Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 1/2/2020
47. Kinh Tư sát (Vìmamsaka sutta)
541. Tại sao gọi Kinh Tư Sát
?
Chữ vìmamsaka - bản dịch Việt là tư sát – có nghĩa là người
quán sát, người tìm hiểu. Tên bài kinh dựa trên ý chính trong pháp thoại mà Đức
Phật dạy những đệ tử nên tìm hiểu thế nào về chính Ngài.
542. Đại ý Kinh Tư Sát là gì?
Có một câu trong
bài kinh mà cả nguyên văn Pàli và lời dịch tiếng Việt đều có vấn đề cần làm sáng
tỏ. Câu Phạn ngữ: vīmaṁsakena, bhikkhave, bhikkhunā
parassa cetopariyāyaṁ ajānantena {ājānantena (pī. ka.), ajānantena kinti (?)}
tathāgate samannesanā kātabbā ‘sammāsambuddho vā no vā’ iti viññāṇāyā”ti. Bản của
Miến Điện, trong cuộc Trùng Tuyên Tam Tạng Lần Thứ VI in là ajānantena trong lúc
bản in của Pàli Text Society, y cứ theo bản của Tích Lan thì ghi là ājānantena.
Thoạt nhìn hai dị bản có vẻ như giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: ājānāti
là biết, trong lúc ajānāti là không biết.
Nếu dịch theo bản
của kỳ Trùng Tuyên Tam Tạng lần VI thì nên dịch là: Nầy chư tỳ kheo, một vị tỳ
kheo là người (có thái độ khách quan của) người cầu học ( vīmaṁsaka) nhưng không
đọc được tâm của người khác nên suy xét về Như Lai có phải là bậc hoàn toàn
giác ngộ hay không. (Bản Sớ giải ghi rằng không ai ngoài Đức Phật có thể đọc được
tất cả tâm ý của chư Phật toàn giác nên theo bản Miến Điện hợp lý hơn ghi là ajānantena
(không biết) thay vì biết.
Bản dịch tiếng Việt:
“Này các Tỷ-kheo, vị tư sát Tỷ-kheo muốn
biết rõ tập tánh (Cetapariyayam) của người khác, cần phải tìm hiểu về Như
Lai, để ý thức được Ngài có Chánh Ðẳng Giác hay không?” có ý nghĩa rất xa nguyên
văn.
Đức Thế Tôn nêu lên
chín điểm mà một đệ tử nên suy xét để đặt niềm tin trọn vẹn ở Phật:
2. Những điều bất
nhất có thể tìm thấy ở Như Lai qua những gì được thấy được nghe?
3. Sự thanh tịnh
tốt đẹp của biểu lộ rõ ràng ở Như Lai qua những gì được thấy, được nghe?
4. Thiện pháp thể
hiện ở Như Lai là vốn cố hữu hay nhất thời?
5. Danh lợi có
chi phối Đức Như Lai không?
6. Có phải Đức Như
Lai sống thanh tịnh vì lo ngại?
8. Như Lai có trả
lời thẳng thắng về bản thân mình chăng?
9. Như Lai có
truyền dạy giáo pháp chân thiện, thiết thực, rõ ràng, có hiệu năng dẫn đến giác
ngộ giải thoát?
543. Thế nào là ý nghĩa của câu: “Đức Như Lai có uế nhiễm
hay không qua những gì được thấy và nghe?”
Thấy là quán sát
hành vi của thân, nghe là hiểu được ngôn từ qua lời nói của khẩu:
-- Này các Tỷ-kheo,
vị tư sát Tỷ-kheo muốn biết rõ tập tánh của người khác, cần phải tìm hiểu về
Như Lai trên hai loại pháp: Các pháp do mắt, tai nhận thức, nghĩ rằng: "Những
pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận thức, những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai hay
không hiện khởi?" Sau khi tìm hiểu như vậy, vị Tỷ-kheo được biết như sau:
"Những pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy không có hiện khởi
ở Như Lai". Sau khi tìm hiểu như vậy và biết được như sau: "Những
pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy không có hiện khởi ở Như
Lai".
544. Thế nào là ý nghĩa của câu: “Những
điều bất nhất có thể tìm thấy ở Như Lai qua những gì được thấy được nghe?
Mệnh đề vı̄timissā
dhammā có nghĩa pháp pha lẫn hay phức cảm
có nghĩa là không phải lúc nào của thanh tịnh, tốt đẹp mặc dù có lúc có hành động
và lời nói rất cao siêu:
Vị ấy tìm hiểu thêm:
"Những tạp pháp (khi nhiễm khi tịnh) do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy
có hiện khởi ở Như Lai hay không hiện khởi?" Sau khi tìm hiểu như vậy và vị
Tỷ-kheo biết được như sau: "Những tạp pháp do mắt, tai nhận thức, những
pháp ấy không có hiện khởi ở Như Lai". Sau khi tìm hiểu như vậy và biết được
như sau : "Những tạp pháp do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy không có hiện
khởi ở Như Lai."
545. Thế nào
là ý nghĩa của câu: “Sự thanh tịnh tốt đẹp của biểu lộ rõ ràng ở Như Lai qua những
gì được thấy, được nghe?”
Điều nầy có nghĩa
là qua hành vi và ngôn từ có thể khẳng định rõ là Như Lai thanh tịnh hay không
thanh tịnh:
Vị ấy tìm thiểu
thêm: "Những pháp hoàn toàn thanh tịnh, do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy
có hiện khởi ở Như Lai hay không hiện khởi?" Sau khi tìm hiểu như vậy, vị
Tỷ-kheo biết được như sau: "Những pháp hoàn toàn thanh tịnh do mắt, tai nhận
thức, những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai". Sau khi tìm hiểu như vậy và
biết được như sau: "Những pháp hoàn toàn thanh tịnh do mắt, tai nhận thức;
những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai".
546. Thế nào là ý nghĩa của câu: “Thiện
pháp thể hiện ở Như Lai là vốn cố hữu hay nhất thời?”
Có những người “tốt
đột xuất” với hành động và lời nói cao quý nhưng chỉ trong trường hợp nào đó chứ
không phải luôn luôn như vậy:
Vị ấy tìm hiểu thêm:
"Bậc đáng kính này thành tựu thiện pháp này trong một thời gian lâu dài
hay trong một thời gian ngắn?" Sau khi tìm hiểu như vậy, vị Tỷ-kheo biết
được như sau: "Vị Tôn giả này thành tựu thiện pháp này trong một thời gian
lâu dài, Bậc đáng kính này thành tựu thiện pháp này không phải trong một thời
gian ngắn". Sau khi tìm hiểu như vậy và biết được như sau: "Bậc đáng
kính này thành tựu thiện pháp này trong một thời gian lâu dài, Bậc đáng kính này
thành tựu thiện pháp này không phải trong một thời gian ngắn".
547. Thế nào
là ý nghĩa của câu: “Danh lợi có chi phối Đức Như Lai không?”
Có những bậc tu hành
rất tốt đẹp khi là một ẩn sĩ như khi được cung kính, lợi đắc nhiều thì xoay chiều
hiện ra những bất thiện pháp như giả dối, ngã mạn..:
Vị ấy tìm hiểu thêm:
"Bậc đáng kính hữu danh này, khi có danh, một số nguy hiểm có khởi lên cho
vị ấy ở đây không?" Này các Tỷ-kheo, một số nguy hiểm không khởi lên ở đây
cho vị Tỷ-kheo, khi vị ấy chưa được hữu danh, chưa có danh tiếng. Này các Tỷ-kheo,
khi vị ấy được hữu danh, có danh tiếng, thì một số nguy hiểm có thể khởi lên ở
đây cho vị ấy. Sau khi tìm hiểu như vậy, vị biết được như sau: "Bậc đáng
kính chưa hữu danh này, khi chưa có danh, một số nguy hiểm không khởi lên cho vị
ấy". Sau khi tìm hiểu như vậy, vị ấy biết được như sau : "Vị này, khi có danh, một số nguy hiểm có thể
không khởi lên cho vị này."
548. Thế nào
là ý nghĩa của câu: “Có phải Đức Như Lai sống thanh tịnh vì lo ngại?”
Có những nhà tu từ
bỏ dục lạc không phải vì nhận thức rõ bản chất phù phiếm, nguy hại hay do đoạn
tận tham ái chứ không phải vì lo sợ người khác chê trách:
Vị ấy tìm hiểu thêm:
"Bậc đáng kính này từ bỏ với sự vô úy, không phải vì sợ hãi mà từ bỏ. Có
phải do vì đoạn diệt tham ái, vì không có tham ái, nên vị này không thỏa mãn
các dục?". Sau khi tìm hiểu như vậy, vị ấy biết được như sau: "Đức Như
Lai do vô úy mà từ bỏ, không phải vì sợ hãi mà từ bỏ. Do vì đoạn diệt tham ái,
vì không có tham ái, nên vị này không thỏa mãn các dục".
549. Thế nào
là ý nghĩa của câu: Như Lai có thuyết pháp với cung cách cao quý?
Đức Như Lai thuyết
pháp vì lợi ích cho chúng sanh dù hội chúng nhiều người hay cho một người; Ngài
thuyết pháp không với tâm tâng bốc người nầy hay chà đạp người kia. Sớ giải gọi
đó là thái độ vô tư của chư Phật ((tādibhāva):
Này các Tỷ-kheo, nếu
có những người khác hỏi vị Tỷ-kheo ấy như sau: "Những dữ kiện Tôn giả là
gì, những bằng chứng của Tôn giả là gì, mà Tôn giả nói: "Đức Phật do vô úy
mà từ bỏ, không phải vì sợ hãi mà từ bỏ". Do vì đoạn diệt tham ái, vì
không có tham ái, nên vị này không thỏa mãn các dục". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
muốn trả lời một cách chân chánh phải trả lời như sau: "Bậc Đạo sư sống giữa
Tăng chúng hay sống một mình, dầu cho những vị sống ở đây là thiện hạnh, là ác
hạnh, dầu cho có những vị giáo giới hội chúng, ở đây có những vị chuyên trọng
tài vật, có những vị ở đây không bị ô nhiễm bởi tài vật, vị Tôn giả này không
vì vậy mà khinh bỉ họ vì lý do này. Như vậy tôi nghe trước mặt Thế Tôn, như vậy
tôi được biết trước mặt Thế Tôn: "Ta do vô úy mà từ bỏ, Ta không phải vì sợ
hãi mà từ bỏ. Do vì đoạn diệt tham ái, vì không có tham ái nên Ta không thỏa
mãn các dục"".
550. Thế nào là ý nghĩa của câu: “Như
Lai có trả lời thẳng thắng về bản thân mình chăng?”
Có nhiều người
không dám khẳng định về bản thân vì tự xét đức hạnh còn khuyết điểm hay thiếu tự
tin. Đó không phải là trường hợp của Đức Phật:
Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Như Lai cần phải được hỏi thêm như sau: "Các pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận
thức; những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai hay không có hiện khởi?" Ðược hỏi
vậy, Như Lai sẽ trả lời như sau: "Các pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận thức;
những pháp ấy không hiện khởi ở Như Lai."
Nếu được hỏi: "Những
tạp pháp ở mắt, tai nhận thức; những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai hay không
có hiện khởi?" Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai sẽ trả lời như sau:
"Những tạp pháp do mắt, tai nhận thức, những pháp ấy không có hiện khởi ở
Như Lai."
Nếu được hỏi: "Những
pháp hoàn toàn thanh tịnh do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy có hiện khởi ở
Như Lai hay không có hiện khởi?" Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai trả
lời như sau: "Những pháp hoàn toàn thanh tịnh do mắt, tai nhận thức; những
pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai. Ta lấy như vậy làm đạo lộ, làm hành giới. Không
có ai giống Ta như vậy. "
551. Thế nào
là ý nghĩa của câu: “Như Lai có truyền dạy giáo pháp chân thiện, thiết thực, rõ
ràng, có hiệu năng dẫn đến giác ngộ giải thoát?”
Phải nhận chân giá
trị cao quý của bậc Đạo sư qua giáo pháp truyền dạy như một người đi vào thành
phố được xây dựng nguy nga tráng lệ thì có thể cảm nhận đó phải là một công trình
tạo nên bởi một kiến trúc sư thực tài:
Này các Tỷ-kheo, một
đệ tử phải đến gần bậc Ðạo Sư có nói như vậy để được nghe pháp. Vị Ðạo Sư thuyết
pháp cho vị ấy từ vấn đề này đến vấn đề khác, từ vi diệu này đến vi diệu khác,
các pháp hắc bạch cùng với các pháp tương đương (Sappatibhaga). Này các Tỷ-kheo,
tùy theo vị Ðạo Sư thuyết pháp cho vị Tỷ-kheo, từ vấn đề này đến vấn đề khác, từ
vi diệu này đến vi diệu khác, các pháp hắc bạch cùng với các pháp tương đương;
vị Tỷ-kheo, tùy theo như vậy, sau khi chứng tri trong pháp ấy, đạt đến sự cứu
cánh của từng pháp một. Vị ấy khởi lòng tịnh tín đối với bậc Ðạo Sư: "Thế
Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, chúng Tăng thật
khéo hành trì".
Này các Tỷ-kheo, nếu
có người khác hỏi Tỷ-kheo ấy như sau: "Tôn giả có những dữ kiện gì, có những
bằng chứng gì để Tôn giả nói rằng: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp
được Thế Tôn khéo thuyết giảng, chúng Tăng thật khéo hành trì?"" Này
các Tỷ-kheo, muốn trả lời một cách chân chánh, vị Tỷ-kheo phải trả lời như sau:
"Ở đây, này Hiền giả, tôi đến yết kiến Thế Tôn để nghe thuyết pháp, Thế
Tôn thuyết pháp cho tôi, từ vấn đề này đến vấn đề khác, từ vi diệu này đến vi
diệu khác, các pháp hắc bạch với các pháp tương đương của chúng. Này Hiền giả,
tùy theo Thế Tôn thuyết pháp cho tôi như thế nào, từ vấn đề này đến vấn đề
khác, từ vi diệu này đến vi diệu khác, các pháp hắc bạch với các pháp tương
đương của chúng; tùy theo như vậy, sau khi chứng tri trong pháp ấy, tôi đạt đến
sự cứu cánh của từng pháp một. Tôi khởi lòng tịnh tín đối với bậc Ðạo Sư:
"Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng,
chúng Tăng thật khéo hành trì"".
552. Đức Phật
đã kết luận pháp thoại thế nào?
Chỉ có tìm hiểu
rõ về Đức Phật thì một đệ tử mới thành tựu được niềm tin kiên cố:
Này các Tỷ-kheo, đối
với ai mà lòng tin đối với Như Lai được an lập, căn cứ, an trú trên những dữ kiện,
những văn cú, những văn tự như vậy, này các Tỷ-kheo, lòng tin như vậy được gọi
là có dữ kiện đầy đủ, căn cứ trên (chánh) kiến, vững chắc, không thể bị phá hoại
bởi một Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên, Ma ra, Phạm thiên hay bất cứ ai ở đời.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tìm hiểu về Như Lai, và như vậy Như Lai mới được
khéo tìm hiểu một cách đúng pháp.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment