adinnādānaṃ sattārammaṇaṃ
vā saṅkhārārammaṇaṃ vā. Micchācāro phoṭṭhabbavasena saṅkhārārammaṇo. Sattārammaṇotipi
eke. Musāvādo sattārammaṇo vā saṅkhārārammaṇo vā. Tathā pisuṇā vācā. Pharusā
vācā sattārammaṇāva. Samphappalāpo diṭṭhasutamutaviññātavasena sattārammaṇo vā
saṅkhārārammaṇo vā, tathā abhijjhā. Byāpādo sattārammaṇova. Micchādiṭṭhi
tebhūmakadhammavasena saṅkhārārammaṇā.
Vedanātoti
pāṇātipāto dukkhavedano hoti. Kiñcāpi hi rājāno coraṃ disvā hasamānāpi
‘‘gacchatha naṃ ghātethā’’ti vadanti, sanniṭṭhāpakacetanā pana nesaṃ
dukkhasampayuttāva hoti. Adinnādānaṃ tivedanaṃ. Micchācāro sukhamajjhattavasena
dvivedano, sanniṭṭhāpakacitte pana majjhattavedano na hoti. Musāvādo tivedano,
tathā pisuṇā vācā. Pharusā vācā dukkhavedanāva. Samphappalāpo tivedano. Abhijjhā
sukhamajjhattavasena dvivedanā, tathā micchādiṭṭhi. Byāpādo dukkhavedano.
Mūlatoti pāṇātipāto
dosamohavasena dvimūlako hoti. Adinnādānaṃ dosamohavasena vā lobhamohavasena
vā. Micchācāro lobhamohavasena. Musāvādo dosamohavasena vā lobhamohavasena vā,
tathā pisuṇā vācā samphappalāpo ca. Pharusā vācā dosamohavasena. Abhijjhā
mohavasena ekamūlā, tathā byāpādo. Micchādiṭṭhi lobhamohavasena dvimūlāti.
Lobho
akusalamūlantiādīsu lubbhatīti lobho. Dussatīti doso. Muyhatīti moho. Tesu
lobho sayañca akusalo sāvajjadukkhavipākaṭṭhena, imesañca pāṇātipātādīnaṃ
akusalānaṃ kesañci sampayuttappabhāvakaṭṭhena kesañci upanissayapaccayaṭṭhena
mūlanti akusalamūlaṃ. Vuttampi cetaṃ ‘‘ratto kho āvuso rāgena abhibhūto
pariyādinnacitto pāṇampi hanatī’’tiādi. Dosamohānaṃ akusalamūlabhāvepi eseva
nayo.
Akusalakammapathavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kusalakammapathavaṇṇanā
Pāṇātipātā
veramaṇī kusalantiādīsu pāṇātipātādayo vuttatthā eva. Veraṃ maṇatīti veramaṇī,
veraṃ pajahatīti attho. Viramati vā etāya karaṇabhūtāya, vikārassa vekāraṃ
katvāpi veramaṇī. Ayaṃ tāvettha byañjanato vaṇṇanā. Atthato pana veramaṇīti
kusalacittasampayuttā virati. Yā ‘‘pāṇātipātā viramantassa, yā tasmiṃ samaye pāṇātipātā
ārati viratī’’ti evaṃ vuttā kusalacittasampayuttā virati, sā bhedato tividho
hoti sampattavirati samādānavirati samucchedaviratīti. Tattha
asamādinnasikkhāpadānaṃ attano jātivayabāhusaccādīni paccavekkhitvā ‘‘ayuttaṃ
amhākaṃ evarūpaṃ kātu’’nti sampattavatthuṃ avītikkamantānaṃ uppajjamānā virati
sampattaviratīti veditabbā sīhaḷadīpe cakkanaupāsakassa viya.
Tassa kira
daharakāleyeva mātuyā rogo uppajji. Vejjena ca ‘‘allasasamaṃsaṃ laddhuṃ vaṭṭatī’’ti
vuttaṃ. Tato cakkanassa bhātā ‘‘gaccha tāta khettaṃ āhiṇḍāhī’’ti cakkanaṃ
pesesi. So tattha gato. Tasmiñca samaye eko saso taruṇasassaṃ khādituṃ āgato
hoti, so taṃ disvā vegena dhāvento valliyā baddho ‘‘kiri kirī’’ti saddamakāsi.
Cakkano tena saddena gantvā taṃ gahetvā cintesi ‘‘mātu bhesajjaṃ karomī’’ti.
Puna cintesi ‘‘na metaṃ patirūpaṃ, yvāhaṃ mātu jīvitakāraṇā paraṃ jīvitā
voropeyya’’nti. Atha naṃ ‘‘gaccha araññe sasehi saddhiṃ tiṇodakaṃ
paribhuñjā’’ti muñci. Bhātarā ca ‘‘kiṃ tāta saso laddho’’ti pucchito taṃ
pavattiṃ ācikkhi. Tato naṃ bhātā paribhāsi. So mātusantikaṃ gantvā ‘‘yatohaṃ
jāto, nābhijānāmi sañcicca pāṇaṃ jīvitā voropetā’’ti saccaṃ vatvā adhiṭṭhāsi.
Tāvadevassa mātā arogā ahosi.
Samādinnasikkhāpadānaṃ
pana sikkhāpadasamādāne ca tatuttari ca attano jīvitampi pariccajitvā vatthuṃ
avītikkamantānaṃ uppajjamānā virati samādānaviratīti veditabbā uttaravaḍḍhamānapabbatavāsīupāsakassa
viya.
So kira
ambariyavihāravāsīpiṅgalabuddharakkhitattherassa santike sikkhāpadāni gahetvā
khettaṃ kassati. Athassa goṇo naṭṭho, so taṃ gavesanto uttaravaḍḍhamānapabbataṃ
āruhi, tatra naṃ mahāsappo aggahesi. So cintesi ‘‘imāyassa tikhiṇavāsiyā sīsaṃ
chindāmī’’ti. Puna cintesi ‘‘na metaṃ patirūpaṃ, yvāhaṃ bhāvanīyassa garuno
santike sikkhāpadaṃ gahetvā bhindeyya’’nti. Evaṃ yāvatatiyaṃ cintetvā ‘‘jīvitaṃ
pariccajāmi, na sikkhāpada’’nti aṃse ṭhapitaṃ tikhiṇadaṇḍavāsiṃ araññe chaḍḍesi.
Tāvadeva naṃ mahāvāḷo muñcitvā agamāsīti.
Ariyamaggasampayuttā
pana virati samucchedaviratīti veditabbā. Yassā uppattito pabhuti ‘‘pāṇaṃ
ghātessāmī’’ti ariyapuggalānaṃ cittampi na uppajjatīti. Sā panāyaṃ virati
kosallappavattiyā kusalanti vuttā. Kucchitasayanato vā kusanti laddhavohāraṃ
dussīlyaṃ lunātītipi kusalaṃ. Katamañcāvuso kusalanti imassa pana pañhassa
ananurūpattā kusalāti na vuttā.
Yathā ca
akusalānaṃ, evaṃ imesampi kusalakammapathānaṃ dhammato koṭṭhāsato ārammaṇato
vedanāto mūlatoti pañcahākārehi vinicchayo veditabbo.
Tattha
dhammatoti etesu hi paṭipāṭiyā satta cetanāpi vaṭṭanti, viratiyopi. Ante tayo
cetanāsampayuttāva.
Koṭṭhāsatoti
paṭipāṭiyā satta kammapathā eva, no mūlāni. Ante tayo kammapathā ceva mūlāni
ca. Anabhijjhā hi mūlaṃ patvā alobho kusalamūlaṃ hoti. Abyāpādo adoso
kusalamūlaṃ. Sammādiṭṭhi amoho kusalamūlaṃ.
Ārammaṇatoti
pāṇātipātādīnaṃ ārammaṇāneva etesaṃ ārammaṇāni, vītikkamitabbatoyeva hi veramaṇī
nāma hoti. Yathā pana nibbānārammaṇo ariyamaggo kilese pajahati, evaṃ
jīvitindriyādiārammaṇāpete kammapathā pāṇātipātādīni dussīlyāni pajahantīti
veditabbā.
Vedanātoti
sabbe sukhavedanā vā honti, majjhattavedanā vā. Kusalaṃ patvā hi dukkhavedanā
nāma natthi.
Mūlatoti paṭipāṭiyā
satta kammapathā ñāṇasampayuttacittena viramantassa alobhaadosaamohavasena
timūlā honti. Ñāṇavippayuttacittena viramantassa dvimūlā. Anabhijjhā ñāṇasampayuttacittena
viramantassa dvimūlā. Ñāṇavippayuttacittena ekamūlā. Alobho pana attanāva
attano mūlaṃ na hoti, abyāpādepi eseva nayo. Sammādiṭṭhi alobhādosavasena dvimūlāvāti.
Alobho
kusalamūlantiādīsu na lobhoti alobho, lobhapaṭipakkhassa dhammassetaṃ
adhivacanaṃ. Adosāmohesupi eseva nayo. Tesu alobho sayañca kusalaṃ, imesañca pāṇātipātā
veramaṇīādīnaṃ kusalānaṃ kesañci sampayuttappabhāvakaṭṭhena kesañci
upanissayapaccayaṭṭhena mūlanti kusalamūlaṃ. Adosāmohānampi kusalamūlabhāve
eseva nayo.
Idāni
sabbampi taṃ saṅkhepena ca vitthārena ca desitamatthaṃ nigamento yato kho
āvusotiādiappanāvāramāha. Tattha evaṃ akusalaṃ pajānātīti evaṃ yathāniddiṭṭhadasākusalakammapathavasena
akusalaṃ pajānāti. Evaṃ akusalamūlantiādīsupi eseva nayo. Ettāvatā ekena nayena
catusaccakammaṭṭhānikassa yāva arahattā niyyānaṃ kathitaṃ hoti. Kathaṃ? Ettha
hi ṭhapetvā abhijjhaṃ dasa akusalakammapathā ca kusalakammapathā ca dukkhasaccaṃ.
Abhijjhā ca lobho akusalamūlañcāti ime dve dhammā nippariyāyena samudayasaccaṃ.
Pariyāyena pana sabbepi kammapathā dukkhasaccaṃ. Sabbāni kusalākusalamūlāni
samudayasaccaṃ. Ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ. Dukkhaṃ parijānanto samudayaṃ
pajahamāno nirodhaṃ pajānanto ariyamaggo maggasaccanti iti dve saccāni sarūpena
vuttāni, dve āvattahāravasena veditabbāni.
So sabbaso
rāgānusayaṃ pahāyāti so evaṃ akusalādīni pajānanto sabbākārena rāgānusayaṃ
pajahitvā. Paṭighānusayaṃ paṭivinodetvāti paṭighānusayañca sabbākāreneva nīharitvāti
vuttaṃ hoti. Ettāvatā anāgāmimaggo kathito. Asmīti diṭṭhimānānusayaṃ
samūhanitvāti pañcasu khandhesu kañci dhammaṃ anavakārīkaritvā ‘‘asmī’’ti iminā
samūhaggahaṇākārena pavattaṃ diṭṭhimānānusayaṃ samugghāṭetvā.
Tattha diṭṭhimānānusayanti
diṭṭhisadisaṃ mānānusayanti vuttaṃ hoti. Ayañhi mānānusayo asmīti pavattattā diṭṭhisadiso
hoti, tasmā evaṃ vutto. Imañca asmimānaṃ vitthārato viññātukāmena
khandhiyavagge khemakasuttaṃ (saṃ. ni. 3.89) oloketabbanti.
Avijjaṃ
pahāyāti vaṭṭamūlaṃ avijjaṃ pajahitvā. Vijjaṃ uppādetvāti tassā avijjāya
samugghāṭikaṃ arahattamaggavijjaṃ uppādetvā. Ettāvatā arahattamaggo kathito. Diṭṭheva
dhamme dukkhassantakaro hotīti asmiṃyeva attabhāve vaṭṭadukkhassa
paricchedakaro hoti. Ettāvatāpi kho, āvusoti desanaṃ niyyāteti, imāya
kammapathadesanāya vuttamanasikārappaṭivedhavasenapīti vuttaṃ hoti. Sesaṃ
vuttanayameva. Evaṃ anāgāmimaggaarahattamaggehi desanaṃ niṭṭhapesīti.
Kusalakammapathavaṇṇanā niṭṭhitā.
Āhāravāravaṇṇanā
90. Sādhāvusoti kho…pe… āgato imaṃ saddhammanti evaṃ
āyasmato sāriputtassa kusalākusalamukhena catusaccadesanaṃ sutvā taṃ āyasmato
sāriputtassa bhāsitaṃ ‘‘sādhāvuso’’ti iminā vacanena te bhikkhū abhinanditvā
imasseva vacanassa samuṭṭhāpakena cittena anumoditvā vacasā sampaṭicchitvā
cetasā sampiyāyitvāti vuttaṃ hoti. Idāni yasmā thero nānappakārena
catusaccadesanaṃ desetuṃ paṭibalo, yathāha ‘‘sāriputto, bhikkhave, pahoti
cattāri ariyasaccāni vitthārena ācikkhituṃ desetu’’nti yasmā vā uttarimpi
desetukāmova hutvā ‘‘ettāvatāpi kho’’ti avaca, tasmā aparenapi nayena
saccadesanaṃ sotukāmā te bhikkhū āyasmantaṃ sāriputtaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchiṃsu.
Tena sayameva pucchitvā vissajjitapañhato uttariṃ siyā kho panāvuso, aññopi
pariyāyo bhaveyya aññampi kāraṇanti iminā nayena aññaṃ atirekaṃ pañhaṃ pucchiṃsu,
purimapañhassa vā uparibhāge pucchiṃsūti vuttaṃ hoti. Atha nesaṃ byākaramāno
thero siyā, āvusotiādimāha. Tatthāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā, āhāranti paccayaṃ.
Paccayo hi āharati attano phalaṃ, tasmā ‘‘āhāro’’ti vuccati.
Bhūtānaṃ vā
sattānantiādīsu bhūtāti sañjātā, nibbattā. Sambhavesīnanti ye sambhavaṃ jātiṃ
nibbattiṃ esanti gavesanti. Tattha catūsu yonīsu aṇḍajajalābujā sattā yāva aṇḍakosaṃ
vatthikosañca na bhindanti, tāva sambhavesino nāma. Aṇḍakosaṃ vatthikosañca
bhinditvā bahi nikkhantā bhūtā nāma. Saṃsedajā opapātikā ca paṭhamacittakkhaṇe
sambhavesino nāma. Dutiyacittakkhaṇato pabhuti bhūtā nāma. Yena yena vā
iriyāpathena jāyanti, yāva te tato aññaṃ na pāpuṇanti, tāva sambhavesino nāma.
Tato paraṃ bhūtā nāma.
Atha vā bhūtāti
jātā abhinibbattā, ye bhūtāyeva na puna bhavissantīti saṅkhyaṃ gacchanti, tesaṃ
khīṇāsavānametaṃ adhivacanaṃ. Sambhavamesantīti sambhavesino. Appahīnabhavasaṃyojanattā
āyatimpi sambhavaṃ esantānaṃ sekkhaputhujjanānametaṃ adhivacanaṃ. Evaṃ
sabbathāpi imehi dvīhi padehi sabbasatte pariyādiyati. Vāsaddo cettha sampiṇḍanattho,
tasmā bhūtānañca sambhavesīnañcāti ayamattho veditabbo.
Ṭhitiyāti ṭhitatthaṃ.
Anuggahāyāti anuggahatthaṃ upakāratthaṃ. Vacanabhedo cesa, attho pana dvinnampi
padānaṃ ekoyeva. Atha vā ṭhitiyāti tassa tassa sattassa uppannadhammānaṃ
anuppabandhavasena avicchedāya. Anuggahāyāti anuppannānaṃ uppādāya. Ubhopi
cetāni bhūtānaṃ ṭhitiyā ceva anuggahāya ca. Sambhavesīnaṃ vā ṭhitiyā ceva
anuggahāya cāti evaṃ ubhayattha daṭṭhabbāni. Kabaḷīkāro āhāroti kabaḷaṃ katvā
ajjhoharitabbato kabaḷīkāro āhāro, odanakummāsādivatthukāya ojāyetaṃ adhivacanaṃ.
Oḷāriko vā sukhumo vāti vatthuoḷārikatāya oḷāriko, vatthusukhumatāya sukhumo.
Sabhāvena pana sukhumarūpapariyāpannattā kabaḷīkāro āhāro sukhumova hoti. Sāpi
cassa vatthuto oḷārikatā sukhumatā ca upādāyupādāya veditabbā.
Kumbhīlānañhi
āhāraṃ upādāya morānaṃ āhāro sukhumo. Kumbhīlā kira pāsāṇe gilanti. Te ca nesaṃ
kucchippattāva vilīyanti. Morā sappavicchikādipāṇe khādanti. Morānaṃ pana āhāraṃ
upādāya taracchānaṃ āhāro sukhumo. Te kira tivassachaḍḍitāni visāṇāni ceva aṭṭhīni
ca khādanti. Tāni ca nesaṃ kheḷena temitamatteneva kandamūlaṃ viya mudukāni
honti. Taracchānampi āhāraṃ upādāya hatthīnaṃ āhāro sukhumo. Tepi
nānārukkhasākhāyo khādanti. Hatthīnaṃ āhārato gavayagokaṇṇamigādīnaṃ āhāro
sukhumo. Te kira nissārāni nānārukkhapaṇṇādīni khādanti. Tesampi āhārato gunnaṃ
āhāro sukhumo. Te allasukkhatiṇāni khādanti. Tesaṃ āhārato sasānaṃ āhāro
sukhumo. Sasānaṃ āhārato sakuṇānaṃ āhāro sukhumo. Sakuṇānaṃ āhārato paccantavāsīnaṃ
āhāro sukhumo. Paccantavāsīnaṃ āhārato gāmabhojakānaṃ āhāro sukhumo.
Gāmabhojakānaṃ āhārato rājarājamahāmattānaṃ āhāro sukhumo. Tesampi āhārato
cakkavattino āhāro sukhumo. Cakkavattino āhārato bhummadevānaṃ āhāro sukhumo.
Bhummadevānaṃ āhārato cātumahārājikānaṃ āhāro sukhumo. Evaṃ yāva
paranimmitavasavattīnaṃ āhāro vitthāretabbo, tesaṃ āhāro sukhumotveva niṭṭhaṃ
patto.
Ettha ca oḷārike
vatthusmiṃ ojā parittā hoti dubbalā, sukhume balavatī. Tathā hi ekapattapūrampi
yāguṃ pīvato muhutteneva jighacchito hoti, yaṃkañcideva khāditukāmo. Sappiṃ
pana pasaṭamattaṃ pivitvā divasaṃ abhottukāmo hoti. Tattha vatthu parissamaṃ
vinodeti, na pana sakkoti pāletuṃ. Ojā pāleti, na sakkoti parissamaṃ vinodetuṃ.
Dve pana ekato hutvā parissamañceva vinodenti pālenti cāti.
Phasso
dutiyoti cakkhusamphassādi chabbidhopi phasso. Etesu catūsu āhāresu dutiyo
āhāroti veditabbo. Desanānayo eva cesa. Tasmā iminā nāma kāraṇena dutiyo vā
tatiyo vāti idamettha na gavesitabbaṃ. Manosañcetanāti cetanā eva vuccati.
Viññāṇanti yaṃkiñci cittaṃ.
Etthāha,
yadi paccayaṭṭho āhāraṭṭho, atha kasmā aññesupi sattānaṃ paccayesu vijjamānesu
imeyeva cattāro vuttāti? Vuccate, ajjhattikasantatiyā visesapaccayattā.
Visesapaccayo hi kabaḷīkārāhārabhakkhānaṃ sattānaṃ rūpakāyassa kabaḷīkāro
āhāro. Nāmakāye vedanāya phasso, viññāṇassa manosañcetanā, nāmarūpassa viññāṇaṃ.
Yathāha –
‘‘Seyyathāpi,
bhikkhave, ayaṃ kāyo āhāraṭṭhitiko, āhāraṃ paṭicca tiṭṭhati, anāhāro no tiṭṭhati.
Tathā phassapaccayā vedanā, saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ, viññāṇapaccayā
nāmarūpa’’nti.
Ko panettha
āhāro, kiṃ āharatīti? Kabaḷīkārāhāro ojaṭṭhamakarūpāni āharati. Phassāhāro
tisso vedanā, manosañcetanāhāro tayo bhave, viññāṇāhāro paṭisandhināmarūpanti.
Kathaṃ?
Kabaḷīkārāhāro tāva mukhe ṭhapitamattoyeva aṭṭha rūpāni samuṭṭhāpeti. Dantavicuṇṇitaṃ
pana ajjhohariyamānaṃ ekekaṃ sitthaṃ aṭṭhaṭṭha rūpāni samuṭṭhāpetiyeva. Evaṃ
ojaṭṭhamakarūpāni āharati.
Phassāhāro
pana sukhavedaniyo phasso uppajjamāno sukhavedanaṃ āharati, tathā
dukkhavedaniyo dukkhaṃ, adukkhamasukhavedaniyo adukkhamasukhanti evaṃ
sabbathāpi phassāhāro tisso vedanā āharati.
Manosañcetanāhāro
kāmabhavūpagaṃ kammaṃ kāmabhavaṃ āharati, rūpārūpabhavūpagāni taṃ taṃ bhavaṃ.
Evaṃ sabbathāpi manosañcetanāhāro tayo bhave āharati.
Viññāṇāhāro
pana ye ca paṭisandhikkhaṇe taṃsampayuttakā tayo khandhā, yāni ca
tisantativasena tiṃsarūpāni uppajjanti, sahajātādipaccayanayena tāni āharatīti
vuccati. Evaṃ viññāṇāhāro paṭisandhināmarūpaṃ āharatīti.
Ettha ca
manosañcetanāhāro tayo bhave āharatīti sāsavā kusalākusalacetanāva vuttā. Viññāṇaṃ
paṭisandhināmarūpaṃ āharatīti paṭisandhiviññāṇameva vuttaṃ. Avisesena pana taṃsampayuttataṃsamuṭṭhānadhammānaṃ
āharaṇato pete āhārāti veditabbā.
Etesu
catūsu āhāresu kabaḷīkārāhāro upatthambhento āhārakiccaṃ sādheti. Phasso
phusantoyeva, manosañcetanā āyūhamānāva. Viññāṇaṃ vijānantameva.
Kathaṃ?
Kabaḷīkārāhāro hi upatthambhentoyeva kāyaṭṭhapanena sattānaṃ ṭhitiyā hoti.
Kammajanitopi hi ayaṃ kāyo kabaḷīkārāhārena upatthambhito dasapi vassāni
vassasatampi yāva āyuparimāṇaṃ tiṭṭhati. Yathā kiṃ? Yathā mātuyā janitopi
dārako dhātiyā thaññādīni pāyetvā posiyamānova ciraṃ tiṭṭhati, yathā
cupatthambhena upatthambhitagehaṃ. Vuttampi cetaṃ –
‘‘Yathā
mahārāja gehe patante aññena dārunā upatthambhenti, aññena dārunā upatthambhitaṃ
santaṃ evaṃ taṃ gehaṃ na patati, evameva kho mahārāja ayaṃ kāyo āhāraṭṭhitiko,
āhāraṃ paṭicca tiṭṭhatī’’ti.
Evaṃ kabaḷīkāro
āhāro upatthambhento āhārakiccaṃ sādheti. Evaṃ sādhentopi ca kabaḷīkāro āhāro
dvinnaṃ rūpasantatīnaṃ paccayo hoti āhārasamuṭṭhānassa ca upādinnassa ca.
Kammajānaṃ anupālako hutvā paccayo hoti. Āhārasamuṭṭhānānaṃ janako hutvā
paccayo hoti.
Phasso pana
sukhādivatthubhūtaṃ ārammaṇaṃ phusantoyeva sukhādivedanāpavattanena sattānaṃ ṭhitiyā
hoti. Manosañcetanā kusalākusalakammavasena āyūhamānāyeva bhavamūlanipphādanato
sattānaṃ ṭhitiyā hoti. Viññāṇaṃ vijānantameva nāmarūpappavattanena sattānaṃ ṭhitiyā
hoti.
Evaṃ
upatthambhanādivasena āhārakiccaṃ sādhayamānesu panetesu cattāri bhayāni daṭṭhabbāni.
Seyyathidaṃ, kabaḷīkārāhāre nikantiyeva bhayaṃ, phasse upagamanameva,
manosañcetanāya āyūhanameva, viññāṇe abhinipātoyeva bhayanti. Kiṃ kāraṇā? Kabaḷīkārāhāre
hi nikantiṃ katvā sītādīnaṃ purekkhatā sattā āhāratthāya muddāgaṇanādikammāni
karontā anappakaṃ dukkhaṃ nigacchanti. Ekacce ca imasmiṃ sāsane pabbajitvāpi
vejjakammādikāya anesanāya āhāraṃ pariyesantā diṭṭhepi dhamme gārayhā honti.
Samparāyepi tassa saṅghāṭipi ādittā sampajjalitātiādinā lakkhaṇasaṃyutte
vuttanayena samaṇapetā honti. Imināva tāva kāraṇena kabaḷīkārāhāre nikantiyeva
bhayanti veditabbā.
Phassaṃ
upagacchantāpi phassassādino paresaṃ rakkhitagopitesu dārādīsu bhaṇḍesu
aparajjhanti. Te saha bhaṇḍena bhaṇḍasāmikā gahetvā khaṇḍākhaṇḍikaṃ vā
chinditvā saṅkārakūṭesu chaḍḍenti. Rañño vā niyyātenti. Tato ne rājā vividhā
kammakāraṇā kārāpeti. Kāyassa ca bhedā duggati nesaṃ pāṭikaṅkhā hoti. Iti
phassassādamūlakaṃ diṭṭhadhammikampi samparāyikampi bhayaṃ sabbamāgatameva
hoti. Iminā kāraṇena phassāhāre upagamanameva bhayanti veditabbaṃ.
Kusalākusalakammāyūhaneneva
pana tammūlakaṃ tīsu bhavesu bhayaṃ sabbamāgataṃyeva hoti. Iminā kāraṇena
manosañcetanāhāre āyūhanameva bhayanti veditabbaṃ.
Paṭisandhiviññāṇañca
yasmiṃ yasmiṃ ṭhāne abhinipatati, tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne paṭisandhināmarūpaṃ
gahetvāva nibbattati, tasmiñca nibbatte sabbabhayāni nibbattāniyeva honti,
tammūlakattāti, iminā kāraṇena viññāṇāhāre abhinipātoyeva bhayanti veditabbo.
Evaṃ
sabhayesu pana imesu āhāresu sammāsambuddho kabaḷīkārāhāre
nikantipariyādānatthaṃ ‘‘seyyathāpi, bhikkhave, dve jāyampatikā’’tiādinā (saṃ.
ni. 2.63) nayena puttamaṃsūpamaṃ desesi. Phassāhāre nikantipariyādānatthaṃ
‘‘seyyathāpi, bhikkhave, gāvī niccammā’’tiādinā nayena niccammagāvūpamaṃ
desesi. Manosañcetanāhāre nikantipariyādānatthaṃ ‘‘seyyathāpi, bhikkhave, aṅgārakāsū’’tiādinā
nayena aṅgārakāsūpamaṃ desesi. Viññāṇāhāre nikantipariyādānatthaṃ ‘‘seyyathāpi,
bhikkhave, coraṃ āgucāri’’ntiādinā nayena sattisatāhatūpamaṃ desesi.
Tatrāyaṃ
bhūtamatthaṃ katvā saṅkhepato atthayojanā, dve kira jāyampatikā puttaṃ gahetvā
parittena pātheyyena yojanasatikaṃ kantāramaggaṃ paṭipajjiṃsu. Tesaṃ paññāsa
yojanāni gantvā pātheyyaṃ niṭṭhāsi. Te khuppipāsāturā viraḷacchāyāyaṃ nisīdiṃsu.
Tato puriso bhariyaṃ āha ‘‘bhadde ito samantā paññāsa yojanāni gāmo vā nigamo
vā natthi, tasmā yaṃ taṃ purisena kātabbaṃ bahumpi kasigorakkhādikammaṃ, na
dāni sakkā taṃ mayā kātuṃ, ehi maṃ māretvā upaḍḍhamaṃsaṃ khāditvā upaḍḍhaṃ
pātheyyaṃ katvā puttena saddhiṃ kantāraṃ nittharāhī’’ti. Sāpi āha ‘‘sāmi mayā
dāni yaṃ taṃ itthiyā kātabbaṃ bahumpi suttakantanādikammaṃ, taṃ kātuṃ na sakkā,
ehi maṃ māretvā upaḍḍhamaṃsaṃ khāditvā upaḍḍhaṃ pātheyyaṃ katvā puttena saddhiṃ
kantāraṃ nittharāhī’’ti. Tato so taṃ āha ‘‘bhadde mātugāmamaraṇena dvinnaṃ maraṇaṃ
paññāyati. Na hi mando kumāro mātaraṃ vinā jīvituṃ sakkoti. Yadi pana mayaṃ
jīvāma, puna dārakaṃ labheyyāma, handa dāni puttakaṃ māretvā maṃsaṃ gahetvā
kantāraṃ nittharāmā’’ti.
Tato mātā
puttamāha ‘‘tāta pitu santikaṃ gacchāhī’’ti. So agamāsi. Athassa pitā ‘‘mayā
puttakaṃ posessāmīti kasigorakkhādīhi anappakaṃ dukkhamanubhūtaṃ, na sakkomi
puttaṃ māretuṃ, tvaṃyeva tava puttakaṃ mārehī’’ti vatvā ‘‘tāta mātusantikameva
gacchāhī’’ti āha. So agamāsi. Athassa mātāpi ‘‘mayā puttaṃ patthentiyā
govatakukkuravatadevatāyācanādīhipi tāva anappakaṃ dukkhaṃ anubhūtaṃ, ko pana vādo
kucchinā pariharantiyā? Na sakkāhaṃ puttaṃ māretu’’nti vatvā ‘‘tāta pitusantikaṃyeva
gacchāhī’’ti āha. Evaṃ so dvinnaṃ antarā gacchantoyeva mato. Te taṃ disvā
paridevitvā pubbe vuttanayeneva maṃsāni gahetvā khādantā pakkamiṃsu. Tesaṃ so
puttamaṃsāhāro navahi kāraṇehi paṭikulattā neva davāya hoti, na madāya na maṇḍanāya
na vibhūsanāya, kevalaṃ kantāranittharaṇatthāyeva hoti.
Katamehi
navahi kāraṇehi paṭikūloti ce? Sajātimaṃsatāya ñātimaṃsatāya puttamaṃsatāya
piyaputtamaṃsatāya taruṇamaṃsatāya āmakamaṃsatāya agorasamaṃsatāya aloṇatāya
adhūpitatāyāti. Tasmā yo bhikkhu kabaḷīkārāhāraṃ evaṃ puttamaṃsasadisaṃ
passati, so tattha nikantiṃ pariyādiyati. Ayaṃ tāva puttamaṃsūpamāyaṃ
atthayojanā.
Niccammagāvūpamāyaṃ
pana yathā sā gāvī gīvato yāva khurā, tāva cammaṃ uddāletvā muttā yaṃ yadeva
nissāya tiṭṭhati, tattha pāṇakehi khajjamānā dukkhassevādhikaraṇaṃ hoti, evaṃ
phassopi yaṃ yadeva vatthuṃ ārammaṇaṃ vā nissāya tiṭṭhati, taṃtaṃvatthārammaṇasambhavassa
vedayitadukkhassa adhikaraṇameva hoti. Tasmā yo bhikkhu phassāhāraṃ evaṃ
niccammagāvisadisaṃ passati, so tattha nikantiṃ pariyādiyati, ayaṃ
niccammagāvūpamāyaṃ atthayojanā.
Aṅgārakāsūpamāyaṃ
pana yathā sā aṅgārakāsu, evaṃ mahāpariḷāhaṭṭhena tayo bhavā. Yathā nānābāhāsu
gahetvā tattha upakaḍḍhakā dve purisā, evaṃ bhavesu upakaḍḍhanaṭṭhena
manosañcetanā. Tasmā yo bhikkhu manosañcetanāhāraṃ evaṃ aṅgārakāsūpakaḍḍhakapurisasadisaṃ
passati, so tattha nikantiṃ pariyādiyati, ayaṃ aṅgārakāsūpamāyaṃ atthayojanā.
Sattisatāhatūpamāyaṃ
pana yena so puriso pubbaṇhasamaye sattisatena haññati, tamassa sarīre vaṇamukhasataṃ
katvā antarā aṭṭhatvā vinivijjhitvā aparabhāgeyeva patati, evaṃ itarāni dve
sattisatāni, evamassa patitokāse apatitvā apatitvā gatāhi sattīhi sabbasarīraṃ
chiddāvachiddameva hoti, tassa ekavaṇamukhepi uppannassa dukkhassa pamāṇaṃ
natthi, ko pana vādo tīsu vaṇamukhasatesu? Tattha sattinipātakālo viya paṭisandhiviññāṇanibbattakālo.
Vaṇamukhajananaṃ viya khandhajananaṃ. Vaṇamukhesu dukkhavedanuppādo viya jātesu
khandhesu vaṭṭamūlakanānāvidhadukkhuppādo. Aparo nayo, āgucārī puriso viya paṭisandhiviññāṇaṃ.
Tassa sattighātehi uppannavaṇamukhāni viya viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ. Vaṇamukhapaccayā
tassa purisassa kakkhaḷadukkhuppādo viya nāmarūpapaccayā viññāṇassa dvattiṃsakammakāraṇaaṭṭhanavutirogādivasena
nānappakārakadukkhuppādo daṭṭhabbo. Tasmā yo bhikkhu viññāṇāhāraṃ evaṃ
sattisatāhatasadisaṃ passati. So tattha nikantiṃ pariyādiyati, ayaṃ
sattisatāhatūpamāyaṃ atthayojanā.
So evaṃ
imesu āhāresu nikantiṃ pariyādiyanto cattāropi āhāre parijānāti, yesu
pariññātesu sabbampi pariññātaṃ vatthu pariññātameva hoti. Vuttañhetaṃ
bhagavatā –
‘‘Kabaḷīkāre,
bhikkhave, āhāre pariññāte pañcakāmaguṇiko rāgo pariññāto hoti. Pañcakāmaguṇike
rāge pariññāte natthi taṃ saṃyojanaṃ, yena saṃyojanena saṃyutto ariyasāvako
puna imaṃ lokaṃ āgaccheyya. Phasse, bhikkhave, āhāre pariññāte tisso vedanā
pariññātā honti. Tīsu vedanāsu pariññātāsu ariyasāvakassa natthi kiñci
uttarikaraṇīyanti vadāmi. Manosañcetanāya, bhikkhave, āhāre pariññāte tisso taṇhā
pariññātā honti. Tīsu taṇhāsu pariññātāsu ariyasāvakassa natthi kiñci
uttarikaraṇīyanti vadāmi. Viññāṇe, bhikkhave, āhāre pariññāte nāmarūpaṃ
pariññātaṃ hoti. Nāmarūpe pariññāte ariyasāvakassa natthi kiñci uttarikaraṇīyanti
vadāmī’’ti (saṃ. ni. 2.63).
Taṇhāsamudayā
āhārasamudayoti purimataṇhāsamudayā paṭisandhikānaṃ āhārānaṃ samudayo nibbatto
hotīti attho. Kathaṃ? Paṭisandhikkhaṇe hi tisantativasena uppannasamatiṃsarūpabbhantare
jātā ojā atthi. Ayaṃ taṇhāpaccayā nibbatto upādinnakakabaḷīkārāhāro. Paṭisandhicittasampayuttā
pana phassacetanā sayañca cittaṃ viññāṇanti ime taṇhāpaccayā nibbattā
upādinnakaphassamanosañcetanā viññāṇāhārāti. Evaṃ tāva purimataṇhāsamudayā paṭisandhikānaṃ
āhārānaṃ samudayo veditabbo. Yasmā panidha upādinnakāpi anupādinnakāpi āhārā
missetvā kathitā, tasmā anupādinnakānampi evaṃ taṇhāsamudayā āhārasamudayo
veditabbo. Aṭṭhalobhasahagatacittasamuṭṭhitesu hi rūpesu ojā atthi, ayaṃ
sahajātataṇhāpaccayā nibbatto anupādinnakakabaḷīkārāhāro.
Lobhasahagatacittasampayuttā pana phassacetanā sayañca cittaṃ viññāṇanti ime taṇhāpaccayā
nibbattā anupādinnakaphassamanosañcetanā viññāṇāhārāti.
Taṇhānirodhā
āhāranirodhoti imissā upādinnakānañca anupādinnakānañca āhārānaṃ paccayabhūtāya
taṇhāya nirodhena āhāranirodho paññāyati. Sesaṃ vuttanayameva. Ayaṃ pana
viseso, idha cattāripi saccāni sarūpeneva vuttāni. Yathā ca idha, evaṃ ito
uttarimpi sabbavāresūti. Tasmā sabbattha asammuyhantena saccāni uddharitabbāni.
Sabbavāresu ca ‘‘ettāvatāpi kho āvuso’’ti idaṃ desanāniyyātanaṃ tattha tattha
desitadhammavasena yojetabbaṃ. Tassa idha tāva ayaṃ yojanā ettāvatāpīti imāya
āhāradesanāya vuttamanasikārappaṭivedhavasenāpīti vuttaṃ hoti. Esa nayo
sabbatthāpi.
Āhāravāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Saccavāravaṇṇanā
91. Idāni ‘‘sādhāvuso’’ti purimanayeneva therassa bhāsitaṃ
abhinanditvā anumoditvā te bhikkhū uttarimpi pañhaṃ pucchiṃsu. Thero ca nesaṃ
aññenapi pariyāyena byākāsi. Esa nayo ito paresupi sabbavāresu. Tasmā ito paraṃ
evarūpāni vacanāni anāmasitvā yena yena pariyāyena byākaroti, tassa tasseva
atthaṃ vaṇṇayissāma. Imassa pana vārassa saṅkhepadesanāyaṃ dukkhañca pajānātīti
ettha dukkhanti dukkhasaccaṃ. Vitthāradesanāyaṃ pana yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ
sabbaṃ visuddhimagge saccaniddese vuttamevāti.
Saccavāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Jarāmaraṇavāravaṇṇanā
92. Ito paraṃ paṭiccasamuppādavasena desanā hoti. Tattha
jarāmaraṇavāre tāva tesaṃ tesanti ayaṃ saṅkhepato anekesaṃ sattānaṃ sādhāraṇaniddesoti
ñātabbo. Yā devadattassa jarā, yā somadattassa jarāti evañhi divasampi kathentassa
neva sattā pariyādānaṃ gacchanti. Imehi pana dvīhi padehi na koci satto
apariyādinno hoti. Tasmā vuttaṃ ‘‘ayaṃ saṅkhepato anekesaṃ sattānaṃ sādhāraṇaniddeso’’ti.
Tamhi
tamhīti ayaṃ gatijātivasena anekesaṃ nikāyānaṃ sādhāraṇaniddeso. Sattanikāyeti
sādhāraṇaniddesena niddiṭṭhassa sarūpanidassanaṃ. Jarā jīraṇatātiādīsu pana
jarāti sabhāvaniddeso. Jīraṇatāti ākāraniddeso. Khaṇḍiccantiādayo kālātikkame
kiccaniddesā. Pacchimā dve pakatiniddesā. Ayañhi jarāti iminā padena sabhāvato
dīpitā, tenassāyaṃ sabhāvaniddeso. Jīraṇatāti iminā ākārato. Tenassāyaṃ
ākāraniddeso. Khaṇḍiccanti iminā kālātikkame dantanakhānaṃ khaṇḍitabhāvakaraṇakiccato.
Pāliccanti iminā kesalomānaṃ palitabhāvakaraṇakiccato. Valittacatāti iminā maṃsaṃ
milāpetvā tace valittabhāvakaraṇakiccato dīpitā. Tenassā ime khaṇḍiccantiādayo
tayo kālātikkame kiccaniddesā. Tehi imesaṃ vikārānaṃ dassanavasena pākaṭībhūtā
pākaṭajarā dassitā. Yatheva hi udakassa vā aggino vā vātassa vā tiṇarukkhādīnaṃ
sambhaggapalibhaggatāya vā jhāmatāya vā gatamaggo pākaṭo hoti, na ca so
gatamaggo tāneva udakādīni, evameva jarāya dantādīsu khaṇḍiccādivasena
gatamaggo pākaṭo, cakkhuṃ ummīletvāpi gayhati. Na ca khaṇḍiccādīneva jarā, na
hi jarā cakkhuviññeyyā hoti.
Āyuno saṃhāni
indriyānaṃ paripākoti imehi pana padehi kālātikkameyeva abhibyattatāya
āyukkhayacakkhādiindriyaparipākasaññitāya pakatiyā dīpitā. Tenassime pacchimā
dve pakatiniddesāti veditabbā.
Tattha
yasmā jaraṃ pattassa āyu hāyati, tasmā jarā ‘‘āyuno saṃhānī’’ti phalūpacārena
vuttā. Yasmā ca daharakāle suppasannāni sukhumampi attano visayaṃ sukheneva gaṇhanasamatthāni
cakkhādīni indriyāni jaraṃ pattassa paripakkāni āluḷitāni avisadāni oḷārikampi
attano visayaṃ gahetuṃ asamatthāni honti, tasmā ‘‘indriyānaṃ paripāko’’tipi
phalūpacāreneva vuttā. Sā panāyaṃ evaṃ niddiṭṭhā sabbāpi jarā pākaṭā paṭicchannāti
duvidhā hoti.
Tattha
dantādīsu khaṇḍabhāvādidassanato rūpadhammesu jarā pākaṭajarā nāma.
Arūpadhammesu pana tādisassa vikārassa adassanato paṭicchannajarā nāma. Tattha
yvāyaṃ khaṇḍādibhāvo dissati, so tādisānaṃ dantādīnaṃ suviññeyyattā vaṇṇoyeva,
taṃ cakkhunā disvā manodvārena cintetvā ‘‘ime dantā jarāya pahaṭā’’ti jaraṃ
jānāti udakaṭṭhāne baddhāni gosīsādīni oloketvā heṭṭhā udakassa atthibhāvaṃ
jānanaṃ viya. Puna avīci savīcīti evampi duvidhā hoti. Tattha maṇikanakarajatapavāḷasūriyādīnaṃ
mandadasakādīsu pāṇīnaṃ viya pupphaphalapallavādīsu ca apāṇīnaṃ viya
antarantarā vaṇṇavisesādīnaṃ duviññeyyattā jarā avīcijarā nāma, nirantarajarāti
attho. Tato aññesu pana yathāvuttesu antarantarā vaṇṇavisesādīnaṃ suviññeyyattā
jarā savīcijarā nāmāti veditabbā.
Ito paraṃ,
tesaṃ tesantiādi vuttanayeneva veditabbaṃ. Cuti cavanatātiādīsu pana cutīti
cavanakavasena vuccati, ekacatupañcakkhandhānaṃ sāmaññavacanametaṃ. Cavanatāti
bhāvavacanena lakkhaṇanidassanaṃ. Bhedoti cutikkhandhānaṃ bhaṅguppattiparidīpanaṃ.
Antaradhānanti ghaṭasseva bhinnassa bhinnānaṃ cutikkhandhānaṃ yena kenaci
pariyāyena ṭhānābhāvaparidīpanaṃ. Maccu maraṇanti maccusaṅkhātaṃ maraṇaṃ. Tena
samucchedamaraṇādīni nisedheti. Kālo nāma antako, tassa kiriyāti kālakiriyā.
Etena lokasammutiyā maraṇaṃ dīpeti.
Idāni
paramatthena dīpetuṃ, khandhānaṃ bhedotiādimāha. Paramatthena hi khandhāyeva
bhijjanti, na satto nāma koci marati. Khandhesu pana bhijjamānesu satto marati,
bhinnesu matoti vohāro hoti.
Ettha ca
catuvokāravasena khandhānaṃ bhedo, ekavokāravasena kaḷevarassa nikkhepo.
Catuvokāravasena vā khandhānaṃ bhedo, sesadvayavasena kaḷevarassa nikkhepo
veditabbo. Kasmā? Bhavadvayepi rūpakāyasaṅkhātassa kaḷevarassa sambhavato. Atha
vā yasmā ca cātumahārājikādīsu khandhā bhijjanteva, na kiñci nikkhipanti, tasmā
tesaṃ vasena khandhānaṃ bhedo, manussādīsu kaḷevarassa nikkhepo. Ettha ca kaḷevarassa
nikkhepakāraṇato maraṇaṃ kaḷevarassa nikkhepoti vuttanti evamattho daṭṭhabbo.
Iti ayañca
jarā idañca maraṇaṃ. Idaṃ vuccatāvusoti idaṃ ubhayampi ekato katvā jarāmaraṇanti
kathīyati. Sesaṃ vuttanayamevāti.
Jarāmaraṇavāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Jātivāravaṇṇanā
93. Jātivāre jāti sañjātītiādīsu jāyanaṭṭhena jāti, sā
aparipuṇṇāyatanavasena yuttā. Sañjāyanaṭṭhena sañjāti, sā paripuṇṇāyatanavasena
yuttā. Okkamanaṭṭhena okkanti, sā aṇḍajajalābujavasena yuttā. Te hi aṇḍakosañca
vatthikosañca okkamantā pavisantā viya paṭisandhiṃ gaṇhanti. Abhinibbattanaṭṭhena
abhinibbatti, sā saṃsedajaopapātikavasena yuttā, te hi pākaṭāyeva hutvā
nibbattanti. Ayaṃ tāva vohāradesanā.
Idāni
paramatthadesanā hoti. Khandhāyeva hi paramatthato pātubhavanti, na satto.
Tattha ca khandhānanti ekavokārabhave ekassa catuvokārabhave catunnaṃ
pañcavokārabhave pañcannampi gahaṇaṃ veditabbaṃ. Pātubhāvoti uppatti.
Āyatanānanti ettha tatra tatra uppajjamānāyatanavaseneva saṅgaho veditabbo. Paṭilābhoti
santatiyaṃ pātubhāvoyeva. Pātubhavantāneva hi tāni paṭiladdhāni nāma honti. Ayaṃ
vuccatāvuso jātīti iminā padena vohārato paramatthato ca desitāya jātiyā
nigamanaṃ karotīti. Bhavasamudayāti ettha pana jātiyā paccayabhūto kammabhavo
veditabbo. Sesaṃ vuttanayamevāti.
Jātivāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Bhavavāravaṇṇanā
94. Bhavavāre kāmabhavoti kammabhavo ca upapattibhavo ca.
Tattha kammabhavo nāma kāmabhavūpagaṃ kammameva. Tañhi upapattibhavassa kāraṇattā
‘‘sukho buddhānamuppādo (dha. pa. 194) dukkho pāpassa uccayo’’tiādīni (dha. pa.
117) viya phalavohārena bhavoti vuttaṃ. Upapattibhavo nāma tena kammena
nibbattaṃ upādinnakhandhapañcakaṃ. Tañhi tattha bhavatīti katvā bhavoti vuttaṃ.
Evaṃ sabbathāpi idaṃ kammañca upapatti ca ubhayampetamidha ‘‘kāmabhavo’’ti
vuttaṃ. Esa nayo rūpārūpabhavesu. Upādānasamudayāti ettha pana upādānaṃ
kusalakammabhavassa upanissayavaseneva paccayo hoti. Akusalakammabhavassa
upanissayavasenapi sahajātādivasenapi. Upapattibhavassa pana sabbassāpi
upanissayavaseneva. Sesaṃ vuttanayamevāti.
Bhavavāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Upādānavāravaṇṇanā
95. Upādānavāre kāmupādānantiādīsu vatthukāmaṃ upādiyati
etena, sayaṃ vā taṃ upādiyatīti kāmupādānaṃ. Kāmo ca so upādānañcāti vā
kāmupādānaṃ. Upādānanti daḷhaggahaṇaṃ vuccati. Daḷhattho hi ettha upasaddo,
‘‘upāyāsa upakaṭṭhā’’tiādīsu viya pañcakāmaguṇikarāgassetaṃ adhivacanaṃ.
Ayamettha saṅkhepo. Vitthārato panetaṃ ‘‘tattha katamaṃ kāmupādānaṃ, yo kāmesu
kāmacchando’’ti (dha. sa. 1220; vibha. 938) vuttanayena veditabbaṃ.
Tathā diṭṭhi
ca sā upādānañcāti diṭṭhupādānaṃ. Atha vā diṭṭhiṃ upādiyati, upādiyanti vā
etena diṭṭhinti diṭṭhupādānaṃ. Upādiyati hi purimadiṭṭhiṃ uttaradiṭṭhi.
Upādiyanti ca tāya diṭṭhiṃ. Yathāha ‘‘sassato attā ca loko ca, idameva saccaṃ
moghamañña’’ntiādi (ma. ni. 3.27), sīlabbatupādānaattavādupādānavajjassa
sabbadiṭṭhigatassetaṃ adhivacanaṃ. Ayamettha saṅkhepo. Vitthārato panetaṃ
‘‘tattha katamaṃ diṭṭhupādānaṃ natthi dinna’’nti (dha. sa. 1220; vibha. 938)
vuttanayena veditabbaṃ.
Tathā
sīlabbataṃ upādiyanti etena, sayaṃ vā taṃ upādiyati, sīlabbatañca taṃ
upādānañcāti vā sīlabbatupādānaṃ. Gosīlagovatādīni hi evaṃ suddhīti
abhinivesato sayameva upādānāni ayamettha saṅkhepo. Vitthārato panetaṃ ‘‘tattha
katamaṃ sīlabbatupādānaṃ, ito bahiddhā samaṇabrāhmaṇānaṃ sīlena suddhī’’ti
vuttanayena veditabbaṃ.
Idāni
vadanti etenāti vādo. Upādiyanti etenāti upādānaṃ. Kiṃ vadanti, upādiyanti vā?
Attānaṃ. Attano vādupādānaṃ attavādupādānaṃ. Attavādamattameva vā attāti
upādiyati etenāti attavādupādānaṃ, vīsativatthukāya sakkāyadiṭṭhiyā etaṃ
adhivacanaṃ. Ayamettha saṅkhepo. Vitthārato panetaṃ ‘‘tattha katamaṃ
attavādupādānaṃ, idha assutavā puthujjano ariyānaṃ adassāvī’’ti (dha. sa. 1223)
vuttanayena veditabbaṃ.
Taṇhāsamudayāti
ettha taṇhā kāmupādānassa upanissayavasena
anantarasamanantaranatthivigatāsevanavasena vā paccayo. Avasesānaṃ pana
sahajātādivasenāpi. Sesaṃ vuttanayamevāti.
Upādānavāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Taṇhāvāravaṇṇanā
96. Taṇhāvāre rūpataṇhā…pe… dhammataṇhāti evaṃ
cakkhudvārādīsu javanavīthiyaṃ pavattāya taṇhāya ‘‘seṭṭhiputto brāhmaṇaputto’’ti
evamādīsu pitito nāmaṃ viya pitisadisārammaṇato nāmaṃ. Ettha ca rūpārammaṇā taṇhā,
rūpe taṇhāti rūpataṇhā. Sā kāmarāgabhāvena rūpaṃ assādentī pavattamānā kāmataṇhā.
Sassatadiṭṭhisahagatarāgabhāvena rūpaṃ niccaṃ dhuvaṃ sassatanti evaṃ assādentī
pavattamānā bhavataṇhā. Ucchedadiṭṭhisahagatarāgabhāvena rūpaṃ ucchijjati
vinassati pecca na bhavissatīti evaṃ assādentī pavattamānā vibhavataṇhāti evaṃ
tividhā hoti. Yathā ca rūpataṇhā, tathā saddataṇhādayopīti etāni aṭṭhārasa taṇhāvicaritāni
honti. Tāni ajjhattarūpādīsu aṭṭhārasa, bahiddhārūpādīsu aṭṭhārasāti chattiṃsa.
Iti atītāni chattiṃsa, anāgatāni chattiṃsa, paccuppannāni chattiṃsāti aṭṭhasataṃ.
‘‘Ajjhattikassupādāya ‘asmī’ti hoti, ‘itthasmī’ti hotī’’ti (vibha. 973-974) vā
evamādīnā ajjhattikarūpādinissitāni aṭṭhārasa, ‘‘bāhirassupādāya ‘iminā asmī’ti
hoti, ‘iminā itthasmī’ti hotī’’ti vā (vibha. 975) evamādinā
bāhirarūpādinissitāni aṭṭhārasāti chattiṃsa. Iti atītāni chattiṃsa, anāgatāni
chattiṃsa, paccuppannāni chattiṃsāti evampi aṭṭhasatataṇhāvicaritāni honti.
Puna saṅgahe karīyamāne rūpādīsu ārammaṇesu chaḷeva taṇhākāyā tissoyeva kāmataṇhādayo
hontīti evaṃ –
Niddesatthena
niddesa-vitthārā vitthārassa ca;
Puna saṅgahato
taṇhā, viññātabbā vibhāvināti.
Vedanāsamudayāti
ettha pana vedanāti vipākavedanā adhippetā. Sā kathaṃ chasu dvāresu taṇhāya
paccayo hotīti ce? Assādanīyato. Sukhāya hi vedanāya assādanena sattā vedanaṃ
mamāyantā vedanāya taṇhaṃ uppādetvā vedanārāgarattā hutvā cakkhudvāre iṭṭhameva
rūpaṃ patthenti, laddhā ca naṃ assādenti, ārammaṇadāyakānañca cittakārādīnaṃ
sakkāraṃ karonti. Tathā sotadvārādīsu iṭṭhe ca saddādayo patthenti, laddhā ca
ne assādenti, ārammaṇadāyakānañca vīṇāvādaka-gandhikasūda-tantavāya-nānāvidhasippasandassakādīnaṃ
sakkāraṃ karonti. Yathā kiṃ? Yathā puttasinehena puttaṃ mamāyantā dhātiyā
sakkāraṃ karonti, sappāyasappikhīrādīniyeva naṃ pāyenti ceva bhojenti ca. Sesaṃ
vuttanayameva.
Taṇhāvāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Vedanāvāravaṇṇanā
97. Vedanāvāre vedanākāyāti vedanāsamūhā.
Cakkhusamphassajā vedanā…pe… manosamphassajā vedanāti etaṃ ‘‘cakkhusamphassajā
vedanā atthi kusalā, atthi akusalā, atthi abyākatā’’ti (vibha. 34) evaṃ vibhaṅge
āgatattā cakkhudvārādīsu pavattānaṃ kusalākusalābyākatavedanānaṃ ‘‘sāriputto,
mantāṇiputto’’ti evamādīsu mātito nāmaṃ viya mātisadisavatthuto nāmaṃ.
Vacanattho panettha cakkhusamphassahetu jātā vedanā cakkhusamphassajā vedanāti.
Esa nayo sabbattha. Ayaṃ tāvettha sabbasaṅgāhikakathā. Vipākavasena pana
cakkhudvāre dve cakkhuviññāṇāni, dve manodhātuyo, tisso manoviññāṇadhātuyoti
etāhi sampayuttavasena vedanā veditabbā. Esa nayo sotadvārādīsu. Manodvāre
manoviññāṇadhātusampayuttāva.
Phassasamudayāti
ettha pana pañcadvāre pañcavatthukavedanānaṃ sahajātacakkhusamphassādisamudayā
samudayo hoti. Avasesānaṃ cakkhusamphassādayo upanissayādivasena paccayā.
Manodvāre tadārammaṇavedanānaṃ advārikānañca paṭisandhibhavaṅgacutivedanānaṃ
sahajātamanosamphassasamudayā samudayo hotīti veditabbo. Sesaṃ vuttanayameva.
Vedanāvāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Phassavāravaṇṇanā
98. Phassavāre cakkhusamphassoti cakkhumhi samphasso. Esa
nayo sabbattha. Cakkhusamphasso…pe… kāyasamphassoti ettāvatā ca
kusalākusalavipākā pañcavatthukā dasa samphassā vuttā honti. Manosamphassoti
iminā sesā bāvīsati lokiyavipākamanasampayuttaphassā. Saḷāyatanasamudayāti
channaṃ cakkhādīnaṃ āyatanānaṃ samudayena imassa chabbidhassāpi samphassassa
samudayo hotīti veditabbo. Sesaṃ vuttanayamevāti.
Phassavāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Saḷāyatanavāravaṇṇanā
99. Saḷāyatanavāre cakkhāyatanantiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ
sabbaṃ visuddhimagge khandhaniddese ceva āyatananiddese ca vuttanayameva.
Nāmarūpasamudayāti ettha pana yaṃ nāmaṃ yañca rūpaṃ, yañca nāmarūpaṃ yassa
āyatanassa paccayo hoti, tassa vasena visuddhimagge paṭiccasamuppādaniddese
vuttanayena nāmarūpasamudayā saḷāyatanasamudayo veditabbo. Sesaṃ
vuttappakāramevāti.
Saḷāyatanavāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Nāmarūpavāravaṇṇanā
100.
Nāmarūpavāre namanalakkhaṇaṃ nāmaṃ. Ruppanalakkhaṇaṃ rūpaṃ. Vitthāravāre
panassa vedanāti vedanākkhandho. Saññāti saññākkhandho. Cetanā phasso
manasikāroti saṅkhārakkhandho veditabbo. Kāmañca aññepi saṅkhārakkhandhasaṅgahitā
dhammā santi, ime pana tayo sabbadubbalesupi cittesu santi. Tasmā etesaṃyeva
vasenettha saṅkhārakkhandhopi dassito. Cattāri ca mahābhūtānīti ettha cattārīti
gaṇanaparicchedo. Mahābhūtānīti pathavīāpatejavāyānametaṃ adhivacanaṃ. Yena
pana kāraṇena tāni mahābhūtānīti vuccanti, yo cettha añño vinicchayanayo, so
sabbo visuddhimagge rūpakkhandhaniddese vutto.
Catunnañca
mahābhūtānaṃ upādāyāti ettha pana catunnanti upayogatthe sāmivacanaṃ, cattāri
ca mahābhūtānīti vuttaṃ hoti. Upādāyāti upādiyitvā, gahetvāti attho.
Nissāyātipi eke. Vattamānanti ayañcettha pāṭhaseso. Samūhatthe vā etaṃ
sāmivacanaṃ. Tena catunnañca mahābhūtānaṃ samūhaṃ upādāya pavattamānaṃ rūpanti
ayamattho veditabbo. Evaṃ sabbatthāpi yāni cattāri pathavīādīni mahābhūtāni,
yañca catunnaṃ mahābhūtānaṃ upādāya vattamānaṃ cakkhāyatanādibhedena
abhidhammapāḷiyameva vuttaṃ tevīsatividhaṃ rūpaṃ, taṃ sabbampi ‘‘rūpa’’nti
veditabbaṃ. Viññāṇasamudayāti ettha pana yaṃ viññāṇaṃ yassa nāmassa yassa ca
rūpassa yassa ca nāmarūpassa paccayo hoti, tassa vasena visuddhimagge paṭiccasamuppādaniddese
vuttanayeneva viññāṇasamudayā nāmarūpasamudayo veditabbo. Sesaṃ
vuttanayamevāti.
Nāmarūpavāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Viññāṇavāravaṇṇanā
101. Viññāṇavāre cakkhuviññāṇanti cakkhumhi viññāṇaṃ,
cakkhuto vā jātaṃ viññāṇanti cakkhuviññāṇaṃ. Evaṃ sotaghānajivhākāyaviññāṇāni.
Itaraṃ pana manoyeva viññāṇanti manoviññāṇaṃ. Dvipañcaviññāṇavajjassa tebhūmakavipākacittassetaṃ
adhivacanaṃ. Saṅkhārasamudayāti ettha pana yo saṅkhāro yassa viññāṇassa paccayo
hoti, tassa vasena saṅkhārasamudayā viññāṇasamudayo veditabbo. Sesaṃ
vuttanayamevāti.
Viññāṇavāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Saṅkhāravāravaṇṇanā
102. Saṅkhāravāre abhisaṅkharaṇalakkhaṇo saṅkhāro.
Vitthāravāre panassa kāyasaṅkhāroti kāyato pavattasaṅkhāro, kāyadvāre
copanavasena pavattānaṃ kāmāvacarakusalato aṭṭhannaṃ, akusalato dvādasannanti
vīsatiyā kāyasañcetanānametaṃ adhivacanaṃ. Vacīsaṅkhāroti vacito pavattasaṅkhāro,
vacīdvāre vacanabhedavasena pavattānaṃ vīsatiyā eva vacīsañcetanānametaṃ
adhivacanaṃ. Cittasaṅkhāroti cittato pavattasaṅkhāro, kāyavacīdvāre copanaṃ
akatvā raho nisīditvā cintayantassa pavattānaṃ lokiyakusalākusalavasena ekūnatiṃsamanosañcetanānametaṃ
adhivacanaṃ. Avijjāsamudayāti ettha pana kusalānaṃ upanissayavasena akusalānaṃ
sahajātādivasenāpi avijjāpaccayo hotīti veditabbā. Sesaṃ vuttanayamevāti.
Saṅkhāravāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Avijjāvāravaṇṇanā
103. Avijjāvāre dukkhe aññāṇanti dukkhasacce aññāṇaṃ,
mohassetaṃ adhivacanaṃ. Esa nayo samudaye aññāṇantiādīsu. Tattha catūhi kāraṇehi
dukkhe aññāṇaṃ veditabbaṃ antogadhato vatthuto ārammaṇato paṭicchādanato ca.
Tathā hi taṃ dukkhasaccapariyāpannattā dukkhe antogadhaṃ, dukkhasaccañcassa nissayapaccayabhāvena
vatthu, ārammaṇapaccayabhāvena ārammaṇaṃ, dukkhasaccañca etaṃ paṭicchādeti,
tassa yāthāvalakkhaṇappaṭivedhanivāraṇena, ñāṇappavattiyā cettha appadānena.
Samudaye
aññāṇaṃ tīhi kāraṇehi veditabbaṃ vatthuto ārammaṇato paṭicchādanato ca. Nirodhe
paṭipadāyañca aññāṇaṃ ekeneva kāraṇena veditabbaṃ paṭicchādanato. Nirodhapaṭipadāya
hi paṭicchādakameva aññāṇaṃ tesaṃ yāthāvalakkhaṇappaṭivedhanivāraṇena, tesu ca
ñāṇappavattiyā appadānena. Na pana tattha antogadhaṃ, tasmiṃ saccadvaye
apariyāpannattā. Na tassa taṃ saccadvayaṃ vatthu, asahajātattā. Nārammaṇaṃ,
tadārabbha appavattanato. Pacchimañhi saccadvayaṃ gambhīrattā duddasaṃ, na
cettha andhabhūtaṃ aññāṇaṃ pavattati. Purimaṃ pana vañcaniyaṭṭhena
sabhāvalakkhaṇassa duddasattā gambhīraṃ, tattha vipallāsaggāhavasena pavattati.
Apica
dukkheti ettāvatā saṅgahato vatthuto ārammaṇato kiccato ca avijjā dīpitā.
Dukkhasamudayeti ettāvatā vatthuto ārammaṇato kiccato ca. Dukkhanirodhe
dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāyāti ettāvatā kiccato. Avisesato pana aññāṇanti
etena sabhāvato niddiṭṭhāti ñātabbā. Āsavasamudayāti ettha pana
kāmāsavabhavāsavā sahajātādivasena avijjāya paccayā honti. Avijjāsavo
upanissayavaseneva. Pubbuppannā cettha avijjā avijjāsavoti veditabbā. Sā
aparāparuppannāya avijjāya upanissayapaccayo hoti. Sesaṃ vuttanayamevāti.
Avijjāvāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Āsavavāravaṇṇanā
104. Āsavavāre avijjāsamudayāti ettha avijjā
kāmāsavabhavāsavānaṃ sahajātādivasena paccayo hoti. Avijjāsavassa
upanissayavaseneva. Aparāparuppannā cettha avijjā avijjāsavoti veditabbā.
Pubbuppannā avijjāyevassa aparāparuppannassa avijjāsavassa upanissayapaccayo
hoti. Sesaṃ vuttanayamevāti. Ayaṃ vāro yā esā paṭiccasamuppādapadesu jeṭṭhikā
avijjā, tassāpi paccayadassanavasena vutto. Evaṃ vuttena vārena saṃsārassa
anamataggatā sādhitā hoti. Kathaṃ? Āsavasamudayena hi avijjāsamudayo.
Avijjāsamudayenāpi āsavasamudayo. Evaṃ āsavā avijjāya avijjāpi āsavānaṃ
paccayoti katvā pubbakoṭi na paññāyati avijjāya, tassā apaññāyanato saṃsārassa
anamataggatā siddhā hotīti.
Evaṃ
sabbepime imasmiṃ sutte kammapathavāro āhāravāro dukkhavāro jarā-maraṇa-jāti-bhava-upādāna-taṇhā-vedanā-phassa-saḷāyatana-nāmarūpa-
viññāṇa-saṅkhāra-avijjā-āsavavāroti soḷasavārā vuttā.
Tesu
ekekassa vārassa saṅkhepavitthāravasena dvidhā vibhattā dvattiṃsaṭṭhānāni
honti. Iti imasmiṃ sutte imesu dvattiṃsaṭṭhānesu cattāri saccāni kathitāni.
Etesaṃyeva vitthāravasena vuttesu soḷasasu ṭhānesu arahattaṃ kathitaṃ. Therassa
pana matena dvattiṃsāyapi ṭhānesu cattāri saccāni cattāro ca maggā kathitāti.
Iti sakalepi pañcamahānikāyasaṅgahite buddhavacane natthi taṃ suttaṃ, yattha
dvattiṃsakkhattuṃ cattāri saccāni dvattiṃsakkhattuñca arahattaṃ pakāsitaṃ
aññatra imamhā sammādiṭṭhisuttāti.
Idamavocāyasmā
sāriputtoti idaṃ dvattiṃsāya catusaccapariyāyehi dvattiṃsāya ara
hattapariyāyehīti
catusaṭṭhiyā kāraṇehi alaṅkaritvā sammādiṭṭhisuttaṃ āyasmā sāriputto avoca,
attamanā te bhikkhū āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ abhinandunti.
Āsavavāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Sammādiṭṭhisuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Những chất liệu nuôi dưỡng sự sống hay tứ thực được xem là một đề tài lớn khi nói về chánh tri kiến nhưng tại sao đề tài rất ít phổ biến trong giới học Phật Việt Nam? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 2. Sự hiểu biết về tứ thực có những lợi lạc nào cho cuộc sống hằng ngày? - TT Pháp Đăng
Thảo luận 3. Nếu một người chỉ biết về sự khổ mà không quan tâm tới cội nguồn của khổ, sự diệt khổ, và con đường thoát khổ thì có vấn đề gì? - TT Pháp Tân
Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết bài học
Thảo luận 3. Nếu một người chỉ biết về sự khổ mà không quan tâm tới cội nguồn của khổ, sự diệt khổ, và con đường thoát khổ thì có vấn đề gì? - TT Pháp Tân
Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết bài học
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment