Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Quyền
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 23/6/2020
7. Kinh Ví Dụ Tấm Vải (Vatthūpama Sutta)
Tên
kinh được gọi là Ví Dụ Tấm Vải vì Đức
Phật dùng tấm vải nói lên ý nghĩa của tâm ô nhiễm hay thanh tịnh. Trước kia bài
kinh được dịch là Kinh Bố Dụ cũng mang nghĩa tương tự. Cõi ác xấu chờ đợi một
tâm ô nhiễm, như một tấm vải cáu bẩn đem nhuộm sẽ có màu đậm nhạt không đều.
Ngược lại, cõi tốt lành chờ đợi một tâm không thanh tịnh hiền thiện như tấm vải sạch khi nhuộm sẽ có màu đẹp. Đức
Phật nêu rõ thế nào cấu uế của tâm và thế nào là một nội tâm tốt lành. Pháp
thoại được giảng cho chư tỳ kheo nhưng
Bà-la-môn Sundarika Bharadvaja cũng có mặt, nhân đó, hỏi về pháp tẩy
trần bằng tịnh thuỷ của sông Bahuka. Câu trả lời của Đức Phật khiến vị nầy được
khai ngộ xin xuất gia sau nầy trở thành một thánh đệ tử viên mãn giải thoát.
027.
Dụ ngôn tấm vải
Tấm
vải trước khi nhuộm phải giặt sạch nếu không sẽ không được nhuộm tốt:
Như vầy
tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn
ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Thế Tôn gọi các
Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". --"Bạch Thế Tôn", các
vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
--
Này các Tỷ-kheo, như một tấm vải cấu uế, nhiễm bụi, một người
thợ nhuộm nhúng tấm vải ấy vào thuốc nhuộm này hay thuốc nhuộm
khác - hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc tía - vải ấy sẽ được
màu nhuộm không tốt đẹp, sẽ được màu nhuộm không sạch sẽ. Vì sao
vậy? Này các Tỷ-kheo, vì tấm vải không được trong sạch. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế. Này các Tỷ-kheo,
như một tấm vải thanh tịnh, trong sạch, một người thợ nhuộm nhúng
tấm vải ấy vào thuốc nhuộm này hay thuốc nhuộm khác - hoặc xanh,
hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc tía, vải ấy sẽ được màu nhuộm tốt đẹp,
sẽ được màu nhuộm sạch sẽ. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì tấm
vải được trong sạch. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cõi thiện chờ đợi
một tâm không cấu uế.
028.
Những cấu uế của nội tâm
Danh
sách cấu uế phiền não trong bài kinh nầy được nêu gồm 16 thứ:
Tà
dục (abhijjhāvisamalobho)
Bực
bội ác ý (byāpādo)
Phẫn
nộ (kodho )
Thù
oán (upanāho)
Khinh
thị (makkho)
Xấc
xược (paḷāso)
Tật
đố (issā)
Xan
tham (macchariyaṁ)
Dối
trá (māyā)
Phản
trắc (sāṭheyyaṁ)
Ngoan
cố (thambho)
Manh
động (sārambho)
Kiêu
căng (māno)
Quá
mạn (atimāno)
Khoe
khoang (mado)
Giãi
đãi (pamādo)
Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế của tâm? Tham dục, tà
tham là cấu uế của tâm, sân là cấu uế của tâm, phẫn là cấu uế
của tâm, hận là cấu uế của tâm, hư ngụy, não hại, tật đố, xan
tham, man trá, khi cuống, ngoan cố, cấp tháo, quá mạn, kiêu, phóng
dật là cấu uế của tâm.
Này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghĩ rằng: "Tham dục, tà tham là cấu
uế của tâm" và sau khi biết vậy, vị ấy đoạn trừ tham dục, tà
tham cấu uế của tâm; nghĩ rằng: "Sân là cấu uế của tâm",
và sau khi biết vậy, vị ấy đoạn trừ sân, cấu uế của tâm; phẫn...
hận... hư ngụy... não hại, tật đố, xan tham, man trá, khi cuống...
ngoan cố... cấp tháo... mạn... quá mạn... kiêu; nghĩ rằng:
"Phóng dật là cấu uế của tâm" thì sau khi biết vậy, vị ấy
đoạn trừ phóng dật, cấu uế của tâm.
029.
Nội tâm thanh tịnh
Nội
tâm thanh tịnh trong bài kinh nầy được Đức Phật dạy không phải là một trạng
thái mà là một trình tự với nhiều công đoạn:
a. Ý thức và đoạn diệt những cấu uế nội tại
b. Thành tựu chánh tín ở Phật, Pháp, Tăng
c. Có được những chất liệu tốt để làm nền
tảng cho thiền định
d. Thành tựu thiền định và đạo quả
Này
các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo biết được: "Tham dục, tà tham là
cấu uế của tâm", tham dục, tà tham cấu uế của tâm được diệt
trừ, ... sân... phẫn... hận... hư ngụy... não hại... tật đố... xan
tham... man trá... khi cuống... ngoan cố... cấp tháo... mạn... quá
mạn... kiêu; khi nào Tỷ-kheo biết được: "Phóng dật là cấu uế
của tâm", phóng dật, cấu uế của tâm được diệt trừ, Tỷ-kheo
ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Phật: Ngài là bậc Thế
Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Ðiều Ngự Trượng Phu, Vô Thượng Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn.
Vị
ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Pháp: Pháp được Thế Tôn
khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để
mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí chứng
hiểu
Vị
ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với chúng Tăng: Diệu hạnh là
chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng Tăng, đệ tử Thế
Tôn; Như lý hạnh là chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn; Chánh hạnh là
chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị. Chúng Tăng, đệ
tử Thế Tôn, đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được
cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.
Ðến
giai đoạn này, đối với vị ấy có sự từ bỏ, có sự diệt trừ, có sự
giải thoát, có sự đoạn trừ, có sự xả ly. Vị ấy tự nghĩ: "Ta
thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Thế Tôn", và chứng được
nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên
hệ đến pháp, từ hân hoan, hỷ sanh, từ hỷ thân được khinh an, thân
khinh an, cảm giác được lạc thọ; với lạc thọ, tâm được Thiền
định.
Vị
ấy tự nghĩ: "Ta thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với
Pháp", và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ,
chứng được hân hoan liên hệ đến pháp; từ hân hoan, hỷ sanh, từ hỷ
thân được khinh an; thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với lạc
thọ, tâm được Thiền định.
Vị
ấy tự nghĩ: "Ta thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với
Tăng", và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ,
chứng được hân hoan liên hệ đến pháp; từ hân hoan hỷ sanh; từ hỷ,
thân được khinh an, thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với lạc
thọ, tâm được Thiền định.
Vị
ấy tự nghĩ: "Ðến giai đoạn này, đối với Ta, có sự từ bỏ, có
sự diệt trừ, có sự giải thoát, có sự đoạn trừ, có sự xả ly",
và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ, chứng
được hân hoan liên hệ đến pháp; từ hân hoan, hỷ sanh; từ hỷ, thân
khinh an; thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với lạc thọ, tâm
được Thiền định.
Này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo, giới như vậy, pháp như vậy, tuệ như vậy,
- nếu có ăn đồ khất thực với gạo thơm, hạt đen được vất đi, với
các món canh, với các món ăn khác cũng không vì vậy trở thành một
chướng ngại cho vị ấy. Này các Tỷ-kheo, như một tấm vải cấu uế,
nhiễm bụi, nếu bỏ trong nước sạch, trở thành thanh tịnh sạch sẽ,
như bỏ vào lò lửa trở thành thanh tịnh sạch sẽ. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo, giới như vậy, pháp như vậy, tuệ như vậy, -
nếu có ăn đồ khất thực với gạo thơm, hạt đen được vất đi, với
các món canh, với các món ăn khác, cũng không vì vậy trở thành
một chướng ngại cho vị ấy.
Vị
ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy
phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.
Như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương
xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu
hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Vị
ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi... (như
trên)... với tâm câu hữu với hỷ... (như trên)... biến mãn một
phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế
giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô
biên, không hận, không sân.
Vị
ấy biết: "Có cái này, có cái hạ liệt, có cái cao thượng, có
sự giải thoát vượt qua các tưởng".
Do
vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục
lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi
vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát, trí khởi lên: "Ta
đã giải thoát, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là Tỷ-kheo đã được tắm rửa với sự
tắm rửa nội tâm.
030.
Làm trong sạch theo tín ngưỡng dân gian
Bà
la môn Sundarikabhāradvāja bạch hỏi Đức Phật có từng tác tịnh bằng cách tịnh
thuỷ của sông Bahuka, một dòng sông thiêng theo niềm tin của Bà la môn giáo:
Lúc
bấy giờ, Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja đang ngồi không xa Thế Tôn.
Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja bạch Thế Tôn:
-- Tôn giả Gotama có đi đến sông Bāhukā để tắm rửa không?
--
Này Bà-la-môn, sông Bāhukā là gì? Sông Bāhukā có làm được lợi ích
gì?
--
Tôn giả Gotama, sông Bāhukā được nhiều người xem là có khả năng
giải thoát. Tôn giả Gotama, sông Bahuka được nhiều người xem là có
khả năng đem lại công đức. Và nhiều người đã gội sạch các ác
nghiệp trong sông Bāhukā.
Rồi
Thế Tôn nói lên những bài kệ sau đây cho Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja:
Trong
sông Bāhukā
Tại
Adhikakkā,
Tại cả sông Gayā
Tại cả sông Gayā
Và
Sundarikā,
Tại
Sarassatī
Và tại Payāna,
Tại Bāhumatī,
Kẻ ngu dầu thường tắm,
Và tại Payāna,
Tại Bāhumatī,
Kẻ ngu dầu thường tắm,
Ác
nghiệp không rửa sạch.
Sông
Sundarikā
Có thể làm được gì?
Có thể làm được gì?
Payāga
làm gì?
Cả sông Bāhukā?
Không thể rửa nghiệp đen
Cả sông Bāhukā?
Không thể rửa nghiệp đen
Của
kẻ ác gây tội.
Ðối
kẻ sống thanh tịnh,
Ngày
nào cũng ngày tốt,
Với
kẻ sống thanh tịnh,
Ngày
nào cũng ngày lành,
Các
tịnh nghiệp thanh tịnh,
Luôn
thành tựu (thiện) hạnh.
Này
vị Bà-la-môn,
Chỉ nên tắm ở đây,
Chỉ nên tắm ở đây,
Khiến
mọi loài chúng sanh,
Ðược
sống trong an ổn.
Nếu
không nói dối trá,
Nếu không hại chúng sanh,
Nếu không hại chúng sanh,
Không
lấy của không cho,
Có
lòng tín, không tham,
Ði
Gāyā làm gì,
Gayà
một giếng nước?
Khi
được nghe nói vậy, Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja bạch Thế Tôn:
--
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã
xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc
hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể
thấy sắc. Cũng vậy Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều
phương tiện trình bày. Nay con quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy
y Tăng. Mong con được xuất gia với Tôn giả Gotama! Mong con được thọ
đại giới!
Bà-la-môn
Sundarika Bhāradvāja được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới.
Trong thời gian ngắn sau khi thọ đại giới, Tôn giả Bhāradvāja sống độc
cư, không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần và không bao lâu sau khi tự
thân chứng ngộ với thượng trí, chứng đắc và an trú ngay trong hiện
tại, vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì mục đích này các Thiện
nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị ấy đã
thắng tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". Như vậy, Tôn
giả Bharadvāja trở thành một vị A-la-hán nữa.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 7 [tóm tắt]
Kinh Ví Dụ Tấm Vải
(Vatthūpama Sutta)
(M.i, 36)
Thế Tôn nói một tấm vải
cấu uế, nếu đem nhuộm thời không ăn nhuộm, nhuộm không tốt đẹp vì
tấm vải không trong sạch; cũng vậy, cõi ác chờ đợi một tâm cấu
uế. Một tấm vải không cấu uế, nếu đem nhuộm, thời ăn nhuộm, nhuộm
được tốt đẹp, vì tấm vải trong sạch; cũng vậy, cõi Trời chờ đợi
tâm không cấu uế. Cấu uế của tâm là mười sáu ác pháp (xem kinh
số 3, Trung Bộ Kinh). Biết được mười sáu ác pháp này là cấu
uế, vị Tỷ-kheo đoạn trừ được các cấu uế, thành tựu lòng tin tuyệt
đối đối với ba ngôi báu. Đến giai đoạn này tức là chứng được Bất
lai, vị ấy có sự từ bỏ, giải thoát nghĩ rằng “Do ta thành tựu lòng
tin tuyệt đối, đối với ba ngôi báu chứng được nghĩa tín thọ (atthavedam),
pháp tín thọ (dhammavedam), chứng được hân hoan liên hệ đến
pháp, từ hân hoan hỷ sanh, từ hỷ thân được khinh an, từ thân khinh
an cảm giác được lạc thọ”. Với lạc thọ tâm được thiền định. Vị
có giới như vậy, pháp như vậy, tuệ như vậy, dù có ăn đồ ăn ngon
lành cũng không vì vậy trở thành một pháp chướng ngại.
Rồi vị ấy an trú bốn vô
lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả. Vị ấy quán tri (pajānāti): có
cái này (quả A-la-hán), có các hạ liệt (khổ và tập), có các thù
thắng (con đường đoạn trừ đau khổ), có sự xuất ly tối thượng vượt
qua các tưởng. Do vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm được
giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Với tâm đã giải
thoát, vị ấy biết “Tâm ta đã giải thoát”, vị ấy chứng quả
A-la-hán, và được gọi là Tỷ-kheo đã được tắm rửa với sự tắm rửa
nội tâm.
Khi ấy Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja mời
Thế Tôn đi tắm ở sông Bāhukā vì sông này được xem là có khả năng
giải thoát, được nhiều công đức, gột sạch được ác nghiệp.
Thế Tôn nói lên bài kệ để
giải thích rằng các con sông không có khả năng gột sạch tội lỗi
của người làm ác. Kẻ thanh tịnh trong sạch thời ngày nào cũng tốt
lành, vì người ấy chỉ làm các nghiệp trong sạch và chỉ nên tắm ở
đây thôi. Một người không dối trá, không làm hại chúng sanh, không
lấy của không cho, không tham, có lòng tin thời đi tắm sông làm gì.
Sau khi nghe vậy, Bà-la-môn Sundarikabhāradvājā xin quy y ba ngôi báu,
xin xuất gia, thọ đại giới và không bao lâu trở thành vị A-la-hán.
Trong kinh này, chúng ta nhận
thấy con đường chứng quả A-la-hán có sai khác với con đường giới
định tuệ thông thường. Ở đây vị Tỷ-kheo phải biết mười sáu ác
pháp là cấu uế, đoạn trừ chúng, biết được chúng đã đoạn trừ, nên
thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với ba ngôi báu. Đến giai đoạn
này, vị ấy chứng được quả Bất lai, nếu có sự từ bỏ, có sự đoạn
trừ, có sự xả ly. Vị ấy nghĩ, vị ấy đã có lòng tin tuyệt đối đối
với ba ngôi báu, nên chứng được nghĩa tín thọ, pháp tín thọ,
chứng được hân hoan liên hệ đến pháp, từ hân hoan hỷ sanh, từ hỷ
thân được khinh an, từ thân khinh an cảm giác được lạc thọ, với
lạc thọ, tâm được thiền định. Với giới như vậy, pháp như vậy,
tuệ như vậy, vị ấy tu tập bốn vô lượng tâm. Rồi vị ấy biết: Có
cái này (quả A-la-hán), có cái hạ liệt (khổ đế, tập đế), có cái
thù thắng (con đường đưa đến diệt đế), có sự vượt qua các tưởng
(về bốn vô lượng tâm), đây chỉ cho Niết-bàn tức là diệt đế. Vị
ấy nhờ biết vậy, thấy vậy, nên tâm giải thoát khỏi dục lậu, hữu
lậu, vô minh lậu, chứng quả A-la-hán. Như vậy được gọi là vị
Tỷ-kheo đã tắm rửa với sự tắm nội tâm.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 7 [tóm tắt]
Kinh Ví Dụ Tấm Vải
(Vatthūpama Sutta)
(M.i, 36)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và thuyết giảng.
B. Chánh kinh:
I. Cõi
ác chờ đợi tâm cấu uế, như tấm vải nhơ, được màu nhuộm không tốt đẹp. Cõi lành
chờ đợi tâm không cấu uế, như tấm vải sạch được màu nhuộm tốt đẹp.
II. Quá
trình hiểu biết cấu uế đưa đến giải thoát giác ngộ.
1. Biết được các cấu uế và đoạn trừ được cấu uế.
2. Lòng tin bất động đối với 3 ngôi báu.
3. Chứng được nghĩa tín thọ, pháp tín thọ và hướng đến thiền định.
4. Tu 4 vô lượng tâm.
5. Tu tuệ chứng quả A-la-hán.
III. Thế
Tôn đọc lên bài kệ để trả lời Bà-la-môn Sundarika.
C. Kết luận:
Nghe xong bài kệ, Bà-la-môn Sundarika tán thán 3 ngôi báu, xin quy
y và xin xuất gia, cuối cùng chứng quả.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 7 [toát yếu]
Kinh Ví Dụ Tấm Vải
(Vatthūpama Sutta)
(M.i, 36)
I. Toát yếu
Vatthūpama Sutta - The simile of the cloth.
With a simple simile the Buddha illustrates the
difference between a defiled mind and a pure mind.
Bằng một ví dụ đơn giản, Phật nói rõ sự
khác nhau giữa một tâm ô nhiễm và một tâm thanh tịnh.
II.
Tóm tắt
Cõi xấu ác chờ đợi một tâm ô nhiễm, như một
tấm vải dơ đem nhuộm sẽ có màu loang lổ không đẹp. Ngược lại, cõi
tốt lành chờ đợi một tâm không ô nhiễm, ví như tấm vải sạch khi
nhuộm sẽ có màu đẹp đẽ.
Những cấu uế của tâm là:
- tham,
sân, phẫn, hận,
- hư ngụy,
não hại, tật đố, xan tham,
- man trá, khi cuống, ngoan cố, cấp tháo,
- mạn, quá mạn, kiêu, phóng dật.
Tỳ kheo nào biết được những cấu uế của tâm
để diệt trừ, vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối nơi Phật, Pháp,
thánh chúng. Nơi vị ấy có sự từ bỏ, diệt trừ, giải thoát, xả ly,
chứng được nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, được sự hân hoan liên hệ
đến Pháp. Do hân hoan, có hỷ, do hỷ có khinh an, do khinh an có lạc,
do lạc có định. Một vị tỳ kheo có giới như vậy, pháp như vậy, tuệ
như vậy, thì dù ăn gạo thơm và các thực phẩm ngon lành cũng không
vì vậy mà bị chướng ngại (vì đã dứt lòng tham vị ngon). Vị ấy có
thể tu tập các phạm trú từ bi hỷ xả, tu các thiền định, đạt đến
tâm giải thoát tuệ giải thoát của bậc A-la-hán. Tỳ kheo ấy được
gọi là đã tắm rửa với sự tắm rửa nội tâm.
Phật
nói câu sau cùng là cốt nhắm đến bà-la-môn Sundarikabhāradvāja ngồi
cách Ngài không xa. Quả nhiên ông ta liên tưởng đến nghi lễ tắm
sông để tẩy tội trong tín ngưỡng của mình, và hỏi Phật có tắm
sông Bāhukā không, vì sông này đem lại nhiều công đức. Khi ấy Phật
nói lên một bài kệ đại ý rằng, không có sông nào rửa sạch được
quả báo nơi kẻ đã tạo ác nghiệp, đã gây tội lỗi; tắm để rửa tội
là một tục lệ mê tín. Ðối với người sống thanh tịnh thì ngày nào
cũng tốt lành; vậy chỉ nên tắm trong tịnh nghiệp mới được sống an
vui. Bà-la-môn sau khi nghe kinh này, xin được xuất gia với Phật, và
không bao lâu ông chứng thánh quả, thành một bậc A-la-hán.
III. Chú
giải
Theo
bản Anh, 16 cấu uế là:
1. Covetousness and unrightous greed;
2. ill will;
3. anger;
4. Revenge;
5. contempt;
6. domineering attitude;
7. envy;
8. avarice;
9. deceit;
10. fraude;
11. obstinacy;
12. presumption;
13. conceit;
14. arrogance;
15. vanity;
16. negligence
-
tham dục bất chính, ác ý, sân, hận, khinh
miệt, thống trị, ngoan cố, tư phụ, kiêu căng, hợm hĩnh, khoe khoang,
lơ đễnh.
Sớ
giải nói 16 cấu uế trên được từ bỏ tuần tự như sau:
- Dự lưu đạo
từ bỏ các cấu uế từ 5 - 10;
-
Bất hoàn đạo từ bỏ thêm các cấu uế 2, 3, 4 và 16. - A-la-hán đạo
từ bỏ nốt sáu cấu uế còn lại.
IV. Pháp
số
Ba
lậu: dục, hữu, vô minh.
Ba
ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng.
Bốn
đôi tám vị: bốn quả sa môn và bốn đạo: Dự lưu, Nhất
lai, Bất hoàn, A-la-hán.
Bốn
phạm trú hay vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ,
xả.
V. Kệ
tụng
1.
Như vải dơ đem nhuộm
Sẽ
có màu không đẹp
Cũng
vậy cõi ác dữ
Chờ đợi tâm cấu uế
Chờ đợi tâm cấu uế
Như
vải sạch đem nhuộm
Sẽ
có màu thuần tịnh
Cũng
vậy cõi tốt lành
Chờ
đợi tâm hiền thiện.
2. Mười sáu cấu uế tâm
Cần
biết để tẩy trừ:
Tà tham và giận dữ
Tà tham và giận dữ
Phẫn
uất và hiềm hận,
hư
ngụy và não hại,
tật đố và xan tham
man trá và khi cuống,
tật đố và xan tham
man trá và khi cuống,
ngoan
cố và cấp tháo
ngã
mạn và thượng mạn
kiêu
căng và phóng dật.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
7.
Vatthasuttaṃ [Mūla]
70. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca : ''seyyathāpi, bhikkhave, vatthaṃ saṃkiliṭṭhaṃ malaggahitaṃ
tamenaṃ rajako yasmiṃ yasmiṃ raṅgajāte upasaṃhareyya : yadi nīlakāya yadi
pītakāya yadi lohitakāya yadi mañjiṭṭhakāya [mañjeṭṭhakāya (sī. pī.), mañjeṭṭhikāya
(syā.)] durattavaṇṇamevassa aparisuddhavaṇṇamevassa. Taṃ kissa hetu?
aparisuddhattā, bhikkhave, vatthassa. Evameva kho, bhikkhave, citte saṃkiliṭṭhe,
duggati pāṭikaṅkhā. Seyyathāpi, bhikkhave, vatthaṃ parisuddhaṃ pariyodātaṃ
tamenaṃ rajako yasmiṃ yasmiṃ raṅgajāte upasaṃhareyya : yadi nīlakāya yadi
pītakāya yadi lohitakāya yadi mañjiṭṭhakāya : surattavaṇṇamevassa parisuddhavaṇṇamevassa.
Taṃ kissa hetu? parisuddhattā, bhikkhave, vatthassa. Evameva kho, bhikkhave,
citte asaṃkiliṭṭhe, sugati pāṭikaṅkhā.
71. ''Katame ca,
bhikkhave, cittassa upakkilesā? abhijjhāvisamalobho cittassa upakkileso,
byāpādo cittassa upakkileso, kodho cittassa upakkileso, upanāho cittassa
upakkileso, makkho cittassa upakkileso,
paḷāso cittassa upakkileso, issā
cittassa upakkileso, macchariyaṃ cittassa upakkileso, māyā cittassa
upakkileso, sāṭheyyaṃ cittassa upakkileso, thambho cittassa upakkileso, sārambho
cittassa upakkileso, māno cittassa upakkileso, atimāno cittassa upakkileso,
mado cittassa upakkileso, pamādo
cittassa upakkileso.
72. ''Sa kho so,
bhikkhave, bhikkhu 'abhijjhāvisamalobho cittassa upakkilesoti : iti viditvā
abhijjhāvisamalobhaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'byāpādo cittassa
upakkilesoti : iti viditvā byāpādaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'kodho cittassa upakkilesoti : iti viditvā
kodhaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'upanāho cittassa upakkilesoti : iti
viditvā upanāhaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'makkho cittassa upakkilesoti :
iti viditvā makkhaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'paḷāso cittassa upakkilesoti
: iti viditvā paḷāsaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'issā cittassa upakkilesoti
: iti viditvā issaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'macchariyaṃ cittassa
upakkilesoti : iti viditvā macchariyaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'māyā
cittassa upakkilesoti : iti viditvā māyaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'sāṭheyyaṃ
cittassa upakkilesoti : iti viditvā sāṭheyyaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati
'thambho cittassa upakkilesoti : iti viditvā thambhaṃ cittassa upakkilesaṃ
pajahati 'sārambho cittassa upakkilesoti
: iti viditvā sārambhaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'māno cittassa
upakkilesoti : iti viditvā mānaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati 'atimāno
cittassa upakkilesoti : iti viditvā atimānaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati
'mado cittassa upakkilesoti : iti viditvā madaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahati
'pamādo cittassa upakkilesoti : iti viditvā pamādaṃ cittassa upakkilesaṃ
pajahati.
73. ''Yato kho [yato
ca kho (sī. syā.)], bhikkhave, bhikkhuno 'abhijjhāvisamalobho cittassa
upakkilesoti : iti viditvā abhijjhāvisamalobho cittassa upakkileso pahīno hoti, 'byāpādo cittassa upakkilesoti :
iti viditvā byāpādo cittassa upakkileso pahīno hoti 'kodho cittassa
upakkilesoti : iti viditvā kodho cittassa upakkileso pahīno hoti 'upanāho
cittassa upakkilesoti : iti viditvā upanāho cittassa upakkileso pahīno hoti
'makkho cittassa upakkilesoti : iti viditvā makkho cittassa upakkileso pahīno
hoti 'paḷāso cittassa upakkilesoti : iti viditvā paḷāso cittassa upakkileso
pahīno hoti 'issā cittassa upakkilesoti : iti viditvā issā cittassa upakkileso
pahīno hoti 'macchariyaṃ cittassa upakkilesoti : iti viditvā macchariyaṃ
cittassa upakkileso pahīno hoti 'māyā cittassa upakkilesoti : iti viditvā māyā
cittassa upakkileso pahīno hoti 'sāṭheyyaṃ cittassa upakkilesoti : iti viditvā sāṭheyyaṃ cittassa upakkileso
pahīno hoti 'thambho cittassa upakkilesoti : iti viditvā thambho cittassa
upakkileso pahīno hoti 'sārambho cittassa upakkilesoti : iti viditvā sārambho
cittassa upakkileso pahīno hoti 'māno
cittassa upakkilesoti : iti viditvā māno cittassa upakkileso pahīno hoti
'atimāno cittassa upakkilesoti : iti viditvā atimāno cittassa upakkileso pahīno
hoti 'mado cittassa upakkilesoti : iti viditvā mado cittassa upakkileso pahīno
hoti 'pamādo cittassa upakkilesoti : iti viditvā pamādo cittassa upakkileso
pahīno hoti.
74. ''So buddhe
aveccappasādena samannāgato hoti : 'itipi so Bhagavā arahaṃ
sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi
satthā devamanussānaṃ buddho Bhagavāti dhamme aveccappasādena
samannāgato hoti : 'svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko
opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhīti saṅghe aveccappasādena samannāgato
hoti : 'suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ujuppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho,
ñāyappaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, sāmīcippaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, yadidaṃ cattāri
purisayugāni, aṭṭha purisapuggalā. Esa bhagavato sāvakasaṅgho āhuneyyo
pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaraṇīyo , anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassāti.
75. ''Yathodhi
[yatodhi (aṭṭhakathāyaṃ pāṭhantaraṃ)] kho panassa cattaṃ hoti vantaṃ muttaṃ
pahīnaṃ paṭinissaṭṭhaṃ, so 'buddhe aveccappasādena samannāgatomhīti labhati
atthavedaṃ, labhati dhammavedaṃ, labhati dhammūpasaṃhitaṃ pāmojjaṃ. Pamuditassa
pīti jāyati, pītimanassa kāyo passambhati, passaddhakāyo sukhaṃ vedeti, sukhino
cittaṃ samādhiyati 'dhamme - pe - saṅghe
aveccappasādena samannāgatomhīti labhati atthavedaṃ, labhati dhammavedaṃ,
labhati dhammūpasaṃhitaṃ pāmojjaṃ pamuditassa pīti jāyati, pītimanassa kāyo
passambhati, passaddhakāyo sukhaṃ vedeti, sukhino cittaṃ samādhiyati. 'Yathodhi
kho pana me cattaṃ vantaṃ muttaṃ pahīnaṃ paṭinissaṭṭhanti labhati atthavedaṃ,
labhati dhammavedaṃ, labhati dhammūpasaṃhitaṃ pāmojjaṃ pamuditassa pīti jāyati,
pītimanassa kāyo passambhati, passaddhakāyo sukhaṃ vedeti, sukhino cittaṃ
samādhiyati.
76. ''Sa kho so,
bhikkhave, bhikkhu evaṃsīlo evaṃdhammo evaṃpañño sālīnaṃ cepi piṇḍapātaṃ
bhuñjati vicitakāḷakaṃ anekasūpaṃ anekabyañjanaṃ, nevassa taṃ hoti antarāyāya.
Seyyathāpi, bhikkhave, vatthaṃ saṃkiliṭṭhaṃ malaggahitaṃ acchodakaṃ āgamma
parisuddhaṃ hoti pariyodātaṃ , ukkāmukhaṃ vā panāgamma jātarūpaṃ parisuddhaṃ
hoti pariyodātaṃ, evameva kho, bhikkhave, bhikkhu evaṃsīlo evaṃdhammo evaṃpañño
sālīnaṃ cepi piṇḍapātaṃ bhuñjati vicitakāḷakaṃ anekasūpaṃ anekabyañjanaṃ ,
nevassa taṃ hoti antarāyāya.
77. ''So
mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ, tathā
tatiyaṃ, tathā catutthaṃ [catutthiṃ (sī. pī.)]. Iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi
sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena
appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati karuṇāsahagatena cetasā - pe -
muditāsahagatena cetasā - pe - upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā
dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ. Iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi
sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena
appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.
78. ''So 'atthi idaṃ,
atthi hīnaṃ, atthi paṇītaṃ, atthi imassa saññāgatassa uttariṃ nissaraṇanti
pajānāti. Tassa evaṃ jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ vimuccati,
bhavāsavāpi cittaṃ vimuccati, avijjāsavāpi cittaṃ vimuccati. Vimuttasmiṃ
vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. 'Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ,
nāparaṃ itthattāyāti pajānāti . Ayaṃ vuccati, bhikkhave : 'bhikkhu sināto
antarena sinānenāti.
79. Tena kho pana
samayena sundarikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavato avidūre nisinno hoti. Atha kho
sundarikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ
etadavoca : ''gacchati pana bhavaṃ gotamo bāhukaṃ nadiṃ sināyitunti? ''kiṃ,
brāhmaṇa, bāhukāya nadiyā? kiṃ bāhukā nadī karissatīti? ''lokkhasammatā
[lokhyasammatā (sī.), mokkhasammatā (pī.)] hi, bho gotama, bāhukā nadī
bahujanassa, puññasammatā hi, bho gotama, bāhukā nadī bahujanassa, bāhukāya
pana nadiyā bahujano pāpakammaṃ kataṃ pavāhetīti. Atha kho Bhagavā
sundarikabhāradvājaṃ brāhmaṇaṃ gāthāhi ajjhabhāsi :
''Bāhukaṃ adhikakkañca, gayaṃ sundarikaṃ mapi
[sundarikāmapi (sī. syā. pī.), sundarikaṃ mahiṃ (itipi)].
Sarassatiṃ payāgañca, atho bāhumatiṃ nadiṃ.
Niccampi bālo pakkhando [pakkhanno (sī. syā. pī.)], kaṇhakammo
na sujjhati..
''Kiṃ sundarikā
karissati, kiṃ payāgā [payāgo (sī. syā. pī.)] kiṃ bāhukā nadī.
Veriṃ katakibbisaṃ naraṃ, na hi naṃ sodhaye
pāpakamminaṃ..
''Suddhassa ve
sadā phaggu, suddhassuposatho sadā.
Suddhassa sucikammassa, sadā sampajjate vataṃ.
Idheva sināhi brāhmaṇa, sabbabhūtesu karohi khemataṃ..
''Sace musā na bhaṇasi, sace pāṇaṃ na hiṃsasi.
Sace adinnaṃ nādiyasi, saddahāno amaccharī.
Kiṃ kāhasi gayaṃ gantvā, udapānopi te gayāti..
80. Evaṃ vutte, sundarikabhāradvājo brāhmaṇo
bhagavantaṃ etadavoca : ''abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama!
seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya,
mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya : cakkhumanto
rūpāni dakkhantīti evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito.
Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.
Labheyyāhaṃ bhoto gotamassa santike pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadanti. Alattha
kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavato santike pabbajjaṃ, alattha
upasampadaṃ. Acirūpasampanno kho
panāyasmā bhāradvājo eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto
nacirasseva : yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti
tadanuttaraṃ : brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭhevadhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja vihāsi. ''Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ,
nāparaṃ itthattāyāti abbhaññāsi. Aññataro kho panāyasmā bhāradvājo arahataṃ
ahosīti.
Vatthasuttaṃ niṭṭhitaṃ sattamaṃ.
-ooOoo-
7. Vatthasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
70. Evaṃ me sutanti
vatthasuttaṃ. Tattha seyyathāpi, bhikkhave, vatthanti upamāvacanamevetaṃ.
Upamaṃ karonto ca bhagavā katthaci paṭhamaṃyeva upamaṃ dassetvā pacchā atthaṃ
dasseti, katthaci paṭhamamatthaṃ dassetvā pacchā upamaṃ, katthaci upamāya atthaṃ
parivāretvā dasseti, katthaci atthena upamaṃ.
Tathā hesa – ‘‘seyyathāpissu, bhikkhave, dve agārā
sadvārā, tattha cakkhumā puriso majjhe ṭhito passeyyā’’ti (ma. ni. 3.261)
sakalampi devadūtasuttaṃ upamaṃ paṭhamaṃ dassetvā pacchā atthaṃ dassento āha.
‘‘Tirokuṭṭaṃ tiropākāraṃ tiropabbataṃ asajjamāno gacchati, seyyathāpi
ākāse’’tiādinā (dī. ni. 1.238; paṭi. ma. 1.102) pana nayena sakalampi
iddhividhamatthaṃ paṭhamaṃ dassetvā pacchā upamaṃ dassento āha. ‘‘Seyyathāpi
brāhmaṇapuriso sāratthiko sāragavesī’’tiādināva (ma. ni. 1.318) nayena
sakalampi cūḷasāropamasuttaṃ upamāya atthaṃ parivāretvā dassento āha. ‘‘Idha
pana, bhikkhave, ekacce kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇanti suttaṃ…pe… seyyathāpi, bhikkhave,
puriso alagaddatthiko’’tiādinā (ma. ni. 1.238) nayena sakalampi alagaddasuttaṃ
mahāsāropamasuttanti evamādīni suttāni atthena upamaṃ parivāretvā dassento āha.
Svāyaṃ idha paṭhamaṃ upamaṃ dassetvā pacchā atthaṃ
dasseti. Kasmā panevaṃ bhagavā dassetīti? Puggalajjhāsayena vā desanāvilāsena
vā. Ye hi puggalā paṭhamaṃ upamaṃ dassetvā vuccamānamatthaṃ sukhena paṭivijjhanti,
tesaṃ paṭhamaṃ upamaṃ dasseti. Esa nayo sabbattha. Yassā ca dhammadhātuyā suppaṭividdhattā
desanāvilāsaṃ patto hoti, tassā suppaṭividdhā. Tasmā esa desanāvilāsampatto
dhammissaro dhammarājā, so yathā yathā icchati, tathā tathā dhammaṃ desetīti
evaṃ iminā puggalajjhāsayena vā desanāvilāsena vā evaṃ dassetīti veditabbo.
Tattha vatthanti pakatiparisuddhaṃ vatthaṃ. Saṃkiliṭṭhaṃ
malaggahitanti āgantukena paṃsurajādinā saṃkilesena saṃkiliṭṭhaṃ,
sedajallikādinā malena gahitattā malaggahitaṃ. Raṅgajāteti ettha raṅgameva
raṅgajātaṃ. Upasaṃhareyyāti upanāmeyya. Yadi nīlakāyāti nīlakāya
vā, nīlakatthāya vāti vuttaṃ hoti. Evaṃ sabbattha. Rajako hi nīlakatthāya upasaṃharanto
kaṃsanīlapalāsanīlādike nīlaraṅge upasaṃharati. Pītakatthāya upasaṃharanto kaṇikārapupphasadise
pītakaraṅge. Lohitakatthāya upasaṃharanto bandhujīvakapupphasadise lohitakaraṅge.
Mañjiṭṭhakatthāya upasaṃharanto kaṇavīrapupphasadise mandarattaraṅge. Tena
vuttaṃ ‘‘yadi nīlakāya…pe… yadi mañjiṭṭhakāyā’’ti.
Durattavaṇṇamevassāti duṭṭhu
rañjitavaṇṇameva assa. Aparisuddhavaṇṇamevassāti nīlavaṇṇopissa
parisuddho na bhaveyya, sesavaṇṇopi. Tādisañhi vatthaṃ nīlakumbhiyā
pakkhittampi sunīlaṃ na hoti, sesakumbhīsu pakkhittampi pītakādivaṇṇaṃ na hoti,
milātanīla kuraṇḍa-kaṇikāra-bandhujīvaka-kaṇavīrapupphavaṇṇameva hoti. Taṃ
kissa hetūti taṃ vatthaṃ kissa hetu kiṃ kāraṇā īdisaṃ hoti, tasmiṃ vā
vatthe raṅgajātaṃ kissa hetu īdisaṃ durattavaṇṇaṃ aparisuddhavaṇṇaṃ hotīti?
Yasmā panassa vatthassa saṃkiliṭṭhabhāvoyevettha kāraṇaṃ, na aññaṃ kiñci, tasmā
‘‘aparisuddhattā, bhikkhave, vatthassā’’ti āha.
Evameva khoti upamāsampaṭipādanaṃ.
Citte saṃkiliṭṭheti cittamhi saṃkiliṭṭhamhi. Kasmā pana bhagavā saṃkiliṭṭhavatthena
opammaṃ akāsīti ce, vāyāmamahapphaladassanatthaṃ. Yathā hi āgantukehi malehi saṃkiliṭṭhaṃ
vatthaṃ pakatiyā paṇḍarattā puna dhovīyamānaṃ paṇḍaraṃ hoti, na tattha jātikāḷake
viya eḷakalome vāyāmo nipphalo hoti, evaṃ cittampi āgantukehi kilesehi saṃkiliṭṭhaṃ.
Pakatiyā pana taṃ sakalepi paṭisandhibhavaṅgavāre paṇḍarameva. Yathāha –
‘‘pabhassaramidaṃ, bhikkhave, cittaṃ, tañca kho āgantukehi upakkilesehi
upakkiliṭṭha’’nti (a. ni. 1.51). Taṃ visodhīyamānaṃ sakkā pabhassarataraṃ kātuṃ,
na tattha vāyāmo nipphaloti evaṃ vāyāmamahapphaladassanatthaṃ saṃkiliṭṭhavatthena
opammaṃ akāsīti veditabbo.
Duggati pāṭikaṅkhāti īdise
citte duggati pāṭikaṅkhitabbā, duggatiṃ eva esa pāpuṇissati, nāññanti evaṃ
duggati icchitabbā, avassaṃ bhāvīti vuttaṃ hoti. Sā cāyaṃ duggati nāma paṭipattiduggati,
gatiduggatīti duvidhā hoti. Paṭipattiduggatipi agāriyapaṭipattiduggati,
anagāriyapaṭipattiduggatīti duvidhā hoti.
Agāriyo hi saṃkiliṭṭhacitto pāṇampi hanati, adinnampi
ādiyati, sakalepi dasa akusalakammapathe pūreti, ayamassa agāriyapaṭipattiduggati.
So tattha ṭhito kāyassa bhedā nirayampi gacchati, tiracchānayonimpi,
pettivisayampi gacchati, ayamassa gatiduggati.
Anagāriyopi imasmiṃ sāsane pabbajito saṃkiliṭṭhacitto
dūteyyapahiṇagamanaṃ gacchati, vejjakammaṃ karoti, saṅghabhedāya cetiyabhedāya
parakkamati, veḷudānādīhi jīvikaṃ kappeti, sakalampi anācāraṃ agocarañca
paripūreti, ayamassa anagāriyapaṭipattiduggati.So tattha ṭhito kāyassa
bhedā nirayampi gacchati, tiracchānayonimpi, pettivisayampi gacchati samaṇayakkho
nāma hoti samaṇapeto, ādittehi saṅghāṭiādīhi sampajjalitakāyo aṭṭassaraṃ
karonto vicarati, ayamassa gatiduggati.
Seyyathāpīti sukkapakkhaṃ
dassetumāraddho, tassattho kaṇhapakkhe vuttapaccanīkeneva veditabbo. Etthāpi ca
sugati nāma paṭipattisugati gatisugatīti duvidhā hoti. Paṭipattisugatipi
agāriyapaṭipattisugati anagāriyapaṭipattisugatīti duvidhā hoti. Agāriyo hi
parisuddhacitto pāṇātipātāpi viramati, adinnādānāpi, sakalepi dasa
kusalakammapathe paripūreti, ayamassa agāriyapaṭipattisugati. So tattha ṭhito
kāyassa bhedā manussamahantatampi devamahantatampi upapajjati, ayamassa gatisugati.
Anagāriyopi imasmiṃ sāsane pabbajitvā parisuddhacitto
catupārisuddhisīlaṃ sodheti, terasa dhutaṅgāni samādiyati, aṭṭhatiṃsārammaṇesu
attano anukūlakammaṭṭhānaṃ gahetvā pantasenāsane paṭisevamāno kasiṇaparikammaṃ
katvā jhānasamāpattiyo nibbatteti, sotāpattimaggaṃ bhāveti…pe… anāgāmimaggaṃ
bhāveti, ayamassa anagāriyapaṭipattisugati. So tattha ṭhito kāyassa
bhedā manussaloke vā tīsu mahākulesu, chasu vā kāmāvacaradevesu, dasasu vā
brahmabhavanesu, pañcasu vā suddhāvāsesu, catūsu vā āruppesu upapajjati,
ayamassa gatisugatīti.
71. Evaṃ saṃkiliṭṭhe citte
duggati pāṭikaṅkhā, asaṃkiliṭṭhe ca sugatīti vatvā idāni yehi upakkilesehi
cittaṃ saṃkiliṭṭhaṃ hoti, te dassento katame ca, bhikkhave, cittassa
upakkilesā? Abhijjhā visamalobhotiādimāha.
Tattha sakabhaṇḍe chandarāgo abhijjhā, parabhaṇḍe
visamalobho. Atha vā sakabhaṇḍe vā parabhaṇḍe vā hotu, yuttapattaṭṭhāne
chandarāgo abhijjhā, ayuttāpattaṭṭhāne visamalobho. Thero panāha ‘‘kissa
vinibbhogaṃ karotha, yutte vā ayutte vā hotu, ‘rāgo visamaṃ doso visamaṃ moho
visama’nti (vibha. 924) vacanato na koci lobho avisamo nāma, tasmā lobhoyeva abhijjhāyanaṭṭhena
abhijjhā, visamaṭṭhena visamaṃ, ekatthametaṃ byañjanameva nāna’’nti. So panesa
abhijjhāvisamalobho uppajjitvā cittaṃ dūseti, obhāsituṃ na deti. Tasmā
‘‘cittassa upakkileso’’ti vuccati.
Yathā cesa, evaṃ navavidhaāghātavatthusambhavo byāpādo.
Dasavidhaāghātavatthusambhavo kodho. Punappunaṃ cittapariyonandhano upanāho.
Agāriyassa vā anagāriyassa vā sukatakaraṇavināsano makkho. Agāriyopi hi
kenaci anukampakena daliddo samāno ucce ṭhāne ṭhapito, aparena samayena ‘‘kiṃ
tayā mayhaṃ kata’’nti tassa sukatakaraṇaṃ vināseti. Anagāriyopi sāmaṇerakālato
pabhuti ācariyena vā upajjhāyena vā catūhi paccayehi uddesaparipucchāhi ca
anuggahetvā dhammakathānayapakaraṇakosallādīni sikkhāpito, aparena samayena
rājarājamahāmattādīhi sakkato garukato ācariyupajjhāyesu acittīkato caramāno
‘‘ayaṃ amhehi daharakāle evaṃ anuggahito saṃvaḍḍhito ca, atha panidāni
nissineho jāto’’ti vuccamāno ‘‘kiṃ mayhaṃ tumhehi kata’’nti tesaṃ sukatakaraṇaṃ
vināseti, tassa so sukatakaraṇavināsano makkho uppajjitvā cittaṃ dūseti,
obhāsituṃ na deti. Tasmā ‘‘cittassa upakkileso’’ti vuccati.
Yathā cāyaṃ, evaṃ bahussutepi puggale ajjhottharitvā
‘‘īdisassa ceva bahussutassa aniyatā gati, tava vā mama vā ko viseso’’tiādinā
nayena uppajjamāno yugaggāhagāhī paḷāso. Paresaṃ sakkārādīni khīyanā issā.
Attano sampattiyā parehi sādhāraṇabhāvaṃ asahamānaṃ macchariyaṃ.
Vañcanikacariyabhūtā māyā. Kerāṭikabhāvena uppajjamānaṃ sāṭheyyaṃ.
Kerāṭiko hi āyatanamaccho viya hoti. Āyatanamaccho nāma kira macchānaṃ
naṅguṭṭhaṃ dasseti sappānaṃ sīsaṃ, ‘‘tumhehi sadiso aha’’nti jānāpetuṃ. Evameva
kerāṭiko puggalo yaṃ yaṃ suttantikaṃ vā ābhidhammikaṃ vā upasaṅkamati, taṃ taṃ
evaṃ vadati ‘‘ahaṃ tumhākaṃ baddhacaro, tumhe mayhaṃ anukampakā, nāhaṃ tumhe
muñcāmī’’ti ‘‘evamete ‘sagāravo ayaṃ amhesu sappatisso’ti maññissantī’’ti.
Tassetaṃ kerāṭikabhāvena uppajjamānaṃ sāṭheyyaṃ uppajjitvā cittaṃ dūseti,
obhāsituṃ na deti. Tasmā ‘‘cittassa upakkileso’’ti vuccati.
Yathā cetaṃ, evaṃ
vātabharitabhastasadisathaddhabhāvapaggahitasiraanivātavuttikārakaraṇo thambho.
Taduttarikaraṇo sārambho. So duvidhena labbhati akusalavasena ceva kusalavasena
ca. Tattha agāriyassa parena kataṃ alaṅkārādiṃ disvā taddiguṇakaraṇena
uppajjamāno, anagāriyassa ca yattakaṃ yattakaṃ paro pariyāpuṇāti vā katheti vā,
mānavasena taddiguṇataddiguṇakaraṇena uppajjamāno akusalo. Agāriyassa pana paraṃ
ekaṃ salākabhattaṃ dentaṃ disvā attanā dve vā tīṇi vā dātukāmatāya uppajjamāno,
anagāriyassa ca parena ekanikāye gahite mānaṃ anissāya kevalaṃ taṃ disvā attanā
ālasiyaṃ abhibhuyya dve nikāye gahetukāmatāya uppajjamāno kusalo. Idha pana
akusalo adhippeto. Ayañhi uppajjitvā cittaṃ dūseti, obhāsituṃ na deti. Tasmā
‘‘cittassa upakkileso’’ti vuccati.
Yathā cāyaṃ, evaṃ jātiādīni nissāya cittassa uṇṇativasena
pavattamāno māno, accuṇṇativasena atimāno, madaggahaṇākāro mado,
kāmaguṇesu cittavossaggavasena uppajjamāno pamādo uppajjitvā cittaṃ
dūseti, obhāsituṃ na deti. Tasmā ‘‘cittassa upakkileso’’ti vuccati.
Kasmā pana bhagavā upakkilesaṃ dassento lobhamādiṃ
katvā dassetīti? Tassa paṭhamuppattito. Sabbasattānañhi yattha katthaci
upapannānaṃ antamaso suddhāvāsabhūmiyampi sabbapaṭhamaṃ bhavanikantivasena
lobho uppajjati, tato attano attano anurūpapaccayaṃ paṭicca yathāsambhavaṃ
itare, na ca ete soḷaseva cittassa upakkilesā, etena pana nayena sabbepi kilesā
gahitāyeva hontīti veditabbā.
72. Ettāvatā saṃkilesaṃ dassetvā
idāni vodānaṃ dassento sa kho so, bhikkhavetiādimāha. Tattha iti
viditvāti evaṃ jānitvā. Pajahatīti samucchedappahānavasena
ariyamaggena pajahati. Tattha kilesapaṭipāṭiyā maggapaṭipāṭiyāti dvidhā pahānaṃ
veditabbaṃ. Kilesapaṭipāṭiyā tāva abhijjhāvisamalobho thambho sārambho māno
atimāno madoti ime cha kilesā arahattamaggena pahīyanti. Byāpādo kodho upanāho
pamādoti ime cattāro kilesā anāgāmimaggena pahīyanti. Makkho paḷāso issā
macchariyaṃ māyā sāṭheyyanti ime cha sotāpattimaggena pahīyantīti. Maggapaṭipāṭiyā
pana, sotāpattimaggena makkho paḷāso issā macchariyaṃ māyā sāṭheyyanti ime cha
pahīyanti. Anāgāmimaggena byāpādo kodho upanāho pamādoti ime cattāro.
Arahattamaggena abhijjhāvisamalobho thambho sārambho māno atimāno madoti ime
cha pahīyantīti.
Imasmiṃ pana ṭhāne ime kilesā sotāpattimaggavajjhā vā
hontu, sesamaggavajjhā vā, atha kho anāgāmimaggeneva pahānaṃ sandhāya
‘‘abhijjhāvisamalobhaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahatī’’tiādimāhāti veditabbā.
Ayamettha paveṇimaggāgato sambhavo, so ca upari catutthamaggasseva niddiṭṭhattā
yujjati, tatiyamaggena pahīnāvasesānañhi visamalobhādīnaṃ tena pahānaṃ hoti,
sesānaṃ imināva. Yepi hi sotāpattimaggena pahīyanti, tepi taṃsamuṭṭhāpakacittānaṃ
appahīnattā anāgāmimaggeneva suppahīnā hontīti. Keci pana paṭhamamaggena cettha
pahānaṃ vaṇṇayanti, taṃ pubbāparena na sandhiyati. Keci vikkhambhanappahānampi,
taṃ tesaṃ icchāmattameva.
73. Yato kho,
bhikkhaveti ettha yatoti yamhi kāle. Pahīno hotīti
anāgāmimaggakkhaṇe pahānaṃ sandhāyevāha.
74. So buddhe aveccappasādenāti
etaṃ ‘‘yato kho, bhikkhave, abhijjhāvisamalobho pahīno hoti, so buddhe
aveccappasādena samannāgato hotī’’ti evaṃ ekamekena padena yojetabbaṃ. Imassa
hi bhikkhuno anāgāmimaggena lokuttarappasādo āgato, athassa aparena samayena
buddhaguṇe dhammaguṇe saṅghaguṇe ca anussarato lokiyo uppajjati, tamassa
sabbampi lokiyalokuttaramissakaṃ pasādaṃ dassento bhagavā ‘‘buddhe
aveccappasādenā’’tiādimāha.
Tattha aveccappasādenāti buddhadhammasaṅghaguṇānaṃ
yāthāvato ñātattā acalena accutena pasādena. Idāni yathā tassa bhikkhuno
anussarato so aveccappasādo uppanno, taṃ vidhiṃ dassento ‘‘itipi so
bhagavā’’tiādinā nayena tīṇi anussatiṭṭhānāni vitthāresi. Tesaṃ atthavaṇṇanā
sabbākārena visuddhimagge anussatikathāyaṃ vuttā.
75. Evamassa
lokiyalokuttaramissakaṃ pasādaṃ dassetvā idāni kilesappahānaṃ
aveccappasādasamannāgatañca paccavekkhato uppajjamānaṃ somanassādiānisaṃsaṃ
dassento yathodhi kho panassātiādimāha. Anāgāmissa hi paccante vuṭṭhitaṃ
corupaddavaṃ vūpasametvā taṃ paccavekkhato mahānagare vasantassa rañño viya ime
cime ca mama kilesā pahīnāti attano kilesappahānaṃ paccavekkhato
balavasomanassaṃ uppajjati. Taṃ dassento bhagavā ‘‘yathodhi kho
panassā’’tiādimāha.
Tassattho – yvāyaṃ anāgāmī bhikkhu evaṃ ‘‘buddhe
aveccappasādena samannāgato hoti…pe… dhamme…pe… saṅghe…pe… anuttaraṃ
puññakkhettaṃ lokassā’’ti, tassa yathodhi kho cattaṃ hoti paṭinissaṭṭhaṃ,
sakasakaodhivasena cattameva hoti, taṃ taṃ kilesajātaṃ vantaṃ muttaṃ pahīnaṃ paṭinissaṭṭhaṃ.
Sakasakaodhivasenāti dve odhī kilesodhi ca maggodhi ca. Tattha
kilesodhivasenāpi ye kilesā yaṃ maggavajjhā, te aññamaggavajjhehi amissā hutvā
sakeneva odhinā pahīnā. Maggodhivasenāpi ye kilesā yena maggena pahātabbā, tena
teyeva pahīnā honti. Evaṃ sakasakaodhivasena taṃ taṃ kilesajātaṃ cattameva hoti
paṭinissaṭṭhaṃ, taṃ paccavekkhitvā ca laddhasomanasso tatuttaripi so ‘‘buddhe
aveccappasādena samannāgatomhī’’ti labhati atthavedanti sambandho.
Yatodhi khotipi pāṭho. Tassa vasena ayamattho,
assa bhikkhuno yatodhi kho pana cattaṃ hoti paṭinissaṭṭhaṃ. Tattha yatoti
kāraṇavacanaṃ, yasmāti vuttaṃ hoti. Odhīti heṭṭhā tayo maggā vuccanti.
Kasmā? Te hi odhiṃ katvā koṭṭhāsaṃ katvā uparimaggena pahātabbakilese ṭhapetvā
pajahanti, tasmā odhīti vuccanti. Arahattamaggo pana kiñci kilesaṃ
anavasesetvā pajahati, tasmā anodhīti vuccati. Imassa ca bhikkhuno heṭṭhāmaggattayena
cattaṃ. Tena vuttaṃ ‘‘yatodhi kho panassa cattaṃ hotī’’ti. Tattha kho panāti
nipātamattaṃ. Ayaṃ pana piṇḍattho. Yasmā assa odhi cattaṃ hoti paṭinissaṭṭhaṃ,
tasmā taṃ paccavekkhitvā ca laddhasomanasso tatuttaripi so ‘‘buddhe
aveccappasādena samannāgatomhī’’ti labhati atthavedanti yathāpāḷi netabbaṃ.
Tattha cattanti idaṃ sakabhāvapariccajanavasena
vuttaṃ. Vantanti idaṃ pana anādiyanabhāvadassanavasena. Muttanti
idaṃ santatito vinimocanavasena. Pahīnanti idaṃ muttassapi kvaci anavaṭṭhānadassanavasena.
Paṭinissaṭṭhanti idaṃ pubbe ādinnapubbassa paṭinissaggadassanavasena paṭimukhaṃ
vā nissaṭṭhabhāvadassanavasena bhāvanābalena abhibhuyya nissaṭṭhabhāvadassanavasenāti
vuttaṃ hoti. Labhati atthavedaṃ labhati dhammavedanti ettha buddhādīsu
aveccappasādoyeva araṇīyato attho, upagantabbatoti vuttaṃ hoti. Dhāraṇato
dhammo, vinipatituṃ appadānatoti vuttaṃ hoti. Vedoti ganthopi ñāṇampi
somanassampi. ‘‘Tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū’’tiādīsu (dī. ni. 1.256) hi gantho
‘‘vedo’’ti vuccati. ‘‘Yaṃ brāhmaṇaṃ vedagumābhijaññā, akiñcanaṃ kāmabhāve
asatta’’ntiādīsu (su. ni. 1065) ñāṇaṃ. ‘‘Ye vedajātā vicaranti loke’’tiādīsu
somanassaṃ. Idha pana somanassañca somanassasampayuttañāṇañca adhippetaṃ, tasmā
‘‘labhati atthavedaṃ labhati dhammavedanti aveccappasādārammaṇasomanassañca
somanassamayañāṇañca labhatī’’ti evamettha attho veditabbo.
Atha vā atthavedanti aveccappasādaṃ
paccavekkhato uppannaṃ vuttappakārameva vedaṃ. Dhammavedanti
aveccappasādassa hetuṃ odhiso kilesappahānaṃ paccavekkhato uppannaṃ
vuttappakārameva vedanti evampi ettha attho veditabbo. Vuttañhetaṃ ‘‘hetumhi ñāṇaṃ
dhammapaṭisambhidā, hetuphale ñāṇaṃ atthapaṭisambhidā’’ti (vibha. 718-719). Dhammūpasaṃhitaṃ
pāmojjanti tameva atthañca dhammañca atthadhammānisaṃsabhūtaṃ vedañca
paccavekkhato uppannaṃ pāmojjaṃ. Tañhi anavajjalakkhaṇena paccavekkhaṇākārappavattena
dhammena upasañhitanti vuccati. Pamuditassa pīti jāyatīti iminā
pāmojjena pamuditassa nirāmisā pīti jāyati. Pītimanassāti tāya pītiyā pīṇitamanassa.
Kāyo passambhatīti kāyopi passaddho hoti vūpasantadaratho. Passaddhakāyo
sukhanti evaṃ vūpasantakāyadaratho cetasikaṃ sukhaṃ paṭisaṃvedeti. Cittaṃ
samādhiyatīti cittaṃ sammā ādhiyati appitaṃ viya acalaṃ tiṭṭhati.
76. Evamassa kilesappahānaṃ
aveccappasādasamannāgataṃ paccavekkhato uppajjamānaṃ somanassādiānisaṃsaṃ
dassetvā idāni ‘‘yathodhi kho pana me’’ti vārena tassa paccavekkhaṇāya
pavattākāraṃ pakāsetvā tasseva anāgāmimaggānubhāvasūcakaṃ phalaṃ dassento sa
kho so, bhikkhavetiādimāha.
Tattha evaṃsīloti tassa anāgāmimaggasampayuttaṃ
sīlakkhandhaṃ dasseti. Evaṃdhammo evaṃpaññoti taṃsampayuttameva
samādhikkhandhaṃ paññākkhandhañca dasseti. Sālīnanti
lohitasāligandhasāliādīnaṃ anekarūpānaṃ. Piṇḍapātanti odanaṃ. Vicitakāḷakanti
apanītakāḷakaṃ. Nevassa taṃ hoti antarāyāyāti tassa evaṃvidhassa
bhikkhuno taṃ vuttappakārapiṇḍapātabhojanaṃ maggassa vā phalassa vā neva
antarāyāya hoti, paṭiladdhaguṇassa hi taṃ kimantarāyaṃ karissati? Yopissa appaṭiladdho
catutthamaggo ca phalaṃ ca tappaṭilābhāya vipassanaṃ ārabhatopi nevassa taṃ
hoti antarāyāya, antarāyaṃ kātuṃ asamatthameva hoti. Kasmā?
Vuttappakārasīladhammapaññāsaṅgahena maggena visuddhacittattā.
Yasmā cettha etadeva kāraṇaṃ, tasmā tadanurūpaṃ upamaṃ
dassento seyyathāpītiādimāha.
Tattha acchanti vippasannaṃ. Parisuddhaṃ
malavigamena. Pariyodātaṃ pabhassaratāya. Ukkāmukhanti suvaṇṇakārānaṃ
mūsāmukhaṃ. Suvaṇṇakārānaṃ mūsā hi idha ukkā, aññattha pana dīpikādayopi
vuccanti. ‘‘Ukkāsu dhārīyamānāsū’’ti (dī. ni. 1.159) hi āgataṭṭhāne dīpikā
‘‘ukkā’’ti vuccati. ‘‘Ukkaṃ bandheyya, ukkaṃ bandhitvā ukkāmukhaṃ ālimpeyyā’’ti
(ma. ni. 3.360) āgataṭṭhāne aṅgārakapallaṃ. ‘‘Kammārānaṃ yathā ukkā, anto
jhāyati no bahī’’ti (jā. 2.22.649) āgataṭṭhāne kammāruddhanaṃ. ‘‘Evaṃvipāko
ukkāpāto bhavissatī’’ti (dī. ni. 1.24) āgataṭṭhāne vātavego ‘‘ukkā’’ti vuccati.
Imasmiṃ pana ṭhāne aññesu ca evarūpesu ‘‘saṇḍāsena jātarūpaṃ gahetvā ukkāmukhe
pakkhipatī’’ti āgataṭṭhānesu suvaṇṇakārānaṃ mūsā ‘‘ukkā’’ti veditabbā.
Tatrāyaṃ upamāsaṃsandanā – saṃkiliṭṭhavatthaṃ viya hi
saṃkiliṭṭhajātarūpaṃ viya ca imassa bhikkhuno puthujjanakāle
kāmarāgādimalānugataṃ cittaṃ daṭṭhabbaṃ. Acchodakaṃ viya ukkāmukhaṃ viya ca
anāgāmimaggo. Taṃ udakaṃ ukkāmukhañca āgamma vatthasuvaṇṇānaṃ parisuddhatā viya
tassa bhikkhuno vuttappakārasīladhammapaññāsaṅgahaṃ anāgāmimaggaṃ āgamma
visuddhacittatāti.
77. So mettāsahagatena cetasāti
yathānusandhivasena desanā āgatā. Tayo hi anusandhī pucchānusandhi
ajjhāsayānusandhi yathānusandhīti. Tattha ‘‘evaṃ vutte aññataro bhikkhu
bhagavantaṃ etadavoca ‘siyā nu kho, bhante, bahiddhā asati paritassanā’ti?
‘Siyā bhikkhū’ti bhagavā avocā’’ti (ma. ni. 1.242). Evaṃ pucchantānaṃ
vissajjitasuttavasena pucchānusandhi veditabbo. ‘‘Siyā kho pana te
brāhmaṇa evamassa, ajjāpi nūna samaṇo gotamo avītarāgo’’ti (ma. ni. 1.55) evaṃ
paresaṃ ajjhāsayaṃ viditvā vuttassa suttassa vasena ajjhāsayānusandhi
veditabbo. Yena pana dhammena ādimhi desanā uṭṭhitā, tassa dhammassa
anurūpadhammavasena vā paṭipakkhavasena vā yesu suttesu upari desanā āgacchati,
tesaṃ vasena yathānusandhi veditabbo. Seyyathidaṃ, ākaṅkheyyasutte heṭṭhā
sīlena desanā uṭṭhitā, upari cha abhiññā āgatā. Kakacūpame heṭṭhā akkhantiyā uṭṭhitā,
upari kakacūpamovādo āgato. Alagadde heṭṭhā diṭṭhiparidīpanena uṭṭhitā, upari
tiparivaṭṭasuññatāpakāsanā āgatā, cūḷaassapure heṭṭhā kilesaparidīpanena uṭṭhitā,
upari brahmavihārā āgatā. Kosambiyasutte heṭṭhā bhaṇḍanena uṭṭhitā, upari sāraṇīyadhammā
āgatā. Imasmimpi vatthasutte heṭṭhā kilesaparidīpanena uṭṭhitā, upari
brahmavihārā āgatā. Tena vuttaṃ ‘‘yathānusandhivasena desanā āgatā’’ti.
Brahmavihāresu pana anupadavaṇṇanā ca bhāvanānayo ca sabbo sabbākārena
visuddhimagge vutto.
78. Evaṃ bhagavā abhijjhādīnaṃ
upakkilesānaṃ paṭipakkhabhūtaṃ sabbaso ca kāmarāgabyāpādappahānena
vihatapaccatthikattā laddhapadaṭṭhānaṃ tassa anāgāmino brahmavihārabhāvanaṃ
dassetvā idānissa arahattāya vipassanaṃ dassetvā arahattappattiṃ dassetuṃ so
atthi idantiādimāha.
Tassattho – so anāgāmī evaṃ bhāvitabrahmavihāro etesaṃ
brahmavihārānaṃ yato kutoci vuṭṭhāya te eva brahmavihāradhamme nāmavasena tesaṃ
nissayaṃ hadayavatthuṃ vatthunissayāni bhūtānīti iminā nayena bhūtupādāyadhamme
rūpavasena ca vavatthapetvā atthi idanti pajānāti, ettāvatānena
dukkhasaccavavatthānaṃ kataṃ hoti. Tato tassa dukkhassa samudayaṃ paṭivijjhanto
atthi hīnanti pajānāti, ettāvatānena samudayasaccavavatthānaṃ kataṃ
hoti. Tato tassa pahānupāyaṃ vicinanto atthi paṇītanti pajānāti,
ettāvatānena maggasaccavavatthānaṃ kataṃ hoti. Tato tena maggena adhigantabbaṭṭhānaṃ
vicinanto atthi uttari imassa saññāgatassa nissaraṇanti pajānāti, imassa
mayā adhigatassa brahmavihārasaññāgatassa uttari nissaraṇaṃ nibbānaṃ atthīti
evaṃ pajānātīti adhippāyo, ettāvatānena nirodhasaccavavatthānaṃ kataṃ hoti. Tassa
evaṃ jānato evaṃ passatoti tassa vipassanāpaññāya evaṃ catūhi ākārehi
cattāri saccāni jānato, maggapaññāya evaṃ passato, bhayabherave vuttanayeneva
kāmāsavāpi cittaṃ vimuccati…pe… itthattāyāti pajānātīti.
Evaṃ yāva arahattā desanaṃ pāpetvā idāni yasmā tassaṃ
parisati nhānasuddhiko brāhmaṇo nisinno, so evaṃ nhānasuddhiyā vaṇṇaṃ vuccamānaṃ
sutvā pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇissatīti bhagavatā vidito, tasmā tassa
codanatthāya ‘‘ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu sināto antarena sinānenā’’ti
imaṃ pāṭiyekkaṃ anusandhimāha. Tattha antarena sinānenāti abbhantarena kilesavuṭṭhānasinānena.
79. Sundarikabhāradvājoti
bhāradvājo nāma so brāhmaṇo attano gottavasena, sundarikāya pana nadiyā
sinātassa pāpappahānaṃ hotīti ayamassa diṭṭhi, tasmā ‘‘sundarikabhāradvājo’’ti
vuccati. So taṃ bhagavato vacanaṃ sutvā cintesi ‘‘mayaṃ sinānasuddhiṃ vaṇṇema,
samaṇopi gotamo tatheva vaṇṇeti, samānacchando dāni esa amhehī’’ti. Atha
bhagavantaṃ bāhukaṃ nadiṃ gantvā taṃ tattha pāpaṃ pavāhetvā āgataṃ viya
maññamāno āha ‘‘gacchati pana bhavaṃ gotamo bāhukaṃ nadiṃ sināyitu’’nti?
Bhagavā tassa gacchāmīti vā na gacchāmīti vā avatvāyeva brāhmaṇassa diṭṭhisamugghātaṃ
kattukāmo ‘‘kiṃ brāhmaṇa bāhukāya nadiyā, kiṃ bāhukā nadī karissatī’’ti āha.
Tassattho kiṃ payojanaṃ bāhukāya, kiṃ sā karissati? Asamatthā sā kassaci
atthāya, kiṃ tattha gamissāmīti?
Atha brāhmaṇo taṃ pasaṃsanto lokkhasammatātiādimāha.
Tattha lokkhasammatāti lūkhabhāvasammatā, lūkhabhāvanti
cokkhabhāvaṃ, visuddhibhāvaṃ detīti evaṃ sammatāti vuttaṃ hoti. Lokyasammatātipi
pāṭho. Tassattho, seṭṭhaṃ lokaṃ gamayatīti evaṃ sammatāti. Puññasammatāti
puññanti sammatā. Pavāhetīti gamayati visodheti. Gāthāhi ajjhabhāsīti
gāthāhi abhāsi. Gāthā ca vuccamānā tadatthadīpanatthameva vā gāthārucikānaṃ
vuccati, visesatthadīpanatthaṃ vā. Idha panetā ubhayatthadīpanatthaṃ vuttāti
veditabbā.
Bāhukanti idameva hi
ettha vacanaṃ tadatthadīpakaṃ, sesāni visesatthadīpakāni. Yatheva hi bāhukaṃ,
evaṃ adhikakkādīnipi loko gacchati nhānena pāpaṃ pavāhetuṃ. Tattha ye tesaṃ ṭhānānaṃ
āsannā honti, te divasassa tikkhattuṃ nhāyanti. Ye dūrā, te yathākkamaṃ
dvikkhattuṃ sakiṃ ekadivasantaraṃ, evaṃ yāva saṃvaccharantaraṃ nhāyanti. Ye
pana sabbathāpi gantuṃ na sakkonti, te ghaṭehipi tato udakaṃ āharāpetvā
nhāyanti. Sabbañcetaṃ niratthakaṃ, tasmā imaṃ visesatthaṃ dīpetuṃ adhikakkādīnipīti
āha.
Tattha adhikakkanti nhānasambhāravasena
laddhavohāraṃ ekaṃ titthaṃ vuccati. Gayātipi maṇḍalavāpisaṇṭhānaṃ
titthameva vuccati. Payāgāti etampi gaṅgāya ekaṃ titthameva
mahāpanādassa rañño gaṅgāyaṃ nimuggapāsādassa sopānasammukhaṭṭhānaṃ, bāhukā
sundarikā sarassatī bāhumatīti imā pana catasso nadiyo. Bāloti duppañño.
Pakkhandoti pavisanto. Na sujjhatīti kilesasuddhiṃ na pāpuṇāti,
kevalaṃ rajojallameva pavāheti.
Kiṃ sundarikā karissatīti sundarikā kilesavisodhane kiṃ karissati? Na kiñci kātuṃ samatthāti
adhippāyo. Esa nayo payāgabāhukāsu. Imehi ca tīhi padehi vuttehi
itarānipi cattāri lakkhaṇāhāranayena vuttāneva honti, tasmā yatheva sundarikā
payāgā bāhukā na kiñci karonti, tathā adhikakkādayopīti veditabbā.
Verinti pāṇātipātādipañcaverasamannāgataṃ.
Katakibbisanti kataluddakammaṃ. Na hi naṃ sodhayeti sundarikā vā
payāgā vā bāhukā vā na sodhaye, na sodhetīti vuttaṃ hoti. Pāpakamminanti
pāpakehi verakibbisakammehi yuttaṃ, lāmakakamme yuttaṃ vā verakibbisabhāvaṃ
appattehi khuddakehipi pāpehi yuttanti vuttaṃ hoti.
Suddhassāti nikkilesassa. Sadā
phaggūti niccampi phaggunīnakkhattameva. Phaggunamāse kira
‘‘uttaraphaggunadivase yo nhāyati, so saṃvaccharaṃ katapāpaṃ sodhetī’’ti evaṃ
diṭṭhiko so brāhmaṇo, tenassa bhagavā taṃ diṭṭhiṃ paṭihananto āha ‘‘suddhassa
ve sadā phaggū’’ti. Nikkilesassa niccaṃ phaggunīnakkhattaṃ, itaro kiṃ
sujjhatīti? Uposatho sadāti suddhassa ca cātuddasapannarasādīsu uposathaṅgāni
asamādiyatopi niccameva uposatho. Suddhassa sucikammassāti nikkilesatāya
suddhassa sucīhi ca kāyakammādīhi samannāgatassa. Sadā sampajjate vatanti
īdisassa ca kusalūpasañhitaṃ vatasamādānampi niccaṃ sampannameva hotīti. Idheva
sināhīti imasmiṃyeva mama sāsane sināhi. Kiṃ vuttaṃ hoti? ‘‘Sace
ajjhattikakilesamalappavāhanaṃ icchasi, idheva mama sāsane aṭṭhaṅgikamaggasalilena
sināhi, aññatra hi idaṃ natthī’’ti.
Idānissa sappāyadesanāvasena tīsupi dvāresu suddhiṃ
dassento sabbabhūtesu karohi khematantiādimāha. Tattha khematanti
abhayaṃ hitabhāvaṃ, mettanti vuttaṃ hoti. Etenassa manodvārasuddhi dassitā
hoti.
Sace musā na bhaṇasīti etenassa
vacīdvārasuddhi. Sace pāṇaṃ na hiṃsasi sace adinnaṃ nādiyasīti etehi
kāyadvārasuddhi. Saddahāno amaccharīti etehi pana naṃ evaṃ
parisuddhadvāraṃ saddhāsampadāya cāgasampadāya ca niyojesi. Kiṃ kāhasi gayaṃ
gantvā, udapānopi te gayāti ayaṃ pana upaḍḍhagāthā, sace sabbabhūtesu
khemataṃ karissasi, musā na bhaṇissasi, pāṇaṃ na hanissasi, adinnaṃ
nādiyissasi, saddhahāno amaccharī bhavissasi, kiṃ kāhasi gayaṃ gantvā udapānopi
te gayā, gayāyapi hi te nhāyantassa udapānepi imāya eva paṭipattiyā
kilesasuddhi, sarīramalasuddhi pana ubhayattha samāti evaṃ yojetabbaṃ. Yasmā ca
loke gayā sammatatarā, tasmā tassa bhagavā ‘‘gacchati pana bhavaṃ gotamo
bāhuka’’nti puṭṭhopi ‘‘kiṃ kāhasi bāhukaṃ gantvā’’ti avatvā ‘‘kiṃ kāhasi gayaṃ
gantvā’’ti āhāti veditabbo.
80. Evaṃ vutteti evamādi
bhayabherave vuttattā pākaṭameva. Eko vūpakaṭṭhotiādīsu pana eko
kāyavivekena. Vūpakaṭṭho cittavivekena. Appamatto kammaṭṭhāne
sati avijahanena. Ātāpī kāyikacetasikavīriyasaṅkhātena ātāpena. Pahitatto
kāye ca jīvite ca anapekkhatāya. Viharanto aññatarairiyāpathavihārena. Nacirassevāti
pabbajjaṃ upādāya vuccati. Kulaputtāti duvidhā kulaputtā jātikulaputtā
ca ācārakulaputtā ca, ayaṃ pana ubhayathāpi kulaputto. Agārasmāti gharā.
Agārassa hitaṃ agāriyaṃ, kasigorakkhādikuṭumbaposanakammaṃ vuccati,
natthi ettha agāriyanti anagāriyaṃ, pabbajjāyetaṃ adhivacanaṃ. Pabbajantīti
upagacchanti upasaṅkamanti. Tadanuttaranti taṃ anuttaraṃ. Brahmacariyapariyosānanti
maggabrahmacariyassa pariyosānaṃ, arahattaphalanti vuttaṃ hoti. Tassa hi
atthāya kulaputtā pabbajanti. Diṭṭheva dhammeti tasmiṃyeva attabhāve. Sayaṃ
abhiññā sacchikatvāti attanāyeva paññāya paccakkhaṃ katvā, aparappaccayaṃ
katvāti attho. Upasampajja vihāsīti pāpuṇitvā sampādetvā vihāsīti, evaṃ
viharanto ca khīṇā jāti…pe… abbhaññāsi. Etenassa paccavekkhaṇabhūmiṃ dasseti.
Katamā panassa jāti khīṇā? Kathañca naṃ abbhaññāsīti?
Vuccate, kāmañcetaṃ bhayabheravepi vuttaṃ, tathāpi naṃ idha paṭhamapurisavasena
yojanānayassa dassanatthaṃ puna saṅkhepato bhaṇāma. Na tāvassa atītā jāti khīṇā,
pubbeva khīṇattā. Na anāgatā, tattha vāyāmābhāvato. Na paccuppannā,
vijjamānattā. Maggassa pana abhāvitattā yā uppajjeyya ekacatupañcavokārabhavesu
ekacatupañcakkhandhappabhedā jāti, sā maggassa bhāvitattā anuppādadhammataṃ
āpajjanena khīṇā, taṃ so maggabhāvanāya pahīnakilese paccavekkhitvā kilesābhāve
vijjamānampi kammaṃ āyatiṃ appaṭisandhikaṃ hotīti jānanto jānāti.
Vusitanti vutthaṃ
parivutthaṃ, kataṃ caritaṃ niṭṭhāpitanti attho. Brahmacariyanti
maggabrahmacariyaṃ. Kataṃ karaṇīyanti catūsu saccesu catūhi maggehi
pariññāpahānasacchikiriyabhāvanāvasena soḷasavidhampi kiccaṃ niṭṭhāpitanti
attho. Nāparaṃ itthattāyāti idāni punaitthabhāvāya evaṃsoḷasakiccabhāvāya,
kilesakkhayāya vā maggabhāvanā natthīti. Atha vā, itthattāyāti
itthabhāvato imasmā evaṃpakārā idāni vattamānakkhandhasantānā aparaṃ
khandhasantānaṃ natthi. Ime pana pañcakkhandhā pariññātā tiṭṭhanti,
chinnamūlako rukkho viyāti abbhaññāsi. Aññataroti eko. Arahatanti
arahantānaṃ, bhagavato sāvakānaṃ arahataṃ abbhantaro ahosīti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Vatthasuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Cấu trong bài kinh nầy được hiểu đồng dị thế nào với phiền não và ác hạnh? - TT Pháp Tân
Thảo luận 3. Người ta nói "giang sơn dễ đổi bản tánh khó dời" nhưng đối với nguời tu Phật có nên chấp nhận những cấu uế nội tâm với quan niệm đó chăng? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết bài học
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment