Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: ĐĐ Pháp Tín
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 29/5/2020
138. Kinh
Tổng Thuyết & Biệt Thuyết
(Uddesavibhaṅga
Sutta)
Chữ uddesavibhaṅga nghĩa là giảng rộng những
điều được nói tóm tắt. Đức Thế Tôn nói một cách cô đọng về một tỳ kheo vượt thoát
sanh, già, bệnh, chết do tâm không bị chi phối và chấp thủ nội giới cũng như
ngoại giới. Tôn giả Mahākaccāna, một vị đại đệ tử Phật được xem là thù thắng về
khả năng quảng diễn những điều được nói cô đọng, đã trình bày rộng rãi ý nghĩa
của những gì Bậc Đạo Sư muốn nói.
1147. Lời dạy ngắn gọn của Đức Thế Tôn
Đức Phật trong cách nói hàm xúc đã dạy rằng
những ai không bị giao động, chi phối bởi ngoại trần, nội trần và vượt khỏi chấp
thủ sẽ hoàn toàn giải thoát:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ),
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Tại đây,
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". --"Bạch Thế
Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các
Ông Tổng thuyết và Biệt thuyết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần
phải quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy đối với ngoại
(trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội (trần),
không bị chấp thủ quấy rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối với ngoại
(trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội trần,
không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có tập khởi, sanh khởi của khổ
về sanh, già, chết, trong tương lai.
Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy
xong, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bước vào tịnh xá.
1148. Đức khiêm cung và lòng tôn kính của
một bậc thánh đệ tử
Chư tỳ kheo thỉnh cầu tôn giả Mahākaccāna
giảng rõ những gì Đức Phật đã dạy nhưng ban đầu vị nầy từ chối về đề nghị mọi người
nên bạch hỏi Bậc Đạo Sư:
Sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, các
Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau: "Chư Hiền, sau khi đọc lên bài tổng
thuyết một cách vắn tắt, không có giải nghĩa một cách rộng rãi, Thế
Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá: "Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy
đối với ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú
trước nội (trần), không bị chấp thủ quấy rối. Này các Tỷ-kheo, nếu
thức đối với ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú
trước nội trần, không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có tập khởi,
sanh khởi của khổ về sanh, già, chết trong tương lai". Nay không
biết ai có thể giải nghĩa một cách rộng rãi phần tổng thuyết này,
phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải
nghĩa một cách rộng rãi".
Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau:
"Tôn giả Mahākaccāna (Ðại Ca-chiên-diên) này đã được Thế Tôn tán thán
và được các vị đồng Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả Mahākaccāna có
thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi. Vậy
chúng ta hãy đến Tôn giả Mahākaccāna; sau khi đến, chúng ta hãy hỏi Tôn
giả Mahākaccāna về ý nghĩa này". Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn giả
Mahākaccāna; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahākaccāna những lời chào
đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các vị Tỷ-kheo ấy thưa với
Tôn giả Mahākaccāna:
-- Thưa Hiền giả Kaccāna, sau khi đọc
tổng thuyết này, không giải nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ
ngồi đứng dậy đi vào tinh xá: "Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải
quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy đối với ngoại
(trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội (trần),
không bị chấp thủ quấy rối. Nay không biết có ai có thể giải nghĩa một
cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một
cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi". Rồi này Hiền
giả Kaccāna, chúng tôi suy nghĩ như sau: "Tôn giả Mahākaccāna này đã
được Thế Tôn tán thán và được các vị đồng Phạm hạnh có trí kính
trọng, Tôn giả Mahākaccāna có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng
thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không
giải nghĩa một cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy hỏi Tôn giả Mahākaccāna
về ý nghĩa này, Tôn giả Mahākaccāna hãy giải thích cho".
-- Này chư Hiền, ví như một người
cần thiết lõi cây, tìm cầu lõi cây, đang đi tìm cầu lõi cây, đứng trước
một cây lớn có lõi cây. Người ấy bỏ rễ, bỏ thân cây, nghĩ rằng lõi
cây cần phải tìm trong các nhánh cây, lá cây... Cũng vậy là việc làm của
chư Tôn giả. Chư Tôn giả đứng trước mặt Thế Tôn, chư Tôn giả lại
vượt qua Thế Tôn, và nghĩ rằng cần phải hỏi tôi về ý nghĩa này.
Nhưng này chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những gì
cần thấy, bậc có mắt, bậc Trí giả, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc
Thuyết giả, bậc Tuyên thuyết giả, bậc dẫn đến mục đích, bậc đem cho
bất tử, bậc Pháp chủ, bậc Như Lai. Nay đã đến thời chư Hiền hãy đến
hỏi Thế Tôn về ý nghĩ này. Thế Tôn giải thích cho chư Hiền như thế
nào, chư Hiền hãy như vậy thọ trì.
-- Thưa Hiền giả Kaccāna, chắc chắn
Thế Tôn biết những gì cần biết... Nay đã đến thời chúng tôi đến hỏi
Thế Tôn về ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích cho chúng tôi như thế nào,
chúng tôi sẽ như vậy thọ trì. Nhưng Tôn giả Mahākaccāna được Thế Tôn
tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh kính trọng. Tôn giả Mahakaccana có
thể giải thích rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn
nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi. Mong Tôn
giả Mahākaccāna giải thích cho, nếu Tôn giả không cảm thấy phiền phức.
-- Vậy chư Hiền, hãy nghe và suy nghiệm
kỹ, tôi sẽ nói.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Các
vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahakaccana. Tôn giả Mahākaccāna nói như
sau:
1149. Ý nghĩa rộng rãi của những gì Phật dạy
-- Này chư Hiền, phần tổng thuyết
Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi,
từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào trong tinh xá: "Này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy
đối với ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú
trước nội (trần), không bị chấp thủ quấy rối. Này chư Hiền, lời
tổng thuyết này được Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải
nghĩa một cách rộng rãi", tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như
sau:
Tâm bị chi phối bởi ngoại giới là tâm giao
động đối với sáu cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; ngược lại khi tâm không
bị chi phối bởi sáu cảnh là tâm không giao động:
Chư Hiền, sao gọi là thức đối với
(ngoại) trần, bị tán loạn, bị tản rộng? Ở đây, này chư Hiền, khi vị
Tỷ- kheo thấy sắc với con mắt, thức truy cầu sắc tướng, bị trói buộc
bởi vị của sắc tướng, bị cột chặt bởi vị của sắc tướng, bị
triền phược bởi kiết sử vị của sắc tướng, như vậy gọi là thức
đối với ngoại (trần) bị tán loạn, tản rộng. Khi vị Tỷ-kheo nghe
tiếng với tai... ngửi hương với mũi... nếm vị với lưỡi... cảm xúc
với thân... nhận thức pháp với ý, thức truy cầu pháp tướng, bị trói buộc
bởi vị của pháp tướng, bị cột chặt bởi vị của pháp tướng, bị
triền phược bởi kiết sử vị của pháp tướng; như vậy gọi là thức
đối với ngoại (trần) bị tán loạn, tản rộng. Như vậy, này chư Hiền,
gọi là thức bị tán loạn, tản rộng.
Chư Hiền, sao gọi là thức đối với
(ngoại) trần, không bị tán loạn, không bị tản rộng? Ở đây, này chư
Hiền, khi vị Tỷ-kheo thấy sắc với con mắt, thức không truy cầu sắc
tướng, không bị trói buộc bởi vị của sắc tướng, không bị cột chặt
bởi vị của sắc tướng; không bị triền phược bởi kiết sử vị của
sắc tướng; như vậy gọi là thức đối với ngoại (trần) không bị tán
loạn, không bị tản rộng. Khi vị Tỷ-kheo nghe tiếng với tai... ngửi
hương với mũi... nếm vị với lưỡi.. cảm xúc với thân.... nhận thức
pháp với ý, thức không truy cầu pháp tướng, không bị trói buộc bởi vị
của pháp tướng, không bị cột chặt bởi vị của pháp tướng, không bị
triền phược bởi kiết sử vị của pháp tướng; như vậy gọi là thức
đối với ngoại (trần) không bị tán loạn, không bị tản rộng. Như vậy,
này chư Hiền, gọi là thức không bị tán loạn, không bị tản rộng.
Không bị chi phối và không bị chi phối bởi
nội trần
Nội trần ở đây chỉ cho hỷ lạc trong thiền
chứng đó là những trạng thái tạo nên chấp thủ:
Và này chư Hiền, thế nào gọi là tâm
trú trước nội (trần)? Ở đây, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất
thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, có tầm có tứ. Thức vị ấy truy tìm hỷ lạc do ly dục
sanh, bị trói buộc bởi vị hỷ lạc do ly dục sanh, bị cột chặt bởi vị
hỷ lạc do ly dục sanh, bị triền phược bởi kiết sử hỷ lạc do ly dục
sanh; như vậy gọi là tâm trú trước nội (trần).
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo
đình chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái
hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhứt tâm. Thức của
vị ấy truy tìm hỷ lạc do định sanh, bị trói buộc bởi vị hỷ lạc do định
sanh, bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do định sanh; bị triền phược bởi
kiết sử hỷ lạc do định sanh; như vậy gọi là tâm trú trước nội
(trần).
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo ly
hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh
gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Thức của
vị ấy truy tìm xả, bị trói buộc bởi vị xả và lạc, bị cột chặt bởi
vị xả và lạc, bị triền phược bởi vị xả và lạc; như vậy gọi là tâm
trú trước nội (trần).
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo
xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Thức của vị
ấy truy tìm không khổ không lạc, bị trói buộc bởi vị không khổ không
lạc, bị cột chặt bởi vị không khổ không lạc, bị triền phược bởi
kiết sử vị không khổ không lạc; như vậy gọi là tâm trú trước nội
(trần). Như vậy gọi là tâm trú trước nội (trần).
Và này chư Hiền, thế nào gọi là tâm
không bị trú trước nội (trần)? Ở đây, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, không tầm không tứ. Thức của vị ấy không
truy tìm hỷ lạc do ly dục sanh, không bị trói buộc bởi vị hỷ lạc do ly
dục sanh, không bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do ly dục sanh, không bị
triền phược bởi kiết sử hỷ lạc do ly dục sanh, như vậy gọi là tâm
không trú trước nội (trần).
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo
đình chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái
hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Thức của
vị ấy không truy tìm hỷ lạc do định sanh, không bị trói buộc bởi vị
hỷ lạc do định sanh, không bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do định sanh,
không bị triền phược bởi kiết sử hỷ lạc do định sanh; như vậy gọi
là tâm không trú trước nội (trần).
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo ly
hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh
gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Thức của
vị ấy không truy tìm xả, không bị trói buộc bởi vị xả và lạc, không
bị cột chặt bởi vị xả và lạc, không bị triền phược bởi vị xả và
lạc, như vậy được gọi là tâm không trú trước nội (trần).
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo
xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Thức của vị
ấy không truy tìm không khổ không lạc, không bị trói buộc bởi vị của
không khổ không lạc, không bị cột chặt bởi vị của không khổ không
lạc, không bị triền phược bởi kiết sử vị không khổ không lạc; như vậy
gọi là tâm không trú trước nội (trần). Như vậy gọi là tâm không trú
trước nội (trần).
Chấp thủ và không chấp thủ
Đối với tất cả hiện tượng dù nội giới hay
ngoại giới nếu bám víu bằng ngã chấp gọi là chấp thủ. Quán chiếu tất cả như hiện
tượng tự nhiên sanh diệt là không chấp thủ:
Và thế nào, này chư Hiền, là bị chấp
thủ quấy rối? Ở đây, này chư Hiền, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ
các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các
bậc Thánh, không yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc
Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, thấy sắc như là tự ngã,
hay tự ngã như là có sắc, hay thấy sắc như là tự ngã, hay tự ngã như
là có sắc. Sắc pháp ấy của nó có biến hoại, đổi khác. Với sự biến hoại
và đổi khác trong sắc pháp ấy của nó, thức của vị ấy bị tùy chuyển
bởi sự biến hoại trong sắc pháp của vị ấy. Do thức bị tùy chuyển
bởi sự biến hoại trong sắc pháp, nên pháp quấy rối khởi lên, xâm nhập
tâm và tồn tại. Vì tâm bị xâm nhập, vị ấy sợ hãi, bực phiền và đầy
những khao khát. Và vị ấy bị chấp thủ quấy rối.
Vị ấy xem cảm thọ.. tưởng... các
hành... thức như là tự ngã hay tự ngã, như là có thức, hay thức như là
trong tự ngã, hay tự ngã như là trong thức. Thức ấy của vị ấy biến
hoại và đổi khác. Với sự biến hoại và đổi khác trong thức ấy của vị
ấy, thức của vị ấy bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong thức của
vị ấy. Do thức bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong pháp, nên các pháp
quấy rối khởi lên, xâm nhập tâm và tồn tại. Vì tâm bị xâm nhập, vị ấy
sợ hãi, bực phiền và đầy những khao khát. Và vị ấy bị chấp thủ, quấy
rối. Như vậy, này chư Hiền, là bị chấp thủ, quấy rối.
Và thế nào, này chư Hiền, là không bị
chấp thủ quấy rối? Ở đây, này chư Hiền, có Ða văn Thánh đệ tử yết
kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc
Thánh; yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu
tập pháp các bậc Chân nhân; không thấy sắc như là tự ngã, hay tự ngã
như là có sắc, hay không thấy sắc như là trong tự ngã, hay tự ngã như
là trong sắc. Sắc pháp của vị ấy biến hoại, đổi khác. Với sự biến
hoại và đổi khác trong sắc pháp của vị ấy, thức của vị ấy không bị
tùy chuyển bởi sự biến hoại trong sắc pháp của vị ấy. Do thức không
bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong sắc pháp, nên các pháp quấy rối
khởi lên, không xâm nhập tâm và tồn tại. Vì tâm không bị xâm nhập, vị
ấy không sợ hãi, không bực phiền và không đầy những khao khát. Và vị ấy
không bị chấp thủ quấy rối.
Vị ấy không xem cảm thọ.. tưởng...
các hành.. thức như là tự ngã hay tự ngã là có thức, hay không thấy thức
như là trong tự ngã hay tự ngã như là trong thức. Thức của vị ấy biến
hoại và đổi khác. Với sự biến hoại và đổi khác trong thức của vị ấy,
thức không bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong thức của vị ấy. Do
thức không bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong thức, nên các pháp
quấy rối không khởi lên, xâm nhập tâm và tồn tại. Vì tâm không bị xâm nhập,
vị ấy không sợ hãi, không bực phiền và không đầy những khao khát. Và vị
ấy không bị chấp thủ quấy rối. Như vậy, này chư Hiền, là không bị
chấp thủ quấy rối.
Này chư Hiền, phần tổng thuyết Thế
Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ
chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào trong tinh xá: "Này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy đối
với ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội
(trần), không bị chấp thủ quấy rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối
với ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội
trần, không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có tập khởi, sanh khởi
của khổ về sanh, già, chết, trong tương lai". Phần tổng thuyết
này, này chư Hiền, được Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không được
giải nghĩa một cách rộng rãi; này chư Hiền, tôi hiểu ý nghĩa một cách
rộng rãi như vậy. Và nếu như Tôn giả muốn, hãy đi đến Thế Tôn và hỏi
ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích các Tôn giả như thế nào, hãy như vậy
thọ trì.
1150. Lời xác nhận của Đức Điều Ngự
Chư tỳ kheo trình lại Đức Phật những gì đã
được Tôn giả Mahākaccāna giảng. Nghe xong Đức Thế Tôn tán thán:
Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ
tín thọ lời Tôn giả Mahākaccāna giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến
Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, các vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, sau khi đọc phần
tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng con, không giải thích nghĩa một
cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, và đi vào tịnh xá:
"Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế
nào để thức của vị ấy đối với ngoại (trần) không tán loạn, không tản
rộng, tâm không trú trước nội (trần), không bị chấp thủ quấy rối. Này
các Tỷ-kheo, nếu thức đối với ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng,
tâm không trú trước nội trần, không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có
tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già, chết, trong tương lai".
Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn đi không
bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau: "Thế Tôn sau khi đọc phần tổng
thuyết một cách vắn tắt cho chúng ta, không giải nghĩa một cách rộng
rãi, và đã đi vào tinh xá: "Vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách
như thế nào để thức của vị ấy đối với ngoại (trần) không tán loạn,
không tản rộng, tâm không trú trước nội (trần), không bị chấp thủ
quấy rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối với ngoại (trần) không tán
loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không bị chấp thủ
quấy rối, sẽ không có tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già, chết,
trong tương lai.". Nay không biết ai có thể giải nghĩa một cách rộng
rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn đọc lên một cách vắn
tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi".
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con suy nghĩ
như sau: "Tôn giả Mahākaccāna (Ðại Ca-chiên-diên) này đã được Thế
Tôn tán thán và được các vị đồng Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả
Mahākaccāna có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần
này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một
cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đến Tôn giả Mahākaccāna; sau khi đến,
chúng ta hãy hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa này."
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con đi đến Tôn
giả Mahākaccāna, sau khi đến chúng con hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa
này. Ý nghĩa của những (chữ) ấy đã được Tôn giả Mahākaccāna giải thích
cho chúng con với những phương pháp (ākāra) này, với những câu này, với
những chữ này.
-- Này các Tỷ-kheo, Mahākaccāna là bậc
Hiền giả. Này các Tỷ-kheo, Mahākaccāna là bậc đại trí tuệ. Này các
Tỷ-kheo, nếu các Ông hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng giải thích cho các
Ông như vậy, như Mahākaccāna đã giải thích. Thật sự ý nghĩa ấy là vậy,
và các Ông hãy thọ trì như vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 138 [tóm
tắt]
Kinh
Tổng Thuyết Biệt Thuyết
(Uddesavibhaṅga
Sutta)
(M.iii,
223)
Đức Phật khuyên các Tỷ-kheo cần quán
sát thế nào để thức của mình không bị tán loạn, tản rộng đối với
ngoại trần, tâm không đắm trước nội trần, không chấp thủ, không bị
khủng bố, được vậy thì không có tập khởi của khổ về sanh, già, chết
trong tương lai. Đây là phần tổng thuyết do Thế Tôn nói lên, xong rồi đi
vào tịnh thất. Các vị Tỷ-kheo đi đến Tôn giả Mahākaccāna (Đại
Ca-chiên- diên) và được Ngài giảng phần biệt thuyết như sau:
1/ Thức đối với ngoại trần không bị
tán loạn, tản rộng, ấy là khi con mắt tiếp xúc với sắc tướng, tai
với thanh... ý với pháp..., thức vị ấy không truy cầu các đối tượng
ấy, không bị trói buộc cột chặt trong đó, không bị các kiết sử của
sắc tướng....
2/ Tâm không trú trước nội trần: Không
bị trói buộc bởi hỷ lạc ở Sơ thiền, Nhị thiền (sau khi chứng được
Sơ thiền, Nhị thiền), khi chứng trú Tam thiền, không trú trước, không
truy tầm, không bị trói buộc bởi trạng thái xả và lạc ở Tam thiền, khi
chứng trú Tứ thiền, vị ấy không bị trói buộc bởi trạng thái không khổ
không lạc ở Tứ thiền.
3/ Không chấp thủ, không bị khủng bố:
Vị ấy không chấp thủ sắc, thọ, tưởng, hành, thức là “ta” hay “của
ta”, hay “tự ngã của ta”, nên thức không bị lay chuyển do sự biến hoại
của sắc pháp... nơi vị ấy. Do thức vị ấy không bị tùy chuyển bởi sự
biến hoại của sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên các khủng bố phát khởi
lên không kiên trì ám ảnh tâm; do tâm không bị ám ảnh, vị ấy không sợ
hãi, bực phiền, khao khát. Như vậy là không chấp thủ, không bị khủng
bố.
Thế Tôn ấn khả lời giải thích ấy
đúng ý Ngài và khen Tôn giả Mahākaccāna là bậc đại tuệ.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 138 [dàn
ý]
Kinh
Tổng Thuyết Biệt Thuyết
(Uddesavibhaṅga
Sutta)
(M.iii,
223)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo
và nói sẽ giảng về tổng thuyết và biệt thuyết.
B. Chánh kinh:
I. Thế Tôn giảng về tổng
thuyết, không giải thích rộng rãi rồi đi vào tinh xá.
II. Các Tỷ-kheo thỉnh
Tôn giả Kaccna giải thích rộng rãi lời tổng thuyết của Thế
Tôn. Ban đầu Tôn giả
khiêm tốn từ chối, sau Tôn giả chấp thuận trước lời yêu cầu của các Tỷ-kheo.
III. Tôn giả Kaccna
giải thích tổng thuyết:
1. Sao gọi là thức đối với ngoại trần
bị tán loạn, bị tản rộng và không bị tán loạn, không bị tản rộng.
2.Sao gọi là tâm trú trước nội trần và tâm không trú trước
nội trần.
3. Thế nào là chấp thủ,
bị khủng bố. Thế nào là không chấp thủ, không bị khủng bố.
IV. Các Tỷ-kheo thuật
lại với Thế Tôn lời thuyết giảng của Tôn giả Kaccāna. Thế Tôn tán thán Tôn giả
là bậc đại trí tuệ, giải thích đúng như Thế Tôn giải thích và khuyên các Tỷ-kheo
nên thọ trì như vậy.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 138 [toát
yếu]
Kinh
Tổng Thuyết Biệt Thuyết
(Uddesavibhaṅga
Sutta)
(M.iii,
223)
I. Toát yếu
The Exposition of a Summary.
The venerable Maha Kaccana elaborates
upon a brief saying of the Buddha on the training of consciousness and the
overcoming of agitation.
Giảng rộng một lời dạy vắn tắt.
Tôn giả Ðại Ca-chiên-diên triển khai một
lời dạy vắn tắt củaPhật về sự tu luyện tâm thức để thắng lướt trạo cử giao động.
II. Tóm tắt
Phật dạy chúng tỷ kheo một lời vắn tắt:
Tỷ kheo cần nhìn như thế nào để đối với ngoại trần tâm không bị tản rộng, đối với
nội trần tâm không trú trước, không chấp thủ, không bị khủng bố. Như vậy tương
lai sẽ không còn khổ về sanh, già, chết.
Sau khi Ngài bỏ đi vào tịnh xá, chúng tỷ
kheo đến thỉnh cầu tôn giả Ca-chiên-diên giải thích ý nghĩa. Và Ngài đã giảng
như sau: Khi căn trần thức tiếp xúc, do thức truy cầu tướng bên ngoài nên bị
các tướng trói buộc, đấy gọi là bị tán loạn, tản rộng. Nếu căn trần tiếp xúc mà
thức không theo đuổi tướng ngoài, thì không bị tán loạn. Ðối với nội trần,
nghĩa là các thiền chứng từ sơ đến tứ thiền, thức cũng có thể bị trói buộc bởi
ly dục ly bất thiện pháp, sanh hỷ lạc ở thiền thứ nhất, định sanh hỷ lạc ở thiền
thứ hai, bởi xả niệm lạc trú ở thiền thứ ba và bởi bất khổ bất lạc (xả niệm
thanh tịnh) ở thiền thứ tư. Nếu không bị các thiền chứngnày trói buộc thì gọi
là không trú trước nội trần. Chấp thủ, bị khủng bố là khi kẻ vô văn phàm phu do
không hiểu thánh pháp, chấp sắc là tự ngã, tự ngã ở trong sắc, sắc ở trong tự
ngã, tự ngã có sắc (với 4 uẩn kia cũng chấp như vậy thành ra có 20 thân kiến).
Do chấp như vậy nên khi sắc thọ tưởng hành thức biến hoại, phàm phu lấy làm đau
khổ, bị khủng bố. Thánh đệ tử có tu tập thì không chấp thủ nhưvậy, nên khi sắc
biến hoại, thức không bị chuyển theo, các pháp khủng bố khởi lên không kiên trì
ám ảnh tâm. Vì tâm không bị ám ảnh nên cũng không sợ hãi hay khao khát. Như vậy
là không chấp thủ, không bị khủng bố. Sau khi chúng tỷ kheo đến Phật trình bày cách giải
thích của tôn giả, Phật khen tôn giả Ca-chiên-diên là bậc đại tuệ đã hiểu đúng
lời Ngài dạy.
III. Chú giải
Bài kinh này là cốt tủy của đạo giải
thoát gồm ba phương diện: thái độ đối với ngoại giới, với nội tâm, và với năm uẩn
làm nên thân tâm. Khi năm giác quan tiếp xúc với ngoại giới, tâm không chạy
theo đối tượng; và khi hướng nội đi sâu vào các thiền chứng từ thứ nhất đến thứ
tư, tâm cũng không ham thích. Theo Ngài Huệ Năng, đấy gọi là ngoài thiền trong
định, gọi là thiền định. Ðối với năm uẩn không chấp đây là ta và của ta, nên
khi chết không bám víu tiếc nuối, và vì thế không sợ hãi dù gặp bất cứ cảnh giới
nào xảy ra lúc lâm chung; vẫn giữ thái độ của người ngoại cuộc đang quan sát một
hiện tượng, không có cái tôi sống chết.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Phật dạy chúng tỷ kheo
Một lời dạy vắn tắt:
Hãy quán sát cách nào
Tâm không bị tản rộng
Trong các đối tượng ngoài;
Và đối với nội trần
Không trú trước, chấp thủ,
Tâm không bị khủng bố
Nếu quán được như vậy
Tương lai không còn khổ
Về sanh già bệnh chết.
Tôn giả Ca-chiên-diên
Giải thích rộng ý nghĩa:
Khi con mắt thấy sắc
Thức theo đuổi tướng ngoài
Bị các tướng trói buộc
Là tán loạn, tản rộng.
Nếu căn trần tiếp xúc
Thức không theo đuổi tướng,
Thì không bị tán tâm.
Ðối với các nội trần,
Nghĩa là các thiền chứng
Từ sơ đến tứ thiền,
Thức có thể bị trói
Bởi ly sanh hỷ lạc
Khi chứng thiền thứ nhất,
Hoặc định sanh hỷ lạc
Khi chứng thiền thứ hai,
Hoặc xả niệm lạc trước
Khi chứng thiền thứ ba
Và bất khổ bất lạc
(hay xả niệm thanh tịnh)
Khi chứng thiền thứ tư.
Nếu không bị trói buộc
Bởi các thiền chứng này
Là không trú nội trần.
Chấp thủ, bị khủng bố
Là khi kẻ phàm phu
Do không hiểu thánh pháp,
Chấp sắc là tự ngã,
Tự ngã ở trong sắc,
Sắc ở trong tự ngã,
Hoặc tự ngã có sắc
(đối với 4 uẩn kia
cũng đều chấp như vậy
thành hai mươi thân kiến).
Do chấp thủ như vậy
Khi năm uẩn biến hoại,
Phàm phu rất đau khổ
Hoảng sợ, bị khủng bố.
Thánh đệ tử có tu
Không chấp thủ như vậy,
Nên khi sắc biến hoại,
Thức không bị chuyển theo,
Các khủng bố khởi lên
Không kiên trì ám ảnh.
Tâm không bị ám ảnh
Không sợ hãi, khao khát.
Ðấy là không chấp thủ
Nên không bị khủng bố.
Khi nghe lời giải này
Phật khen Ca-chiên-diên
Chính là bậc đại tuệ
Ðã hiểu đúng lời Ngài.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
138. Uddesavibhaṅgasuttaṃ [Mūla]
313. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca : ''uddesavibhaṅgaṃ vo, bhikkhave, desessāmi. Taṃ suṇātha,
sādhukaṃ manasi karotha bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhanteti kho te bhikkhū bhagavato
paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca : ''tathā tathā, bhikkhave, bhikkhu
upaparikkheyya yathā yathā [yathā yathāssa (sī. syā. kaṃ. pī.)] upaparikkhato
bahiddhā cassa viññāṇaṃ avikkhittaṃ avisaṭaṃ, ajjhattaṃ asaṇṭhitaṃ anupādāya na
paritasseyya. Bahiddhā, bhikkhave, viññāṇe avikkhitte avisaṭe sati ajjhattaṃ
asaṇṭhite anupādāya aparitassato āyatiṃ jātijarāmaraṇadukkhasamudayasambhavo na
hotīti. Idamavoca Bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ
pāvisi.
314. Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ, acirapakkantassa bhagavato, etadahosi :
''idaṃ kho no, āvuso, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena
atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho : 'tathā tathā, bhikkhave ,
bhikkhu upaparikkheyya yathā yathā upaparikkhato bahiddhā cassa viññāṇaṃ
avikkhittaṃ avisaṭaṃ, ajjhattaṃ asaṇṭhitaṃ anupādāya na paritasseyya. Bahiddhā
, bhikkhave, viññāṇe avikkhitte avisaṭe sati ajjhattaṃ asaṇṭhite anupādāya
aparitassato āyatiṃ jātijarāmaraṇadukkhasamudayasambhavo na hotīti. Ko nu kho
imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ
avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyāti? atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ
etadahosi : ''ayaṃ kho āyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca
viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṃkhittena
uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ
vibhajituṃ. Yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā mahākaccāno
tenupasaṅkameyyāma upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmāti.
Atha kho te bhikkhū yenāyasmā
mahākaccāno tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā āyasmatā mahākaccānena saddhiṃ
sammodiṃsu. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavocuṃ : ''idaṃ
kho no, āvuso kaccāna, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena
atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho : 'tathā tathā, bhikkhave,
bhikkhu upaparikkheyya yathā yathā upaparikkhato bahiddhā cassa viññāṇaṃ
avikkhittaṃ avisaṭaṃ, ajjhattaṃ asaṇṭhitaṃ anupādāya na paritasseyya. Bahiddhā,
bhikkhave, viññāṇe avikkhitte avisaṭe sati ajjhattaṃ asaṇṭhite anupādāya
aparitassato āyatiṃ jātijarāmaraṇadukkhasamudayasambhavo na hotīti. Tesaṃ no,
āvuso kaccāna, amhākaṃ, acirapakkantassa bhagavato, etadahosi : 'idaṃ kho no,
āvuso, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ
avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho : tathā tathā, bhikkhave, bhikkhu
upaparikkheyya, yathā yathā upaparikkhato bahiddhā cassa viññāṇaṃ avikkhittaṃ
avisaṭaṃ ajjhattaṃ asaṇṭhitaṃ anupādāya na paritasseyya. Bahiddhā, bhikkhave,
viññāṇe avikkhitte avisaṭe sati ajjhattaṃ
asaṇṭhite anupādāya aparitassato āyatiṃ jātijarāmaraṇadukkhasamudayasambhavo na
hotīti. Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena
atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ
vibhajeyyāti. ''Tesaṃ no, āvuso kaccāna, amhākaṃ etadahosi : 'ayaṃ kho āyasmā
mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa
vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Yaṃnūna mayaṃ
yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ
etamatthaṃ paṭipuccheyyāmāti : vibhajatāyasmā mahākaccānoti.
315. '''Seyyathāpi, āvuso, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ
caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva mūlaṃ atikkamma khandhaṃ sākhāpalāse sāraṃ
pariyesitabbaṃ maññeyya, evaṃ sampadamidaṃ āyasmantānaṃ satthari sammukhībhūte
taṃ bhagavantaṃ atisitvā amhe etamatthaṃ paṭipucchitabbaṃ maññatha. So hāvuso, Bhagavā
jānaṃ jānāti, passaṃ passati, cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto
vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā dhammassāmī tathāgato. So ceva
panetassa kālo ahosi yaṃ bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyātha yathā vo Bhagavā
byākareyya tathā naṃ dhāreyyāthāti. 'Addhāvuso kaccāna, Bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati, cakkhubhūto ñāṇabhūto
dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā
dhammassāmī tathāgato. So ceva panetassa kālo ahosi yaṃ bhagavantaṃyeva
etamatthaṃ paṭipuccheyyāma yathā no Bhagavā byākareyya tathā naṃ dhāreyyāma. Api cāyasmā mahākaccāno
satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. Pahoti cāyasmā
mahākaccāno imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ
avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Vibhajatāyasmā mahākaccāno agaruṃ
karitvāti. 'Tena hāvuso, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha bhāsissāmīti.
'Evamāvusoti kho te bhikkhū āyasmato mahākaccānassa paccassosuṃ. Āyasmā
mahākaccāno etadavoca : 'yaṃ kho no, āvuso, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena
atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho : tathā tathā, bhikkhave,
bhikkhu upaparikkheyya, yathā yathā
upaparikkhato bahiddhā cassa viññāṇaṃ avikkhittaṃ avisaṭaṃ ajjhattaṃ asaṇṭhitaṃ
anupādāya na paritasseyya, bahiddhā, bhikkhave, viññāṇe avikkhitte avisaṭe sati
ajjhattaṃ asaṇṭhite anupādāya aparitassato āyatiṃ jātijarāmaraṇadukkhasamudayasambhavo
na hotīti. Imassa kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa
vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi.
316. ''Kathañcāvuso, bahiddhā viññāṇaṃ vikkhittaṃ visaṭanti vuccati?
idhāvuso, bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā rūpanimittānusāri viññāṇaṃ hoti
rūpanimittassādagadhitaṃ [...gathitaṃ (sī. pī.)] rūpanimittassādavinibandhaṃ [...vinibandhaṃ
(sī. pī.)] rūpanimittassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ bahiddhā viññāṇaṃ vikkhittaṃ visaṭanti
vuccati. Sotena saddaṃ sutvā - pe - ghānena gandhaṃ ghāyitvā... jivhāya rasaṃ
sāyitvā... kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā... manasā dhammaṃ viññāya dhammanimittānusārī
viññāṇaṃ hoti dhammanimittassādagadhitaṃ dhammanimittassādavinibandhaṃ
dhammanimittassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ bahiddhā viññāṇaṃ vikkhittaṃ visaṭanti
vuccati. Evaṃ kho āvuso, bahiddhā viññāṇaṃ vikkhittaṃ visaṭanti vuccati.
317. ''Kathañcāvuso, bahiddhā viññāṇaṃ avikkhittaṃ avisaṭanti vuccati ?
idhāvuso, bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā na rūpanimittānusāri viññāṇaṃ hoti
rūpanimittassādagadhitaṃ na
rūpanimittassādavinibandhaṃ na rūpanimittassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ
bahiddhā viññāṇaṃ avikkhittaṃ avisaṭanti vuccati . Sotena saddaṃ sutvā - pe -
ghānena gandhaṃ ghāyitvā... jivhāya rasaṃ sāyitvā... kāyena phoṭṭhabbaṃ
phusitvā... manasā dhammaṃ viññāya na dhammanimittānusārī viññāṇaṃ hoti na
dhammanimittassādagadhitaṃ na dhammanimittassādavinibandhaṃ na dhammanimittassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ
bahiddhā viññāṇaṃ avikkhittaṃ avisaṭanti vuccati. Evaṃ kho, āvuso, bahiddhā
viññāṇaṃ avikkhittaṃ avisaṭanti vuccati.
318. ''Kathañcāvuso, ajjhattaṃ [ajjhattaṃ cittaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] saṇṭhitanti
vuccati? idhāvuso, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi
savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Tassa vivekajapītisukhānusāri viññāṇaṃ hoti vivekajapītisukhassādagadhitaṃ
vivekajapītisukhassādavinibandhaṃ
vivekajapītisukhassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ ajjhattaṃ cittaṃ saṇṭhitanti
vuccati. ''Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ
sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ
jhānaṃ upasampajja viharati. Tassa samādhijapītisukhānusāri viññāṇaṃ hoti
samādhijapītisukhassādagadhitaṃ samādhijapītisukhassādavinibandhaṃ
samādhijapītisukhassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ ajjhattaṃ cittaṃ saṇṭhitanti vuccati.
''Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharati sato ca sampajāno sukhañca kāyena
paṭisaṃvedeti, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti : 'upekkhako satimā sukhavihārīti
tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Tassa upekkhānusāri viññāṇaṃ hoti
upekkhāsukhassādagadhitaṃ upekkhāsukhassādavinibandhaṃ upekkhāsukhassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ
ajjhattaṃ cittaṃ saṇṭhitanti vuccati. ''Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu sukhassa
ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā
adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Tassa adukkhamasukhānusāri viññāṇaṃ hoti adukkhamasukhassādagadhitaṃ
adukkhamasukhassādavinibandhaṃ
adukkhamasukhassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ ajjhattaṃ cittaṃ saṇṭhitanti
vuccati. Evaṃ kho, āvuso, ajjhattaṃ [ajjhattaṃ cittaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] saṇṭhitanti
vuccati.
319. ''Kathañcāvuso , ajjhattaṃ [ajjhattaṃ cittaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] asaṇṭhitanti
vuccati? idhāvuso, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi - pe -
paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Tassa na vivekajapītisukhānusāri viññāṇaṃ
hoti na vivekajapītisukhassādagadhitaṃ na vivekajapītisukhassādavinibandhaṃ na
vivekajapītisukhassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ ajjhattaṃ cittaṃ asaṇṭhitanti vuccati.
''Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā - pe - dutiyaṃ jhānaṃ
upasampajja viharati. Tassa na samādhijapītisukhānusāri viññāṇaṃ hoti na
samādhijapītisukhassādagadhitaṃ na samādhijapītisukhassādavinibandhaṃ na
samādhijapītisukhassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ ajjhattaṃ cittaṃ asaṇṭhitanti vuccati
. ''Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu pītiyā
ca virāgā - pe - tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Tassa na upekkhānusāri
viññāṇaṃ hoti na upekkhāsukhassādagadhitaṃ na upekkhāsukhassādavinibandhaṃ na
upekkhāsukhassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ ajjhattaṃ cittaṃ asaṇṭhitanti vuccati.
''Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva
somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ
catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Tassa na adukkhamasukhānusāri viññāṇaṃ
hoti na adukkhamasukhassādagadhitaṃ na adukkhamasukhassādavinibandhaṃ na adukkhamasukhassādasaṃyojanasaṃyuttaṃ
ajjhattaṃ cittaṃ asaṇṭhitanti vuccati. Evaṃ kho, āvuso, ajjhattaṃ [ajjhattaṃ
cittaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] asaṇṭhitanti vuccati.
320. ''Kathañcāvuso, anupādā paritassanā hoti? idhāvuso, assutavā puthujjano
ariyānaṃ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto sappurisānaṃ
adassāvī sappurisadhammassa akovido
sappurisadhamme avinīto rūpaṃ attato samanupassati rūpavantaṃ vā attānaṃ attani
vā rūpaṃ rūpasmiṃ vā attānaṃ. Tassa taṃ rūpaṃ vipariṇamati, aññathā hoti. Tassa
rūpavipariṇāmaññathābhāvā rūpavipariṇāmānuparivatti viññāṇaṃ hoti. Tassa
rūpavipariṇāmānuparivattajā paritassanā dhammasamuppādā cittaṃ pariyādāya tiṭṭhanti.
Cetaso pariyādānā uttāsavā ca hoti vighātavā ca apekkhavā ca anupādāya ca
paritassati. Vedanaṃ - pe - saññaṃ... saṅkhāre...
viññāṇaṃ attato samanupassati viññāṇavantaṃ
vā attānaṃ attani vā viññāṇaṃ viññāṇasmiṃ vā attānaṃ. Tassa taṃ viññāṇaṃ vipariṇamati,
aññathā hoti. Tassa viññāṇavipariṇāmaññathābhāvā viññāṇavipariṇāmānuparivatti
viññāṇaṃ hoti. Tassa viññāṇavipariṇāmānuparivattajā paritassanā dhammasamuppādā
cittaṃ pariyādāya tiṭṭhanti. Cetaso pariyādānā uttāsavā ca hoti vighātavā ca
apekkhavā ca anupādāya ca paritassati. Evaṃ kho, āvuso, anupādā paritassanā
hoti.
321. ''Kathañcāvuso, anupādānā aparitassanā hoti? idhāvuso, sutavā
ariyasāvako ariyānaṃ dassāvī ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto sappurisānaṃ dassāvī
sappurisadhammassa kovido sappurisadhamme suvinīto na rūpaṃ attato
samanupassati na rūpavantaṃ vā attānaṃ na attani vā rūpaṃ na rūpasmiṃ vā attānaṃ.
Tassa taṃ rūpaṃ vipariṇamati, aññathā hoti. Tassa rūpavipariṇāmaññathābhāvā na
ca rūpavipariṇāmānuparivatti viññāṇaṃ hoti. Tassa na rūpavipariṇāmānuparivattajā
paritassanā dhammasamuppādā cittaṃ pariyādāya tiṭṭhanti. Cetaso pariyādānā na cevuttāsavā
[na ca uttāsavā (sī.)] hoti na ca vighātavā na ca apekkhavā anupādāya ca na
paritassati. Na vedanaṃ... na saññaṃ... na saṅkhāre... na viññāṇaṃ attato
samanupassati na viññāṇavantaṃ vā attānaṃ na attani vā viññāṇaṃ na viññāṇasmiṃ
vā attānaṃ. Tassa taṃ viññāṇaṃ vipariṇamati,
aññathā hoti. Tassa viññāṇavipariṇāmaññathābhāvā na ca viññāṇavipariṇāmānuparivatti
viññāṇaṃ hoti. Tassa na viññāṇavipariṇāmānuparivattajā paritassanā
dhammasamuppādā cittaṃ pariyādāya tiṭṭhanti. Cetaso pariyādānā na cevuttāsavā
hoti na ca vighātavā na ca apekkhavā, anupādāya ca na paritassati. Evaṃ kho,
āvuso, anupādā aparitassanā hoti. ''Yaṃ kho no, āvuso, Bhagavā saṃkhittena
uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā
uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho : 'tathā tathā, bhikkhave, bhikkhu
upaparikkheyya yathā yathā upaparikkhato bahiddhā cassa viññāṇaṃ avikkhittaṃ
avisaṭaṃ, ajjhattaṃ asaṇṭhitaṃ anupādāya na paritasseyya. Bahiddhā, bhikkhave,
viññāṇe avikkhitte avisaṭe sati ajjhattaṃ asaṇṭhite anupādāya aparitassato
āyatiṃ jātijarāmaraṇadukkhasamudayasambhavo na hotīti. Imassa kho ahaṃ, āvuso,
bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ
vitthārena atthaṃ ājānāmi. Ākaṅkhamānā
ca pana tumhe āyasmanto bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha
yathā vo Bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāthāti.
322. Atha kho te bhikkhū āyasmato mahākaccānassa bhāsitaṃ abhinanditvā
anumoditvā uṭṭhāyāsanā yena Bhagavā tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ : ''yaṃ kho no, bhante, Bhagavā saṃkhittena
uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho :
'tathā tathā, bhikkhave, bhikkhu upaparikkheyya yathā yathā upaparikkhato
bahiddhā cassa viññāṇaṃ avikkhittaṃ avisaṭaṃ, ajjhattaṃ asaṇṭhitaṃ anupādāya na
paritasseyya. Bahiddhā, bhikkhave, viññāṇe avikkhitte avisaṭe sati ajjhattaṃ
asaṇṭhite anupādāya aparitassato āyatiṃ jātijarāmaraṇadukkhasamudayasambhavo na
hotīti. ''Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ, acirapakkantassa bhagavato, etadahosi :
'idaṃ kho no, āvuso, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena
atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho : tathā tathā, bhikkhave,
bhikkhu upaparikkheyya, yathā yathā upaparikkhato bahiddhā cassa viññāṇaṃ
avikkhittaṃ avisaṭaṃ, ajjhattaṃ asaṇṭhitaṃ anupādāya na paritasseyya. Bahiddhā,
bhikkhave, viññāṇe avikkhitte avisaṭe sati ajjhattaṃ asaṇṭhite anupādāya
aparitassato āyatiṃ jātijarāmaraṇadukkhasamudayasambhavo na hotīti. Ko nu kho
imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ
avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyāti? tesaṃ no, bhante, amhākaṃ
etadahosi : 'ayaṃ kho āyasmā mahākaccāno
satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. Pahoti
cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṃkhittena
uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ
vibhajituṃ. Yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma upasaṅkamitvā
āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmāti. ''Atha kho mayaṃ, bhante,
yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkamimha upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ
etamatthaṃ paṭipucchimha. Tesaṃ no, bhante, āyasmatā mahākaccānena imehi
ākārehi imehi padehi imehi byañjanehi attho vibhattoti. ''Paṇḍito, bhikkhave,
mahākaccāno mahāpañño, bhikkhave, mahākaccāno. Maṃ cepi tumhe, bhikkhave,
etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, ahampi evamevaṃ byākareyyaṃ yathā taṃ mahākaccānena byākataṃ. Eso
cevetassa [eso cetassa (sī. pī.), eso ceva tassa (syā. kaṃ.), esoyeva tassa
(ka.)] attho. Evañca naṃ dhāreyyāthāti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te
bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Uddesavibhaṅgasuttaṃ
niṭṭhitaṃ aṭṭhamaṃ.
-ooOoo-
138. Uddesavibhaṅgasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
313. Evaṃ me sutanti uddesavibhaṅgasuttaṃ.
Tattha uddesavibhaṅganti uddesañca vibhaṅgañca, mātikañca vibhajanañcāti
attho. Upaparikkheyyāti tuleyya tīreyya pariggaṇheyya paricchindeyya. Bahiddhāti
bahiddhāārammaṇesu. Avikkhittaṃ avisaṭanti nikantivasena ārammaṇe tiṭṭhamānaṃ
vikkhittaṃ visaṭaṃ nāma hoti, taṃ paṭisedhento evamāha. Ajjhattaṃ asaṇṭhitanti
gocarajjhatte nikantivasena asaṇṭhitaṃ. Anupādāya na paritasseyyāti
anupādiyitvā aggahetvā taṃ viññāṇaṃ na paritasseyya. Yathā viññāṇaṃ bahiddhā
avikkhittaṃ avisaṭaṃ, ajjhattaṃ asaṇṭhitaṃ anupādāya na paritasseyya, evaṃ
bhikkhu upaparikkheyyāti vuttaṃ hoti. Jātijarāmaraṇadukkhasamudayasambhavoti
jātijarāmaraṇassa ceva avasesassa ca dukkhassa nibbatti na hotīti attho.
316. Rūpanimittānusārīti rūpanimittaṃ anussarati
anudhāvatīti rūpanimittānusārī.
318. Evaṃ kho, āvuso, ajjhattaṃ asaṇṭhitanti
nikantivasena asaṇṭhitaṃ. Nikantivasena hi atiṭṭhamānaṃ hānabhāgiyaṃ na hoti,
visesabhāgiyameva hoti.
320. Anupādā paritassanāti satthārā khandhiyavagge
‘‘upādāparitassanañca vo, bhikkhave, desessāmi anupādāaparitassanañcā’’ti (saṃ.
ni. 3.7) evaṃ gahetvā paritassanā, aggahetvāva aparitassanā ca kathitā, taṃ
mahāthero upādāparitassanameva anupādāparitassananti katvā dassento evamāha.
Kathaṃ panesā anupādāparitassanā hotīti. Upādātabbassa abhāvato. Yadi hi koci
saṅkhāro nicco vā dhuvo vā attā vā attaniyo vāti gahetabbayuttako abhavissa,
ayaṃ paritassanā upādāparitassanāva assa. Yasmā pana evaṃ upādātabbo saṅkhāro
nāma natthi, tasmā rūpaṃ attātiādinā nayena rūpādayo upādinnāpi anupādinnāva
honti. Evamesā diṭṭhivasena upādāparitassanāpi samānā atthato
anupādāparitassanāyeva nāma hotīti veditabbā.
Aññathā hotīti parivattati pakatijahanena nassati, rūpavipariṇāmānuparivattīti
‘‘mama rūpaṃ vipariṇata’’nti vā, ‘‘yaṃ ahu, taṃ vata me natthī’’ti vā ādinā
(ma. ni. 1.242) nayena kammaviññāṇaṃ rūpassa bhedānuparivatti hoti. Vipariṇāmānuparivattajāti
vipariṇāmassa anuparivattanato vipariṇāmārammaṇacittato jātā. Paritassanā
dhammasamuppādāti taṇhāparitassanā ca akusaladhammasamuppādā ca. Cittaṃ
pariyādāya tiṭṭhantīti kusalacittaṃ pariyādiyitvā gahetvā khepetvā tiṭṭhanti.
Uttāsavāti bhayatāsenapi sauttāso taṇhātāsenapi sauttāso. Vighātavāti
savighāto sadukkho. Apekkhavāti sālayo sasineho. Evaṃ kho, āvuso,
anupādā paritassanā hotīti evaṃ maṇikaraṇḍakasaññāya tucchakaraṇḍakaṃ
gahetvā tasmiṃ naṭṭhe pacchā vighātaṃ āpajjantassa viya pacchā aggahetvā
paritassanā hoti.
321. Na ca rūpavipariṇāmānuparivattīti khīṇāsavassa
kammaviññāṇameva natthi, tasmā rūpabhedānuparivatti na hoti. Sesaṃ sabbattha
uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Uddesavibhaṅgasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment