Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 31/5/2020
140. Kinh Giới Phân Biệt
(Dhātuvibhaṅga Sutta)
Cụm từ dhātuvibhaṅga có nghĩa là sự giảng rộng hay phân
tích về các nguyên tố. Bốn đề tài uẩn, xứ, giới, đế được đề cập một cách chi tiết
trong 12 bài kinh của phẩm vibhanga. Trong kinh nầy Pukkusāti gặp Phật nhưng không nhận ra Phật.
Tuy vậy sau khi thấy Pháp thì thấy được Phật. Bậc Vô Thượng Điều Ngự đã khai thị
cho con người hữu tâm hữu chí nầy là sự giảng giải về những nguyên tố của đời sống
và lời dạy hàm xúc: Chớ xao lãng tuệ quản, hãy bảo vệ chân đế, huân tu hạnh buông
xả, tập sống trong an tịnh (paññaṃ nappamajjeyya, saccamanurakkheyya,
cāgamanubrūheyya, santimeva so sikkheyyā’ti)
1161. Hai vị vua cùng ở trọ trong nhà chứa cỏ
Pukkusàti là vua của xứ Takkasilā do được Phật ngôn
khắc trên những bảng vàng do vua Bimbisara gởi tặng nên phát tâm xuất gia cầu
giải thoát.Vị nầy cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục người tu hướng về Sàvatthi cầu
gặp Phật. Đấng Pháp Vương quán sát thấy duyên lành của vị nầy nên đã đích thân
gặp vị nầy trong một một nhà chứa cỏ ở trọ qua đêm dọc đường:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn du hành ở xứ Magadha
(Ma- kiệt-đà), đi đến Rājagaha (Vương xá), đến nhà thợ gốm Bhaggava; sau
khi đến nói với thợ gốm Bhaggava:
-- Này Bhaggava, nếu không gì phiền
phức cho Ông, Ta muốn ở tại chỗ này một đêm.
Bạch Thế Tôn không có gì phiền phức
cho con. Ở đây đã có một vị xuất gia đến ở từ trước rồi. Nếu vị ấy
thỏa thuận, bạch Thế Tôn, hãy ở lại tùy theo sở thích.
Lúc bấy giờ, Thiện gia nam tử Pukkusāti,
do lòng tin, y cứ Thế Tôn đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình. Vị ấy đã đến ở trước tại trú xứ của thợ gốm. Rồi Thế Tôn đi
đến Tôn giả Pukkusāti; sau khi đến nói với Pukkusāti:
-- Này Tỷ-kheo, nếu không gì phiền
phức cho Ông, Ta muốn ở lại trú xứ này một đêm.
-- Rộng rãi, thưa Hiền giả, là trú xứ
của thợ gốm. Tôn giả có thể ở, tùy theo sở thích.
Rồi Thế Tôn sau khi bước vào trú xứ
của thợ gốm, trải thảm cỏ vào một bên, ngồi kiết-già, lưng thẳng và
an trú niệm trước mặt. Và Thế Tôn trải qua phần lớn đêm ấy, ngồi
(như vậy). Tôn giả Pukkusāti trải qua phần lớn đêm ấy cũng ngồi (như
vậy). Rồi Thế Tôn suy nghĩ: "Cử chỉ Thiện gia nam tử này có vẻ
tín thành, Ta hãy hỏi vị ấy". Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Pukkusāti:
-- Này Tỷ-kheo, Ông xuất gia, y cứ vào
ai? Ai là Ðạo sư của Ông? Ông chấp nhận pháp của ai?
-- Thưa Hiền giả, có Sa môn Gotama là
Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích Ca. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây
được truyền đi về Thế Tôn Gotama ấy: "Ngài là bậc Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Ðiều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn". Tôi đã xuất gia, y
cứ bậc Thế Tôn ấy. Ngài là bậc Ðạo sư của tôi. Và tôi chấp thuận pháp
của bậc Thế Tôn ấy.
-- Này Tỷ-kheo, nay Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ấy ở đâu?
-- Thưa Hiền giả, có một thành phố
tên là Sāvatthī giữa các quốc độ phía Bắc. Tại đấy, Thế Tôn, bậc A-
la-hán, Chánh Ðẳng Giác hiện này đang ở.
-- Này Tỷ-kheo, trước đây Ông đã thấy
bậc Thế Tôn ấy chưa? Và nếu thấy, Ông có nhận ra được không?
-- Thưa Hiền giả, trước đây tôi chưa
từng thấy bậc Thế Tôn ấy. Và nếu thấy, tôi không nhận ra được.
1162. Quán chiếu pháp giới trong ngôn ngữ
cô đọng nhất
Đức Thế Tôn mở đầu pháp thoại với sự tóm lược
về con đường giác ngộ:
Rồi Thế Tôn suy nghĩ: "Thiện gia
nam tử này xuất gia y cứ nơi Ta. Vậy Ta hãy thuyết pháp cho (Thiện gia
nam tử) ấy". Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Pukkusāti:
-- Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ
giảng. -- Thưa Hiền giả vâng.
Tôn giả Pukkusāti vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
-- Này Tỷ-kheo, người này có sáu giới,
sáu xúc xứ, mười tám ý hành, bốn thắng xứ, khi được an trú, vọng
tưởng không có chuyển động. Khi vọng tưởng không chuyển động, vị ấy
được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh. Chớ có buông lung trí tuệ, hãy hộ
trì chân đế, hãy tăng trưởng huệ thí (caga), hãy tu học tịch tịnh. Ðây
là tổng thuyết sáu giới phân biệt.
1163. Những nguyên tố của vạn hữu
Nếu nhìn vào những nguyên tố cấu thành sự
hiện hữu sẽ xoá được ảo giác:
Này Tỷ-kheo, khi được nói đến
"Người này có sáu giới", do duyên gì được nói đến như vậy?
Ðịa giới, (thủy giới), hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.
Này Tỷ-kheo, khi được nói đến "Người này có sáu giới", chính
do duyên này được nói đến như vậy.
Này các Tỷ-kheo, khi được nói đến
"Người này có sáu xúc xứ", do duyên gì được nói đến như vậy?
Nhãn xúc xứ, nhĩ xúc xứ, tỷ xúc xứ, thiệt xúc xứ, thân xúc xứ, ý xúc
xứ. Khi được nói đến "Người này có sáu xúc xứ ", chính do
duyên này được nói đến như vậy.
Này Tỷ-kheo, khi được nói đến
"Người này có mười tám ý hành", do duyên gì được nói đến như
vậy? Khi con mắt thấy sắc, người ấy chạy theo sắc, chỗ trú xứ của
hỷ, chạy theo sắc chỗ trú xứ của ưu, chạy theo sắc chỗ trú xứ của
xả, khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm
xúc... ý nhận thức pháp, người ấy chạy theo pháp, chỗ trú xứ của hỷ,
người ấy chạy theo pháp, chỗ trú xứ của ưu, người ấy chạy theo
pháp, chỗ trú xứ của xả. Như vậy có sáu hỷ hành, sáu ưu hành, sáu xả
hành. Khi được nói đến "Người này có mười tám ý hành" chính do
duyên này được nói đến như vậy.
1164. Bốn phương châm của hành giả
Bốn trọng tâm mà người tu tập cần luôn tâm
niệm là: không xa rời trí tuệ, tôn trọng sự thật, học hạnh buông xả và tôi luyện
trong tịch tịnh:
Này Tỷ-kheo, khi được nói đến
"Người này có bốn thắng xứ ", do duyên gì được nói đến như vậy?
Tuệ thắng xứ, đế thắng xứ, huệ thí thắng xứ, tịch tịnh thắng xứ.
Khi được nói đến "Người này có bốn thắng xứ", chính do duyên
này được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Chớ có buông
lung trí tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy tăng trưởng huệ thí, hãy tu học
tịch tịnh", do duyên gì được nói đến như vậy?
Thế nào là không buông lung trí tuệ? Có
sáu giới này: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới,
thức giới.
Này Tỷ-kheo, thế nào là địa giới? Có nội
địa giới và có ngoại địa giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào là nội địa
giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, kiên cứng, thô phù, bị chấp
thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim,
gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân và bất
cứ vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, kiên cứng, thô phù, bị
chấp thủ. Như vậy, này Tỷ- kheo, được gọi là nội địa giới. Những gì
thuộc nội địa giới và những gì thuộc ngoại địa giới đều thuộc về
địa giới. Ðịa giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ
như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái
này không phải tự ngã của tôi". Sau khi như thật quán sát địa giới
với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối với địa giới, tâm
từ bỏ địa giới.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thủy
giới? Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào là
nội thủy giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc
chất lỏng, bị chấp thủ, như mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi,
mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương,
nước tiểu, và bất cứ vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc
nước, thuộc chất lòng, bị chấp thủ. Như vậy, này Tỷ-kheo, được gọi
là thủy giới. Những gì thuộc nội thủy giới và những gì thuộc ngoại
thủy giới đều thuộc về thủy giới. Thủy giới ấy phải được quán sát
như thật với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi
như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh
yếm ly đối với thủy giới, tâm từ bỏ thủy giới.
Và này Tỷ-kheo, thế nào là hỏa giới?
Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào là nội
hỏa giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc
chất nóng, bị chấp thủ. Như cái gì khiến cho hâm nóng, khiến cho hủy
hoại, khiến cho thiêu cháy, cái gì khiến cho những vật được ăn, uống,
nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật gì khác, thuộc nội
thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Này
Tỷ-kheo, như vậy được gọi là nội hỏa giới. Những gì thuộc nội hỏa
giới và những gì thuộc ngoại hỏa giới đều thuộc về hỏa giới. Hỏa
giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải tự ngã của tôi". Sau khi như thật quán sát hỏa giới với chánh
trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối với hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa
giới.
Và này Tỷ-kheo, thế nào là phong giới?
Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào là nội
phong giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc
tánh động, bị chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong ruột,
gió trong bụng dưới, gió thổi ngang các đốt, các khớp, hơi thở vô, hơi
thở ra, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió,
thuộc tánh động, bị chấp thủ. Này Tỷ-kheo, như vậy được gọi là nội
phong giới. Những gì thuộc nội phong giới và những gì thuộc ngoại phong
giới đều thuộc về phong giới. Phong giới ấy phải được quán sát như
thật với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi như thật
quán sát phong giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối
với phong giới, tâm tư từ bỏ phong giới.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hư không
giới? Có nội hư không giới, có ngoại hư không giới. Và này Tỷ-kheo,
thế nào là nội hư không giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân,
thuộc hư không, thuộc hư không tánh, bị chấp thủ, như lỗ tai, lỗ
mũi, cửa miệng, do cái gì người ta nuốt, những gì được nhai, được
uống, được ăn, được nếm, và tại chỗ mà những gì được nhai, được
uống, được ăn, được nếm, được giữ lại, và ngang qua chỗ mà những
gì được nhai, được uống, được ăn, được nếm và được tống xuất
xuống phần dưới để ra ngoài, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân,
thuộc cá nhân, thuộc hư không, thuộc hư không tánh, bị chấp thủ. Này
Tỷ-kheo, như vậy được gọi là nội hư không giới. Những gì thuộc nội
hư không giới và ngoại hư không giới đều thuộc về hư không giới. Hư
không ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải tự ngã của tôi". Sau khi như thật quán sát hư không giới với
chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối với hư không giới, tâm
từ bỏ hư không giới.
Lại nữa, khi thức còn lại được trong
sạch, trong trắng, vị ấy biết được một số sự việc nhờ thức ấy.
Vị ấy thức tri được lạc, thức tri được khổ, thức tri được bất
khổ bất lạc. Này Tỷ-kheo, duyên lạc xúc, lạc thọ khởi lên. Vị ấy khi
đang cảm giác lạc thọ, tuệ tri rằng: "Tôi cảm giác lạc thọ".
Do lạc xúc diệt đi, lạc thọ do lạc xúc được khởi lên được cảm giác,
vị ấy biết: "Lạc thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt".
Này Tỷ- kheo, duyên khổ xúc, khổ thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác
khổ thọ, tuệ tri rằng: "Tôi cảm giác khổ thọ". Do khổ xúc ấy
diệt đi, khổ thọ do khổ xúc được khởi lên, được cảm giác, vị ấy
biết: "Khổ thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt". Này
Tỷ-kheo, duyên bất khổ bất lạc xúc, bất khổ bất lạc thọ khởi lên.
Vị ấy khi đang cảm giác bất khổ lạc thọ, tuệ tri rằng: "Tôi cảm
giác bất khổ bất lạc thọ". Do bất khổ bất lạc thọ xúc ấy diệt
đi, bất khổ bất lạc thọ do bất khổ bất lạc xúc được khởi lên,
được cảm giác, vị ấy tuệ tri: "Bất khổ bất lạc thọ ấy được
diệt đi, được chấm dứt".
Này Tỷ-kheo, ví như do hai cây que xúc
chạm cọ xát, hơi nóng được sanh, ngọn lửa được hiện khởi. Khi hai
que ấy được rời nhau, được phân ly, sức nóng được sanh khởi ấy, sức
nóng ấy được diệt đi, được chấm dứt. Cũng vậy, này Tỷ-kheo, duyên
lạc xúc, lạc thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác lạc thọ tuệ tri
rằng: "Tôi đang cảm giác lạc thọ". Do lạc xúc ấy diệt đi, lạc
thọ do lạc xúc được khởi lên, được cảm giác vị ấy tuệ tri:
"Lạc thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt". Này Tỷ-kheo,
duyên khổ xúc khổ thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác khổ thọ tuệ
tri rằng: "Tôi đang cảm giác khổ thọ". Do khổ xúc ấy diệt đi,
khổ thọ do khổ xúc được khởi lên, được cảm giác, vị ấy biết:
"Khổ thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt". Này Tỷ-kheo,
duyên bất khổ bất lạc xúc, bất khổ bất lạc thọ khởi lên. Vị ấy khi
đang cảm giác bất khổ lạc thọ, tuệ tri rằng: "Tôi cảm giác bất
khổ bất lạc thọ". Do bất khổ bất lạc thọ xúc ấy diệt đi, bất
khổ bất lạc thọ do bất khổ bất lạc xúc được khởi lên, được cảm
giác, vị ấy tuệ tri: "Bất khổ bất lạc thọ ấy được diệt đi,
được chấm dứt".
Lại nữa, xả còn lại được trong
sạch, trong trắng, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, chói sáng. Ví như, này Tỷ-
kheo, một người thợ vàng thiện xảo hay người đệ tử sửa soạn lò đúc;
sau khi sửa soạn lò đúc xong, người ấy đốt lửa miệng lò đúc; sau khi
đốt lửa miệng lò đúc, người ấy dùng kềm kẹp lấy vàng và đặt vàng vào
trong miệng lò; rồi thỉnh thoảng người ấy thổi trên ấy, thỉnh thoảng
người ấy rưới nước trên ấy, thỉnh thoảng người ấy quán sát thật
kỹ... vàng ấy đã trở thành sáng sủa, thanh tịnh, gột sạch, các uế tạp
được đoạn trừ, các tỳ vết được trừ sạch, nhu nhuyến, dễ uốn nắn
và chói sáng... và nếu người ấy muốn làm đồ trang sức nào, hoặc vòng
nhẫn, hoặc bông tai, hoặc vòng cổ, hoặc vòng hoa vàng, thời vàng ấy có
thể dùng vào mục đích ấy. Cũng vậy, này Tỷ-kheo, lại nữa xả còn lại
được trong sạch, trong trắng, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, chói sáng.
Người ấy tuệ tri như sau: "Nếu
ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Hư
không vô biên xứ, và tu tập tâm ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào
đấy, chấp thủ tại đấy được an trú nơi ta trong một thời gian dài.
Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào
Thức vô biên xứ và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ
vào đấy, chấp thủ tại đấy được an trú nơi ta trong một thời gian dài.
Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Vô
sở hữu xứ, và tu tập tâm ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào
đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài.
Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào
Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy,
thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong
một thời gian dài".
Người ấy tuệ tri như sau: "Nếu
ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Hư
không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời (xả) ấy trở
thành pháp hữu vi". Vị ấy không tác thành, không suy tưởng đến hữu
hay phi hữu. Do không tác thành, không suy tưởng đến hữu hay phi hữu, vị
ấy không chấp thủ một sự vật gì ở đời; chấp thủ không quấy rối vị
ấy; do chấp thủ không quấy rối vị ấy, vị ấy tự chứng Niết-bàn, và
vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều nên
làm đã làm, không còn trở lại trạng thái như thế này nữa".
Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy
tuệ tri: "Thọ ấy là vô thường"; vị ấy tuệ tri: "Không
nên đắm trước"; vị ấy tuệ tri: "Không phải là đối tượng để
hoan hỷ". Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vi ấy tuệ tri: "Thọ
ấy là vô thường"; vị ấy tuệ tri: "Không nên đắm trước";
vị ấy tuệ tri: "Không phải là đối tượng để hoan hỷ". Nếu
vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy tuệ tri: "Thọ ấy là
vô thường"; vị ấy tuệ tri: "Không nên đắm trước"; vị
ấy tuệ tri: "Không phải là đối tượng để hoan hỷ". Nếu cảm
giác lạc thọ, không có hệ phược, vị ấy cảm giác thọ ấy. Nếu vị ấy
cảm giác khổ thọ, không có hệ phược, vị ấy cảm giác thọ ấy. Nếu vị
ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, không có hệ phược, vị ấy cảm giác
thọ ấy. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ với thân là tối hậu, vị ấy
tuệ tri: "Ta cảm giác một cảm thọ với thân là tối hậu. Khi vị ấy
cảm giác một cảm thọ với sinh mạng là tối hậu, vị ấy tuệ tri:
"Ta cảm giác một cảm thọ với sinh mạng là tối hậu "; vị ấy
tuệ tri: "Sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ ở nơi
đây trở thành thanh lương".
Ví như, này Tỷ-kheo, như ngọn đèn dầu
được cháy đỏ nhờ dầu và tim. Khi dầu và tim diệt tận, và không có vật
liệu khác được đem đến, ngọn đèn dầu ấy bị diệt tắt... Cũng vậy,
này Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu, vị ấy tuệ
tri: "Tôi cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu". Khi cảm
giác một cảm thọ lấy sinh mạng làm tối hậu, vị ấy tuệ tri: "Tôi
cảm giác một cảm thọ lấy sinh mạng làm tối hậu"; vị ấy tuệ tri:
"Sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở
thành thanh lương".
Do vậy, Tỷ-kheo thành tựu như vậy là
thành tựu với tối thắng tuệ thắng xứ này. Vì rằng, này Tỷ-kheo, như vậy
là tối thắng Thánh tuệ, nghĩa là trí, biết sự đoạn tận mọi đau khổ.
Sự giải thoát ấy của vị này, an trú
vào chân đế, không bị dao động. Này Tỷ-kheo, cái gì có thể đưa đến hư
vọng, thời thuộc về hư vọng. Cái gì không thể đưa đến hư vọng, thời
thuộc về chân đế, Niết-bàn. Do vậy, vị Tỷ-kheo thành tựu như vậy là
thành tựu với tối thắng đế thắng xứ này. Vì rằng, này Tỷ-kheo, như vậy
là tối thắng Thánh đế, tức là Niết-bàn, không có thể đưa đến hư vọng.
Và những sanh y vô trí thức trước của
nó đã được đầy đủ, đã được thành tựu. Chúng được đoạn tận, chặt tận
gốc rễ, làm cho như thân cây tala, không thể hiện hữu nữa trong tương
lai, không có khả năng sanh khởi nữa. Do vậy, một Tỷ-kheo thành tựu
như vậy là thành tựu với tối thắng huệ thí thắng xứ này. Vì rằng này
Tỷ-kheo, như vậy là tối thắng Thánh huệ thí, tức là sự xả ly tất cả
sanh y.
Và tham ái vô trí thức trước của nó,
thuộc tham dục, tham nhiễm; pháp ấy được đoạn tận, chặt tận gốc rễ,
làm cho như thân cây tala, không thể hiện hữu nữa trong tương lai, không
có khả năng sanh khởi nữa. Và sự phẫn nộ vô trí thức trước của nó,
thuộc sân hận, thuộc tội quá; pháp ấy được đoạn tận, cắt tận gốc
rễ, làm cho như thân cây tala, không thể hiện hữu nữa trong tương lai,
không có khả năng sanh khởi nữa. Và vô minh vô trí thức trước của nó,
thuộc si mê, thuộc tội quá; pháp ấy được đoạn tận cắt tận gốc rễ,
làm cho như thân cây tala, không thể hiện hữu trong tương lai, không có
khả năng sanh khởi nữa. Do vậy, Tỷ-kheo thành tựu như vậy là thành
tựu tối thắng tịch tịnh thắng xứ. Này Tỷ-kheo, như vậy là tối thắng
Thánh tịch tịnh, tức là sự tịch tịnh tham sân si.
Khi được nói đến "Chớ có buông
lung trí tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy làm cho sung mãn huệ thí, hãy tu học
tịch tịnh", chính do duyên này được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Khi được an
trú, vọng tưởng không có chuyển động. Khi vọng tưởng không chuyển động,
vị ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh", do duyên gì được nói
đến như vậy?
Này Tỷ-kheo, "Tôi là", như vậy
là vọng tưởng. "Tôi là cái này", như vậy là vọng tưởng.
"Tôi sẽ là", như vậy là vọng tưởng. "Tôi sẽ không
là", như vậy là vọng tưởng. "Tôi sẽ có sắc", như vậy là
vọng tưởng. "Tôi sẽ không có sắc" như vậy là vọng tưởng.
"Tôi sẽ có tưởng", như vậy là vọng tưởng. "Tôi sẽ không
có tưởng", như vậy là vọng tưởng. "Tôi sẽ không có tưởng,
không không có tưởng", như vậy là vọng tưởng. Vọng tưởng, này
Tỷ-kheo, là bệnh, vọng tưởng là cục bướu, vọng tưởng là mũi tên.
Này Tỷ- kheo, khi vượt khỏi mọi vọng tưởng, vị ẩn sĩ được gọi là
tịch tịnh. Nhưng này Tỷ-kheo, vị ẩn sĩ tịch tịnh không sanh, không
già, không có dao động, không có hy cầu. Vì không có cái gì do đó có thể
sanh, này Tỷ-kheo, không sanh làm sao già được? Không già, làm sao chết
được? Không chết làm sao dao động được? Không dao động, làm sao hy cầu?
Khi được nói đến "Khi được an
trú, vọng tưởng không có chuyển động; khi vọng tưởng không chuyển động,
vị ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh do chính duyên này được nói
đến như vậy". Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì sự phân biệt tóm tắt của
Ta về sau giới.
1165. Thấy Pháp nên biết mình thấy được Phật
Do Đức Thế Tôn dùng thần thông thị hiện
trong hình ảnh của một sa môn bình thường nên Pukkusāti không nhận ra Phật. Nhưng
khi thành tựu chánh trí tuệ giác thì một thánh đệ tử không thể nào gặp Phật mà
không biết Phật:
Rồi Tôn giả Pukkusati nghĩ như sau:
"Thật sự bậc Ðạo sư đã đến với ta! Thật sự bậc Thiện Thệ đã
đến với ta! Thật sự bậc Chánh Ðẳng Giác đã đến với ta!" Rồi Tôn
giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, cúi đầu đảnh lễ
chân Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:
-- Con đã rơi vào một lỗi lầm, bạch
Thế Tôn, vì rằng, ngu đần, si mê và không khéo léo như con, đã nghĩ rằng
con có thể xưng hô với Thế Tôn với danh từ Hiền giả. Bạch Thế Tôn,
mong Thế Tôn chấp nhận cho con lỗi lầm ấy là một lỗi lầm để con có
thể ngăn ngừa trong tương lai.
-- Này Tỷ-kheo, thật vậy, Ông đã rơi
vào một lỗi lầm, vì rằng ngu đần, si mê và không khéo léo vì Ông đã nghĩ
rằng Ông có thể xưng hô với Ta với danh từ Hiền giả. Nhưng này
Tỷ-kheo, nếu Ông thấy một lỗi lầm là một lỗi lầm, và như Pháp phát lộ,
thời chúng ta chấp nhận (lỗi lầm) ấy cho Ông. Vì rằng này Tỷ-kheo, đây
là sự tăng ích trong giới luật của bậc Thánh, khi nào một ai thấy lỗi
lầm là một lỗi lầm, như pháp phát lộ, để ngăn ngừa trong tương lai.
-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy cho con
được thọ cụ túc giới trước mặt Thế Tôn.
-- Này Tỷ-kheo, Ông có đủ y bát không?
--
Bạch Thế Tôn, con không có đủ y bát.
-- Này Tỷ-kheo, các Như Lai không có
trao cụ túc giới cho ai không đủ y bát.
Rồi Tôn giả Pukkusāti
sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi tìm y bát. Trong khi
Tôn giả Pukkusāti đi tìm y bát, một con bò cuồng chạy, đoạt mất mạng
sống (của Tôn giả).
Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, các vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Thiện gia nam tử
Pukkusāti được Thế Tôn thuyết giảng một cách vắn tắt đã mệnh chung.
Sanh thú của vị ấy như thế nào, đời sống tương lai như thế nào?
-- Này Tỷ-kheo, thật là bậc Hiền giả,
Thiện gia nam tử Pukkusāti, đã chấp hành Chánh pháp và tùy pháp. Và không có
phiền nhiễu Ta với những kiện tụng về Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Thiện
gia nam tử Pukkusāti, sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa
sanh và từ chỗ ấy nhập Niết-bàn, không phải trở lui đời ấy nữa.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 140 [tóm
tắt]
Kinh
Giới Phân Biệt
(Dhātuvibhaṅga
Sutta)
(M.iii,
237)
Đức Thế Tôn một hôm du hành và ở lại qua đêm tại nhà một người thợ gốm. Tại đây Ngài gặp Tôn
giả Pukkusāti, hỏi Tôn giả xuất gia y cứ vào bậc Đạo sư nào. Tôn giả
đáp, y cứ vào Sa-môn Gotama, nhưng chưa hề gặp mặt. Thế Tôn nhân đấy
thuyết pháp cho Tôn giả về sáu giới, sáu xúc xứ, mười tám ý hành, bốn
thắng xứ, tịch tịnh và khuyên chớ buông lung tâm ý, hộ trì chân đế,
tăng trưởng huệ thí (xả ly sanh y), tu học tịch tịnh. Và Thế Tôn
giảng rộng các pháp như sau:
1/ Sáu giới của người là: địa, thủy,
hỏa, phong, không, thức giới.
2/ Sáu xúc xứ: Nhãn xúc xứ, nhĩ xúc
xứ, ... cho đến ý xúc xứ.
3/ Mười tám ý hành (xem kinh 137).
4/ Bốn thắng xứ là tuệ thắng xứ, đế
thắng xứ, huệ xả thắng xứ và tịch tịnh thắng xứ.
5/ Chớ buông lung trí tuệ, nghĩa là
hiểu rõ các điều kể trên về sáu giới, hiểu rõ nội địa giới, ngoại
giới, cả hai đều phải quán sát là “cái này không phải của tôi, không
phải là tôi, không phải tự ngã của tôi”. Năm giới kia cũng vậy, có
trong (thân) và ngoài (thân) và phải được quán sát như trên.
Khi thức còn lại được trong sạch, vị
ấy biết được khổ, lạc, bất khổ bất lạc, khi duyên một trong ba xúc
ấy, vị ấy biết rõ sinh, trú và diệt của khổ thọ, lạc thọ và bất khổ
bất lạc thọ.
Khi xả còn lại được trong sạch, vị
ấy tập trung xả ấy vào không vô biên xứ, thức vô biên... cho đến phi
tưởng phi phi tưởng xứ, và biết tất cả loại xả này đều thuộc hữu
vi. Do đó, không suy tưởng đến hữu, phi hữu và được sự không chấp
thủ, nhờ không chấp thủ, vị ấy không sợ hãi, chứng Niết-bàn.
Khi cảm giác lạc thọ, vị ấy biết nó
vô thường, nên không đắm trước. Đối với khổ thọ và bất khổ bất lạc
thọ cũng vậy. Nhờ thế khi các cảm thọ khởi lên vị ấy không bị trói
buộc trong các cảm thọ. Khi cảm giác một cảm thọ với thân là tối hậu,
nó biết như vậy, nó biết sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ
hoan hỷ ở đây trở thành thanh lương. Vị Tỷ-kheo thành tựu như vậy,
gọi là thành tựu tuệ thắng xứ, nghĩa là trí biết đoạn tận mọi khổ
đau. Sự giải thoát này an trú chân đế, không bị dao động. Cái gì không có
thể đưa đến hư vọng, thuộc vào chân đế, Niết- bàn, nên gọi là đế
thắng xứ.
Và những chấp y trước kia (đối với
các uẩn phiền não, các hành và năm dục công đức) được đoạn tận gốc
rễ không thể sanh trở lại, cho nên gọi là huệ thí thắng xứ.
Khi ấy tham ái, phẫn nộ, si mê, đều
không thể sanh trở lại, cho nên gọi là tịch tịnh thắng xứ. Tối thắng
tịch tịnh nghĩa là tịch tịnh tham, sân, si.
6/ Vọng tưởng là nghĩ đến “Tôi là”,
“Tôi sẽ là”, “Tôi sẽ không là”, “Tôi sẽ có sắc, không sắc”... đều thuộc
vọng tưởng, là cục bướu, là mũi tên. Khi vượt khỏi vọng tưởng, vị
ẩn sĩ được gọi là tịch tịnh, không sanh, không già, không dao động,
không hy cầu, vì không có cái gì có thể sanh. Không sanh nên không già, không
già nên không chết, không chết nên không dao động, không dao động nên không
hy cầu.
Thế Tôn thuyết xong, Tôn giả Pukkusāti
nhận ra chính Ngài là bậc Chánh đẳng giác, đảnh lễ sám hối vì lúc đầu
lỡ gọi Ngài là bạn. Tôn giả xin thọ giới cụ túc giới, được Thế Tôn
chấp nhận, nhưng khi ra đi để kiếm y bát, Tôn giả bị bò húc chết. Thế
Tôn dạy các Tỷ-kheo, Tôn giả đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được
hóa sanh tại chỗ ấy và nhập Niết-bàn, không còn trở lui đời này nữa.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 140[dàn
ý]
Kinh
Giới Phân Biệt
(Dhātuvibhaṅga
Sutta)
(M.iii, 237)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn ở tại nhà thợ
gốm Bhaggava, gặp Pukkusāti đã ở tại đấy. Vị này nhân danh Thế Tôn mà xuất gia,
nhưng chưa biết Thế Tôn là ai. Thế Tôn thấy Pukkusāti có tâm thành nên quyết định
thuyết pháp cho Pukkusāti.
B. Chánh kinh:
I. Thế Tôn tổng thuyết sáu giới
phân biệt.
II. Thế Tôn biệt thuyết sáu giới
phân biệt:
1. Thế nào là sáu giới.
2. Thế nào là 6 xúc xứ.
3. Thế nào là 18 ý
hành.
4. Thế nào là 4 thắng
xứ.
5. Thế nào là chớ có
buông lung trí tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy tăng trưởng trí tuệ, hãy tu học tịch
tịnh:
a. Thế
nào là không buông lung trí tuệ.
b. Thế
nào là hộ trì chân đế.
c. Thế
nào là tăng trưởng trí tuệ.
d. Thế
nào là tu học tịch tịnh.
6. Thế nào là được gọi
một ẩn sĩ tịch tịnh.
III. Pukkusāti nghe thuyết pháp xong,
biết ngay vị ấy là Bậc Đạo Sư, bèn xin sám hối vì đã gọi Thế Tôn là Hiền giả, rồi
xin Thế Tôn được xuất gia với Thế Tôn.
IV. Trong khi đi tìm
y bát, Pukkusāti bị con bò húc chết. Thế Tôn ấn chứng Pukkusāti đã chứng được
quả Bất lai.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 140 [toát
yếu]
Kinh
Giới Phân Biệt
(Dhātuvibhaṅga
Sutta)
(M.iii,
237)
I. Toát yếu
The Exposition of Elements.
Stopping at a potter’s workshop for the
night, the Buddha meets a monk named Pukkusati and gives him a profound
discourse on the elements culminating in the four foundations of arahantship.
Trình bày về các yếu tố.
Khi dừng nghỉ đêm tại xưởng một người thợ
gốm, Phật gặp một tỷ kheo tên Pukkusāti và giảng cho vị ấy một pháp thoại sâu sắc
về các yếu tố đưa đến tột đỉnh là bốn nền tảng của A-la-hán quả.
II. Tóm tắt
Phật cùng nghỉ đêm trong một xưởng làm đồ
gốm với Pukkusāti. Sau khi biết đấy là một thiện nam tử đã xuất gia do lòng tin
đối với Ngài mặc dù chưa từng gặp Ngài, Phật giảng vắn tắt: Cái gọi là con người
gồm có sáu giới, sáu xúc xứ, 18 ý hành và bốn thắng xứ. Sáu xúc xứ là mắt tai
mũi lưỡi thân ý; 18 ý hành gồm sắc thanh hương vị xúc pháp chỗ trú của ba cảm
thọ hỷ ưu và xả (cộng thành 18). Bốn thắng xứ gồm tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy
tăng trưởng huệ thí, hãy tu học tịch tịnh. Rồi Phật giảng chi tiết như sau.
Chớ buông lung trí tuệ có nghĩa là nên
biết rõ sáu giới tức địa thủy hoả phong không thức. Ðịa giới có trong thân và
ngoài thân. Ðịa trong thân là tất cả những chất cứng bị chấp thủ, thuộc cá nhân
như tóc lông móng răng da, thịt gân xương tủy thận. Chất cứng trong ngoài gì
cũng thuộc về địa giới, cần phải thấy như thật với chánh trí là nó không phải của
tôi, không phải là tôi, không phải tự ngã của tôi.
Sau khi biết vậy, sinh tâm chán lìa, từ
bỏ địa giới. Ðối với thủy (chất lỏng), hoả (hơi nóng), phong (động), không (lỗ
hổng) cũng đều quán như vậy. Với thức trong sáng, vị ấy biết được lạc, khổ và bất
khổ bất lạc. Do lạc xúc, lạc thọ khởi lên; và thức liền nhận biết đang cảm giác
một lạc thọ. Do lạc xúc diệt, lạc thọ cũng diệt, và thức cũng nhận biết như vậy.
Với hai cảm thọ kia (khổ và bất khổ bất lạc) cũng thế.
Khi xả còn lại được trong sáng, thuần tịnh,
vị tỷ kheo có thể tập trung xả ấy vào hư không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu,
phi tưởng phi phi tưởng... nhưng xả ấy sẽ thành hữu vi. Nếu không tác thành,
không suy tưởng đến hữu hay phi hữu, không chấp thủ một sự vật gì ở đời, thì vị
ấy sẽ không sợ hãi, tự chứng Niết-bàn, biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Mỗi khi cảm giác lạc,
khổ hay bất khổ bất lạc, vị ấy biết tất cả cảm thọ đều vô thường, không nên đắm
trước, không phải đối tượng để hoan hỷ. Vị ấy biết rõ khi cảm giác một cảm thọ
với thân là tối hậu hay với sinh mạng là tối hậu (nghĩa là chỉ trong lúc mạng
căn còn tiếp tục, không xa hơn thế). Vị ấy biết, khi thân hoại mạng chung, tất
cả những cảm thọ sẽ trở thành thanh lương (vì vị ấy không chấp thủ, hoan hỷ
trong đó). Tỷ kheo có được trí như vậy gọi là có tuệ thắng xứ, nghĩa là trí biết
sự đoạn tận mọi đau khổ. Sự giải thoát của vị ấy không bị giao động vì căn cứ
trên chân đế, Niết-bàn. Vị tỷ kheo thành tựu như vậy là thành tựu đế thắng xứ.
Những chấp thủ của vị ấy trước kia bây giờ bị cắt đứt tận gốc rễ không còn sinh
khởi trong tương lai, nên đây là huệ xả thắng xứ nơi vị ấy.
Tham ái,phẫn nộvà si mê trước kia nơi vị
ấybây giờ cũng hoàn toàn bị chặt đứt tận gốc rễ như thân cây ta la, không còn
khả năng sinh khởi, nên vị ấy thành tựu tịch tịnh thắng xứ, nghĩa là sự chấm dứt
tham sân si. Khi những ngọn triều vọng tưởng không còn lay động một người đã vững
trú trên bốn thắng xứ, vị ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh.Vị ấy không còn
nghĩ về ta là thế này thế nọ hay sẽ là ngày nọ; không còn sanh, già chết, mong
cầu gì.
Nghe xong bài pháp vi diệu ấy, Pukkusàti
biết ngay đấy là đức Phật, và xin sám hối vì không biết nên đã gọi Ngài là hiền
giả (bạn). Ông xin được thọ đại giới, nhưng khi vừa đi ra kiếm y bát thì bị bò
húc chết. Khi các tỷ kheo hỏi về sanh thú của vị này, Phật dạy ông ấy đã đoạn
trừ năm hạ phần kết sử, sẽ nhập Niết-bàn không còn trở lui đời này nữa.
III. Chú giải
Phật dạy lý vô ngã bằng cách phân tích
con người gồm có sáu đại: địa thủy hỏa phong không thức; sáu xúc xứ: mắt tai
mũi lưỡi thân ý; 18 ý hành là hỷ ưu hoặc xả đối với sắc thanh hương vị xúc pháp
(cộng thành 18). Trí tuệ là dùng thức quán sát năm giới hay đại vật chất không
gì là ta, của ta hay tự ngã của ta. Thức còn lại trong sáng, thuần tịnh (vì
không chấp vào vật chất) hướng đến các cảnh giới của tâm là không vô biên, thức
vô biên, vô sở hữu và phi phi tưởng cũng không chấp thủ, đạt Niết-bàn. Mỗi khi
có một cảm thọ về thân hay tâm, vị ấy biết rõ nó vô thường, không đáng chấp thủ.
Khi chết, vị ấy biết rõ đấy là cảm thọ cuối cùng, sau đời này không còn đời nào
khác (vì đã hết ham muốn bất cứ gì.) Một người có tuệ như vậy gọi là đã đạt đến
chỗ tối cao gọi là thắng xứ, có bốn tên tùy theo bốn phương diện: thấy rõ gọi
là tuệ thắng xứ, cái thấy ấy không hư vọng nên gọi là đế thắng xứ, nhờ thấy rõ
mà những chấp thủ trước kia bị cắt đứt tận gốc nên gọi là huệ xả thắng xứ, hoàn
toàn đoạn tuyệt với tham sân si gọi là tịch tịnh thắng xứ.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Phật đến nghỉ ban đêm
Trong xưởng người thợ gốm
Nơi đây đang trú ngụ
Ông Puk-ku-sa-ti
Một tu sĩ nhiệt thành
Xuất gia do lòng tin
Ðối với đấng Ðạo sư
Dù chưa từng diện kiến.
Phật giảng Pháp cho ông:
Con người gồm sáu giới,
Sáu xúc xứ (sáu căn)
Mỗi căn có ba thọ
Thành mười tám ý hành
Chớ buông lung trí tuệ,
Hãy hộ trì chân đế,
Hãy tăng trưởng huệ thí,
Và tu học tịch tịnh
Ðấy là bốn thắng xứ.
Rồi Phật giảng chi tiết:
Không buông lung trí tuệ
Là biết rõ sáu giới
Ðịa thủy hỏa phong không
Với thức là thứ sáu.
Ðịa giới có trong ngoài
Trong thân là chất cứng
Bị chấp, thuộc cá nhân:
Tóc lông móng răng da,
Thịt gân xương tủy thận...
Chất cứng trong hay ngoài
Cũng đều thuộc địa giới.
Cần phải thấy như thật
Với trí tuệ chân chính
Ðấy không phải là tôi
Cũng không phải của tôi.
Hay tự ngã của tôi.
Khi biết được như vậy
Sẽ sinh tâm chán lìa,
Từ bỏ ngay địa giới.
Với thủy hỏa phong không
Cũng đều quán như vậy.
Còn lại thức trong sáng,
Biết cảm thọ lạc, khổ
Và bất khổ bất lạc.
Do xúc, lạc thọ khởi
Và thức liền nhận biết
Ðang cảm giác lạc thọ.
Xúc diệt, lạc thọ diệt,
Như vậy thức rõ biết.
Với hai cảm thọ kia
Thức biết chúng sinh, diệt
Cũng tương tự như trên.
Với tâm xả thuần tịnh,
Nó có thể tập trung
Vào hư không vô biên
Hoặc thức vô biên xứ,
Hoặc vô sở hữu xứ,
Phi tưởng phi phi tưởng:
Tâm ấy thành hữu vi.
Nhưng nếu không tư duy
Không tưởng hữu, phi hữu,
Không chấp thủ vật gì,
Thì sẽ không sợ hãi,
Tự chứng được Niết-bàn
Tự biết: Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã viên thành,
Mỗi khi cảm giác lạc,
Khổ, bất khổ bất lạc,
Biết cảm thọ vô thường,
Không nên đắm trước nó,
Không hoan hỷ trong đó.
Vị ấy luôn biết rõ
Khi khởi một cảm thọ
Với thân là tối hậu
Hay mạng là tối hậu
Vị ấy biết khi chết
Tất cả thọ thanh lương
Vì không còn chấp thủ.
Ðấy là tuệ thắng xứ,
Nghĩa là trí biết được
Mọi đau khổ đã dứt.
Sự giải thoát vị ấy
Không còn bị giao động
Không thuộc về hư vọng
Nên gọi đế thắng xứ.
Những chấp thủ vị ấy
Ðã dứt tận gốc rễ
Không sinh khởi tương lai
Gọi huệ xả thắng xứ.
Tham sân si đoạn tận
Thành tịch tịnh thắng xứ.
Những ngọn triều vọng tưởng
Không còn làm giao động
Người trú bốn thắng xứ,
Nên vị ấy được gọi
Là ẩn sĩ tịch tịnh.
Vị ấy không còn nghĩ
Ta thế này thế nọ
Hay sẽ là này nọ
Không còn mong cầu gì
Tương lai hết già chết.
Nghe xong pháp vi diệu
Biết ngay đấy là Phật
Thanh niên xin sám hối
Ðã gọi bụt bằng anh;
Và xin thọ đại giới,
Nhưng khi vừa đi ra
Ðể tìm kiếm y bát
Ông bị bò húc chết.
Phật dạy các tỷ kheo:
Ông ấy đã đoạn trừ
Năm hạ phần kết sử
Hóa sanh nhập Niết-bàn
Một đi không trở lại.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
140.
Dhātuvibhaṅgasuttaṃ [Mūla]
342. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
magadhesu cārikaṃ caramāno yena rājagahaṃ tadavasari yena bhaggavo kumbhakāro
tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhaggavaṃ kumbhakāraṃ etadavoca : ''sace te,
bhaggava, agaru viharemu āvesane [viharāmāvesane (sī. pī.), viharāma nivesane
(syā. kaṃ.), viharemu nivesane (ka.)] ekarattanti. ''Na kho me, bhante, garu.
Atthi cettha pabbajito paṭhamaṃ vāsūpagato. Sace so anujānāti, viharatha
[vihara (sī. pī.)], bhante, yathāsukhanti. Tena
kho pana samayena pukkusāti nāma kulaputto bhagavantaṃ uddissa saddhāya
agārasmā anagāriyaṃ pabbajito. So tasmiṃ kumbhakārāvesane [kumbhakāranivesane
(syā. kaṃ. ka.)] paṭhamaṃ vāsūpagato hoti. Atha kho Bhagavā yenāyasmā
pukkusāti tenupasaṅkami upasaṅkamitvā āyasmantaṃ pukkusātiṃ etadavoca : ''sace
te, bhikkhu, agaru viharemu āvesane ekarattanti. ''Urundaṃ, āvuso [ūrūndaṃ (sī.
syā. kaṃ. pī.), urūddhaṃ (ka.) Dīgha Nikāye 2 sakkapañhasuttaṭīkā oloketabbā],
kumbhakārāvesanaṃ. Viharatāyasmā yathāsukhanti. Atha kho Bhagavā
kumbhakārāvesanaṃ pavisitvā ekamantaṃ tiṇasanthārakaṃ [tiṇasantharikaṃ (sī.),
tiṇasantharakaṃ (syā. kaṃ.)] paññāpetvā nisīdi pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ
paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā. Atha kho Bhagavā bahudeva rattiṃ nisajjāya vītināmesi. Āyasmāpi kho pukkusāti
bahudeva rattiṃ nisajjāya vītināmesi. Atha kho bhagavato etadahosi : ''pāsādikaṃ
kho ayaṃ kulaputto iriyati. Yaṃnūnāhaṃ puccheyyanti. Atha kho Bhagavā
āyasmantaṃ pukkusātiṃ etadavoca : ''kaṃsi tvaṃ, bhikkhu, uddissa pabbajito? ko
vā te satthā? kassa vā tvaṃ dhammaṃ rocesīti? ''atthāvuso, samaṇo gotamo sakyaputto
sakyakulā pabbajito. Taṃ kho pana bhagavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo
abbhuggato : 'itipi so Bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno
sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho Bhagavāti
. Tāhaṃ bhagavantaṃ uddissa pabbajito. So ca me Bhagavā satthā. Tassa
cāhaṃ bhagavato dhammaṃ rocemīti. ''Kahaṃ
pana, bhikkhu, etarahi so Bhagavā viharati arahaṃ sammāsambuddhoti.
''Atthāvuso, uttaresu janapadesu sāvatthi nāma nagaraṃ. Tattha so Bhagavā
etarahi viharati arahaṃ sammāsambuddhoti. ''Diṭṭhapubbo pana te, bhikkhu, so Bhagavā
disvā ca pana jāneyyāsīti? ''na kho me,
āvuso, diṭṭhapubbo so Bhagavā disvā cāhaṃ na jāneyyanti. Atha kho
bhagavato etadahosi : ''mamañca khvāyaṃ [maṃ tvāyaṃ (sī.), mamaṃ khvāyaṃ (syā.
kaṃ.), maṃ khvāyaṃ (pī.)] kulaputto uddissa pabbajito. Yaṃnūnassāhaṃ dhammaṃ
deseyyanti. Atha kho Bhagavā āyasmantaṃ pukkusātiṃ āmantesi : ''dhammaṃ
te, bhikkhu, desessāmi. Taṃ suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi bhāsissāmīti.
''Evamāvusoti kho āyasmā pukkusāti bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca :
343. '''Chadhāturo [chaddhāturo (sī.)] ayaṃ, bhikkhu, puriso chaphassāyatano
aṭṭhārasamanopavicāro caturādhiṭṭhāno yattha ṭhitaṃ maññassavā nappavattanti,
maññassave kho pana nappavattamāne muni santoti vuccati. Paññaṃ nappamajjeyya,
saccamanurakkheyya, cāgamanubrūheyya, santimeva so sikkheyyāti : ayamuddeso
dhātuvibhaṅgassa [chadhātuvibhaṅgassa (sī. syā. kaṃ. pī.)].
344. '''Chadhāturo ayaṃ, bhikkhu, purisoti : iti kho panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ
paṭicca vuttaṃ? (chayimā, bhikkhu, dhātuyo) [( ) natthi sī. pī. potthakesu] :
pathavīdhātu, āpodhātu, tejodhātu, vāyodhātu, ākāsadhātu, viññāṇadhātu.
'Chadhāturo ayaṃ, bhikkhu, purisoti : iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca
vuttaṃ.
345. '''Chaphassāyatano ayaṃ, bhikkhu, purisoti : iti kho panetaṃ vuttaṃ.
Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ? cakkhusamphassāyatanaṃ, sotasamphassāyatanaṃ,
ghānasamphassāyatanaṃ, jivhāsamphassāyatanaṃ, kāyasamphassāyatanaṃ,
manosamphassāyatanaṃ. 'Chaphassāyatano ayaṃ, bhikkhu, purisoti : iti yaṃ taṃ
vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
346. '''Aṭṭhārasamanopavicāro ayaṃ,
bhikkhu, purisoti : iti kho panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ? cakkhunā
rūpaṃ disvā somanassaṭṭhānīyaṃ rūpaṃ upavicarati, domanassaṭṭhānīyaṃ rūpaṃ upavicarati, upekkhāṭṭhānīyaṃ rūpaṃ
upavicarati sotena saddaṃ sutvā - pe - ghānena gandhaṃ ghāyitvā... jivhāya rasaṃ sāyitvā... kāyena
phoṭṭhabbaṃ phusitvā... manasā dhammaṃ viññāya somanassaṭṭhānīyaṃ dhammaṃ
upavicarati, domanassaṭṭhānīyaṃ dhammaṃ upavicarati , upekkhāṭṭhānīyaṃ dhammaṃ
upavicarati : iti cha somanassupavicārā, cha domanassupavicārā, cha
upekkhupavicārā. 'Aṭṭhārasamanopavicāro ayaṃ, bhikkhu, purisoti : iti yaṃ taṃ
vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
347. '''Caturādhiṭṭhāno ayaṃ, bhikkhu, purisoti : iti kho panetaṃ vuttaṃ.
Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ? paññādhiṭṭhāno, saccādhiṭṭhāno, cāgādhiṭṭhāno,
upasamādhiṭṭhāno. 'Caturādhiṭṭhāno ayaṃ, bhikkhu, purisoti : iti yaṃ taṃ vuttaṃ
idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
348. '''Paññaṃ nappamajjeyya, saccamanurakkheyya, cāgamanubrūheyya,
santimeva so sikkheyyāti : iti kho panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?
kathañca, bhikkhu, paññaṃ nappamajjati? chayimā, bhikkhu, dhātuyo :
pathavīdhātu, āpodhātu, tejodhātu, vāyodhātu, ākāsadhātu, viññāṇadhātu.
349. ''Katamā ca, bhikkhu, pathavīdhātu? pathavīdhātu siyā ajjhattikā siyā
bāhirā. Katamā ca, bhikkhu, ajjhattikā pathavīdhātu? yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ
kakkhaḷaṃ kharigataṃ upādinnaṃ [upādiṇṇaṃ (pī. ka.)], seyyathidaṃ : kesā lomā
nakhā dantā taco maṃsaṃ nhāru aṭṭhi aṭṭhimiñjaṃ [aṭṭhimiñjā (sī. pī.)] vakkaṃ
hadayaṃ yakanaṃ kilomakaṃ pihakaṃ papphāsaṃ antaṃ antaguṇaṃ udariyaṃ karīsaṃ,
yaṃ vā panaññampi kiñci ajjhattaṃ paccattaṃ kakkhaḷaṃ kharigataṃ upādinnaṃ :
ayaṃ vuccati, bhikkhu, ajjhattikā pathavīdhātu. Yā ceva kho pana ajjhattikā
pathavīdhātu yā ca bāhirā pathavīdhātu pathavīdhāturevesā . 'Taṃ netaṃ mama
nesohamasmi na meso attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Evametaṃ yathābhūtaṃ
sammappaññāya disvā pathavīdhātuyā nibbindati, pathavīdhātuyā cittaṃ virājeti.
350. ''Katamā ca, bhikkhu, āpodhātu?
āpodhātu siyā ajjhattikā siyā bāhirā.
Katamā ca, bhikkhu, ajjhattikā āpodhātu? yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ āpo āpogataṃ
upādinnaṃ seyyathidaṃ : pittaṃ semhaṃ pubbo lohitaṃ sedo medo assu vasā kheḷo
siṅghāṇikā lasikā muttaṃ, yaṃ vā panaññampi kiñci ajjhattaṃ paccattaṃ āpo
āpogataṃ upādinnaṃ : ayaṃ vuccati, bhikkhu, ajjhattikā āpodhātu. Yā ceva kho
pana ajjhattikā āpodhātu yā ca bāhirā āpodhātu āpodhāturevesā. 'Taṃ netaṃ mama,
nesohamasmi, na meso attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā āpodhātuyā nibbindati, āpodhātuyā
cittaṃ virājeti.
351. ''Katamā ca, bhikkhu, tejodhātu? tejodhātu siyā ajjhattikā siyā bāhirā.
Katamā ca, bhikkhu, ajjhattikā tejodhātu? yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ tejo tejogataṃ
upādinnaṃ, seyyathidaṃ : yena ca santappati, yena ca jīrīyati, yena ca pariḍayhati,
yena ca asitapītakhāyitasāyitaṃ sammā pariṇāmaṃ gacchati, yaṃ vā panaññampi
kiñci ajjhattaṃ paccattaṃ tejo tejogataṃ
upādinnaṃ : ayaṃ vuccati, bhikkhu, ajjhattikā tejodhātu. Yā ceva kho pana
ajjhattikā tejodhātu yā ca bāhirā tejodhātu tejodhāturevesā. 'Taṃ netaṃ mama,
nesohamasmi, na meso attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā tejodhātuyā nibbindati, tejodhātuyā
cittaṃ virājeti.
352. ''Katamā ca, bhikkhu, vāyodhātu? vāyodhātu siyā ajjhattikā siyā bāhirā.
Katamā ca, bhikkhu, ajjhattikā vāyodhātu? yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ vāyo vāyogataṃ
upādinnaṃ, seyyathidaṃ : uddhaṅgamā vātā adhogamā vātā kucchisayā vātā koṭṭhāsayā
[koṭṭhasayā (sī. syā. kaṃ. pī.)] vātā aṅgamaṅgānusārino vātā assāso passāso
iti, yaṃ vā panaññampi kiñci ajjhattaṃ paccattaṃ vāyo vāyogataṃ upādinnaṃ : ayaṃ
vuccati, bhikkhu, ajjhattikā vāyodhātu. Yā ceva kho pana ajjhattikā vāyodhātu
yā ca bāhirā vāyodhātu vāyodhāturevesā. 'Taṃ netaṃ mama , nesohamasmi , na meso
attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Evametaṃ yathābhūtaṃ
sammappaññāya disvā vāyodhātuyā nibbindati, vāyodhātuyā cittaṃ virājeti.
353. ''Katamā ca, bhikkhu, ākāsadhātu? ākāsadhātu siyā ajjhattikā siyā
bāhirā. Katamā ca, bhikkhu, ajjhattikā ākāsadhātu ? yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ
ākāsaṃ ākāsagataṃ upādinnaṃ, seyyathidaṃ
: kaṇṇacchiddaṃ nāsacchiddaṃ mukhadvāraṃ yena ca asitapītakhāyitasāyitaṃ
ajjhoharati, yattha ca asitapītakhāyitasāyitaṃ santiṭṭhati, yena ca
asitapītakhāyitasāyitaṃ adhobhāgaṃ [adhobhāgā (sī. syā. kaṃ. pī.)
devadūtasuttena sameti] nikkhamati, yaṃ vā panaññampi kiñci ajjhattaṃ paccattaṃ
ākāsaṃ ākāsagataṃ aghaṃ aghagataṃ vivaraṃ vivaragataṃ asamphuṭṭhaṃ maṃsalohitehi
upādinnaṃ : ayaṃ vuccati bhikkhu ajjhattikā ākāsadhātu. Yā ceva kho pana
ajjhattikā ākāsadhātu yā ca bāhirā ākāsadhātu ākāsadhāturevesā. 'Taṃ netaṃ
mama, nesohamasmi, na meso attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā ākāsadhātuyā nibbindati, ākāsadhātuyā
cittaṃ virājeti.
354. ''Athāparaṃ viññāṇaṃyeva avasissati parisuddhaṃ pariyodātaṃ. Tena ca
viññāṇena kiṃ [tena viññāṇena kiñca (sī.)] vijānāti? 'sukhantipi vijānāti,
'dukkhantipi vijānāti, 'adukkhamasukhantipi vijānāti. Sukhavedaniyaṃ, bhikkhu,
phassaṃ paṭicca uppajjati sukhā vedanā. So sukhaṃ vedanaṃ vedayamāno 'sukhaṃ
vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. 'Tasseva sukhavedaniyassa phassassa nirodhā yaṃ
tajjaṃ vedayitaṃ sukhavedaniyaṃ phassaṃ paṭicca uppannā sukhā vedanā sā
nirujjhati, sā vūpasammatīti pajānāti.
355. ''Dukkhavedaniyaṃ, bhikkhu, phassaṃ paṭicca uppajjati dukkhā vedanā. So
dukkhaṃ vedanaṃ vedayamāno 'dukkhaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. 'Tasseva
dukkhavedaniyassa phassassa nirodhā yaṃ tajjaṃ vedayitaṃ dukkhavedaniyaṃ phassaṃ
paṭicca uppannā dukkhā vedanā sā
nirujjhati, sā vūpasammatīti pajānāti.
356. ''Adukkhamasukhavedaniyaṃ, bhikkhu, phassaṃ paṭicca uppajjati
adukkhamasukhā vedanā. So adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedayamāno 'adukkhamasukhaṃ
vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. 'Tasseva
adukkhamasukhavedaniyassa phassassa
nirodhā yaṃ tajjaṃ vedayitaṃ adukkhamasukhavedaniyaṃ phassaṃ paṭicca uppannā
adukkhamasukhā vedanā sā nirujjhati, sā vūpasammatīti pajānāti.
357. ''Seyyathāpi, bhikkhu, dvinnaṃ kaṭṭhānaṃ saṅghaṭṭā [samphassa (sī.
pī.), saṅghaṭā (syā. kaṃ.)] samodhānā usmā jāyati, tejo abhinibbattati, tesaṃyeva
dvinnaṃ kaṭṭhānaṃ nānābhāvā vikkhepā yā tajjā usmā sā nirujjhati, sā
vūpasammati evameva kho, bhikkhu, sukhavedaniyaṃ phassaṃ paṭicca uppajjati sukhā vedanā. So
sukhaṃ vedanaṃ vedayamāno 'sukhaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. 'Tasseva
sukhavedaniyassa phassassa nirodhā yaṃ tajjaṃ vedayitaṃ sukhavedaniyaṃ phassaṃ
paṭicca uppannā sukhā vedanā sā nirujjhati, sā vūpasammatīti pajānāti.
358. ''Dukkhavedaniyaṃ, bhikkhu, phassaṃ paṭicca uppajjati dukkhā vedanā. So
dukkhaṃ vedanaṃ vedayamāno 'dukkhaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. 'Tasseva
dukkhavedaniyassa phassassa nirodhā yaṃ tajjaṃ vedayitaṃ dukkhavedaniyaṃ phassaṃ
paṭicca uppannā dukkhā vedanā sā nirujjhati, sā vūpasammatīti pajānāti.
359. ''Adukkhamasukhavedaniyaṃ , bhikkhu, phassaṃ paṭicca uppajjati
adukkhamasukhā vedanā. So adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedayamāno 'adukkhamasukhaṃ
vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. 'Tasseva adukkhamasukhavedaniyassa phassassa
nirodhā yaṃ tajjaṃ vedayitaṃ adukkhamasukhavedaniyaṃ phassaṃ paṭicca uppannā
adukkhamasukhā vedanā sā nirujjhati, sā vūpasammatīti pajānāti.
360. ''Athāparaṃ upekkhāyeva avasissati parisuddhā pariyodātā mudu ca kammaññā
ca pabhassarā ca. Seyyathāpi, bhikkhu, dakkho suvaṇṇakāro vā suvaṇṇakārantevāsī
vā ukkaṃ bandheyya, ukkaṃ bandhitvā ukkāmukhaṃ ālimpeyya, ukkāmukhaṃ ālimpetvā
saṇḍāsena jātarūpaṃ gahetvā ukkāmukhe pakkhipeyya, tamenaṃ kālena kālaṃ
abhidhameyya, kālena kālaṃ udakena paripphoseyya, kālena kālaṃ ajjhupekkheyya,
taṃ hoti jātarūpaṃ [jātarūpaṃ dhantaṃ (sī. pī.)] sudhantaṃ niddhantaṃ nīhaṭaṃ
[nihataṃ (syā. kaṃ. ka.)] ninnītakasāvaṃ [nihatakasāvaṃ (ka.)] mudu ca
kammaññañca pabhassarañca, yassā yassā ca piḷandhanavikatiyā ākaṅkhati : yadi
paṭṭikāya [pavaṭṭikāya (sī. syā.)] yadi
kuṇḍalāya yadi gīveyyakāya yadi suvaṇṇamālāya tañcassa atthaṃ anubhoti evameva kho, bhikkhu, athāparaṃ
upekkhāyeva avasissati parisuddhā pariyodātā mudu ca kammaññā ca pabhassarā ca.
361. ''So evaṃ pajānāti : 'imañce ahaṃ upekkhaṃ evaṃ parisuddhaṃ evaṃ
pariyodātaṃ ākāsānañcāyatanaṃ upasaṃhareyyaṃ, tadanudhammañca cittaṃ bhāveyyaṃ.
Evaṃ me ayaṃ upekkhā taṃnissitā
tadupādānā ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭheyya. Imañce ahaṃ upekkhaṃ evaṃ parisuddhaṃ
evaṃ pariyodātaṃ viññāṇañcāyatanaṃ upasaṃhareyyaṃ, tadanudhammañca cittaṃ
bhāveyyaṃ. Evaṃ me ayaṃ upekkhā taṃnissitā tadupādānā ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭheyya.
Imañce ahaṃ upekkhaṃ evaṃ parisuddhaṃ
evaṃ pariyodātaṃ ākiñcaññāyatanaṃ upasaṃhareyyaṃ, tadanudhammañca cittaṃ
bhāveyyaṃ. Evaṃ me ayaṃ upekkhā taṃnissitā tadupādānā ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭheyya.
Imañce ahaṃ upekkhaṃ evaṃ parisuddhaṃ evaṃ pariyodātaṃ nevasaññānāsaññāyatanaṃ
upasaṃhareyyaṃ, tadanudhammañca cittaṃ bhāveyyaṃ. Evaṃ me ayaṃ upekkhā taṃnissitā
tadupādānā ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭheyyāti.
362. ''So evaṃ pajānāti : 'imañce ahaṃ upekkhaṃ evaṃ parisuddhaṃ evaṃ
pariyodātaṃ ākāsānañcāyatanaṃ upasaṃhareyyaṃ, tadanudhammañca cittaṃ bhāveyyaṃ
saṅkhatametaṃ. Imañce ahaṃ upekkhaṃ evaṃ parisuddhaṃ evaṃ pariyodātaṃ viññāṇañcāyatanaṃ
upasaṃhareyyaṃ, tadanudhammañca cittaṃ bhāveyyaṃ saṅkhatametaṃ. Imañce ahaṃ
upekkhaṃ evaṃ parisuddhaṃ evaṃ pariyodātaṃ ākiñcaññāyatanaṃ upasaṃhareyyaṃ,
tadanudhammañca cittaṃ bhāveyyaṃ saṅkhatametaṃ. Imañce ahaṃ upekkhaṃ evaṃ
parisuddhaṃ evaṃ pariyodātaṃ nevasaññānāsaññāyatanaṃ upasaṃhareyyaṃ,
tadanudhammañca cittaṃ bhāveyyaṃ saṅkhatametanti. ''So neva taṃ abhisaṅkharoti,
na abhisañcetayati bhavāya vā vibhavāya vā. So anabhisaṅkharonto
anabhisañcetayanto bhavāya vā vibhavāya vā na kiñci loke upādiyati, anupādiyaṃ na paritassati,
aparitassaṃ paccattaṃyeva parinibbāyati. 'Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ,
kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāti.
363. ''So sukhañce vedanaṃ vedeti, 'sā aniccāti pajānāti, 'anajjhositāti
pajānāti, 'anabhinanditāti pajānāti. Dukkhañce vedanaṃ vedeti , 'sā aniccāti
pajānāti, 'anajjhositāti pajānāti,
'anabhinanditāti pajānāti. Adukkhamasukhañce vedanaṃ vedeti, 'sā aniccāti
pajānāti, 'anajjhositāti pajānāti, 'anabhinanditāti pajānāti.
364. ''So sukhañce vedanaṃ vedeti, visaṃyutto naṃ vedeti dukkhañce vedanaṃ
vedeti, visaṃyutto naṃ vedeti adukkhamasukhañce vedanaṃ vedeti, visaṃyutto naṃ
vedeti. So kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno 'kāyapariyantikaṃ vedanaṃ
vedayāmīti pajānāti, jīvitapariyantikaṃ
vedanaṃ vedayamāno 'jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti,
'kāyassa bhedā paraṃ maraṇā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva sabbavedayitāni
anabhinanditāni sītībhavissantīti pajānāti.
365. ''Seyyathāpi, bhikkhu, telañca paṭicca vaṭṭiñca paṭicca telappadīpo
jhāyati tasseva telassa ca vaṭṭiyā ca pariyādānā aññassa ca anupahārā
[anupāhārā (sī. pī.), anupādānā (ka.)] anāhāro nibbāyati evameva kho, bhikkhu,
kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno 'kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti
pajānāti, jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno 'jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ
vedayāmīti pajānāti, 'kāyassa bhedā paraṃ maraṇā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva
sabbavedayitāni anabhinanditāni
sītībhavissantīti pajānāti. Tasmā evaṃ samannāgato bhikkhu iminā paramena
paññādhiṭṭhānena samannāgato hoti. Esā hi, bhikkhu, paramā ariyā paññā yadidaṃ
: sabbadukkhakkhaye ñāṇaṃ.
366. ''Tassa sā vimutti sacce ṭhitā akuppā hoti. Tañhi, bhikkhu, musā yaṃ
mosadhammaṃ, taṃ saccaṃ yaṃ amosadhammaṃ nibbānaṃ. Tasmā evaṃ samannāgato
bhikkhu iminā paramena saccādhiṭṭhānena samannāgato hoti. Etañhi, bhikkhu,
paramaṃ ariyasaccaṃ yadidaṃ : amosadhammaṃ nibbānaṃ.
367. ''Tasseva kho pana pubbe aviddasuno upadhī honti samattā samādinnā.
Tyāssa pahīnā honti ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ
anuppādadhammā. Tasmā evaṃ samannāgato bhikkhu
iminā paramena cāgādhiṭṭhānena samannāgato hoti. Eso hi, bhikkhu, paramo
ariyo cāgo yadidaṃ : sabbūpadhipaṭinissaggo.
368. ''Tasseva kho pana pubbe aviddasuno abhijjhā hoti chando sārāgo.
Svāssa pahīno hoti ucchinnamūlo
tālāvatthukato anabhāvaṃkato āyatiṃ anuppādadhammo. Tasseva kho pana pubbe
aviddasuno āghāto hoti byāpādo sampadoso. Svāssa pahīno hoti ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃkato āyatiṃ
anuppādadhammo. Tasseva kho pana pubbe aviddasuno avijjā hoti sammoho. Svāssa
pahīno hoti ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃkato āyatiṃ anuppādadhammo.
Tasmā evaṃ samannāgato bhikkhu iminā
paramena upasamādhiṭṭhānena samannāgato hoti. Eso hi, bhikkhu, paramo ariyo
upasamo yadidaṃ : rāgadosamohānaṃ upasamo. 'Paññaṃ nappamajjeyya,
saccamanurakkheyya, cāgamanubrūheyya, santimeva so sikkheyyāti : iti yaṃ taṃ
vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
369. '''Yattha ṭhitaṃ maññassavā nappavattanti, maññassave kho pana
nappavattamāne muni santoti vuccatīti : iti kho panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca
vuttaṃ? 'asmīti, bhikkhu, maññitametaṃ, 'ayamahamasmīti maññitametaṃ,
'bhavissanti maññitametaṃ, 'na bhavissanti maññitametaṃ, 'rūpī bhavissanti
maññitametaṃ, 'arūpī bhavissanti maññitametaṃ, 'saññī bhavissanti maññitametaṃ,
'asaññī bhavissanti maññitametaṃ, 'nevasaññīnāsaññī bhavissanti maññitametaṃ.
Maññitaṃ, bhikkhu, rogo maññitaṃ gaṇḍo maññitaṃ sallaṃ. Sabbamaññitānaṃ tveva,
bhikkhu, samatikkamā muni santoti vuccati. Muni kho pana, bhikkhu, santo na
jāyati, na jīyati, na mīyati, na kuppati, na piheti. Tañhissa, bhikkhu, natthi
yena jāyetha, ajāyamāno kiṃ jīyissati, ajīyamāno kiṃ mīyissati, amīyamāno kiṃ
kuppissati, akuppamāno kissa [kiṃ (ka.)] pihessati? 'yattha ṭhitaṃ maññassavā
nappavattanti, maññassave kho pana nappavattamāne muni santoti vuccatīti : iti
yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ. Imaṃ kho me tvaṃ, bhikkhu, saṃkhittena
chadhātuvibhaṅgaṃ dhārehīti.
370. Atha kho āyasmā pukkusāti :
''satthā kira me anuppatto, sugato kira me anuppatto sammāsambuddho kira me
anuppattoti uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā
bhagavantaṃ etadavoca : ''accayo maṃ, bhante, accagamā yathābālaṃ yathāmūḷhaṃ
yathāakusalaṃ, yohaṃ bhagavantaṃ āvusovādena samudācaritabbaṃ amaññissaṃ. Tassa
me, bhante, Bhagavā accayaṃ accayato paṭiggaṇhātu āyatiṃ saṃvarāyāti.
''Taggha tvaṃ, bhikkhu, accayo accagamā yathābālaṃ yathāmūḷhaṃ yathāakusalaṃ ,
yaṃ maṃ tvaṃ āvusovādena samudācaritabbaṃ
amaññittha. Yato ca kho tvaṃ, bhikkhu, accayaṃ accayato disvā yathādhammaṃ paṭikarosi,
taṃ te mayaṃ paṭiggaṇhāma. Vuddhihesā, bhikkhu, ariyassa vinaye yo accayaṃ
accayato disvā yathādhammaṃ paṭikaroti, āyatiṃ saṃvaraṃ āpajjatīti. ''Labheyyāhaṃ,
bhante, bhagavato santike upasampadanti. ''Paripuṇṇaṃ pana te, bhikkhu,
pattacīvaranti? ''na kho me, bhante, paripuṇṇaṃ pattacīvaranti. ''Na kho,
bhikkhu, tathāgatā aparipuṇṇapattacīvaraṃ upasampādentīti. Atha kho āyasmā
pukkusāti bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ
abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pattacīvarapariyesanaṃ pakkāmi. Atha kho
āyasmantaṃ pukkusātiṃ pattacīvarapariyesanaṃ carantaṃ vibbhantā gāvī
[bhantagāvī (sī. pī.), gāvī (syā. kaṃ.)] jīvitā voropesi. Atha kho
sambahulā bhikkhū yena Bhagavā
tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ : ''yo so, bhante,
pukkusāti nāma kulaputto bhagavatā saṃkhittena ovādena ovadito so kālaṅkato.
Tassa kā gati, ko abhisamparāyoti? ''paṇḍito, bhikkhave, pukkusāti kulaputto
paccapādi dhammassānudhammaṃ, na ca maṃ dhammādhikaraṇaṃ vihesesi [viheṭhesi
(sī. syā. kaṃ.) viheseti (ka.)]. Pukkusāti, bhikkhave, kulaputto pañcannaṃ
orambhāgiyānaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā opapātiko tattha parinibbāyī
anāvattidhammo tasmā lokāti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te bhikkhū
bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Dhātuvibhaṅgasuttaṃ niṭṭhitaṃ dasamaṃ.
-ooOoo-
140.
Dhātuvibhaṅgasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
342. Evaṃ me
sutanti dhātuvibhaṅgasuttaṃ. Tattha cārikanti turitagamanacārikaṃ. Sace
te bhaggava agarūti sace tuyhaṃ bhāriyaṃ aphāsukaṃ kiñci natthi. Sace so
anujānātīti bhaggavassa kira etadahosi – ‘‘pabbajitā nāma nānāajjhāsayā,
eko gaṇābhirato hoti, eko ekābhirato. Sace so ekābhirato bhavissati, ‘āvuso, mā
pāvisi, mayā sālā laddhā’ti vakkhati. Sace ayaṃ ekābhirato bhavissati, ‘āvuso,
nikkhama, mayā sālā laddhā’ti vakkhati. Evaṃ sante ahaṃ ubhinnaṃ vivādakāretā
nāma bhavissāmi, dinnaṃ nāma dinnameva vaṭṭati, kataṃ katamevā’’ti. Tasmā
evamāha.
Kulaputtoti
jātikulaputtopi ācārakulaputtopi. Vāsūpagatoti vāsaṃ upagato. Kuto
āgantvāti? Takkasīlanagarato.
Tatrāyaṃ anupubbikathā – majjhimappadese kira
rājagahanagare bimbisāre rajjaṃ kārente paccante takkasīlanagare pukkusāti rājā
rajjaṃ kāresi. Atha takkasīlato bhaṇḍaṃ gahetvā vāṇijā rājagahaṃ āgatā paṇṇākāraṃ
gahetvā rājānaṃ addasaṃsu. Rājā te vanditvā ṭhite ‘‘katthavāsino tumhe’’ti
pucchi. Takkasīlavāsino devāti. Atha ne rājā janapadassa khemasubhikkhatādīni
nagarassa ca pavattiṃ pucchitvā ‘‘ko nāma tumhākaṃ rājā’’ti pucchi. Pukkusāti
nāma devāti. Dhammikoti? Āma deva dhammiko. Catūhi saṅgahavatthūhi janaṃ saṅgaṇhāti,
lokassa mātāpitiṭṭhāne ṭhito, aṅge nipannadārakaṃ viya janaṃ tosetīti.
Katarasmiṃ vaye vattatīti? Athassa vayaṃ ācikkhiṃsu. Vayesupi bimbisārena
samavayo jāto. Atha te rājā āha – ‘‘tātā tumhākaṃ rājā dhammiko, vayena ca me
samāno, sakkuṇeyyātha tumhākaṃ rājānaṃ mama mittaṃ kātu’’nti. Sakkoma devāti.
Rājā tesaṃ suṅkaṃ vissajjetvā gehañca dāpetvā – ‘‘gacchatha bhaṇḍaṃ vikkiṇitvā
gamanakāle maṃ disvā gaccheyyāthā’’ti āha. Te tathā katvā gamanakāle rājānaṃ
addasaṃsu. ‘‘Gacchatha tumhākaṃ rājānaṃ mama vacanena punappunaṃ ārogyaṃ
pucchitvā ‘rājā tumhehi saddhiṃ mittabhāvaṃ icchatī’ti vadathā’’ti āha.
Te sādhūti paṭissuṇitvā gantvā bhaṇḍaṃ paṭisāmetvā
bhuttapātarāsā rājānaṃ upasaṅkamitvā vandiṃsu. Rājā ‘‘kahaṃ bhaṇe tumhe ettake
ime divase na dissathā’’ti pucchi. Te sabbaṃ pavattiṃ ārocesuṃ. Rājā – ‘‘sādhu,
tātā, tumhe nissāya mayā majjhimappadese rājā mitto laddho’’ti attamano ahosi.
Aparabhāge rājagahavāsinopi vāṇijā takkasīlaṃ agamaṃsu. Te paṇṇākāraṃ gahetvā
āgate pukkusāti rājā ‘‘kuto āgatatthā’’ti pucchitvā ‘‘rājagahato’’ti sutvā
‘‘mayhaṃ sahāyassa nagarato āgatā tumhe’’ti. Āma devāti. Ārogyaṃ me sahāyassāti
ārogyaṃ pucchitvā ‘‘ajja paṭṭhāya ye mayhaṃ sahāyassa nagarato jaṅghasatthena
vā sakaṭasatthena vā vāṇijā āgacchanti, sabbesaṃ mama visayaṃ paviṭṭhakālato paṭṭhāya
vasanagehāni, rājakoṭṭhāgārato nivāpañca dentu, suṅkaṃ vissajjentu, kiñci
upaddavaṃ mā karontū’’ti bheriṃ carāpesi. Bimbisāropi attano nagare tatheva
bheriṃ carāpesi.
Atha bimbisāro pukkusātissa paṇṇaṃ pahiṇi –
‘‘paccantadese nāma maṇimuttādīni ratanāni uppajjanti, yaṃ mayhaṃ sahāyassa
rajje dassanīyaṃ vā savanīyaṃ vā ratanaṃ uppajjati, tattha me mā
maccharāyatū’’ti. Pukkusātipi – ‘‘majjhimadeso nāma mahājanapado, yaṃ tattha
evarūpaṃ ratanaṃ uppajjati, tattha me sahāyo mā maccharāyatū’’ti paṭipaṇṇaṃ
pahiṇi. Evaṃ te gacchante gacchante kāle aññamaññaṃ adisvāpi daḷhamittā ahesuṃ.
Evaṃ tesaṃ katikaṃ katvā vasantānaṃ paṭhamataraṃ
pukkusātissa paṇṇākāro uppajji. Rājā kira aṭṭha pañcavaṇṇe anagghakambale
labhi. So – ‘‘atisundarā ime kambalā, ahaṃ sahāyassa pesissāmī’’ti lākhāguḷamatte
aṭṭha sārakaraṇḍake likhāpetvā tesu te kambale pakkhipitvā lākhāya vaṭṭāpetvā
setavatthena veṭhetvā samugge pakkhipitvā vatthena veṭhetvā rājamuddikāya
lañchetvā ‘‘mayhaṃ sahāyassa dethā’’ti amacce pesesi. Sāsanañca adāsi – ‘‘ayaṃ
paṇṇākāro nagaramajjhe amaccādiparivutena daṭṭhabbo’’ti. Te gantvā bimbisārassa
adaṃsu.
So sāsanaṃ sutvā amaccādayo sannipatantūti bheriṃ
carāpetvā nagaramajjhe amaccādiparivuto setacchattena dhāriyamānena pallaṅkavare
nisinno lañchanaṃ bhinditvā vatthaṃ apanetvā samuggaṃ vivaritvā anto bhaṇḍikaṃ
muñcitvā lākhāguḷe disvā ‘‘mayhaṃ sahāyo pukkusāti ‘jutavittako me sahāyo’ti
maññamāno maññe imaṃ paṇṇākāraṃ pahiṇī’’ti ekaṃ guḷaṃ gahetvā hatthena vaṭṭetvā
tulayantova anto dussabhaṇḍikaṃ atthīti aññāsi. Atha naṃ pallaṅkapāde paharitvā
tāvadeva lākhā paripati, so nakhena karaṇḍakaṃ vivaritvā anto kambalaratanaṃ
disvā itarepi vivarāpesi, sabbepi kambalā ahesuṃ. Atha ne pattharāpesi, te vaṇṇasampannā
phassasampannā dīghato soḷasahatthā tiriyaṃ aṭṭhahatthā ahesuṃ. Mahājano disvā
aṅguliyo poṭhesi, celukkhepaṃ akāsi, – ‘‘amhākaṃ rañño adiṭṭhasahāyo pukkusāti
adisvāva evarūpaṃ paṇṇākāraṃ pesesi, yuttaṃ evarūpaṃ mittaṃ kātu’’nti attamano
ahosi. Rājā ekamekaṃ kambalaṃ agghāpesi, sabbe anagghā ahesuṃ. Tesu cattāro
sammāsambuddhassa pesesi, cattāro attano ghare akāsi. Tato cintesi – ‘‘pacchā
pesentena paṭhamaṃ pesitapaṇṇākārato atirekaṃ pesetuṃ vaṭṭati, sahāyena ca me
anaggho paṇṇākāro pesito, kiṃ nu kho pesemī’’ti?
Kiṃ pana rājagahe tato adhikaṃ ratanaṃ natthīti? No
natthi, mahāpuñño rājā, apica kho panassa sotāpannakālato paṭṭhāya ṭhapetvā tīṇi
ratanāni aññaṃ ratanaṃ somanassaṃ janetuṃ samatthaṃ nāma natthi. So ratanaṃ
vicinituṃ āraddho – ratanaṃ nāma saviññāṇakaṃ aviññāṇakanti duvidhaṃ. Tattha
aviññāṇakaṃ suvaṇṇarajatādi, saviññāṇakaṃ indriyabaddhaṃ. Aviññāṇakaṃ saviññāṇakasseva
alaṅkārādivasena paribhogaṃ hoti, iti imesu dvīsu ratanesu saviññāṇakaṃ seṭṭhaṃ.
Saviññāṇakampi duvidhaṃ tiracchānaratanaṃ manussaratananti. Tattha
tiracchānaratanaṃ hatthiassaratanaṃ, tampi manussānaṃ upabhogatthameva
nibbattati, iti imesupi dvīsu manussaratanaṃ seṭṭhaṃ. Manussaratanampi duvidhaṃ
itthiratanaṃ purisaratananti. Tattha cakkavattino rañño uppannaṃ itthiratanampi
purisasseva upabhogaṃ. Iti imesupi dvīsu purisaratanameva seṭṭhaṃ.
Purisaratanampi duvidhaṃ agāriyaratanaṃ
anagāriyaratanañca. Tattha agāriyaratanesupi cakkavattirājā ajja pabbajitasāmaṇeraṃ
pañcapatiṭṭhitena vandati, iti imesupi dvīsu anagāriyaratanameva seṭṭhaṃ.
Anagāriyaratanampi duvidhaṃ sekkharatanañca asekkharatanañca. Tattha
satasahassampi sekkhānaṃ asekkhassa padesaṃ na pāpuṇāti, iti imesupi dvīsu asekkharatanameva
seṭṭhaṃ. Tampi duvidhaṃ buddharatanaṃ sāvakaratananti. Tattha satasahassampi
sāvakaratanānaṃ buddharatanassa padesaṃ na pāpuṇāti, iti imesupi dvīsū
buddharatanameva seṭṭhaṃ.
Buddharatanampi duvidhaṃ paccekabuddharatanaṃ
sabbaññubuddharatananti. Tattha satasahassampi paccekabuddhānaṃ
sabbaññubuddhassa padesaṃ na pāpuṇāti, iti imesupi dvīsu sabbaññubuddharatanaṃyeva
seṭṭhaṃ. Sadevakasmiñhi loke buddharatanasamaṃ ratanaṃ nāma natthi. Tasmā
asadisameva ratanaṃ mayhaṃ sahāyassa pesessāmīti cintetvā takkasīlavāsino
pucchi – ‘‘tātā tumhākaṃ janapade buddho dhammo saṅghoti imāni tīṇi ratanāni
dissantī’’ti. Ghosopi so mahārāja tāva tattha natthi, dassanaṃ pana kutoti.
‘‘Sundaraṃ tātā’’ti rājā tuṭṭho cintesi – ‘‘sakkā
bhaveyya janasaṅgahatthāya mayhaṃ sahāyassa vasanaṭṭhānaṃ sammāsambuddhaṃ
pesetuṃ, buddhā pana paccantimesu janapadesu na aruṇaṃ uṭṭhapenti. Tasmā
satthārā gantuṃ na sakkā. Sāriputtamoggallānādayo mahāsāvake pesetuṃ sakkā
bhaveyya. Mayā pana ‘therā paccante vasantī’ti sutvāpi manusse pesetvā te
attano samīpaṃ āṇāpetvā upaṭṭhātumeva yuttaṃ. Tasmā na therehipi sakkā gantuṃ.
Yena panākārena sāsane pesite satthā ca mahāsāvakā ca gatā viya honti,
tenākārena sāsanaṃ pahiṇissāmī’’ti. Cintetvā caturatanāyāmaṃ
vidatthimattaputhulaṃ nātitanuṃ nātibahalaṃ suvaṇṇapaṭṭaṃ kārāpetvā ‘‘tattha
ajja akkharāni likhissāmī’’ti. Pātova sīsaṃ nhāyitvā uposathaṅgāni adhiṭṭhāya
bhuttapātarāso apanītagandhamālābharaṇo suvaṇṇasarakena jātihiṅgulikaṃ ādāya heṭṭhato
paṭṭhāya dvārāni pidahanto pāsādamāruyha pubbadisāmukhaṃ sīhapañjaraṃ vivaritvā
ākāsatale nisīditvā suvaṇṇapaṭṭe akkharāni likhanto – ‘‘idha tathāgato loke
uppanno arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro
purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’’ti. Buddhaguṇe tāva ekadesena
likhi.
Tato ‘‘evaṃ dasa pāramiyo pūretvā tusitabhavanato
cavitvā mātukucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi, evaṃ lokavivaraṇaṃ ahosi, mātukucchiyaṃ
vasamāne idaṃ nāma ahosi, agāramajjhe vasamāne idaṃ nāma ahosi, evaṃ
mahābhinikkhamanaṃ nikkhanto evaṃ mahāpadhānaṃ padahi. Evaṃ dukkarakārikaṃ
katvā mahābodhimaṇḍaṃ āruyha aparājitapallaṅke nisinno sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhi,
sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhantassa evaṃ lokavivaraṇaṃ ahosi. Sadevake loke aññaṃ
evarūpaṃ ratanaṃ nāma natthīti.
Yaṃkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā,
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ;
Na no samaṃ atthi tathāgatena,
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ;
Etena saccena suvatthi hotū’’ti. (khu. pā. 6.3; su.
ni. 226) –
Evaṃ ekadesena buddhaguṇepi likhitvā dutiyaṃ dhammaratanaṃ
thomento – ‘‘svākkhāto bhagavatā dhammo…pe… paccattaṃ veditabbo viññūhī’’ti.
‘‘Cattāro satipaṭṭhānā…pe… ariyo aṭṭhaṅgiko maggo’’ti. ‘‘Satthārā desitadhammo
nāma evarūpo ca evarūpo cā’’ti sattatiṃsa bodhipakkhiye ekadesena likhitvā –
‘‘Yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ,
Samādhimānantarikaññamāhu;
Samādhinā tena samo na vijjati,
Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ;
Etena saccena suvatthi hotū’’ti. (khu. pā. 6.5; su.
ni. 228) –
Evaṃ ekadesena dhammaguṇe likhitvā tatiyaṃ saṅgharatanaṃ
thomento – ‘‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho…pe… puññakkhettaṃ lokassā’’ti.
‘‘Kulaputtā nāma satthu dhammakathaṃ sutvā evaṃ nikkhamitvā pabbajanti, keci
setacchattaṃ pahāya pabbajanti, keci uparajjaṃ, keci senāpatiṭṭhānādīni pahāya
pabbajanti. Pabbajitvā ca pana imañca paṭipattiṃ pūrentī’’ti cūḷasīlamajjhimasīlamahāsīlādīni
ekadesena likhitvā chadvārasaṃvaraṃ satisampajaññaṃ catupaccayasantosaṃ
navavidhaṃ senāsanaṃ, nīvaraṇappahānaṃ parikammaṃ jhānābhiññā aṭṭhatiṃsa kammaṭṭhānāni
yāva āsavakkhayā ekadesena likhi, soḷasavidhaṃ ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ
vitthāreneva likhitvā ‘‘satthu sāvakasaṅgho nāma evarūpehi ca guṇehi
samannāgato.
Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā,
Cattāri etāni yugāni honti;
Te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā,
Etesu dinnāni mahapphalāni;
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ,
Etena saccena suvatthi hotū’’ti. (khu. pā. 6.6; su.
ni. 229) –
Evaṃ ekadesena saṅghaguṇe likhitvā – ‘‘bhagavato
sāsanaṃ svākkhātaṃ niyyānikaṃ, sace mayhaṃ sahāyo sakkoti, nikkhamitvā
pabbajatū’’ti likhitvā suvaṇṇapaṭṭaṃ saṃharitvā sukhumakambalena veṭhetvā
sārasamugge pakkhipitvā taṃ samuggaṃ suvaṇṇamaye, suvaṇṇamayaṃ, rajatamaye
rajatamayaṃ maṇimaye, maṇimayaṃ pavāḷamaye, pavāḷamayaṃ lohitaṅkamaye, lohitaṅkamayaṃ
masāragallamaye, masāragallamayaṃ phalikamaye, phalikamayaṃ dantamaye,
dantamayaṃ sabbaratanamaye, sabbaratanamayaṃ kilañjamaye, kilañjamayaṃ samuggaṃ
sārakaraṇḍake ṭhapesi.
Puna sārakaraṇḍakaṃ suvaṇṇakaraṇḍaketi purimanayeneva
haritvā sabbaratanamayaṃ karaṇḍakaṃ kilañjamaye karaṇḍake ṭhapesi. Tato
kilañjamayaṃ karaṇḍakaṃ sāramayapeḷāyāti puna vuttanayeneva haritvā
sabbaratanamayaṃ peḷaṃ kilañjamayapeḷāya ṭhapetvā bahi vatthena veṭhetvā
rājamuddikāya lañchetvā amacce āṇāpesi – ‘‘mama āṇāpavattiṭṭhāne maggaṃ alaṅkārāpetha
maggo aṭṭhusabhavitthato hotu, catuusabhaṭṭhānaṃ sodhitamattakameva hotu,
majjhe catuusabhaṃ rājānubhāvena paṭiyādethā’’ti. Tato maṅgalahatthiṃ alaṅkārāpetvā
tassa upari pallaṅkaṃ paññapetvā setacchattaṃ ussāpetvā nagaravīthiyo
sittasammaṭṭhā samussitaddhajapaṭākā kadalipuṇṇaghaṭagandhadhūmapupphādīhi
suppaṭimaṇḍitā kāretvā ‘‘attano attano visayappadese evarūpaṃ pūjaṃ kārentū’’ti
antarabhogikānaṃ javanadūte pesetvā sayaṃ sabbālaṅkārena alaṅkaritvā –
‘‘sabbatāḷāvacarasammissabalakāyaparivuto paṇṇākāraṃ pesemī’’ti attano
visayapariyantaṃ gantvā amaccassa mukhasāsanaṃ adāsi – ‘‘tāta mayhaṃ sahāyo
pukkusāti imaṃ paṇṇākāraṃ paṭicchanto orodhamajjhe apaṭicchitvā pāsādaṃ āruyha
paṭicchatū’’ti. Evaṃ sāsanaṃ datvā paccantadesaṃ satthā gacchatīti pañcapatiṭṭhitena
vanditvā nivatti. Antarabhogikā teneva niyāmena maggaṃ paṭiyādetvā paṇṇākāraṃ
nayiṃsu.
Pukkusātipi attano rajjasīmato paṭṭhāya teneva
niyāmena maggaṃ paṭiyādetvā nagaraṃ alaṅkārāpetvā paṇṇākārassa paccuggamanaṃ
akāsi. Paṇṇākāro takkasīlaṃ pāpuṇanto uposathadivase pāpuṇi, paṇṇākāraṃ gahetvā
gataamaccopi rañño vuttasāsanaṃ ārocesi. Rājā taṃ sutvā paṇṇākārena saddhiṃ
āgatānaṃ kattabbakiccaṃ vicāretvā paṇṇākāraṃ ādāya pāsādaṃ āruyha ‘‘mā idha
koci pavisatū’’ti dvāre ārakkhaṃ kāretvā sīhapañjaraṃ vivaritvā paṇṇākāraṃ
uccāsane ṭhapetvā sayaṃ nīcāsane nisinno lañchanaṃ bhinditvā nivāsanaṃ apanetvā
kilañjapeḷato paṭṭhāya anupubbena vivaranto sāramayaṃ samuggaṃ disvā cintesi –
‘‘mahāparihāro nāyaṃ aññassa ratanassa bhavissati, addhā majjhimadese
sotabbayuttakaṃ ratanaṃ uppanna’’nti. Atha taṃ samuggaṃ vivaritvā rājalañchanaṃ
bhinditvā sukhumakambalaṃ ubhato viyūhitvā suvaṇṇapaṭṭaṃ addasa.
So taṃ pasāretvā – ‘‘manāpāni vata akkharāni
samasīsāni samapantīni caturassānī’’tiādito paṭṭhāya vācetuṃ ārabhi. Tassa –
‘‘idha tathāgato loke uppanno’’ti buddhaguṇe vācentassa balavasomanassaṃ
uppajji, navanavutilomakūpasahassāni uddhaggalomāni ahesuṃ. Attano ṭhitabhāvaṃ
vā nisinnabhāvaṃ vā na jānāti. Athassa – ‘‘kappakoṭisatasahassehipi etaṃ
dullabhasāsanaṃ sahāyaṃ nissāya sotuṃ labhāmī’’ti bhiyyo balavapīti udapādi. So
hi upari vācetuṃ asakkonto yāva pītivegapassaddhiyā nisīditvā parato –
‘‘svākkhāto bhagavatā dhammo’’ti dhammaguṇe ārabhi. Tatrāpissa tatheva ahosi.
So puna yāva pītivegapassaddhiyā nisīditvā parato ‘‘suppaṭipanno’’ti saṅghaguṇe
ārabhi. Tatrāpissa tatheva ahosi. Atha sabbapariyante ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ
vācetvā catukkapañcakajjhānāni nibbattesi, so jhānasukheneva vītināmesi. Añño
koci daṭṭhuṃ na labhati, ekova cūḷupaṭṭhāko pavisati. Evaṃ addhamāsamattaṃ
vītināmesi.
Nāgarā rājaṅgaṇe sannipatitvā ukkuṭṭhiṃ akaṃsu ‘‘paṇṇākāraṃ
paṭicchitadivasato paṭṭhāya baladassanaṃ vā nāṭakadassanaṃ vā natthi,
vinicchayadānaṃ natthi, rājā sahāyena pahitaṃ paṇṇākāraṃ yassicchati tassa
dassetu, rājāno nāma ekaccassa paṇṇākāravasenapi vañcetvā rajjaṃ attano kātuṃ
vāyamanti. Kiṃ nāma amhākaṃ rājā karotī’’ti? Rājā ukkuṭṭhisaddaṃ sutvā –
‘‘rajjaṃ nu kho dhāremi, udāhu satthāra’’nti cintesi. Athassa etadahosi –
‘‘rajjakāritaattabhāvo nāma neva gaṇakena, na gaṇakamahāmattena gaṇetuṃ sakko.
Satthusāsanaṃ dhāressāmī’’ti sayane ṭhapitaṃ asiṃ gahetvā kese chinditvā
sīhapañjaraṃ vivaritvā – ‘‘etaṃ gahetvā rajjaṃ kārethā’’ti saddhiṃ cūḷāmaṇinā
kesakalāpaṃ parisamajjhe pātesi, mahājano taṃ ukkhipitvā – ‘‘sahāyakasantikā
laddhapaṇṇākārā nāma rājāno tumhādisā honti devā’’ti ekappahāreneva viravi.
Raññopi dvaṅgulamattaṃ kesamassu ahosi. Bodhisattassa pabbajjāsadisameva kira
jātaṃ.
Tato cūḷupaṭṭhākaṃ pesetvā antarāpaṇā dve
kāsāyavatthāni mattikāpattañca āharāpetvā – ‘‘ye loke arahanto, te uddissa
mayhaṃ pabbajjā’’ti satthāraṃ uddissa ekaṃ kāsāvaṃ nivāsetvā ekaṃ pārupitvā
pattaṃ vāmaaṃsakūṭe katvā kattaradaṇḍaṃ gahetvā – ‘‘sobhati nu kho me pabbajjā
no vā’’ti mahātale katipayavāre aparāparaṃ caṅkamitvā – ‘‘sobhati me
pabbajjā’’ti dvāraṃ vivaritvā pāsādā otari. Otarantaṃ pana naṃ tīsu dvāresu ṭhitanāṭakādīni
disvāpi na sañjāniṃsu. ‘‘Eko paccekabuddho amhākaṃ rañño dhammakathaṃ kathetuṃ
āgato’’ti kira cintayiṃsu. Uparipāsādaṃ pana āruyha rañño ṭhitanisinnaṭṭhānāni
disvā rājā gatoti ñatvā samuddamajjhe osīdamānāya nāvāya jano viya
ekappahāreneva viraviṃsu. Kulaputtaṃ bhūmitalaṃ otiṇṇamattaṃ aṭṭhārasaseniyo
sabbe nāgarā balakāyā ca parivāretvā mahāviravaṃ viraviṃsu. Amaccāpi taṃ
etadavocuṃ – ‘‘deva majjhimadesarājāno nāma bahumāyā, sāsanaṃ pesetvā
buddharatanaṃ nāma loke uppannaṃ vā no vāti ñatvā gamissatha, nivattatha
devā’’ti. Saddahāmahaṃ mayhaṃ sahāyakassa, tassa mayā saddhiṃ dvejjhavacanaṃ
nāma natthi, tiṭṭhatha tumheti. Te anugacchantiyeva.
Kulaputto kattaradaṇḍena lekhaṃ katvā – ‘‘idaṃ rajjaṃ
kassā’’ti āha? Tumhākaṃ devāti. Yo imaṃ lekhaṃ antaraṃ karoti, rājāṇāya
kāretabboti. Mahājanakajātake bodhisattena katalekhaṃ sīvalidevī antaraṃ kātuṃ
avisahantī vivattamānā agamāsi. Tassā gatamaggena mahājano agamāsi. Taṃ pana
lekhaṃ mahājano antaraṃ kātuṃ na visahi, lekhaṃ ussīsakaṃ katvā vivattamānā
viraviṃsu. Kulaputto ‘‘ayaṃ me gataṭṭhāne dantakaṭṭhaṃ vā mukhodakaṃ vā
dassatī’’ti antamaso ekaceṭakampi aggahetvā pakkāmi. Evaṃ kirassa ahosi ‘‘mama
satthā ca mahābhinikkhamanaṃ nikkhamitvā ekakova pabbajito’’ti ekakova agamāsi.
‘‘Satthu lajjāmī’’ti ca – ‘‘satthā kira me pabbajitvā yānaṃ nāruḷho’’ti ca antamaso
ekapaṭalikampi upāhanaṃ nāruhi, paṇṇacchattakampi na dhāresi. Mahājano
rukkhapākāraṭṭālakādīni āruyha esa amhākaṃ rājā gacchatīti olokesi. Kulaputto –
‘‘dūraṃ gantabbaṃ, na sakkā ekena maggo nittharitu’’nti ekaṃ satthavāhaṃ
anubandhi. Sukhumālassa kulaputtassa kaṭhinatattāya pathaviyā gachantassa
pādatalesu phoṭā uṭṭhahitvā bhijjanti, dukkhā vedanā uppajjanti. Satthavāhe
khandhāvāraṃ bandhitvā nisinne kulaputto maggā okkamma ekasmiṃ rukkhamūle
nisīdati. Nisinnaṭṭhāne pādaparikammaṃ vā piṭṭhiparikammaṃ vā kattā nāma
natthi, kulaputto ānāpānacatutthajjhānaṃ samāpajjitvā maggadarathakilamathapariḷāhaṃ
vikkhambhetvā jhānaratiyā vītināmeti.
Punadivase uṭṭhite aruṇe sarīrapaṭijagganaṃ katvā puna
satthavāhaṃ anubandhati. Pātarāsakāle kulaputtassa pattaṃ gahetvā khādanīyaṃ
bhojanīyaṃ patte pakkhipitvā denti. Taṃ uttaṇḍulampi hoti kilinnampi
samasakkharampi aloṇātiloṇampi, kulaputto pavisanaṭṭhānaṃ paccavekkhitvā amataṃ
viya paribhuñjitvā etena niyāmena aṭṭhahi ūnakāni dve yojanasatāni gato.
Jetavanadvārakoṭṭhakassa pana samīpena gacchantopi – ‘‘kahaṃ satthā vasatī’’ti
nāpucchi. Kasmā? Satthugāravena ceva rañño pesitasāsanavasena ca. Rañño hi – ‘‘idha
tathāgato loke uppajjatī’’ti satthāraṃ rājagahe uppannaṃ viya katvā sāsanaṃ
pesitaṃ, tasmā naṃ apucchitvāva pañcacattālīsayojanamattaṃ maggaṃ atikkanto. So
sūriyatthaṅgamanavelāya rājagahaṃ patvā satthā kahaṃ vasatīti pucchi. Kuto nu,
bhante, āgatoti? Ito uttaratoti. Satthā tuyhaṃ āgatamagge ito
pañcacattālīsayojanamatte sāvatthi nāma atthi, tattha vasatīti. Kulaputto
cintesi – ‘‘idāni akālo na sakkā gantuṃ, ajja idheva vasitvā sve satthu santikaṃ
gamissāmī’’ti. Tato – ‘‘vikāle sampattapabbajitā kahaṃ vasantī’’ti pucchi.
Imāya kumbhakārasālāya, bhanteti. Atha so taṃ kumbhakāraṃ yācitvā tattha
vāsatthāya pavisitvā nisīdi.
Bhagavāpi taṃdivasaṃ paccūsakāle lokaṃ volokento
pukkusātiṃ disvā cintesi – ‘‘ayaṃ kulaputto sahāyena pesitaṃ sāsanamattakaṃ
vācetvā atirekatiyojanasatikaṃ mahārajjaṃ pahāya maṃ uddissa pabbajitvā aṭṭhahi
ūnakāni dve yojanasatāni atikkamma rājagahaṃ pāpuṇissati, mayi agacchante pana
tīṇi sāmaññaphalāni appaṭivijjhitvā ekarattivāsena anāthakālakiriyaṃ karissati,
mayi pana gate tīṇi sāmaññaphalāni paṭivijjhissati. Janasaṅgahatthāyeva pana
mayā satasahassakappādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūritā, karissāmi
tassa saṅgaha’’nti pātova sarīrapaṭijagganaṃ katvā bhikkhusaṅghaparivuto
sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātappaṭikkanto gandhakuṭiṃ
pavisitvā muhuttaṃ attadarathakilamathaṃ paṭipassambhetvā – ‘‘kulaputto mayi
gāravena dukkaraṃ akāsi, atirekayojanasataṃ rajjaṃ pahāya antamaso
mukhadhovanadāyakampi ceṭakaṃ aggahetvā ekakova nikkhanto’’ti
sāriputtamahāmoggallānādīsu kañci anāmantetvā sayameva attano pattacīvaraṃ
gahetvā ekakova nikkhanto. Gacchanto ca neva ākāse uppati, na pathaviṃ saṃkhipi,
– ‘‘kulaputto mama lajjamāno hatthiassarathasuvaṇṇasivikādīsu ekayānepi
anisīditvā antamaso ekapaṭalikaṃ upāhanampi anāruyha paṇṇacchattakampi
aggahetvā nikkhanto, mayāpi padasāva gantuṃ vaṭṭatī’’ti pana cintetvā padasāva
agamāsi.
So asīti anubyañjanāni byāmappabhā bāttiṃsa
mahāpurisalakkhaṇānīti imaṃ buddhasiriṃ paṭicchādetvā valāhakapaṭicchanno puṇṇacando
viya aññatarabhikkhuvesena gacchanto ekapacchābhatteneva pañcacattālīsa
yojanāni atikkamma sūriyatthaṅgamalīvelāya kulaputte paviṭṭhamatteyeva taṃ
kumbhakārasālaṃ pāpuṇi. Taṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘tena kho pana samayena,
pukkusāti, nāma kulaputto bhagavantaṃ uddissa saddhāya agārasmā anagāriyaṃ
pabbajito, so tasmiṃ kumbhakārāvesane paṭhamaṃ vāsūpagato hotī’’ti.
Evaṃ gantvāpi pana bhagavā – ‘‘ahaṃ sammāsambuddho’’ti
pasayha kumbhakārasālaṃ apavisitvā dvāre ṭhitova kulaputtaṃ okāsaṃ kārento sace
te bhikkhūtiādimāha. Urundanti vivittaṃ asambādhaṃ. Viharatāyasmā
yathāsukhanti yena yena iriyāpathena phāsu hoti, tena tena yathāsukhaṃ
āyasmā viharatūti okāsaṃ akāsi. Atirekatiyojanasatañhi rajjaṃ pahāya pabbajito
kulaputto parassa chaḍḍitapatitaṃ kumbhakārasālaṃ kiṃ aññassa sabrahmacārino maccharāyissati.
Ekacce pana moghapurisā sāsane pabbajitvā āvāsamacchariyādīhi abhibhūtā attano
vasanaṭṭhāne mayhaṃ kuṭi mayhaṃ pariveṇanti aññesaṃ avāsāya parakkamanti. Nisīdīti
accantasukhumālo lokanātho devavimānasadisaṃ gandhakuṭiṃ pahāya tattha tattha
vippakiṇṇachārikāya bhinnabhājanatiṇapalāsakukkuṭasūkaravaccādisaṃkiliṭṭhāya saṅkāraṭṭhānasadisāya
kumbhakārasālāya tiṇasanthāraṃ santharitvā paṃsukūlacīvaraṃ paññapetvā
devavimānasadisaṃ dibbagandhasugandhaṃ gandhakuṭiṃ pavisitvā nisīdanto viya
nisīdi.
Iti bhagavāpi asambhinnamahāsammatavaṃse uppanno,
kulaputtopi khattiyagabbhe vaḍḍhito. Bhagavāpi abhinīhārasampanno, kulaputtopi
abhinīhārasampanno. Bhagavāpi rajjaṃ pahāya pabbajito, kulaputtopi. Bhagavāpi
suvaṇṇavaṇṇo, kulaputtopi. Bhagavāpi samāpattilābhī, kulaputtopi. Iti dvepi
khattiyā dvepi abhinīhārasampannā dvepi rājapabbajitā dvepi suvaṇṇavaṇṇā dvepi
samāpattilābhino kumbhakārasālaṃ pavisitvā nisinnāti tehi kumbhakārasālā
ativiya sobhati, dvīhi sīhādīhi paviṭṭhaguhādīhi āharitvā dīpetabbaṃ. Tesu pana
dvīsu bhagavā – ‘‘sukhumālo ahaṃ paramasukhumālo ekapacchābhattena
pañcacattālīsa yojanāni āgato, muhuttaṃ tāva sīhaseyyaṃ kappetvā maggadarathaṃ
paṭipassambhemī’’ti cittampi anuppādetvā nisīdantova phalasamāpattiṃ samāpajji.
Kulaputtopi – ‘‘dvānavutiyojanasataṃ āgatomhi, muhuttaṃ tāva nipajjitvā
maggadarathaṃ vinodemī’’ti cittaṃ anuppādetvā nisīdamānova
ānāpānacatutthajjhānaṃ samāpajji. Idaṃ sandhāya atha kho bhagavā bahudeva
rattintiādi vuttaṃ.
Nanu ca bhagavā kulaputtassa dhammaṃ desessāmīti
āgato, kasmā na desesīti? Kulaputtassa maggadaratho appaṭipassaddho, na
sakkhissati dhammadesanaṃ sampaṭicchituṃ, so tāvassa paṭipassambhatūti na
desesi. Apare – ‘‘rājagahaṃ nāma ākiṇṇamanussaṃ avivittaṃ dasahi saddehi, so
saddo diyaḍḍhayāmamattena sannisīdati, taṃ āgamento na desesī’’ti vadanti. Taṃ
akāraṇaṃ, brahmalokappamāṇampi hi saddaṃ bhagavā attano ānubhāvena vūpasametuṃ
sakkoti, maggadarathavūpasamaṃ āgamentoyeva pana na desesi.
Tattha bahudeva rattinti diyaḍḍhayāmamattaṃ. Etadahosīti
bhagavā phalasamāpattito vuṭṭhāya suvaṇṇavimāne maṇisīhapañjaraṃ vivaranto viya
pañcapasādappaṭimaṇḍitāni akkhīni ummīletvā olokesi, athassa
hatthakukkuccapādakukkuccasīsakampanavirahitaṃ sunikhātaindakhīlaṃ viya niccalaṃ
avibbhantaṃ suvaṇṇapaṭimaṃ viya nisinnaṃ kulaputtaṃ disvā etaṃ – ‘‘pāsādikaṃ
kho’’tiādi ahosi. Tattha pāsādikanti pasādāvahaṃ. Bhāvanapuṃsakaṃ panetaṃ,
pāsādikena iriyāpathena iriyati. Yathā iriyato iriyāpatho pāsādiko hoti, evaṃ
iriyatīti ayamettha attho. Catūsu hi iriyāpathesu tayo iriyāpathā na sobhanti.
Gacchantassa hi bhikkhuno hatthā calanti, pādā calanti, sīsaṃ calati, ṭhitassa
kāyo thaddho hoti, nipannassāpi iriyāpatho amanāpo hoti, pacchābhatte pana divāṭṭhānaṃ
sammajjitvā cammakhaṇḍaṃ paññapetvā sudhotahatthapādassa catusandhikapallaṅkaṃ
ābhujitvā nipannasseva iriyāpatho sobhati. Ayañca kulaputto pallaṅkaṃ ābhujitvā
ānāpānacatutthajjhānaṃ appetvā nisīdi. Itissa iriyāpatheneva pasanno bhagavā –
‘‘pāsādikaṃ kho’’ti parivitakkesi.
Yaṃnūnāhaṃ puccheyyanti kasmā
pucchati? Kiṃ bhagavā attānaṃ uddissa pabbajitabhāvaṃ na jānātīti? No na
jānāti, apucchite pana kathā na patiṭṭhāti, apatiṭṭhitāya kathāya kathā na
sañjāyatīti kathāpatiṭṭhāpanatthaṃ pucchi.
Disvā ca pana
jāneyyāsīti tathāgataṃ buddhasiriyā virocantaṃ ayaṃ buddhoti sabbe jānanti.
Anacchariyametaṃ jānanaṃ, buddhasiriṃ pana paṭicchādetvā aññatarapiṇḍapātikavesena
caranto dujjāno hoti. Iccāyasmā, pukkusāti, ‘‘na jāneyya’’nti sabhāvameva
katheti. Tathā hi naṃ ekakumbhakārasālāya nisinnampi na jānāti.
Etadahosīti
maggadarathassa vūpasamabhāvaṃ ñatvā ahosi. Evamāvusoti kulaputto
sahāyena pesitaṃ sāsanamattaṃ vācetvā rajjaṃ pahāya pabbajamāno – ‘‘dasabalassa
madhuradhammadesanaṃ sotuṃ labhissāmī’’ti. Pabbajito, pabbajitvā ettakaṃ
addhānaṃ āgacchanto – ‘‘dhammaṃ te bhikkhu desessāmī’’ti padamattassa vattāraṃ
nālattha, so ‘‘dhammaṃ te bhikkhu desessāmī’’ti vuttaṃ kiṃ sakkaccaṃ na suṇissati.
Pipāsitasoṇḍo viya hi pipāsitahatthī viya cāyaṃ, tasmā sakkaccaṃ savanaṃ paṭijānanto
‘‘evamāvuso’’ti āha.
343. Chadhāturo
ayanti bhagavā kulaputtassa pubbabhāgapaṭipadaṃ akathetvā āditova
arahattassa padaṭṭhānabhūtaṃ accantasuññataṃ vipassanālakkhaṇameva ācikkhituṃ
āraddho. Yassa hi pubbabhāgapaṭipadā aparisuddhā hoti, tassa paṭhamameva sīlasaṃvaraṃ
indriyesu guttadvārataṃ bhojane mattaññutaṃ jāgariyānuyogaṃ satta saddhamme
cattāri jhānānīti imaṃ pubbabhāgapaṭipadaṃ ācikkhati. Yassa panesā parisuddhā,
tassa taṃ akathetvā arahattassa padaṭṭhānabhūtaṃ vipassanameva ācikkhati.
Kulaputtassa ca pubbabhāgapaṭipadā parisuddhā. Tathā hi anena sāsanaṃ vācetvā
pāsādavaragateneva ānāpānacatutthajjhānaṃ nibbattitaṃ, yadassa
dvānavutiyojanasabhaṃ āgacchantassa yānakiccaṃ sādhesi, sāmaṇerasīlampissa
paripuṇṇaṃ. Tasmā pubbabhāgapaṭipadaṃ akathetvā arahattassa padaṭṭhānabhūtaṃ
accantasuññataṃ vipassanālakkhaṇamevassa ācikkhituṃ āraddho.
Tattha chadhāturoti dhātuyo vijjamānā, puriso
avijjamāno. Bhagavā hi katthaci vijjamānena avijjamānaṃ dasseti, katthaci
avijjamānena vijjamānaṃ, katthaci vijjamānena vijjamānaṃ, katthaci avijjamānena
avijjamānanti sabbāsave vuttanayeneva vitthāretabbaṃ. Idha pana vijjamānena
avijjamānaṃ dassento evamāha. Sace hi bhagavā purisoti paṇṇattiṃ vissajjetvā
dhātuyo icceva vatvā cittaṃ upaṭṭhāpeyya, kulaputto sandehaṃ kareyya, sammohaṃ
āpajjeyya, desanaṃ sampaṭicchituṃ na sakkuṇeyya. Tasmā tathāgato anupubbena purisoti
paṇṇattiṃ pahāya ‘‘sattoti vā purisoti vā puggaloti vā paṇṇattimattameva,
paramatthato satto nāma natthi, dhātumatteyeva cittaṃ ṭhapāpetvā tīṇi phalāni
paṭivijjhāpessāmī’’ti anaṅgaṇasutte (ma. ni. 1.57 ādayo) vuttabhāsantarakusalo
tāya tāya bhāsāya sippaṃ uggaṇhāpento ācariyo viya evamāha.
Tattha cha dhātuyo assāti chadhāturo. Idaṃ
vuttaṃ hoti – yaṃ tvaṃ purisoti sañjānāsi, so chadhātuko, na cettha
paramatthato puriso atthi, purisoti pana paṇṇattimattamevāti. Sesapadesupi
eseva nayo. Caturādhiṭṭhānoti ettha adhiṭṭhānaṃ vuccati patiṭṭhā,
catupatiṭṭhānoti attho. Idaṃ vuttaṃ hoti – svāyaṃ bhikkhu puriso chadhāturo
chaphassāyatano aṭṭhārasamanopavicāro, so ettova vivaṭṭitvā uttamasiddhibhūtaṃ
arahattaṃ gaṇhamāno imesu catūsu ṭhānesu patiṭṭhāya gaṇhātīti caturādhiṭṭhānoti.
Yattha ṭhitanti yesu adhiṭṭhānesu patiṭṭhitaṃ. Maññassa vā
nappavattantīti maññassa vā mānassa vā nappavattanti. Muni santoti
vuccatīti khīṇāsavamuni upasanto nibbutoti vuccati. Paññaṃ nappamajjeyyāti
arahattaphalapaññāya paṭivijjhanatthaṃ āditova samādhivipassanāpaññaṃ
nappamajjeyya. Saccamanurakkheyyāti paramatthasaccassa nibbānassa
sacchikiriyatthaṃ āditova vacīsaccaṃ rakkheyya. Cāgamanubrūheyyāti
arahattamaggena sabbakilesapariccāgakaraṇatthaṃ āditova kilesapariccāgaṃ
brūheyya. Santimeva so sikkheyyāti arahattamaggena
sabbakilesavūpasamanatthaṃ āditova kilesavūpasamanaṃ sikkheyya. Iti paññādhiṭṭhānādīnaṃ
adhigamatthāya imāni samathavipassanāpaññādīni pubbabhāgādhiṭṭhānāni vuttāni.
345. Phassāyatananti
phassassa āyatanaṃ, ākaroti attho. Paññādhiṭṭhānantiādīni pubbe vuttānaṃ
arahattaphalapaññādīnaṃ vasena veditabbāni.
348. Idāni
nikkhittamātikāvasena ‘‘yattha ṭhitaṃ maññassa vā nappavattantī’’ti vattabbaṃ
bhaveyya, arahatte pana patte puna ‘‘paññaṃ nappamajjeyyā’’tiādīhi kiccaṃ
natthi. Iti bhagavā mātikaṃ uppaṭipāṭidhātukaṃ ṭhapetvāpi yathādhammavaseneva
vibhaṅgaṃ vibhajanto paññaṃ nappamajjeyyātiādimāha. Tattha ko paññaṃ
pamajjati, ko nappamajjati? Yo tāva imasmiṃ sāsane pabbajitvā
vejjakammādivasena ekavīsatividhāya anesanāya jīvikaṃ kappento pabbajjānurūpena
cittuppādaṃ ṭhapetuṃ na sakkoti, ayaṃ paññaṃ pamajjati nāma. Yo pana sāsane
pabbajitvā sīle patiṭṭhāya buddhavacanaṃ uggaṇhitvā sappāyaṃ dhutaṅgaṃ samādāya
cittarucitaṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvā vivittaṃ senāsanaṃ nissāya kasiṇaparikammaṃ
katvā samāpattiṃ patvā ajjeva arahattanti vipassanaṃ vaḍḍhetvā vicarati, ayaṃ
paññaṃ nappamajjati nāma. Imasmiṃ pana sutte dhātukammaṭṭhānavasena esa paññāya
appamādo vutto. Dhātukammaṭṭhāne panettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ heṭṭhā
hatthipadopamasuttādīsu vuttameva.
354. Athāparaṃ
viññāṇaṃyeva avasissatīti ayampettha pāṭiyekko anusandhi. Heṭṭhato hi
rūpakammaṭṭhānaṃ kathitaṃ, idāni arūpakammaṭṭhānaṃ vedanāvasena nibbattetvā
dassetuṃ ayaṃ desanā āraddhā. Yaṃ vā panetaṃ imassa bhikkhuno pathavīdhātuādīsu
āgamaniyavipassanāvasena kammakārakaviññāṇaṃ, taṃ viññāṇadhātuvasena bhājetvā
dassentopi imaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha avasissatīti kimatthāya
avasissati? Satthu kathanatthāya kulaputtassa ca paṭivijjhanatthāya avasissati.
Parisuddhanti nirupakkilesaṃ. Pariyodātanti pabhassaraṃ. Sukhantipi
vijānātīti sukhavedanaṃ vedayamāno sukhavedanaṃ vedayāmīti pajānāti.
Sesapadadvayesupi eseva nayo. Sace panāyaṃ vedanākathā heṭṭhā na kathitā
bhaveyya, idha ṭhatvā kathetuṃ vaṭṭeyya. Satipaṭṭhāne panesā kathitāvāti tattha
kathitanayeneva veditabbā. Sukhavedaniyanti evamādi paccayavasena
udayatthaṅgamanadassanatthaṃ vuttaṃ. Tattha sukhavedaniyanti
sukhavedanāya paccayabhūtaṃ. Sesapadesupi eseva nayo.
360. Upekkhāyeva
avasissatīti ettāvatā hi yathā nāma chekena maṇikārācariyena vajirasūciyā
vijjhitvā cammakhaṇḍe pātetvā pātetvā dinnamuttaṃ antevāsiko gahetvā gahetvā
suttagataṃ karonto muttolambakamuttajālādīni karoti, evameva bhagavatā kathetvā
kathetvā dinnaṃ kammaṭṭhānaṃ ayaṃ kulaputto manasikaronto manasikaronto paguṇaṃ
akāsīti rūpakammaṭṭhānampissa arūpakammaṭṭhānampi paguṇaṃ jātaṃ, atha bhagavā
‘‘athāparaṃ upekkhāyeva avasissatī’’ti āha.
Kimatthaṃ pana avasissatīti? Satthu kathanatthaṃ.
Kulaputtassa paṭivijjhanatthantipi vadanti, taṃ na gahetabbaṃ. Kulaputtena hi
sahāyassa sāsanaṃ vācetvā pāsādatale ṭhiteneva ānāpānacatutthajjhānaṃ
nibbattitaṃ, yadassa ettakaṃ maggaṃ āgacchantassa yānakiccaṃ sādheti. Satthu
kathanatthaṃyeva avasissati. Imasmiñhi ṭhāne satthā kulaputtassa
rūpāvacarajjhāne vaṇṇaṃ kathesi. Idañhi vuttaṃ hoti ‘‘bhikkhu paguṇaṃ tava idaṃ
rūpāvacaracatutthajjhāna’’nti. Parisuddhātiādi tassāyeva upekkhāya vaṇṇabhaṇanaṃ.
Ukkaṃ bandheyyāti aṅgārakapallaṃ sajjeyya. Ālimpeyyāti tattha aṅgāre
pakkhipitvā aggiṃ datvā nāḷikāya dhamento aggiṃ jāleyya. Ukkāmukhe
pakkhipeyyāti aṅgāre viyūhitvā aṅgāramatthake vā ṭhapeyya, tattake vā
pakkhipeyya. Nīhaṭanti nīhaṭadosaṃ. Ninnītakasāvanti
apanītakasāvaṃ. Evameva khoti yathā taṃ suvaṇṇaṃ icchiticchitāya piḷandhanavikatiyā
saṃvattati, evameva ayaṃ tāva catutthajjhānupekkhā vipassanā abhiññā nirodho
bhavokkantīti imesu yaṃ icchati, tassatthāya hotīti vaṇṇaṃ kathesi.
Kasmā pana bhagavā imasmiṃ rūpāvacaracatutthajjhāne
nikantipariyādānatthaṃ avaṇṇaṃ akathetvā vaṇṇaṃ kathesīti. Kulaputtassa hi
catutthajjhāne nikantipariyuṭṭhānaṃ balavaṃ. Sace avaṇṇaṃ katheyya, – ‘‘mayhaṃ
pabbajitvā dvānavutiyojanasataṃ āgacchantassa imaṃ catutthajjhānaṃ yānakiccaṃ
sādhesi, ahaṃ ettakaṃ maggaṃ āgacchanto jhānasukhena jhānaratiyā āgato,
evarūpassa nāma paṇītadhammassa avaṇṇaṃ katheti, jānaṃ nu kho katheti
ajāna’’nti kulaputto saṃsayaṃ sammohaṃ āpajjeyya, tasmā bhagavā vaṇṇaṃ kathesi.
361. Tadanudhammanti
ettha arūpāvacarajjhānaṃ dhammo nāma, taṃ anugatattā rūpāvacarajjhānaṃ anudhammoti
vuttaṃ. Vipākajjhānaṃ vā dhammo, kusalajjhānaṃ anudhammo. Tadupādānāti
taggahaṇā. Ciraṃ dīghamaddhānanti vīsatikappasahassāni. Vipākavasena
hetaṃ vuttaṃ. Ito uttarimpi eseva nayo.
362. Evaṃ catūhi
vārehi arūpāvacarajjhānassa vaṇṇaṃ kathetvā idāni tasseva ādīnavaṃ dassento so
evaṃ pajānātītiādimāha. Tattha saṅkhatametanti kiñcāpi ettha
vīsatikappasahassāni āyu atthi, etaṃ pana saṅkhataṃ pakappitaṃ āyūhitaṃ,
karontena karīyati, aniccaṃ adhuvaṃ asassataṃ tāvakālikaṃ,
cavanaparibhedanaviddhaṃsanadhammaṃ, jātiyā anugataṃ, jarāya anusaṭaṃ, maraṇena
abbhāhataṃ, dukkhe patiṭṭhitaṃ, atāṇaṃ aleṇaṃ asaraṇaṃ asaraṇībhūtanti. Viññāṇañcāyatanādīsupi
eseva nayo.
Idāni arahattanikūṭena desanaṃ gaṇhanto so neva taṃ
abhisaṅkharotītiādimāha. Yathā hi cheko bhisakko visavikāraṃ disvā vamanaṃ
kāretvā visaṃ ṭhānato cāvetvā upari āropetvā khandhaṃ vā sīsaṃ vā gahetuṃ
adatvā visaṃ otāretvā pathaviyaṃ pāteyya, evameva bhagavā kulaputtassa
arūpāvacarajjhāne vaṇṇaṃ kathesi. Taṃ sutvā kulaputto rūpāvacarajjhāne nikantiṃ
pariyādāya arūpāvacarajjhāne patthanaṃ ṭhapesi.
Bhagavā taṃ ñatvā taṃ asampattassa appaṭiladdhasseva
bhikkhuno ‘‘atthesā ākāsānañcāyatanādīsu sampatti nāma. Tesañhi paṭhamabrahmaloke
vīsatikappasahassāni āyu, dutiye cattālīsaṃ, tatiye saṭṭhi, catutthe caturāsīti
kappasahassāni āyu. Taṃ pana aniccaṃ adhuvaṃ asassataṃ tāvakālikaṃ,
cavanaparibhedanaviddhaṃsanadhammaṃ, jātiyā anugataṃ, jarāya anusaṭaṃ, maraṇena
abbhāhataṃ, dukkhe patiṭṭhitaṃ, atāṇaṃ aleṇaṃ asaraṇaṃ asaraṇībhūtaṃ, ettakaṃ
kālaṃ tattha sampattiṃ anubhavitvāpi puthujjanakālakiriyaṃ katvā puna catūsu
apāyesu patitabba’’nti sabbametaṃ ādīnavaṃ ekapadeneva ‘‘saṅkhatameta’’nti
kathesi. Kulaputto taṃ sutvā arūpāvacarajjhāne nikantiṃ pariyādiyi, bhagavā
tassa rūpāvacarārūpāvacaresu nikantiyā pariyādinnabhāvaṃ ñatvā arahattanikūṭaṃ
gaṇhanto ‘‘so neva taṃ abhisaṅkharotī’’tiādimāha.
Yathā vā paneko mahāyodho ekaṃ rājānaṃ ārādhetvā
satasahassuṭṭhānakaṃ gāmavaraṃ labheyya, puna rājā tassānubhāvaṃ saritvā –
‘‘mahānubhāvo yodho, appakaṃ tena laddha’’nti – ‘‘nāyaṃ tāta gāmo tuyhaṃ
anucchaviko, aññaṃ catusatasahassuṭṭhānakaṃ gaṇhāhī’’ti dadeyya so sādhu devāti
taṃ vissajjetvā itaraṃ gāmaṃ gaṇheyya. Rājā asampattameva ca naṃ pakkosāpetvā –
‘‘kiṃ te tena, ahivātarogo ettha uppajjati? Asukasmiṃ pana ṭhāne mahantaṃ
nagaraṃ atthi, tattha chattaṃ ussāpetvā rajjaṃ kārehī’’ti pahiṇeyya, so tathā
kareyya.
Tattha rājā viya sammāsambuddho daṭṭhabbo, mahāyodho
viya pukkusāti kulaputto, paṭhamaladdhagāmo viya ānāpānacatutthajjhānaṃ, taṃ
vissajjetvā itaraṃ gāmaṃ gaṇhāhīti vuttakālo viya ānāpānacatutthajjhāne
nikantipariyādānaṃ katvā āruppakathanaṃ, taṃ gāmaṃ asampattameva pakkosāpetvā
‘‘kiṃ te tena, ahivātarogo ettha uppajjati? Asukasmiṃ ṭhāne nagaraṃ atthi,
tattha chattaṃ ussāpetvā rajjaṃ kārehī’’ti vuttakālo viya arūpe saṅkhatametanti
ādīnavakathanena appattāsuyeva tāsu samāpattīsu patthanaṃ nivatthāpetvā upari
arahattanikūṭena desanāgahaṇaṃ.
Tattha neva abhisaṅkharotīti nāyūhati na rāsiṃ
karoti. Na abhisañcetayatīti na kappeti. Bhavāya vā vibhavāya vāti
vuddhiyā vā parihāniyā vā, sassatucchedavasenapi yojetabbaṃ. Na kiñci loke
upādiyatīti loke rūpādīsu kiñci ekadhammampi taṇhāya na gaṇhāti, na
parāmasati. Nāparaṃ itthattāyāti pajānātīti bhagavā attano buddhavisaye ṭhatvā
desanāya arahattanikūṭaṃ gaṇhi. Kulaputto pana attano yathopanissayena tīṇi
sāmaññaphalāni paṭivijjhi. Yathā nāma rājā suvaṇṇabhājanena nānārasabhojanaṃ
bhuñjanto attano pamāṇena piṇḍaṃ vaṭṭetvā aṅke nisinnena rājakumārena piṇḍamhi
ālaye dassite taṃ piṇḍaṃ upanāmeyya, kumāro attano mukhappamāṇeneva kabaḷaṃ
kareyya, sesaṃ rājā sayaṃ vā bhuñjeyya, pātiyaṃ vā pakkhipeyya, evaṃ dhammarājā
tathāgato attano pamāṇena arahattanikūṭaṃ gaṇhanto desanaṃ desesi, kulaputto
attano yathopanissayena tīṇi sāmaññaphalāni paṭivijjhi.
Ito pubbe panassa khandhā dhātuyo āyatanānīti evarūpaṃ
accantasuññataṃ tilakkhaṇāhataṃ kathaṃ kathentassa neva kaṅkhā, na vimati, nāpi
– ‘‘evaṃ kira taṃ, evaṃ me ācariyena vutta’’nti iti kira na dandhāyitattaṃ na
vitthāyitattaṃ atthi. Ekaccesu ca kira ṭhānesu buddhā aññātakavesena vicaranti,
sammāsambuddho nu kho esoti ahudeva saṃsayo, ahu vimati. Yato anena
anāgāmiphalaṃ paṭividdhaṃ, atha ayaṃ me satthāti niṭṭhaṃ gato. Yadi evaṃ kasmā accayaṃ
na desesīti. Okāsābhāvato. Bhagavā hi yathānikkhittāya mātikāya acchinnadhāraṃ
katvā ākāsagaṅgaṃ otārento viya desanaṃ desesiyeva.
363. Soti
arahā. Anajjhositāti gilitvā pariniṭṭhāpetvā gahetuṃ na yutthāti
pajānāti. Anabhinanditāti taṇhādiṭṭhivasena abhinandituṃ na yuttāti
pajānāti.
364. Visaṃyutto
naṃ vedetīti sace hissa sukhavedanaṃ ārabbha rāgānusayo, dukkhavedanaṃ
ārabbha paṭighānusayo, itaraṃ ārabbha avijjānusayo uppajjeyya, saṃyutto
vediyeyya nāma. Anuppajjanato pana visaṃyutto naṃ vedeti nissaṭo vippamutto. Kāyapariyantikanti
kāyakoṭikaṃ. Yāva kāyapavattā uppajjitvā tato paraṃ anuppajjanavedananti attho.
Dutiyapadepi eseva nayo. Anabhinanditāni sītībhavissantīti dvādasasu
āyatanesu kilesānaṃ visevanassa natthitāya anabhinanditāni hutvā idha dvādasasuyeva
āyatanesu nirujjhissanti. Kilesā hi nibbānaṃ āgamma niruddhāpi yattha natthi,
tattha niruddhāti vuccanti. Svāyamattho – ‘‘etthesā taṇhā nirujjhamānā
nirujjhatī’’ti samudayapañhena dīpetabbo. Tasmā bhagavā nibbānaṃ āgamma
sītibhūtānipi idheva sītībhavissantīti āha. Nanu ca idha vedayitāni vuttāni, na
kilesāti. Vedayitānipi kilesābhāveneva sītībhavanti. Itarathā nesaṃ sītibhāvo
nāma natthīti suvuttametaṃ.
365. Evameva
khoti ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ – yathā hi eko puriso telapadīpassa jhāyato
tele khīṇe telaṃ āsiñcati, vaṭṭiyā khīṇāya vaṭṭiṃ pakkhipati, evaṃ dīpasikhāya
anupacchedova hoti, evameva puthujjano ekasmiṃ bhave ṭhito kusalākusalaṃ
karoti, so tena sugatiyañca apāyesu ca nibbattatiyeva, evaṃ vedanānaṃ
anupacchedova hoti. Yathā paneko dīpasikhāya ukkaṇṭhito – ‘‘imaṃ purisaṃ āgamma
dīpasikhā na upacchijjatī’’ti nilīno tassa purisassa sīsaṃ chindeyya, evaṃ vaṭṭiyā
ca telassa ca anupahārā dīpasikhā anāhārā nibbāyati, evameva vaṭṭe ukkaṇṭhito
yogāvacaro arahattamaggena kusalākusalaṃ samucchindati, tassa samucchinnattā
khīṇāsavassa bhikkhuno kāyassa bhedā puna vedayitāni na uppajjantīti.
Tasmāti yasmā ādimhi
samādhivipassanāpaññāhi arahattaphalapaññā uttaritarā, tasmā. Evaṃ
samannāgatoti iminā uttamena arahattaphalapaññādhiṭṭhānena samannāgato. Sabbadukkhakkhaye
ñāṇaṃ nāma arahattamagge ñāṇaṃ, imasmiṃ pana sutte arahattaphale ñāṇaṃ
adhippetaṃ. Tenevāha tassa sā vimutti sacce ṭhitā akuppā hotīti.
366. Ettha hi vimuttīti
arahattaphalavimutti, saccanti paramatthasaccaṃ nibbānaṃ. Iti
akuppārammaṇakaraṇena akuppāti vuttā. Musāti vitathaṃ. Mosadhammanti
nassanasabhāvaṃ. Taṃ saccanti taṃ avitathaṃ sabhāvo. Amosadhammanti
anassanasabhāvaṃ.
Tasmāti yasmā ādito
samathavipassanāvasena vacīsaccato dukkhasaccasamudayasaccehi ca
paramatthasaccaṃ nibbānameva uttaritaraṃ, tasmā. Evaṃ samannāgatoti
iminā uttamena paramatthasaccādhiṭṭhānena samannāgato.
367. Pubbeti
puthujjanakāle. Upadhī hontīti khandhūpadhi kilesūpadhi abhisaṅkhārūpadhi
pañcakāmaguṇūpadhīti ime upadhayo honti. Samattā samādinnāti paripūrā
gahitā paramaṭṭhā. Tasmāti yasmā ādito samathavipassanāvasena
kilesapariccāgato, sotāpattimaggādīhi ca kilesapariccāgato arahattamaggeneva
kilesapariccāgo uttaritaro, tasmā. Evaṃ samannāgatoti iminā uttamena
cāgādhiṭṭhānena samannāgato.
368. Āghātotiādīsu
āghātakaraṇavasena āghāto, byāpajjanavasena byāpādo, sampadussanavasena sampadosoti
tīhi padehi dosākusalamūlameva vuttaṃ. Tasmāti yasmā ādito
samathavipassanāvasena kilesavūpasamato, sotāpattimaggādīhi kilesavūpasamato ca
arahattamaggeneva kilesavūpasamo uttaritaro, tasmā. Evaṃ samannāgatoti
iminā uttamena upasamādhiṭṭhānena samannāgato.
369. Maññitametanti
taṇhāmaññitaṃ mānamaññitaṃ diṭṭhimaññitanti tividhampi vaṭṭati. Ayamahamasmīti
ettha pana ayamahanti ekaṃ taṇhāmaññitameva vaṭṭati. Rogotiādīsu ābādhaṭṭhena
rogo, antodosaṭṭhena gaṇḍo, anupaviṭṭhaṭṭhena sallaṃ. Muni
santoti vuccatīti khīṇāsavamuni santo nibbutoti vuccati. Yattha ṭhitanti
yasmiṃ ṭhāne ṭhitaṃ. Saṃkhittenāti buddhānaṃ kira sabbāpi dhammadesanā
saṃkhittāva, vitthāradesanā nāma natthi, samantapaṭṭhānakathāpi saṃkhittāyeva.
Iti bhagavā desanaṃ yathānusandhiṃ pāpesi. Ugghāṭitaññūtiādīsu pana catūsu
puggalesu pukkusāti kulaputto vipañcitaññū, iti vipañcitaññuvasena bhagavā imaṃ
dhātuvibhaṅgasuttaṃ kathesi.
370. Na kho me,
bhante, paripuṇṇaṃ pattacīvaranti kasmā kulaputtassa iddhimayapattacīvaraṃ
na nibbattanti. Pubbe aṭṭhannaṃ parikkhārānaṃ adinnattā. Kulaputto hi dinnadāno
katābhinīhāro, na dinnattāti na vattabbaṃ. Iddhimayapattacīvaraṃ pana
pacchimabhavikānaṃyeva nibbattati, ayañca punapaṭisandhiko, tasmā na
nibbattanti. Atha bhagavā sayaṃ pariyesitvā kasmā na upasampādesīti.
Okāsābhāvato. Kulaputtassa āyu parikkhīṇaṃ, suddhāvāsiko anāgāmī mahābrahmā
kumbhakārasālaṃ āgantvā nisinno viya ahosi. Tasmā sayaṃ na pariyesi.
Pattacīvarapariyesanaṃ pakkāmīti kāya velāya pakkāmi? Uṭṭhite aruṇe. Bhagavato kira dhammadesanāpariniṭṭhānañca
aruṇuṭṭhānañca rasmivissajjanañca ekakkhaṇe ahosi. Bhagavā kira desanaṃ niṭṭhapetvāva
chabbaṇṇarasmiyo vissajji, sakalakumbhakāranivesanaṃ ekapajjotaṃ ahosi, chabbaṇṇarasmiyo
jālajālā puñjapuñjā hutvā vidhāvantiyo sabbadisābhāge suvaṇṇapaṭapariyonaddhe
viya ca nānāvaṇṇakusumaratanavisarasamujjale viya ca akaṃsu. Bhagavā
‘‘nagaravāsino maṃ passantū’’ti adhiṭṭhāsi. Nagaravāsino bhagavantaṃ disvāva
‘‘satthā kira āgato, kumbhakārasālāya kira nisinno’’ti aññamaññassa ārocetvā
rañño ārocesuṃ.
Rājā āgantvā satthāraṃ vanditvā, ‘‘bhante, kāya velāya
āgatatthā’’ti pucchi. Hiyyo sūriyatthaṅgamanavelāya mahārājāti. Kena kammena
bhagavāti? Tumhākaṃ sahāyo pukkusāti rājā tumhehi pahitaṃ sāsanaṃ sutvā
nikkhamitvā pabbajitvā maṃ uddissa āgacchanto sāvatthiṃ atikkamma
pañcacattālīsa yojanāni āgantvā imaṃ kumbhakārasālaṃ pavisitvā nisīdi, ahaṃ
tassa saṅgahatthaṃ āgantvā dhammakathaṃ kathesiṃ, kulaputto tīṇi phalāni paṭivijjhi
mahārājāti. Idāni kahaṃ, bhanteti? Upasampadaṃ yācitvā aparipuṇṇapattacīvaratāya
pattacīvarapariyesanatthaṃ gato mahārājāti. Rājā kulaputtassa gatadisābhāgena
agamāsi. Bhagavāpi ākāsenāgantvā jetavanagandhakuṭimhiyeva pāturahosi.
Kulaputtopi pattacīvaraṃ pariyesamāno neva
bimbisārarañño na takkasīlakānaṃ jaṅghavāṇijānaṃ santikaṃ agamāsi. Evaṃ kirassa
ahosi – ‘‘na kho me kukkuṭassa viya tattha tattha manāpāmanāpameva vicinitvā
pattacīvaraṃ pariyesituṃ yuttaṃ, mahantaṃ nagaraṃ vajjitvā udakatitthasusānasaṅkāraṭṭhānaantaravīthīsu
pariyesissāmī’’ti antaravīthiyaṃ saṅkārakūṭesu tāva pilotikaṃ pariyesituṃ
āraddho.
Jīvitā voropesīti etasmiṃ saṅkārakūṭe
pilotikaṃ olokentaṃ vibbhantā taruṇavacchā gāvī upadhāvitvā siṅgena vijjhitvā
ghātesi. Chātakajjhatto kulaputto ākāseyeva āyukkhayaṃ patvā patito. Saṅkāraṭṭhāne
adhomukhaṭṭhapitā suvaṇṇapaṭimā viya ahosi, kālaṅkato ca pana avihābrahmaloke
nibbatti, nibbattamattova arahattaṃ pāpuṇi. Avihābrahmaloke kira
nibbattamattāva satta janā arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Vuttañhetaṃ –
‘‘Avihaṃ upapannāse, vimuttā satta bhikkhavo;
Rāgadosaparikkhīṇā, tiṇṇā loke visattikaṃ.
Ke ca te ataruṃ paṅkaṃ, maccudheyyaṃ suduttaraṃ;
Ke hitvā mānusaṃ dehaṃ, dibbayogaṃ upaccaguṃ.
Upako palagaṇḍo ca, pukkusāti ca te tayo;
Bhaddiyo khaṇḍadevo ca, bāhuraggi ca siṅgiyo;
Te hitvā mānusaṃ dehaṃ, dibbayogaṃ upaccagu’’nti. (saṃ.
ni. 1.50, 105);
Bimbisāropi ‘‘mayhaṃ sahāyo mayā pesitasāsanamattaṃ vācetvā
hatthagataṃ rajjaṃ pahāya ettakaṃ addhānaṃ āgato, dukkaraṃ kataṃ kulaputtena,
pabbajitasakkārena taṃ sakkarissāmī’’ti ‘‘pariyesatha me sahāyaka’’nti tattha
tattha pesesi. Pesitā taṃ addasaṃsu saṅkāraṭṭhāne patitaṃ, disvā āgamma rañño
ārocesuṃ. Rājā gantvā kulaputtaṃ disvā – ‘‘na vata, bho, labhimhā sahāyakassa
sakkāraṃ kātuṃ, anātho me jāto sahāyako’’ti. Paridevitvā kulaputtaṃ mañcakena
gaṇhāpetvā yuttokāse ṭhapetvā anupasampannassa sakkāraṃ kātuṃ jānanābhāvena
nhāpakakappakādayo pakkosāpetvā kulaputtaṃ sīsaṃ nhāpetvā suddhavatthāni
nivāsāpetvā rājavesena alaṅkārāpetvā sovaṇṇasivikaṃ āropetvā sabbatāḷāvacaragandhamālādīhi
pūjaṃ karonto nagarā nīharitvā bahūhi gandhakaṭṭhehi mahācitakaṃ kāretvā
kulaputtassa sarīrakiccaṃ katvā dhātuyo ādāya cetiyaṃ patiṭṭhapesi. Sesaṃ
sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Dhātuvibhaṅgasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Phải chăng theo Phật Pháp thì lục đại duyên khời bao gồm tất cả sự hiện hữu ở thế gian? - TT Pháp Đăng
Thảo luận 2. Trong bốn phương châm tu tập mà hành giả luôn phải ghi nhớ là: không xa rời trí tuệ, hãy bảo vệ sự thật, luôn học hạnh buông xả, rèn luyện trong tịch tịnh thì tại sao sự thật cần bảo vệ (saccamanurakkheyya)? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 3. Tại sao ngày nay đa số Phật tử thường mong được thấy Phật hơn là thấy Pháp? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
III Trắc Nghiệm