Chương Trình Đặc Biệt
Bảy Ngày Cầu Nguyện
Cho Sư Trưởng Giác Chánh Bodhisàma Mahathero
NGÀY 8 THÁNG 2 NĂM 2020
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma tiếp tục chương trình Bảy Ngày Cầu
Nguyện Cho Sư Trưởng Giác Chánh Bodhisamma Mahathero cùng lúc với tang lễ đang diễn
ra tại chùa Bửu Đức, Biên Hoà, Việt Nam. Bình sinh Sư Trưởng là người luôn hoan
hỷ với những đàm luận và quảng diễn Phật Pháp đặc biệt là môn A tỳ đàm. Chính vì
vậy trong thời gian nầy chư tăng và Phật tử tập trung nói về yếu lược bảy bộ Diệu
Pháp như một thể hiện sự tưởng nhớ một bậc tôn túc đã đóng góp thật nhiều cho sự
hoằng truyền chánh pháp.
CHƯƠNG TRÌNH NGÀY 8.2.2020
Nội dung của ngày cầu nguyện hôm nay gồm có:
Tụng kinh Abhidhamma Matika để hướng nguyện phước lành – Tiểu
sử và hành trạng của Sư Trưởng - Thảo luận
bộ Dhatukatha của Tạng Diệu Pháp - Lời nguyện cầu cho một bậc sống vì đại nguyện.
Tiểu sử và hành trạng của Sư Trưởng
Ngài sinh năm 1947 tại Vĩnh Long, thế danh là Phạm Văn
Chánh. Thân phụ ngài là cụ ông Phạm Văn Trị (1904-1996), thân mẫu là cụ
bà Nguyễn Thị Hai (1910-1966). Thời tuổi trẻ ngài sống chung với cha
mẹ, đến năm 20 tuổi lập gia đình với cô Nguyễn Thị Mười và có một cô
con gái duy nhất tên Phạm Thị Lý. Năm 1967, chỉ vài tháng sau khi cô con
gái chào đời, ngài bỏ nhà đi xuất gia với hòa thượng Tịnh Sự ở chùa
Viên Giác (Long Hồ, Vĩnh Long) và theo chân thầy học đạo, đặc biệt
chuyên tâm tạng A-Tỳ-Đàm suốt 5 năm.
Năm 1970, ngài tháp tùng hòa thượng bổn sư tìm ra Hòn Nghệ
nằm ngoài khơi biển Kiên Giang để tu tập thiền định trong hoàn cảnh một
thầy một trò. Năm 1971 ngài xin phép thầy ra chùa Tam Bảo (Vũng Tàu) học
thiền Tứ Niệm Xứ với hòa thượng Giới Nghiêm trong một năm. Năm 1973,
ngài vào tòng học ở Phật Học Viện Phật Bảo cũng của hòa thượng GIới
Nghiêm.
Trong khoảng thời gian từ 1970 đến 1975, ngài là một
giảng sư ở Sài Gòn và các tỉnh ( Vũng Tàu, Mỹ Tho, Vĩnh Long) và đã dành
thời giờ biên soạn, ấn hành các đầu sách như Pháp Âm (2 tập), Pháp Thừa
(2 tập), Chánh Đạo Ngâm Khúc (Thi hóa nội dung kinh Cát Tường -
Mangalasutta), Đạo Trường Siêu Thanh (không xuất bản), Vi Diệu Pháp Nhập
Môn (in sau 1975).
Năm 1976, ngài đã cùng hòa thượng Thiện Pháp vào rừng
Bình Sơn (liền dãy với An Diễn, Suối Trầu, Cẩm Đường bây giờ) để xây
dựng ngôi chùa Thiền Quang mái tranh vách đất và nuôi dạy gần 20 sa di
cùng giới tử (Sư TK cũng có trong số này). Đây chính là chỗ xuất thân
của một thế hệ vàng gồm nhiều vị tăng thành tựu đạo nghiệp sau này
như ngài Giác Giới viện chủ tổ đình Viên Giác hôm nay, ngài Bửu Chánh viện
chủ thiền viện Phước Sơn, ngài Giác
Đẳng viện chủ chùa Pháp Luân (Hoa Kỳ), ngài Giác Trí viện chủ chùa
Hộ Pháp (Vũng Tàu), ngài Chánh Minh viện chủ chùa Bồ Đề (Vũng Tàu) lúc
đó là cư sĩ ngoại thiền cũng biết đến A-Tỳ-Đàm vào thời điểm này. Bên
cạnh đó là những vị đã hồi tục như sư Giác Liêm, sư Giác Hải (hiện ở
Canada), sư Giác Quang là dịch giả Luật Tạng hiện ở Vũng Tàu, hoặc đã
viên tịch như ngài Giác Lý, ngài Giác Niệm, ngài Giác Tâm viện chủ chùa
Tứ Phương Tăng ở Bình Phước, sư Ngộ Đạo (vừa viên tịch trước tết
2020).
Điều đáng nói là trong thời điểm 1977-1980 điều kiện
sinh hoạt cực kỳ khó khăn, cả chùa phải ăn cơm độn khoai mì, nhưng
các lớp học A-Tỳ-Đàm vẫn đều đặn. Có vị, như thượng tọa Giác Đẳng,
vừa sống ở Long Thành vừa vào dạy ở Sài Gòn mỗi tuần (ở hai tư gia cư sĩ
đường Nguyễn Thiện Thuật và Trần Hưng Đạo). Đặc biệt với số lượng
vừa vặn 12 vị tăng trẻ, ngài Giác Chánh và hòa thường Thiện Pháp (nay
là viện chủ chùa Thiền Quang I) đã thành lập Ban Hoằng Pháp với các tiểu
ban Pháp Chế, Giảng Sư, Giám Luật... Người ít nhưng làm việc hiệu
quả, với sự hỗ trợ đắc lực của các cư sĩ như Cô Bảy Vĩnh Phúc (một
giáo thọ A-Tỳ-Đàm), gia đình cô Song Ánh, cô Diệu Lạc (nay đã xuất gia
với thiền sư Kim Triệu), cô Nguyễn Thị Bền (nay đang ở Đức) và cả cụ
Đốc Hiểu (đã cúng dường bộ Tam Tạng tiếng Thái trước khi mất năm
1978). Chính ngài sơ tổ Hộ Tông và đại lão hòa thượng Hộ Giác cũng
từng vào tận ngôi chùa rừng này để hỗ trợ tinh thần nhóm tăng trẻ. Xúc
động nhất là ngài tăng thống đương nhiệm của Nam Tông Việt Nam lúc đó
là đại lão Ấn Lâm ở trụ sở Kỳ Viên đã tự tay phơi khô từng ổ bánh mì
khất thực được ở Sài Gòn để gởi người mang ra chùa rừng Thiền Quang
nuôi nhóm tăng trẻ và tạo điều kiện cho các vị vào dạy học tại chùa
Kỳ Viên là trụ sở giáo hội thời đó.
Số lượng thành viên Ban Hoằng Pháp tuy không nhiều,
nhưng phần hành của mỗi tiểu ban rất rõ ràng và làm việc hiệu quả. Ban
Giảng Sư đến từ các từ các tỉnh, mỗi ba tháng có cuộc họp mặt tại
chùa rừng Thiền Quang để báo cáo những việc đã làm được hay trình bày
những khó khăn đang gặp phải. Ban Giám Luật có trách nhiệm quan sát và
kiểm tra các giới tử trước khi chư tăng bỏ phiếu quyết định có đồng
thuận cho đắp y thọ giới hay không. Tất cả đều là phiếu kín. Các giới
tử muốn thọ giới sa di phải thuộc lòng 105 giới sa di bằng tiếng Pāli
và 14 phận sự tăng sĩ bằng tiếng Việt, cùng với phần hạnh kiểm
được chư tăng tại chùa nhận xét.
Hoạt động của Ban Hoằng Pháp kéo dài đến cuối năm
1981 thì vì nhiều chướng duyên đã đình chỉ sau gần 20 phiên họp tam cá
nguyệt. Sau đó ngài Giác Chánh đã rời khỏi chùa Thiền Quang về an cư một
mùa mưa tại chùa Bửu Long (khi đó ngài sơ tổ Hộ Tông đã đi Pháp). Sau mùa
an cư này, ngài trở về Long Thành nhận đất cúng dường của bà Đại Tín
để xây dựng chùa Thiền Quang II. Và tất cả chư tăng huynh đệ gọi chùa
Thiền Quang cũ trong rừng là Thiền Quang I. Cả hai Thiền Quang I và
Thiền Quang II tiếp tục tồn tại cho đến bây giờ.
Đầu năm 1983, ngài Giác Chánh phát động phong trào học
thuộc Tam Tạng Pāli bằng cách giao cho mỗi vị một bộ kinh để học thuộc
lòng, đều bằng tiếng Pāli, và mỗi 3 tháng lại có một cuộc thi trùng
tụng. Bất cứ chư tăng hay cư sĩ nào trong 3 tháng trước đó đã học
xong 120 trang kinh tạng Pāli thì được trao tặng một phần thưởng có
tên gọi là Giải Nibbāna. Ba lần Nibbāna thì được một lần Saddhamma
với phần thưởng nhiều gấp đôi. Những người nhận học và thi Tam Tạng
Pāli thời đó theo phát động của ngài có khoảng 20 người, có thể kể
lại đại khái như sau: Sư Giác Tấn và cô Diệu Ngọc chịu trách nhiệm bộ
Paṭṭhāna, sư Ngộ Giới chịu trách nhiệm bộ Yamaka, sư Chánh Ngữ chịu
trách nhiệm bộ Kathāvatthu, sư Chánh Pháp chịu trách nhiệm bộ Vibhaṅga,
sư TK và sư Chánh Nghiệp chịu trách nhiệm bộ Dhammasaṅganī, sư Giác
Tông chịu trách nhiệm bộ Tăng Chi,... Bên cạnh phong trào học thuộc Tam
Tạng, các giảng sư phải trải qua các buổi khảo nghiệm trình độ
A-Tỳ-Đàm với chính ngài Giác Chánh. Lúc này hòa thượng Tịnh Sự vẫn còn
tại tiền. Và nhân chứng cho các sự kiện trên đây hiện vẫn còn không ít
người.
Cũng do nhân duyên, phong trào học thuộc lòng Tam Tạng
cũng chỉ kéo dài khoảng được 3 năm thì ngừng hẳn. Đến đầu năm 1987,
ngài Giác Chánh lại tiếp tục phát động phong trào phiên dịch kinh điển
từ các nguồn tiếng Anh và tiếng Thái. Phần tiếng Thái là do cư sĩ Ngô
Văn Kỷ đứng ra hướng dẫn tiếng Thái cho chư Tăng. Các sách tiếng Thái
được đặt mua từ Thái Lan do cư sĩ Trần Bá Thế mang về. Do xét thấy
phần Luật Tạng chưa được phiên dịch ở Việt Nam nên ngài đã ra phần
thưởng hậu hỷ cho những vị nào dịch sách Luật. Chính nhờ phong trào
này mà toàn bộ giáo trình A-Tỳ-Đàm của đại học Rakhang của Thái được
dịch toàn bộ sang tiếng Việt và phổ biến rộng rãi trong chư tăng.
Chính ngài Giác Chánh là người đầu tiên mà cũng là duy
nhất tổ chức pháp hội mỗi ba tháng ở các chùa trong nhóm đệ tử hòa
thượng Tịnh Sự. Nội dung của các pháp hội này là những chư tăng hay
cư sĩ nào có viết bài thuyết trình về các đề tài giáo lý đều có thể ghi
danh và được sắp xếp thời gian để thay phiên nhau lên thuyết trình trong
mỗi kỳ pháp hội với thời gian kéo dài suốt đêm. Ở các chùa ngoài nhóm
thì mỗi năm chỉ có nhiều lắm là 2 đêm pháp hội và nội dung không dày đặc
như vậy. Thường chỉ là một hai thời pháp của chư tăng rồi tiếp theo
là các tiết mục tụng kinh, ngâm kệ Pāli, ngồi thiền đại chúng và đố
vui Phật Pháp. Việc khích lệ chư tăng và cư sĩ thuyết trình Phật Pháp
đã được ngài đặc biệt quan tâm và tổ chức từ trước năm 1980 cho đến
sau 1990.
Từ năm 1989, ngài rời khỏi Long Thành và về xây dựng
chùa Bửu Đức ở Biên Hòa trên ngôi chùa cũ được gia đình sư Pháp Bửu
hiến cúng. Tại đây mỗi chủ nhật chùa đều có một buổi giảng pháp cho Phật
tử địa phương do chính ngài hoặc chư tăng trong chùa đảm nhiệm.
Theo thời gian, tuổi đời càng lớn, ngài từ chối dần
công việc của giáo hội, chỉ còn giữ lại vai trò giảng sư cho các
trường hạ trong tỉnh Đồng Nai, không còn hoằng pháp nơi xa nữa.
Thời gian tịnh cư tại chùa Bửu Đức đã cho ngài cơ hội
đọc sách và biên soạn kinh điển theo đúng ước mơ từ thời trẻ. Năm
1991, theo lời yêu cầu của một phật tử thân tín, ngài đã tra lục kinh
điển để thực hiện bộ trường thi có tên là Phật Sử Diễn Ca dài 10.000
câu, gấp năm lần truyện Kiều. Bộ này khi được tái bản được đặt tựa
mới là Đấng Thiên Nhân Sư Gotama. Từ sau năm 2000, ngài dành nhiều thời
gian để nghiên cứu và thực tập pháp môn Niệm Xứ.
Đương nhiên không ai ở Việt Nam có đủ thẩm quyền để
đưa ra một đánh giá so sánh là vị nào hơn kém vị nào, nhưng những ai đã
từng đọc và nghe ngài, chắc chắn đều phải nhận rằng ngài là một chuyên
gia về A-Tỳ-Đàm của Nam Truyền và Duy Thức Học của Bắc phái. Ngài không
sở hữu bất cứ một bằng cấp học vị nào mà mọi sở tri đều là tự
học, nhưng có nghe và đọc ngài mới hiểu kiến văn của ngài là không bờ
mé.
Từ năm 2005, ngài đã dành trọn thời gian để đọc kỹ và
san định hai bộ Thanh Tịnh Đạo và Vô Ngại Giải Đạo. Tiếc là mãi cho
đến lúc viên tịch, công trình này dầu đã hoàn tất, vẫn chưa được ấn
hành. Bên cạnh công việc này ngài đã nhận lời thỉnh cầu của chư tăng
vào góp mặt trong các buổi giảng Paltalk. Ngài khiêm tốn nói rằng chỉ
đảm nhận vai trò của một lão tướng thủ thành, điền khuyết vào những
buổi giảng mà các giảng sư trẻ tuổi vắng mặt. Sự có mặt của ngài đã
làm cho các buổi giảng trở nên ấm cúng và chắc chắn là có phần thâm hậu
hơn.
Song song theo đó, sau các buổi thiền tập một mình, ngài
đã viết lại tất cả kinh nghiệm vào trong bộ Chiếu Kiến Nghiệp Xứ dày
khoảng 400 trang, tất cả chỉ được phát hành nội bộ. Mong là chúng ta có
đủ nhân duyên để phát hành bộ sách này và những công trình khác của ngài
vào một ngày gần nhất.
Đời ngài chỉ vỏn vẹn 74 năm với 50 năm mặc áo tu
nhưng tâm nguyện của ngài không biết cho đến thế hệ nào mới có thể làm
tròn được. Và dấu ấn mà ngài để lại cho Phật Giáo Việt Nam biết bao
lâu mới có thể phai mờ. Thậm chí nhiều người đã nhận được nguồn ân
trạch của ngài qua các trung gian cũng không hề biết đến điều này. Đối
với hòa thượng Tịnh Sự, ngài giống như Khuy Cơ của ngài Huyền Trang
hay Tăng Triệu với La Thập. Không có hòa thượng Tịnh Sự thì người Việt
không biết đến tạng A-Tỳ-Đàm và ngài Giác Chánh chính là người thay mặt
thầy giao phó viên ngọc báu này đến tận tay nhiều người, qua nhiều
phương tiện và nhiều trung gian. Thậm chí có thể nói rằng pháp môn Tứ
Niệm Xứ và giáo lý Duyên Khởi đã nhờ hai ngài mà được xiển dương và nhận
thức đúng đắn dù chỉ ở một số ít người tại Việt Nam giữa một thời
buổi mà Phật Giáo hình thức đã đẩy lùi Phật Giáo nội dung.
Mối quan tâm lớn nhất thuở bình sinh của hòa thượng không phải
là kiến tạo chùa chiền, mà lại nhằm vào hai việc khác là đào tạo các thế hệ
tăng tài và truyền bà giáo pháp, đặc biệt giáo lý A Tỳ Đàm và pháp môn Tứ Niệm
Xứ. Hòa thượng đã để lại những người học trò có thể ít nhiều tiếp nối được lý
tưởng của ngài và một số ngôi chùa do ngài khai
sơn hoặc tiếp nhận mà mục đích vẫn là để hoằng truyền Phật Pháp. Có thể
kể ra đây một số ngôi chùa do ngài trực tiếp hoặc gián tiếp xây dựng như Thiền
Quang II (thượng tọa Chí Tâm trụ trì), chùa Nguyên Thủy (Cát Lái), chùa Quảng
Nghiêm (thượng tọa Tuệ Quyền trụ trì), chùa Cồ Đàm (thượng tọa Chơn Thiện trụ
trì),
chùa Siêu Lý Vĩnh Long, chùa Ngọc Đạt Phước Tân (hòa thượng
Trí Đức trụ trì)....chưa kể những ngôi chùa có quan hệ đặc biệt như Thiền Quang
I, Siêu Lý Phú Định (thượng tọa Pháp Nhiên trụ trì), Viên Giác Vĩnh Long, Tứ
Phương Tăng Cần Thơ.
Ngài không có nhiều đệ tử truyền giới, trước sau có lẽ không
hơn 20 vị. Hai vị đệ tử đầu tiên của ngài là thượng tọa Trí Quảng (hiện là trụ
trì chùa Bửu Môn, Texas, Hoa Kỳ), thượng tọa Trí Tịnh (trụ trì chùa Phật Pháp,
Florida, Hoa Kỳ) và người đệ tử cuối cùng là đại đức Pháp Tín, người thị giả tận
tụy đã chăm sóc ngài trong những năm
tháng cuối đời cho đến tận phút viên tịch và hiện cũng đang là người kế thừa tổ
đình Bửu Đức (Biên Hòa), đồng thời cũng là một giảng sư trên Paltalk.
Ngài đã ra đi nhưng vẫn còn đó. Cho đến bao giờ còn có
người cần đến ánh nắng cho hơi ấm và ánh sáng, còn cần đến dưỡng khí
để mà thở và còn cần biết đến cái gì là biển rộng trời cao giữa nhân
gian tù đọng này.
Tampa, mùa tang 2020
Pháp tử Toại Khanh kính ghi
Bộ Dhātukathā của Tạng Diệu
Pháp
Trong lúc bộ Phân Tích (Vibhanga) đi từ tổng thể đến nguyên
tố thì bộ Dhātukathā đi ngược lại từ nguyên tố đến tổng thể. Ngài Tịnh Sự dịch
là Bộ Chất Ngữ trong lúc bản chữ Nhật Đại Tạng Nam Truyền thì dịch là Bộ Giới
Thuyết. Trình bày pháp theo bản thể là một đặc sắc của môn A Tỳ Đàm. Cách trình
bày xuôi và ngược cũng được tìm thấy trong Kinh Tạng qua giáo lý duyên khời. Ở đây
trong bộ Dhātukathā cũng như toàn bộ môn A tỳ đàm đòi hỏi người học bén nhạy cả
bốn phương diện: Giáo nghĩa (Atthapaṭisambhidā), chi pháp (Dhammapaṭisambhidā),
từ vựng (Niruttipaṭisambhidā) và cơ bản lý luận (Paṭibhānapaṭisambhidā).
Văn Tụng:
Tadanantaraṁ dhātukathāpakaraṇaṁ nāma. Taṁ saṅgaho asaṅgaho,
saṅgahitena asaṅgahitaṁ, asaṅgahitena saṅgahitaṁ, saṅgahitena saṅgahitaṁ, asaṅgahitena
asaṅgahitaṁ; sampayogo vippayogo, sampayuttena vippayuttaṁ, vippayuttena
sampayuttaṁ, sampayuttena sampayuttaṁ, vippayuttena vippayuttaṁ; saṅgahitena
sampayuttaṁ vippayuttaṁ; sampayuttena saṅgahitaṁ asaṅgahitaṁ, asaṅgahitena
sampayuttaṁ vippayuttaṁ, vippayuttena saṅgahitaṁ asaṅgahitanti cuddasavidhena
vibhattaṁ. Taṁ vācanāmaggato atirekachabhāṇavāramattaṁ, vitthāriyamānaṁ pana
anantamaparimāṇaṁ hoti.
Tiêu đề của bộ Dhātukathā:
Yếu hiệp (saṅgaho). Bất yếu hiệp (asaṅgaho).
Bất yếu hiệp theo yếu hiệp (saṅgahitena asaṅgahitaṃ).
Yếu hiệp theo bất yếu hiệp (asaṅgahitena saṅgahitaṃ).
Yếu hiệp theo yếu hiệp (saṅgahitena saṅgahitaṃ).
Bất yếu hiệp theo bất yếu hiệp (saṅgahitena asaṅgahitaṃ).
Tương ưng (sampayogo). Bất tương ưng (vippayogo).
Bất tương ưng theo tương ưng (sampayuttena vippayuttaṃ).
Tương ưng theo bất tương ưng (vippayuttena sampayuttaṃ).
Tương ưng theo tương ưng (sampayuttena sampayuttaṃ).
Bất tương ưng theo bất tương ưng (vippayuttena vippayuttaṃ).
Tương ưng bất tương ưng theo yếu hiệp (saṅgahitena
sampayuttaṃ vippayuttaṃ).
Yếu hiệp bất yếu hiệp theo tương ưng (sampayuttena saṅgahitaṃ
asaṅgahitaṃ).
Tương ưng bất tương ưng theo bất yếu hiệp (asaṅgahitena
sampa-yuttaṃ vippayuttaṃ).
Yếu hiệp bất yếu hiệp theo bất tương ưng (vippayuttena saṅgahitaṃ
asaṅgahitaṃ).
Ngũ uẩn (pañcakkhandhā).
Thập nhị xứ (dvādasāyatanāṇi).
Thập bát giới (aṭṭhārasa dhātuyo).
Tứ đế (cattāri saccāni).
Nhị thập nhị quyền (bāvīsatindriyāni).
Y tương sinh (paṭiccasamuppādo).
Tứ niệm xứ (cattāro satipaṭṭhānā).
Tứ chánh cần (cattāro sammappadhānā).
Tứ thần túc (cattāro iddhipādā).
Tứ thiền (cattāri jhānāni).
Tứ vô lượng tâm (catasso appamaññāyo).
Ngũ quyền (pañcindriyāni ).
Ngũ lực (pañcabalāni).
Thất giác chi (satta bojjhaṅgā).
Bát chi thánh đạo (ariyo aṭṭhangiko maggo).
Xúc (phasso). Thọ (vedanā). Tưởng (saññā). Tư (cetanā). Tâm
(citta). Thắng giải (adhimokkha). Tác ý (manasikāra).
Yếu hiệp ba cách (tīni saṅgaho). Bất yếu hiệp ba cách (tīni
asaṅgaho). Tương ưng bốn cách (catūhi sampayogo).
Bất tương ưng bốn cách (catūhi vippayogo).
Ðồng (sabhāgo). Bất đồng (visabhāgo).
Toàn bộ Pháp tụ (dhammasaṅgaṇi) đều là đầu đề (mātikā) của Bộ
Chất ngữ (dhātukathā).
No comments:
Post a Comment