Saturday, February 29, 2020

Bài học. Thứ Bảy, ngày 29 tháng 2, 2020

Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Tân
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH  HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY  29/2/2020 

64. Dai  kinh Mālunkya (Mahāmālukyasutta)(tiếp theo)

764. Nên nhận thức thế nào về phương thức đoạn diệt năm hạ phần kiết sử?

Đó là một hành trình cần sự hiểu biết và quyết tâm:
Này Ananda, con đường nào, lộ trình nào đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu không thực hành con đường ấy, lộ trình ấy, nhưng năm hạ phần kiết sử được biết rõ, hay được thấy rõ, hay được đoạn trừ, sự tình như vậy không xảy ra. Ví như, này Ananda, đối với một cây lớn đứng thẳng có lõi cây, nếu người ấy không đẽo vỏ trong, không đẽo giác cây, nhưng vẫn có thể đẽo được lõi cây, sự tình này không xảy ra.
Cũng vậy, này Ananda, con đường nào, lộ trình nào đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu không thực hành con đường ấy, lộ trình ấy, nhưng năm hạ phần kiết sử sẽ được biết rõ, hay sẽ được thấy rõ, hay sẽ được đoạn trừ, sự tình như vậy không xảy ra. Và này Ananda, con đường nào, lộ trình nào đưa đến đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu thực hành con đường ấy, lộ trình ấy, thời năm hạ phần kiết sử sẽ được biết rõ, hay sẽ được thấy rõ, hay sẽ được đoạn trừ, sự tình như vậy xảy ra.
Ví như, này Ananda, đối với một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, nếu người ấy sau khi đẽo vỏ trong, sau khi đẽo giác cây, thời sẽ đẽo được lõi cây, sự tình này xảy ra. Cũng vậy, này Ananda, con đường nào, lộ trình nào đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu thực hành con đường ấy, đạo lộ ấy, thời năm hạ phần kiết sử sẽ được biết rõ, hay sẽ được thấy rõ, hay sẽ được đoạn diệt, sự tình như vậy xảy ra.
Này Ananda, ví như sông Hằng, nước đầy tràn, con quạ có thể uống được. Rồi một người ốm yếu đi đến và nghĩ như sau: "Sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, với tay của ta, ta sẽ đến bờ bên kia an toàn". Nhưng người ấy không thể sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, với tay của người ấy, đến được bờ bên kia an toàn. Cũng vậy, này Ananda, bất cứ ai, khi được giảng pháp để đoạn trừ thân kiến, nếu tâm của vị ấy không thích thú, không hoan hỷ, không có định tĩnh, không có giải thoát, thời vị ấy cần phải được xem là giống người ốm yếu kia.
Này Ananda, ví như sông Hằng, nước lớn, đầy tràn, con quạ có thể uống được. Rồi một người lực sĩ đi đến và nghĩ như sau: "Sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, với tay của ta, ta sẽ đến bờ bên kia an toàn". Người ấy có thể sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng với tay của người ấy, đến được bờ bên kia an toàn. Cũng vậy, này Ananda, bất cứ ai, khi được giảng pháp để được đoạn trừ thân kiến, nếu tâm của vị ấy thích thú, hoan hỷ, có định tĩnh, có giải thoát, thời vị ấy được xem là giống như người lực sĩ kia

765. Hành trình để đoạn tận năm hạ phần kiết sử được dạy thế nào?
Trong bài kinh nầy sự tu tập dẫn đến giải thoát bao gồm cả hai chỉ (samatha) và quán (vipassana), mà qua đó, mỗi giai đoạn thiền chứng đều có thể làm cơ sở khai triển tuệ quán:
Và này Ananda, thế nào là con đường, thế nào là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo do viễn ly các sanh y (Upadhiviveka), do đoạn trừ các bất thiện pháp, do làm cho an tịnh thân thô ác hành một cách toàn diện, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Vị này chánh quán mọi sắc pháp, thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy. Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung tâm vào bất tử giới (Amatadhatu) và nghĩ rằng: "Ðây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp, hỷ pháp của mình, thời do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết-bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa. Này Ananda, đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhứt tâm...  ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba... xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Vị này chánh quán mọi sắc pháp, thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường , khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy. Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung tâm vào bất tử giới (Amatadhatu) và nghĩ rằng: "Ðây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp, hỷ pháp của mình, thời do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết-bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa. Này Ananda, đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, vị Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Hư không vô biên xứ. Vị này chánh quán mọi sắc pháp, thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường... (như trên)... không phải trở lui đời này nữa. Này Ananda, đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo vượt lên mọi Hư không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ... (như trên)... vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vị này chánh quán mọi sắc pháp, thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy. Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung vào bất tử giới và nghĩ rằng: "Ðây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp, hỷ pháp của mình, do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết-bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa. Này Ananda, đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.

767. Phải chăng sự giác ngộ đòi hỏi cả hai tâm giải thoát và tuệ giải thoát?
Đức Phật dạy không nhất thiết như vậy. Theo sớ giải thì ngay cả hai bậc thượng thủ thinh văn thì tôn giả Sàriputta thành tựu đạo quả nghiêng về tuệ giải thoát và tôn giả Moggallàna nghiêng về tâm giải thoát mặc dù cả hai đều là bậc “câu phần giải thoát”. Tôn giả Ananda đặc biệt hỏi rõ điểm nầy trực tiếp từ Đức Phật:
-- Bạch Thế Tôn, nếu đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử thời do hành trì như thế nào mà một số vị Tỷ-kheo chứng tâm giải thoát, một số chứng tuệ giải thoát?
-- Ở đây, này Ananda, Ta nói rằng do sự sai khác về căn tánh.



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận



 III Trắc Nghiệm

Trắc nghiệm 1. Điều nào sau đây đúng khi nói về năm hạ phần kiết sử?
 A. Đó là những kiết sử thô so với năm thượng phần kiết sử /
 B. Đó là những kiết sử cực thịnh trong dục giới / 
C. Chỉ có bậc thánh tam quả A na hàm mới đoạn tận năm hạ phần kiết sử /
 D. Cả ba câu trên đều đúng

TT Tuệ Quyền cho đáp án trắc nghiệm 1 : D

 Trắc nghiệm 2. Tại sao Đức Thế Tôn đặc biệt đề cập đến thiền chứng sắc và vô sắc khi nói về hành trình đoạn tận năm hạ phần kiết sử? 
A. Vì các thiền chứng sắc và vô sắc vượt khỏi cảnh giới quen thuộc của năm hạ phần kiết sử (dục giới) /
 B. Vì các cõi phạm thiên không có ngã chấp / 
C. Vì không có thiền chứng sắc và vô sắc thì không thể nào chứng tứ quả vô sanh /

 D. Vì thiền quán luôn luôn phải đi với thiền chỉ

TT Pháp Tân cho đáp án trắc nghiệm 2 : A

Trắc nghiệm 3. Có phải chứng đắc đầy đủ các tầng thiền sắc giới và vô sắc giới để thành tựu tuệ giác? 
A. Đúng vậy, nên Đức Phật đã lược kê từ sơ thiền tới thiền vô sở hữu xứ / 
B. Không hẳn. Như trong bài kinh nầy đề cập ngay cả một vị chỉ chứng sơ thiền nhưng dùng sở đắc để quán chiếu thì cũng chứng đắc tuệ giác /
 C. Đúng vậy. Ngày nay ít người tu thiền chỉ nên không ai chứng đạo quả /
 D. Không đúng. Thiền chỉ không có giá trị gì cho sự giác ngộ giải thoát.

 ĐĐ Pháp Tín cho đáp án trắc nghiệm 3 : B


Trắc nghiệm 4. Sự chứng đắc tuệ giác mang đặc tính nào sau đây? 
A. Sự an tịnh nội tại đặc biệt là định lực /
 B. Đặt nỗ lực đúng chỗ / 
C. Có khả năng buông xả những sở đắc / 
D. Cả ba câu trên đều đúng

TT Pháp Đăng cho đáp án trắc nghiệm 4:D 

Trắc nghiệm 5. Từ những lời giảng của Đức Phật thì điều nào sau đây có thể được rút ra như những bài học cho cuộc sống hằng ngày? 
A. Hạnh phúc của sự an tịnh nội tâm rất lợi ích để giảm bớt những chi phối của thế sự, ngoại cảnh… / 
B. Nếu sự thành tựu nào mà dậm chân một chỗ tức là ngăn ngại cho sự tiến bộ /
 C. Khả năng quan chiếu vô thường, khổ não, vô ngã trong mọi giai đoạn giúp chúng ta tỉnh táo đối với các sở đắc / 
D. Cả ba câu trên đều đúng

TT Pháp Tân cho đáp án trắc nghiệm 5 :D

 Trắc nghiệm 6. Thí dụ nào sau đây đúng khi nói về chỉ (samatha) và quán (vipassana)?
 A. Chỉ giống như sức khoẻ tốt của thân giúp cho trí não (như quán) được hoạt dụng tốt /
 B. Chỉ giống như vốn liếng để làm ăn, quán giống như phương cách đầu tư tốt. Có đầu óc làm ăn mà thiếu vốn cũng khó khăn / 
C. Chỉ như trình độ ngữ pháp, quán như khả năng sáng tác thơ văn / 
D. Cả ba câu trên đều hợp lý

TT Tuệ Quyền cho đáp án trắc nghiệm 6 :D

Friday, February 28, 2020

Bài học. Thứ Sáu ngày 28-2-2020

Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: ĐĐ Pháp Tín
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH  HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY  28/2/2020 

64. Dai  kinh Mālunkya (Mahāmālukyasutta)

759. Tại sao gọi là Đai  kinh Mālunkya ?
Tên bài kinh lấy t tên t kheo Malunkya đã đề cp trong bài kinh trước, kinh s 63, nhưng kinh này dài hơn nên gi là đại kinh.

760. Đại ý Tiểu kinh Mālunkya là gì?
Một lần Đức Thế Tôn giảng pháp tại chùa Kỳ Viên Ngài nêu lên câu hỏi có vị tỳ kheo
nào đã nghe giảng về năm hạ phần kiết sử. Tỳ Kheo Malunkyaputta trả lời là có rồi trình bày năm pháp này: Đức Phật với tâm của mình biết Malunkayputta nói không sai chi pháp nhưng hiểu có phần sai lệch đã chỉ rõ quan điểm của ngoại đạo là những kiết sử này chỉ có mặt khi bộc lộ rõ ràng. Rồi do thỉnh câu của tôn giả Ananda, Bậc Đạo Sư đã giảng rộng ý nghĩa

761. Năm h phn kiết s là gì?

Là năm phiền não: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục ái và sân. Bậc thánh tám quả A Na Hàm khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử không còn sanh vào các cõi dục giới


762. T kheo Malunkyaptta đã trả lời thế nào? Va ti sao Đức Pht có v như khin trách?

Vị này trả lời không sai về mặt chi pháp:

-- Bạch Thế Tôn, con thọ trì thân kiến là hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy. Bạch Thế Tôn con thọ trì nghi là hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy. Bạch Thế Tôn, con thọ trì giới cấm thủ là hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy. Bạch Thế Tôn, con thọ trì dục tham là hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy. Bạch Thế Tôn, con thọ trì sân là hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con thọ trì năm hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy.

Đức Phật biết Malunkya nhìn vấn đề thế nào nên hỏi lại:

-- Này Malunkyaputta, vì vấn đề gì (hay vì ai) Ông thọ trì năm hạ phần kiết này do Ta giảng dạy? Này Malunkyaputta, có phải các tu sĩ ngoại đạo cật vấn Ông với ví dụ này về đứa con nít? Này Malunkyaputta, nếu một đứa con nít ngây thơ đang nằm ngủ không có tự thân, thời đâu nó có thể khởi lên thân kiến? Thân kiến tùy miên thật sự sống tiềm tàng trong nó. Này Malunkyaputta, nếu một đứa con nít ngây thơ, đang nằm ngửa không có các pháp, thời từ đâu nó có thể khởi lên nghi hoặc đối với các pháp? Nghi tùy miên thật sự sống tiềm tàng trong nó. Này Malunkyaputta, nếu một đứa con nít ngây thơ đang nằm ngửa không có giới, thời từ đâu nó có thể khởi lên giới cấm thủ trong các giới? Giới cấm thủ tùy miên thật sự sống tiềm tàng trong nó. Này Malunkyaputta, nếu một đứa con nít ngây thơ đang nằm ngửa không có những dục, thời từ đâu nó có thể khởi lên lòng dục tham trong các dục? Dục tham, tùy miên thật sự sống tiềm tàng trong nó. Này Malunkyaputta, nếu một đứa con nít ngây thơ đang nằm ngửa không có các loài hữu tình, thời từ đâu nó có thể khởi lên lòng sân đối với các loài hữu tình? Sân tùy miên thật sự sống tiềm tàng trong nó. Này Malunkyaputta, có phải các tu sĩ ngoại đạo cật vấn Ông với ví dụ này về đứa con nít?

563. S hiu biết ca Malukya đối với năm hạ phần kiết sử có vấn đề gì?
Theo sớ giải thì cách hiểu của tỳ kheo Malunkya là năm kiết sử chỉ có mặt lúc bộc lộ còn bình thường thì không có. Theo Phật Pháp thì những kiết sử này có mặt dưới ba dạng thức:  Tim tàng - anusaya ; ng tr - pariyuṭṭ̣hāna – khi sanh khi hin hu trong tâm ; và bc phát - vı̄tikkama – khi th hin qua s hành:

-- Ở đây, này Ananda, có kẻ vô văn phàm phu, không đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, sống với tâm bị triền phược bởi thân kiến, bị chi phối bởi thân kiến, và không như thật tuệ tri sự xuất ly thân kiến đã khởi lên. Thân kiến này của vị ấy kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành một hạ phần kiết sử. Vị ấy sống với tâm bị nghi hoặc triền phược, bị nghi hoặc chi phối, và không như thật tuệ tri sự xuất ly nghi hoặc đã khởi lên. Nghi hoặc này của vị ấy kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành một hạ phần kiết sử. Vị ấy sống với tâm bị giới cấm thủ triền phược, bị giới cấm thủ chi phối và không như thật tuệ tri sự xuất ly giới cấm thủ đã khởi lên. Giới cấm thủ này của vị ấy kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành một hạ phần kiết sử. Vị ấy sống với tâm bị dục tham triền phược, bị dục tham chi phối và không như thật biết sự xuất ly dục tham đã khởi lên, dục tham này của vị ấy kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành một hạ phần kiết sử. Vị ấy sống với tâm bị sân triền phược, bị sân chi phối và không như thật tuệ tri, sự xuất ly sân đã khởi lên. Sân này của vị ấy kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành một hạ phần kiết sử.
Và này Ananda, có vị Ða văn Thánh đệ tử, đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, sống với tâm không bị thân kiến triền phược, không bị thân kiến chi phối, và vị này như thật tuệ tri sự xuất ly dục tham đã khởi lên. Thân kiến này của vị ấy với tùy miên được đoạn trừ. Vị này sống với tâm không bị nghi hoặc triền phược, không bị nghi hoặc chi phối, và vị này như thật tuệ tri sự xuất ly nghi hoặc đã khởi lên. Nghi hoặc này của vị ấy với tùy miên được đoạn trừ. Vị ấy sống với tâm không bị giới cấm thủ triền phược, không bị giới cấm thủ chi phối và vị này như thật tuệ tri sự xuất ly giới cấm thủ đã khởi lên, giới cấm thủ của vị ấy với tùy miên được đoạn trừ. Vị này sống với tâm không bị dục tham triền phược, không bị dục tham chi phối, và vị này như thật tuệ tri sự xuất ly dục tham đã khởi lên. Dục tham này của vị ấy với tùy miên được đoạn trừ. Vị này sống với tâm không bị sân triền phược, không bị sân chi phối, và vị này như thật tuệ tri sự xuất ly sân đã khởi lên. Sân này của vị ấy với tùy miên được đoạn trừ.



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

Thảo luận 1. Khi phiền não tiềm tàng thì có nên nói là phiền não nằm ở đâu chăng ? - TT Tuệ Siêu 


Thảo luận 2.Tại sao một người không còn ngả chấp thân kiến mà lại còn dục ái và sân ? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. Tại sao mười kiết sử thường được chia làm hai là thượng phần và hạ phần ? - TT Tuệ Siêu

Thảo luận 4. Tại sao chỉ có một số phiền não được gọi là kiết sử ? - TT Pháp Tân 

Thảo luận 5. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận


 III Trắc Nghiệm

Thursday, February 27, 2020

Bài học. Thứ Năm, ngày 27 tháng 2, 2020

Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Siêu
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH  HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY  27/2/2020 

63. Tiểu kinh Mālunkya (Cūḷamālukyasutta)

754. Tại sao gọi là Tiểu kinh Mālunkya?
Tên bài kinh lấy t tên mt t kheo ngườđã đến gĐức Thế Tôn vi nhng câu hi không liên h đến mđích giác ngộ giải thoát ca giáo pháp.
755. Đại ý Tiểu kinh Mālunkya là gì?
T kheo Malunkyaputta có nói thc mc to ln v nhng điều được xem là “câu hi c điển” ca thn hĐộ thi c đại. V nàđến gĐức Phật để xin câu tr li. Đức Thế Tôđã dy, như li khin trách, vì nhng câu hy không có giá tr thc tin cho mđích gii thoát. Ri Ngài nhn mnh nhng gì được ging dy.




Malunkya viếđầđủ là Mālukyaputta hay Mālunkyāputta (con ca bà Mālukya) là con ca mt viên chc quan thuế ca x Kosala. Là ngườưa chung thn hc t thi niên thiếu xut gia theo ngoi giáo ri sau đó tu theo Pht giáo. V này thi tr thường bn tâm vi nhng vấn đề triết lý siêu hình đến khi tui già mi nghĩ đến s tu tp bn thân cui cùng chng qu A La Hán. Trong kinh điển Pht giáo Bc Truyn v nàđược gi là MãĐồng Tử có tánh cách khá lý thú đối lp vi kinh điển Pali vì thường nêu lên nhng câu xin minh giáo lý Đại Tha.

757. Malunkyaputta đã hỏi thế nào?

V này thc mc v nhng điều vn là “nhng câu hi c điển trong thn hc” Độ:

Có một số vấn đề này, Thế Tôn không trả lời, bỏ một bên, loại bỏ ra: "Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".

Voi nhung nghi van tren vi nay nhat quyet den gap Duc Phat voi y dinh manh me:

 Ta hãy đi đến Thế Tôn, và sẽ hỏi ý nghĩa này. Nếu Thế Tôn trả lời cho ta thời ta sẽ sống Phạm hạnh dưới (sự chỉ dẫn của) Thế Tôn. Còn nếu Thế Tôn không trả lời cho ta thời ta sẽ bỏ học pháp và hoàn tục.

758. Đức Thế Tôđã trả lời thế nào?

Trước hết Ngàđặt li vđề:
-- Này Malunkyaputta, Ta có nói với Ông: Này Malunkyaputta, hãy đến và sống Phạm hạnh theo Ta, Ta sẽ trả lời cho Ông: "Thế giới là thường còn" hay "Thế giới là vô thường... (như trên)... Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Hay Ông có nói với Ta như sau: Bạch Thế Tôn, con sẽ sống Phạm hạnh theo Thế Tôn, nếu Thế Tôn sẽ trả lời cho con: "Thế giới là thường còn" hay "Thế giới là vô thường... (như trên)... Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Như vậy, này Malunkyaputta, Ta không nói với Ông: Này Malunkyaputta, hãy đến và sống Phạm hạnh theo Ta và Ta sẽ trả lời cho Ông: "Thế giới là thường còn" hay "Thế giới là vô thường... (như trên)... Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", và Ông cũng không nói với Ta: Bạch Thế Tôn, con sẽ sống Phạm hạnh theo Thế Tôn, nếu Thế Tôn sẽ trả lời cho con: "Thế giới là thường còn" hay "Thế giới là vô thường... (như trên)... Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết". Sự tình là như vậy, thời này kẻ ngu kia, Ông là ai, và Ông phủ nhận cái gì?

Ri BĐạo Sư nêu lên thí d:
Này Malunkyaputta, nếu có ai nói như sau: Ta sẽ sống Phạm hạnh theo Thế Tôn khi nào Thế Tôn sẽ trả lời cho ta: "Thế giới là thường còn" hay "Thế giới là vô thường... (như trên)... Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", thời này Malunkyaputta, người ấy sẽ chết và vẫn không được Như Lai trả lời. Này Malunkyaputta, ví như một người bị mũi tên bắn, mũi tên được tẩm thuốc độc rất dày. Bạn bè và bà con huyết thống của người ấy mời một vị y sĩ khoa mổ xẻ đến săn sóc. Nhưng người ấy lại nói: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi thuộc giòng hoàng tộc, hay Bà-la-môn, hay buôn bán, hay người làm công". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi tên là gì, tộc tánh là gì?" Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi là cao hay thấp, hay người bậc trung". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi là da đen, da sẫm hay da vàng". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi thuộc làng nào, thuộc thị trấn nào, thuộc thành phố nào". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái cung mà tôi bị bắn, cái cung ấy thuộc loại cung thông thường hay loại cung nỏ". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được dây cung mà tôi bị bắn, dây cung ấy làm bằng cây leo, hay cây lau, hay một thứ gân, hay một thứ dây gai, hay một thứ cây có nhựa". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy thuộc một loại cây lau này hay cây lau khác". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, mũi tên ấy có kết lông gì, hoặc lông con kên, hoặc lông con cò, hoặc lông con ó, hoặc lông con công, hoặc lông một loại két". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy được cuốn (parikkhittam) bởi loại gân nào, hoặc là gân bò cái, hoặc là gân trâu, hoặc là gân nai, hoặc là gân lừa". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy thuộc loại tên nhọn, hay thuộc loại tên móc, hay thuộc loại tên như đầu sào, hay thuộc loại tên như răng bò, hay thuộc loại tên như kẽm gai". Này Malunkyaputta, người ấy sẽ chết và vẫn không được biết gì.
Đức Phật cũng nhấn mạnh là đời sống phạm hạnh không tùy thuộc ở những vấn đề đó và Ngài giải thích tại sao:

Và này Malunkyaputta, vì sao điều ấy Ta không trả lời? Này Malunkyaputta, vì điều ấy không liên hệ đến mục đích, điều ấy không phải là căn bản Phạm hạnh, điều ấy không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, cho nên điều ấy Ta không trả lời.

Rồi Đấng Thiện Thệ nói rõ những gì được Ngài truyền dạy:
Và này Malunkyaputta, điều gì Ta trả lời? "Ðây là khổ", này Malunkyaputta là điều Ta trả lời". "Ðây là khổ tập" là điều Ta trả lời. "Ðây là khổ diệt" là điều Ta trả lời. "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt" là điều Ta trả lời.
Và này Malunkyaputta,vì sao điều ấy Ta trả lời? Này Malunkyaputta, vì điều ấy có liên hệ đến mục đích, điều ấy là căn bản Phạm hạnh, điều ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, vì vậy điều ấy Ta trả lời. Do vậy, này Malunkyaputta, hãy thọ trì là không trả lời những điều Ta không trả lời. Hãy thọ trì là trả lời những điều Ta có trả lời.


II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

Thảo luận 1. Phải chăng trong đa số tôn giáo lớn thì triết lý thường có ảnh hưởng lớn? - ĐĐ Nguyên Thông

Thảo luận 2. Nếu học về Tứ diệu đế mà chỉ học về khổ đế thì có gọi là phù phiếm ? - TT Tuệ Siêu

 Thảo luận 3. Kinh điển Pali có chấp nhận đến một thời điểm nào đó ở trong tương lai mà "tất cả chúng sanh sẽ được độ tận" và thế giới trầm luân sanh tử sẽ không còn nữa? - TT Tuệ  Quyền

 Thảo luận 4. Ngày nay những gì được cho là " lời Phật dạy " làm sao để biết pháp nào có công năng giải thoát ? - ĐĐ Pháp Tín

Thảo luận 5. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận




 III Trắc Nghiệm