Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 5/2/2020
51. Kinh Kandaraka (Kandaraka sutta)
576. Tại sao gọi Kinh
Kandaraka ?
Tên bài kinh được đặt theo theo tên một du sĩ ngoại đạo tên
Kandaraka trong một lần đến diện kiến Đức Phật cùng với cư sĩ Pessa
577. Đại ý Kinh Kandaraka là gì?
1.
Hạng người làm khổ bản thân
2.
Hạng người làm khổ chúng sanh khác
3.
Hạng người làm khổ cả hai bản thân và chúng
sanh khác
4.
Hạng người không làm khổ mình cũng không
làm khổ người
578. Pessa,
voi và Du sĩ Kandaraka là nhân vật thế nào?
Pessa là con trai
của người huấn luyện voi ở Campà và cũng nối nghiệp cha. Pessa là một cư sĩ thuần
thành, có thực hành pháp tứ niệm xứ.
Du sĩ Kandaraka là
một du sĩ ngoại đạo chỉ được nhắc tới trong Tam Tạng một lần ở bài kinh nầy. Vị
nầy có vẻ rất hâm mộ sự thanh tịnh của Tăng chúng đệ tử Phật.
579. Du sĩ Kandaraka có ấn tượng gì
với tăng chúng đệ tử Phật?
Vị nầy rất hâm một
sự thanh tịnh của Tăng chúng và đặt câu hỏi các bậc đại giác trong quá khứ và
tương lai có tăng chúng như vậy chăng:
Thật vi diệu thay,
Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Chúng Tỷ-kheo này được Tôn giả
Gotama chơn chánh hướng dẫn. Tôn giả Gotama, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
trong thời quá khứ, không biết quý vị Thế Tôn ấy đã có một chúng Tỷ-kheo tuyệt
diệu như vậy, mà quý vị ấy chơn chánh hướng dẫn, như nay chúng Tỷ-kheo được Tôn
giả Gotama chơn chánh hướng dẫn? Tôn giả Gotama, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác trong tương lai, không biết quý vị Thế Tôn ấy sẽ có một chúng Tỷ-kheo tuyệt
diệu như vậy, mà quý vị ấy sẽ chơn chánh hướng dẫn, như nay chúng Tỷ-kheo được
Tôn giả Gotama chơn chánh hướng dẫn?
580. Đức Phật đã
nói gì khi nghe ý kiến của du sĩ Kandaraka ?
Thật sự là vậy, này Kandaraka! Thật sự là vậy,
này Kandaraka! Này Kandaraka, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trong thời quá
khứ, những vị Thế Tôn ấy đã có một chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu như vậy, mà quý vị ấy
chơn chánh hướng dẫn, như nay chúng Tỷ-kheo được Ta chơn chánh hướng dẫn. Này
Kandaraka, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trong thời tương lai, những vị Thế
Tôn ấy sẽ có một chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu như vậy, mà quý vị ấy chơn chánh hướng
dẫn, như nay chúng Tỷ-kheo được Ta chơn chánh hướng dẫn.
Và dạy rằng trong Tăng chúng hiện có những
bậc đã hoàn tất hành trì tu tập hoặc đang tiếp tục đi tới với pháp hành tứ niệm
xứ:
Này Kandaraka, trong chúng Tỷ-kheo này, có những
vị Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm
đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử,
đã được giải thoát nhờ chánh trí. Này Kandaraka, trong chúng Tỷ-kheo này, có những
Tỷ-kheo là bậc hữu học, giới luật kiên trì, giới hạnh kiên trì, sáng suốt, hạnh
nghiệp sáng suốt, sống với tâm khéo an trú Bốn Niệm xứ. Thế nào là bốn? Ở đây
này Kandaraka, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm,
để nhiếp phục tham ưu trên đời; sống quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm tỉnh
giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham ưu trên đời; sống quán pháp trên
các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời.
581. Cư sĩ Pessa có những ý nghĩ gì?
Cư sĩ Pessa bày tỏ niềm hoan hỷ trước lời
dạy của Đức Phật và thưa rằng bản thân vị nầy cũng thực hành tứ niệm xứ:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu
thay, bạch Thế Tôn! Bốn Niệm xứ này đã được Thế Tôn khéo trình bày, để chúng
sanh được thanh tịnh, để sầu bi được vượt qua, để khổ ưu được diệt trừ, để
chánh lý được thành đạt, để Niết-bàn được chứng ngộ.
Bạch Thế Tôn, chúng con là hàng tại gia, mặc
đồ trắng, thỉnh thoảng chúng con sống khéo an trú tâm vào Bốn Niệm xứ này. Ở
đây, Bạch Thế Tôn, chúng con sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; chúng con sống quán thọ trên các cảm
thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; chúng
con sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục
tham ưu trên đời; chúng con sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời.
Với kinh nghiệm trong nghề huấn luyện voi
vị cư sĩ nầy cảm nhận loài người quả thật phức tạp trong sự suy nghĩ và hành động:
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu
thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hiểu được hạnh phúc và sự bất hạnh của
chúng sanh trong khi loài người sống trong sự rối ren như vậy, trong sự cặn bã
như vậy, trong sự xảo quyệt như vậy. Bạch Thế Tôn, rối ren thay như loài người.
Bạch Thế Tôn, cởi mở thay như loài thú vật. Bạch Thế Tôn, con có thể nhiếp phục
con voi, một cách khiến con voi ấy mỗi khi đi hay đến Campa, liền trình bày mọi
sự gian dối, giả dối, xảo trá, xảo quyệt. Nhưng bạch Thế Tôn, những người đầy tớ
của chúng con, những người phục dịch, những người làm công, thân hành họ làm một
cách, khẩu hành họ làm một cách khác, ý hành họ làm một cách khác nữa.
Từ nhận định trên vị cư sĩ thấy Đức Thế
Tôn thật là một bậc Vô Thượng Điều ngự:
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu
thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn biết được hạnh phúc và sự bất hạnh của chúng sanh,
trong khi loài người sống trong sự rối ren như vậy, trong sự cặn bã như vậy,
trong sự xảo quyệt như vậy. Bạch Thế Tôn, rối ren thay như loài người! Bạch Thế
Tôn, cởi mở thay, như loài thú vật!
582. Đức Phật dạy gì khi nghe trình bày
của cư sĩ Pessa?
Đức Phật cũng đồng ý là nhận định của
Pessa hợp lý:
-- Thật như vậy, này Pessa! Thật như vậy, này
Pessa! Này Pessa, rối ren thay, như loài người! Cởi mở thay, như loài thú vật!
Nhưng Bậc Đạo Sự nói cụ thể rõ ràng hơn:
Này Pessa, có bốn hạng người này có mặt ở
trên đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này Pessa, có người tự hành khổ mình, chuyên
tâm tự hành khổ mình. Ở đây, này Pessa, có người hành khổ người, chuyên tâm
hành khổ người. Ở đây, này Pessa, có người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự
hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này Pessa,
lại có người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa
không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người. Người ấy không tự hành
khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, không hành khổ người, không chuyên
tâm hành khổ người, ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát
lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. Này Pessa, bốn hạng người này,
hạng người nào, được tâm Ông thích ý nhất?
-- Bạch Thế Tôn, hạng người tự hành khổ mình,
chuyên tâm tự hành khổ mình, hạng người này tâm con không thích ý. Bạch Thế
Tôn, hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người này tâm
con không thích ý. Bạch Thế Tôn, hạng người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự
hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người này
tâm con không thích ý. Bạch Thế Tôn, hạng người vừa không tự hành khổ mình,
không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm
hành khổ người, hạng người không tự hành khổ mình, không hành khổ người, ngay
trong hiện tại không có tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ,
tự ngã trú vào Phạm thể, hạng người này, tâm con thích ý.
-- Này Pessa, vì sao Ông không thích ý ba hạng
người này?
-- Bạch Thế Tôn, hạng người tự hành khổ mình,
chuyên tâm tự hành khổ mình, hạng người này hành khổ mình, hành hạ mình, trong
khi tự ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con không thích ý hạng người này.
Bạch Thế Tôn, hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người
này, hành khổ người khác, hành hạ người khác, trong khi người khác ao ước lạc,
nhàm chán khổ; do vậy, tâm con không thích ý hạng người này. Bạch Thế Tôn, hạng
người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người,
chuyên tâm hành khổ người, hạng người này hành khổ mình, hành hạ mình và người
khác, trong khi mình và người khác ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con
không thích ý hạng người này. Nhưng bạch Thế Tôn, người vừa không tự hành khổ
mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên
tâm hành khổ người, hạng người này không tự hành khổ mình, không hành khổ người,
ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc
thọ, bản thân trú vào Phạm thể; do vậy, tâm con thích ý hạng người này.
Rồi vị nầy xin từ biệt vì bận việc:
Và này, bạch Thế Tôn, chúng con phải đi,
chúng con có nhiều công vụ, có nhiều công việc phải làm.
583. Đức Phật nói gì về cư sĩ Pessa?
Khi cư sĩ Pessa đi rồi Đức Phật nói với
chư tỳ kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, Pessa, con trai người huấn
luyện voi là bậc có trí; Pessa, con trai người huấn luyện voi là người có đại
trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, nếu Pessa, con trai người huấn luyện voi ngồi thêm một
chút nữa, cho đến khi Ta phân tích rộng rãi hơn bốn hạng người này, thời anh ta
sẽ thâu đạt được nhiều lợi ích. Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, Pessa, con trai người
huấn luyện voi như vậy cũng đã thâu đạt được nhiều lợi ích.
Theo Sớ giải nêu Pessa ở lại lâu hơn sẽ chứng
quả tu đà huờn. Dù vậy vị nầy cũng đã tăng trưởng niệm tin kiên cố ở Tam Bảo và
được trợ duyên lớn trong sự tu tập thiền quán.
584. Thế nào là bốn hạng người theo lời
Phật dạy trong bài kinh nầy?
Tiếp theo Đức Phật giảng rộng về bốn hạng người:
Hạng người làm khổ bản thân là hạnh tu khổ hạnh chuyên chấp
trì giới cấm thủ:
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể sống phóng
túng .......
Hạng người làm khổ chúng sanh khác là người chuyên gây đau
khổ cho các chúng sanh bằng sinh kế không chơn chánh, hiền thiện:
Ở đây, các Tỷ-kheo, có người giết trâu bò, là người giết
heo, là người giết vịt, săn thú, là thợ săn, thợ đánh cá, ăn trộm, người xử tử
các người ăn trộm, cai ngục và những người làm các nghề độc ác khác. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.
Hạng người làm khổ cả hai bản thân và chúng sanh khác hành
trì những hủ tục tôn giáo khiến bản thân khổ nhọc mà còn tổn hại sanh linh:
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người vừa tự hành khổ
mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm vua, thuộc giai cấp Sát-đế-lị, đã làm lễ
quán đảnh, hay một Bà-la-môn triệu phú. Vị này cho xây dựng một giảng đường mới
về phía Ðông thành phố, cạo bỏ râu tóc, đắp áo da thô, toàn thân bôi thục tô và
dầu, gãi lưng với một sừng nai, đi vào giảng đường với người vợ chính và một
Bà-la-môn tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống dưới đất trống trơn chỉ có lát cỏ. Vị vua
sống với sữa từ vú một con bò cái, có con bò con cùng một mầu sắc; bà vợ chính
sống với sữa từ vú thứ hai; và vị Bà-la-môn tế tự sống với sữa từ vú thứ ba. Sữa
từ vú thứ tư dùng để tế lửa. Còn con nghé con thì sống với đồ còn lại. Vị vua
nói như sau: "Hãy giết một số bò đực để tế lễ, hãy giết một số nghé đực để
tế lễ, hãy giết một số nghé cái để tế lễ, hãy giết một số dê để tế lễ, hãy giết
một số cừu để tế lễ, hãy chặt một số cây để làm cột tế lễ, hãy thâu lượm một số
cỏ dabbha để làm chỗ tế lễ. Và những người nô tỳ, những người phục vụ, những
người làm công, những người này vì sợ đòn gậy, vì sợ nguy hiểm, với mặt tràn đầy
nước mắt, khóc lóc làm các công việc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng
người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người,
chuyên tâm hành khổ người.
Hạng người không làm khổ mình cũng không làm khổ người là
hạng người tự thân tu tập theo sự hướng dẫn của bậc đại giác:
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc
A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự
chứng ngộ với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới,
gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố điều Ngài
đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn
nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
Chọn lựa con đường xuất gia từ bỏ thế tục:
Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người
sanh ở giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng
tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: "Ðời sống
gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia
phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có thể
sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.
Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ tài sản lớn,
bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Sống có giới hạnh, có từ tâm:
Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống
các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ,
sợ hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu
tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những
vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ bỏ đời sống không
Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt.
Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự
thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi,
tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh
chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người
này để sanh chuyện chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những
kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú
trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ
bỏ nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ
thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người; vị ấy nói những lời
nói như vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói
đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói pháp, nói luật, nói những lời
đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, hợp lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Sống đời giản dị theo giới bổn:
Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây
cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ
không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng vòng hoa,
hương liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ không dùng giường cao
và giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt giống; từ
bỏ không nhận thịt sống, từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ
gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ
không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai; từ
bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ không buôn
bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh
như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức
đoạt, trộm cắp, cướp phá.
Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân với đồ
ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Như
con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với
tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang
theo. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm.
Biết phòng hộ các căn:
Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm
giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì con mắt không được chế ngự, khiến
tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự các nguyên
nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi
ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không
nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân gì, vì ý căn
không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy
chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành tựu
Thánh hộ trì các căn này, nội tâm hưởng lạc thọ không uế nhiễm.
Huân tu chánh niệm:
Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng,
khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang
y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh
giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức,
nói, yên lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì
các căn này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một trú xứ thanh vắng,
như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống
rơm.
Đoạn diệt các triền cái nội tâm:
Sau khi ăn xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già,
lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ dục
tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gột rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân
hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh
hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát
ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng chánh niệm tỉnh giác, gột
rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử, hối quá, vị ấy sống không trạo cử,
nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống
thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với
thiện pháp.
Thành tựu các thiền chứng:
Vị ấy sau khi từ bỏ năm triền cái này, các pháp làm tâm cấu
uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do dục sanh, với tầm với tứ.
Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ
mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.
Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Chứng đắc tam minh:
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng
tâm đến túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời,
một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng:
"Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế
này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế
này. Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như
thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ
lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được
sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến những đời sống quá khứ, cùng với
các nét đại cương và các chi tiết.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng
tâm đến sanh tử trí của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân,
thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng chúng sanh người hạ
liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh
nghiệp của họ. Vị ấy nghĩ rằng: "Thật sự những vị chúng sanh này thành tựu
những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh về lời nói, thành tựu những ác hạnh
về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những
người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Còn những vị chúng sanh này thành tựu những thiện hạnh về thân, thành
tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ
báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người
này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới,
trên đời này". Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự
sống chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ
cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp
của họ.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng
tâm đến lậu tận trí. Vị ấy tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ", tuệ tri
như thật: "Ðây là Khổ tập", tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ diệt",
tuệ tri như thật: "Ðây là Con Ðường đưa đến khổ diệt" tuệ tri như thật:
"Ðây là những lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây là nguyên nhân của
các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc",
tuệ tri như thật: "Ðây là Con Ðường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc".
Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu,
thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy
khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy tuệ tri: "Sanh
đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có trở
lui đời sống này nữa".
Đó là hạng người ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh,
cảm nhận thanh lương, sống với lạc thọ, bản thân trú vào Phạm thể.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Tại sao để sống “ không làm khổ mình và không làm khổ người khác” không phải là chuyện đơn giản ? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3.Câu nói “rối ren thay loài người, đơn giản thay loài thú” có phải là câu nói đặt loài thú trên loài người ? - TT Tuệ Quyền
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment