Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 26/5/2020
135. Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt
(Cùḷakammavibhaṅga
Sutta)
Chữ kammavibhaṅga
nghĩa là phân tích về nghiệp. Bài kinh tiếp theo, kinh số 136, cũng phân tích
về nghiệp nhưng dài hơn, do vậy bài nầy gọi là tiểu kinh. Quả của nghiệp vốn
khó có thể nói đủ và nói hết. Nhưng một số điểm căn bản của nhân quả có thể
giản lược như nội dung của bài kinh nầy. Subha là con của bà la môn Todeyya nhờ Đức Phật mà biết được cảnh giới tái sanh
của cha mình (…). Trong kinh nầy Subha đã bạch hỏi Đức Thế Gian Giải về nguyên
nhân tại sao có người sống lâu, kẻ chết yểu; có người khoẻ mạnh, kẻ ương yếu;
có người đẹp, kẻ xấu ; có người sang, kẻ hèn; có người giàu, kẻ nghèo; có người
thông minh, kẻ thiểu trí.
1134. Hạnh nghiệp tạo
nên sự dị biệt giữa con người với con người
Thanh niên Subha đến
diện kiến Đức Thế Tôn và bạch hỏi nguyên nhân về sự bất bình đẳng trong xã hội
loài người. Đức Phật dạy chính hạnh nghiệp tạo nên sự dị biệt:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn
ở Sāvatthī (Xá-vệ) Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika
(Cấp Cô Ðộc). Rồi thanh niên Subha Todeyyaputta đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói
lên những lời chào hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, thanh niên Subha Todeyyaputta bạch Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả
Gotama, do nhân gì, do duyên gì giữa loài Người với nhau, khi họ là
loài Người, lại thấy có người liệt, có người ưu?
Thưa Tôn giả
Gotama, chúng tôi thấy có người đoản thọ, có người trường thọ;
chúng tôi thấy có người nhiều bệnh, có người ít bệnh; chúng tôi
thấy có người xấu sắc, có người đẹp sắc; chúng tôi thấy có
người quyền thế nhỏ, có người quyền thế lớn; chúng tôi thấy có
người tài sản nhỏ, có người tài sản lớn; chúng tôi thấy có
người thuộc gia đình hạ liệt, có người thuộc gia đình cao quý;
chúng tôi thấy có người trí tuệ yếu kém, có người có đầy đủ
trí tuệ.
Thưa Tôn giả
Gotama, do nhân gì, do duyên gì, giữa loài Người với nhau, khi họ là
loài Người, lại thấy có người liệt, có người ưu?
-- Này Thanh niên,
các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp.
Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa,
nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.
1135. Sự tương xứng
giữa nhân và quả
Mặc dù quả của nghiệp
vốn bất khả tư nghì (…) nhưng những tương ưng nhân quả có thể được nêu ra với
những nét chính yếu:
-- Tôi không hiểu
nghĩa một cách rộng rãi điều mà Tôn giả Gotama nói một cách vắn
tắt, không có giải nghĩa rộng rãi. Lành thay nếu Tôn giả Gotama
thuyết pháp cho tôi để tôi có thể hiểu nghĩa một cách rộng rãi
điều mà Tôn giả Gotama nói một cách vắn tắt, không có giải nghĩa
rộng rãi.
-- Vậy này Thanh
niên, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói:
-- Thưa vâng, Tôn
giả.Thanh niên Subha Todeyyaputta vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Ở đây, này
Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sát sanh, tàn nhẫn,
tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối
với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu
như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài
Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải đoản mạng. Con
đường ấy đưa đến đoản mạng, này Thanh niên, tức là sát sanh, tàn
nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi
đối với các loài hữu tình.
Nhưng ở đây, này
Thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sanh, tránh xa
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống
thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Do
nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại
mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời.
Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú,
Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào
người ấy sanh ra, người ấy được trường thọ.
Con đường ấy đưa
đến trường thọ, này Thanh niên, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống
thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình.
Ở đây, này Thanh
niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh hay não hại các
loài hữu tình, với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với
cây đao. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi
thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu người ấy đi đến loài
Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải bị nhiều bệnh
hoạn. Con đường ấy đưa đến nhiều bệnh hoạn, này Thanh niên, tức là
tánh hay não hại các loài hữu tình với tay, hay với cục đất, hay
với cây gậy, hay với cây đao.
Nhưng ở đây, này
Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh không hay não
hại các loài hữu tình, với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy,
hay với cây đao. Do nghiệp ấy thành đạt như vậy.. thiện thú... người
ấy được ít bệnh hoạn. Con đường ấy đưa đến ít bệnh hoạn... tánh
không não hại... hay với cây đao.
Ở đây, này Thanh
niên, có người đàn bà hay người đàn ông, phẫn nộ, nhiều phật ý,
bị nói đến một chút thời bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối,
và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như
vậy... cõi dữ... xấu sắc. Con đường ấy đưa đến xấu sắc, này Thanh
niên, tức là phẫn nộ... bất mãn.
Ở đây, này Thanh
niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không phẫn nộ, không
nhiều phật ý, dầu cho bị nói đến nhiều, cũng không bất bình, phẫn
nộ, sân hận, chống đối, và không tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất
mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy.... thiện thú... đẹp sắc
(pasadika: hoan hỷ) Con đường ấy đưa đến đẹp sắc, này Thanh niên,
tức là không phẫn nộ... không bất mãn.
Ở đây, này Thanh
niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tật đố, đối với người
khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh
lễ, cúng dường, sanh tật đố, sanh tâm, ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp
ấy, thành đạt như vậy... ác thú... quyền thế nhỏ. Con đường ấy đưa
đến quyền thế nhỏ này thanh niên, tức là tật đố... ôm ấp tâm tật
đố.
Nhưng ở đây, này
Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không có tật đố,
đối với những người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung
kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, không sanh tật đố, sanh tâm,
ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp ấy... thiện thú... quyền thế lớn. Con
đường ấy đưa đến quyền thế lớn, này Thanh niên, tức là không tật
đố... không ôm ấp tật đố.
Ở đây, này Thanh
niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không bố thí cho Sa-môn
hay Bà-la-môn, đồ ăn uống, y phục, xe cộ, vòng hoa, hương liệu,
phấn sáp, ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc. Do nghiệp ấy.. đọa xứ... tài
sản nhỏ. Con đường đưa đến tài sản nhỏ. ngọa cụ, nhà cửa, đèn
đuốc.
Nhưng ở đây, này
Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông có bố thí cho
Sa-môn hay cho Bà-la- môn các đồ ăn uống... ngọa cụ, nhà cửa, đèn
đuốc. Do nghiệp ấy... thiện thú... nhiều tài sản. Con đường đưa đến
nhiều tài sản... ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc.
Ở đây, này Thanh
niên, có người đàn bà hay người đàn ông ngạo nghễ, kiêu mạn,
không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, không đứng dậy đối với
người đáng đứng dậy, không mời ngồi những người đáng mời ngồi,
không nhường chỗ đi cho những người đáng được nhường chỗ đi,
không tôn trọng những người đáng tôn trọng, không cung kính những
người đáng cung kính, không cúng dường những người đáng cúng
dường. Do nghiệp ấy... đọa xứ... thuộc gia đình hạ liệt. Con đường
đưa đến gia đình hạ liệt.. không cúng dường những người đáng cúng
dường.
Nhưng ở đây, này
Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không có ngạo nghễ
quá mạn, đảnh lễ những người đáng đảnh lễ... cúng dường những
người đáng cúng dường. Do nghiệp ấy... thiện thú... vào gia đình
cao quý. Con đường đưa đến gia đình cao quý... cúng dường những
người đáng cúng dường.
Ở đây, này Thanh
niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi đi đến Sa-môn hay
Bà-la-môn, không hỏi: "Thưa Tôn giả, thế nào là thiện? Thế
nào là bất thiện? Thế nào là phạm tội? Thế nào là không phạm
tội? Thế nào là cần phải thực hành? Thế nào là không cần phải
thực hành? Tôi đã làm gì để phải không lợi ích và đau khổ lâu
dài? Hay tôi đã làm gì để được lợi ích và an lạc lâu dài? Do
nghiệp ấy... đọa xứ... trí tuệ yếu kém. Con đường đưa đến trí tuệ
yếu kém... lợi ích, hạnh phúc lâu dài?"
Nhưng ở đây, này
Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi đến Sa-môn
hay Bà-la-môn, có hỏi: "Thưa Tôn giả, thế nào là thiện? Thế
nào là bất thiện... lợi ích, an lạc lâu dài? Do nghiệp ấy... thiện
thú... đầy đủ trí tuệ. Con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ... lợi
ích, an lạc lâu dài".
Ở đây, này Thanh
niên, con đường đưa đến đoản thọ, dẫn đến đoản thọ, con đường đưa
đến trường thọ, dẫn đến trường thọ; con đường đưa đến nhiều
bệnh, dẫn đến nhiều bệnh; con đường đưa đến ít bệnh, dẫn đến ít
bệnh; con đường đưa đến xấu sắc, dẫn đến xấu sắc; con đường đưa
đến đẹp sắc, dẫn đến đẹp sắc; con đường đưa đến quyền thế nhỏ,
dẫn đến quyền thế nhỏ; con đường đưa đến quyền thế lớn dẫn đến
quyền thế lớn; con đường đưa đến tài sản nhỏ, dẫn đến tài sản
nhỏ; con đường đưa đến tài sản lớn, dẫn đến tài sản lớn; con
đường đưa đến gia đình hạ liệt, dẫn đến gia đình hạ liệt; con
đường đưa đến gia đình cao quý, dẫn đến gia đình cao quý, con đường
đưa đến trí tuệ yếu kém, dẫn đến trí tuệ yếu kém; con đường đưa
đến đầy đủ trí tuệ, dẫn đến trí tuệ đầy đủ.
Này Thanh niên,
các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp.
Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa,
nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.
Khi nghe nói vậy,
thanh niên Subha Todeyyaputta nói với Thế Tôn:
-- Thật vi diệu
thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Như
người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những
gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng
vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy,
Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình
bày giải thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và chúng
Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến
mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 135 [tóm tắt]
Kinh Tiểu
Nghiệp Phân Biệt
(Cūḷakammavibhaṅga
Sutta)
(M.iii, 202)
Thanh niên
Todeyyaputta hỏi đức Phật vì sao cùng là loài người, mà có người chết
yểu, kẻ sống lâu, người nhiều bệnh, kẻ ít bệnh, người xấu xí, kẻ
đẹp đẽ, người không có quyền thế, kẻ có quyền thế, người nghèo, kẻ
giàu, người hạ liệt, kẻ cao sang, người ngu si, kẻ trí tuệ?
Đức Phật dạy, các
loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là
thai tạng, là quyến thuộc, là điểm tựa của chúng. Do nghiệp sai khác mà
loài người có sai khác.
Những người chết
yểu là do nghiệp sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu; khi thân hoại mạng
chung nó sinh vào cõi dữ, đọa xứ hoặc nếu làm người thì chết yểu. Con
đường đưa đến đoản mạng là sát sanh, tàn nhẫn. Còn người sống lâu là
do từ bỏ sát sanh, có lòng từ. Khi thân hoại mạng chung, người này
được sanh thiện thú, thiên giới, hoặc làm người thì sống lâu. Con
đường đưa đến trường thọ là từ bỏ sát sanh, thương xót loài hữu
tình.
Con đường đưa đến
nhiều bệnh là não hại hữu tình. Con đường đưa đến ít bệnh là không não
hại. Con đường đưa đến xấu sắc là phẫn nộ, bất mãn. Con đường đưa
đến sắc đẹp là không phẫn nộ. Con đường đưa đến quyền nhỏ là tật
đố, ganh tỵ người khác. Con đường đưa đến quyền lớn là không tật
đố. Con đường đưa đến nghèo khó là không bố thí cúng dường, đưa đến
giàu có là bố thí. Con đường đưa đến sự sanh vào một gia đình hạ liệt
là ngạo mạn, không cung kính người đáng kính. Con đường đưa đến sự
sanh vào gia đình cao sang là cung kính, không ngạo mạn. Con đường đưa
đến trí tuệ yếu kém là không học hỏi pháp. Con đường đưa đến đầy đủ
trí tuệ là thường học hỏi pháp. Do vậy, nghiệp phân chia các loài hữu
tình có liệt, có ưu.
Thanh niên
Todeyyaputta nghe giảng xong, xin quy y Phật, Pháp và chúng Tỷ-kheo Tăng.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 135 [dàn
ý]
Kinh Tiểu
Nghiệp Phân Biệt
(Cūḷakammavibhaṅga
Sutta)
(M.iii, 202)
A. Duyên khởi:
Thanh niên
Todeyyaputta hỏi Thế Tôn sao lại có người đoản thọ, có người trường thọ, có người
nhiều bệnh, có người ít bệnh, có người xấu sắc, có người đẹp sắc, có người quyền
thế nhỏ, có người quyền thế lớn, có người tài sản nhỏ, có người tài sản lớn, có
người thuộc gia đình hạ liệt, có người thuộc gia đình cao sang, có người có trí
tuệ kém, có người có trí tuệ. Thế Tôn trả lời là do hạnh nghiệp. Người là chủ của
nghiệp. Người là thừa tự của nghiệp. Theo yêu cầu, Thế Tôn giảng rộng ra vấn đề
này.
B. Chánh kinh:
i.
Con đường đưa đến đoản
thọ và trường thọ: Sát sanh và từ bỏ sát sanh.
ii.
Con đường đưa đến nhiều
bệnh và ít bệnh: Não hại chúng sanh và từ bỏ não hại chúng sanh.
iii.
Con đường đưa đến xấu
sắc và đẹp sắc: Phẫn nộ và từ bỏ phẫn nộ.
iv.
Con đường đưa đến quyền
thế nhỏ và quyền thế lớn: Tật đố và từ bỏ tật đố.
v.
Con đường đưa đến tài
sản nhỏ và tài sản lớn: Không bố thí và có bố thí.
vi.
Con đường đưa đến gia
đình hạ liệt, gia đình cao sang: Kiêu mạn và từ bỏ kiêu mạn.
vii.
Con đường đưa đến trí
tuệ yếu kém, trí tuệ đầy đủ: Không tìm hiểu và có tìm hiểu.
C. Kết luận:
Thanh niên
Todeyyaputta tán thán Thế Tôn và xin quy y Phật, Pháp, Tăng.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 135 [toát
yếu]
Kinh Tiểu
Nghiệp Phân Biệt
(Cūḷakammavibhaṅga
Sutta)
(M.iii, 202)
I. Toát yếu
The Shorter
Exposition of Action.
The Buddha explains
how kamma accounts for the fortune and misfortune of beings.
Trình bày ngắn về
nghiệp.
Phật giải thích
nghiệp là nhân của may mắn và bất hạnh nơi hữu tình.
II. TÓM TẮT
Thanh niên Subha [1]
Todeyya hỏi Phật do nguyên nhân gì, cùng sinh làm người mà không ai
giống ai về thọ mạng [2] (người sống lâu kẻ chết yểu); về sức
khỏe (người ít bệnh, kẻ nhiều bệnh); về dung sắc (người xấu kẻ đẹp);
về uy quyền (người nhiều quyền kẻ ít quyền); về tài sản (người
giàu kẻ nghèo); về thế cấp hay dòng dõi (người cao kẻ thấp); về
trí tuệ (người thông minh kẻ ngu đần)... Phật dạy tất cả đều do
nghiệp, con người là chủ nhân, là thừa tự của nghiệp. Chánh nghiệp
đã phân chia hữu tình ra có hơn kém như vậy. Chết yểu là do nghiệp
giết hại sinh vật, không có tâm từ bi đối với hữu tình. Sống lâu
là do từ bỏ giết hại, có tâm từ bi. Ít bệnh là do không não hại
chúng sinh. Nhiều bệnh là do kiếp trước thường não hại chúng sinh.
Tướng mạo xinh đẹp là do không phẫn nộ bất mãn. Nhiều uy quyền là
do không ganh tị với người được quyền lợi, được tôn kính. Ít uy
quyền là do thói ganh tị. Giàu có là do đã bố thí cúng dường. Sinh
vào gia đình cao quý là do thường tôn kính người đáng kính. Sinh
vào gia đình hèn hạ là do ngạo mạn, không kính người đáng kính. Có
trí tuệ là do thường đến gần các sa môn để học hỏi. Ngu đần là do
không đến gần các sa môn để học hỏi.
Vậy con người có
tình trạng thế nào là do họ đã đi con đường dẫn đến tình trạng
ấy. Thanh niên nghe xong xin quy y Tam bảo.
III. Chú giải
1. Xem kinh 99. Theo
sớ giải, thân phụ ông ta là bà-la- môn Todeyya do thói hà tiện đã
tái sinh làm con chó ngay trong nhà ông. Phật cho Subha biết thế bằng
cách khiến con chó moi lên kho tàng mà người cha đã chôn giấu lúc
sinh tiền. Việc ấy đã làm Subha khởi tín tâm, thúc đẩy ông đến
thỉnh vấn Phật về sự vận hành của nghiệp.
2. Nếu nghiệp giết
hại quyết định cách tái sinh, thì nó sẽ dẫn đến tái sinh vào một
đọa xứ. Nhưng nếu nhờ một thiện nghiệp mà được sinh làm người
(và được làm người luôn là hậu quả của nghiệp lành), thì nghiệp
giết hại sẽ khiến người này gặp nhiều nghịch cảnh đưa đến sự
chết yểu.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Một thanh niên ngoại đạo
Ðến tịnh xá Kỳ viên
Hỏi Phật nguyên nhân gì
Hỏi Phật nguyên nhân gì
Người chẳng ai giống ai
Về thọ mạng, sức khỏe
Về dung sắc, quyền uy
Về tài sản, giai cấp
Cũng như về trí tuệ?
Phật dạy các hữu tình
Là chủ nhân của nghiệp
Là thừa tự của nghiệp.
Nghiệp phân chia hữu tình:
Chết yểu do giết hại
Không có tâm từ bi
Sống lâu do tâm từ
Và không ưa giết hại
Không não hại chúng sinh
Là nguyên nhân ít bệnh.
Thường não hại chúng sinh
Ðưa đến nhiều bệnh tật.
Người tướng mạo xinh đẹp
Do không hận không sân
Người tướng mạo xấu xí
Là do nhiều phẫn nộ
Nguyên nhân có uy quyền
Là không lòng ganh tị
Với người đáng tôn kính
Với người đáng tôn kính
Ít uy quyền là do
Cái thói ưa ganh tị.
Giàu có do bố thí
Nghèo do không cúng dường
Nghèo do không cúng dường
Sinh dòng họ cao quý
Do kính người đáng kính
Do kính người đáng kính
Vào gia đình hèn hạ
Do ngạo mạn kiêu căng
Do ngạo mạn kiêu căng
Làm người có trí tuệ
Do thường gần bậc trí
Ðể học hỏi nghĩa lý
Làm người mà ngu đần
Là do không học hỏi
Thân cận các sa môn.
Hiện tại như thế nào
Ðều do trong quá khứ
Ðã đi trên con đường
Dẫn đến tình trạng ấy.
Khi nghe Phật dạy xong
Thanh niên Tô-đây-gia
Xin quy y đức Phật,
Pháp và Tỷ kheo tăng.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
135.
Cūḷakammavibhaṅgasuttaṃ
[subhasuttantipi
vuccati] [Mūla]
289. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane, anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho subho māṇavo
todeyyaputto yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ
sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ
nisinno kho subho māṇavo todeyyaputto bhagavantaṃ etadavoca : ''ko nu kho, bho
gotama, hetu ko paccayo yena manussānaṃyeva sataṃ manussabhūtānaṃ dissanti
hīnappaṇītatā? dissanti hi, bho gotama, manussā appāyukā, dissanti dīghāyukā
dissanti bavhābādhā [bahvābādhā (syā. kaṃ. ka.)], dissanti appābādhā dissanti
dubbaṇṇā, dissanti vaṇṇavanto dissanti appesakkhā, dissanti mahesakkhā dissanti
appabhogā, dissanti mahābhogā dissanti nīcakulīnā, dissanti uccākulīnā dissanti
duppaññā, dissanti paññavanto [paññāvanto (sī. pī.)] . Ko nu kho, bho gotama,
hetu ko paccayo yena manussānaṃyeva sataṃ manussabhūtānaṃ dissanti hīnappaṇītatāti?
''kammassakā , māṇava, sattā kammadāyādā kammayonī kammabandhū [kammayoni
kammabandhu (sī.)] kammappaṭisaraṇā. Kammaṃ satte vibhajati yadidaṃ : hīnappaṇītatāyāti.
Na kho ahaṃ imassa bhoto gotamassa saṃkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ
avibhattassa vitthārena atthaṃ ājānāmi. Sādhu
me bhavaṃ gotamo tathā dhammaṃ desetu yathā ahaṃ imassa bhoto gotamassa
saṃkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ
ājāneyyanti.
290. ''Tena hi, māṇava,
suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhoti kho subho māṇavo
todeyyaputto bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca : ''idha, māṇava, ekacco
itthī vā puriso vā pāṇātipātī hoti luddo lohitapāṇi hatapahate niviṭṭho
adayāpanno pāṇabhūtesu [sabbapāṇabhūtesu (sī. ka.)]. So tena kammena evaṃ
samattena evaṃ samādinnena [samādiṇṇena (pī. ka.)] kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati
appāyuko hoti. Appāyukasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā yadidaṃ : pāṇātipātī
hoti luddo lohitapāṇi hatapahate niviṭṭho adayāpanno pāṇabhūtesu. ''Idha pana,
māṇava, ekacco itthī vā puriso vā pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato hoti
nihitadaṇḍo nihitasattho, lajjī dayāpanno sabbapāṇabhūtahitānukampī viharati.
So tena kammena evaṃ samattena evaṃ samādinnena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ
lokaṃ upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati
yattha yattha paccājāyati dīghāyuko hoti. Dīghāyukasaṃvattanikā esā, māṇava,
paṭipadā yadidaṃ : pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato hoti nihitadaṇḍo nihitasattho, lajjī
dayāpanno sabbapāṇabhūtahitānukampī viharati.
291. ''Idha , māṇava,
ekacco itthī vā puriso vā sattānaṃ viheṭhakajātiko hoti, pāṇinā vā leḍḍunā vā
daṇḍena vā satthena vā. So tena kammena evaṃ samattena evaṃ samādinnena kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. No ce kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati, sace
manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati bavhābādho hoti. Bavhābādhasaṃvattanikā
esā, māṇava, paṭipadā yadidaṃ : sattānaṃ viheṭhakajātiko hoti pāṇinā vā leḍḍunā
vā daṇḍena vā satthena vā. ''Idha pana, māṇava, ekacco itthī vā puriso vā
sattānaṃ aviheṭhakajātiko hoti pāṇinā vā leḍḍunā vā daṇḍena vā satthena vā. So
tena kammena evaṃ samattena evaṃ samādinnena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ
saggaṃ lokaṃ upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati appābādho
hoti. Appābādhasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā yadidaṃ : sattānaṃ aviheṭhakajātiko hoti pāṇinā vā leḍḍunā
vā daṇḍena vā satthena vā.
292. ''Idha, māṇava,
ekacco itthī vā puriso vā kodhano hoti upāyāsabahulo. Appampi vutto samāno abhisajjati kuppati byāpajjati
patiṭṭhīyati kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti. So tena kammena evaṃ
samattena evaṃ samādinnena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati dubbaṇṇo
hoti. Dubbaṇṇasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā yadidaṃ : kodhano hoti
upāyāsabahulo appampi vutto samāno abhisajjati kuppati byāpajjati patiṭṭhīyati
kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti. ''Idha pana, māṇava, ekacco itthī vā
puriso vā akkodhano hoti anupāyāsabahulo bahumpi vutto samāno nābhisajjati na
kuppati na byāpajjati na patiṭṭhīyati na kopañca dosañca appaccayañca
pātukaroti. So tena kammena evaṃ samattena evaṃ samādinnena kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati, sace
manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati
pāsādiko hoti. Pāsādikasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā yadidaṃ :
akkodhano hoti anupāyāsabahulo bahumpi vutto samāno nābhisajjati na kuppati na
byāpajjati na patiṭṭhīyati na kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti.
293. ''Idha, māṇava,
ekacco itthī vā puriso vā issāmanako hoti
paralābhasakkāragarukāramānanavandanapūjanāsu issati upadussati issaṃ bandhati.
So tena kammena evaṃ samattena evaṃ samādinnena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ
duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ
duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati yattha yattha
paccājāyati appesakkho hoti. Appesakkhasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā
yadidaṃ : issāmanako hoti paralābhasakkāragarukāramānanavandanapūjanāsu issati
upadussati issaṃ bandhati. ''Idha pana,
māṇava, ekacco itthī vā puriso vā anissāmanako hoti
paralābhasakkāragarukāramānanavandanapūjanāsu na issati na upadussati na issaṃ
bandhati. So tena kammena evaṃ samattena evaṃ samādinnena kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. No
ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati, sace
manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati mahesakkho hoti. Mahesakkhasaṃvattanikā
esā, māṇava , paṭipadā yadidaṃ : anissāmanako hoti
paralābhasakkāragarukāramānanavandanapūjanāsu na issati na upadussati na issaṃ
bandhati.
294. ''Idha, māṇava,
ekacco itthī vā puriso vā na dātā hoti samaṇassa vā brāhmaṇassa vā annaṃ pānaṃ
vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ seyyāvasathapadīpeyyaṃ. So tena kammena evaṃ
samattena evaṃ samādinnena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati
appabhogo hoti. Appabhogasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā yadidaṃ : na dātā hoti samaṇassa vā brāhmaṇassa vā
annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ seyyāvasathapadīpeyyaṃ.
''Idha pana, māṇava, ekacco itthī vā puriso vā dātā
hoti samaṇassa vā brāhmaṇassa vā annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ
seyyāvasathapadīpeyyaṃ. So tena kammena evaṃ samattena evaṃ samādinnena kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati yattha
yattha paccājāyati mahābhogo hoti. Mahābhogasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā
yadidaṃ : dātā hoti samaṇassa vā brāhmaṇassa vā annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ
seyyāvasathapadīpeyyaṃ.
295. ''Idha, māṇava,
ekacco itthī vā puriso vā thaddho hoti atimānī : abhivādetabbaṃ na abhivādeti,
paccuṭṭhātabbaṃ na paccuṭṭheti, āsanārahassa na āsanaṃ deti, maggārahassa na
maggaṃ deti, sakkātabbaṃ na sakkaroti, garukātabbaṃ na garukaroti, mānetabbaṃ
na māneti, pūjetabbaṃ na pūjeti. So tena kammena evaṃ samattena evaṃ
samādinnena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ
upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ
upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati nīcakulīno
hoti. Nīcakulīnasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā yadidaṃ : thaddho hoti
atimānī abhivādetabbaṃ na abhivādeti, paccuṭṭhātabbaṃ na paccuṭṭheti,
āsanārahassa na āsanaṃ deti, maggārahassa na maggaṃ deti, sakkātabbaṃ na
sakkaroti, garukātabbaṃ na garukaroti, mānetabbaṃ na māneti, pūjetabbaṃ na
pūjeti. ''Idha pana, māṇava, ekacco
itthī vā puriso vā atthaddho hoti anatimānī abhivādetabbaṃ abhivādeti, paccuṭṭhātabbaṃ
paccuṭṭheti, āsanārahassa āsanaṃ deti, maggārahassa maggaṃ deti, sakkātabbaṃ
sakkaroti, garukātabbaṃ garukaroti, mānetabbaṃ māneti, pūjetabbaṃ pūjeti. So
tena kammena evaṃ samattena evaṃ samādinnena
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. No ce
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati
uccākulīno hoti. Uccākulīnasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā yadidaṃ :
atthaddho hoti anatimānī abhivādetabbaṃ abhivādeti, paccuṭṭhātabbaṃ paccuṭṭheti,
āsanārahassa āsanaṃ deti, maggārahassa maggaṃ deti, sakkātabbaṃ sakkaroti,
garukātabbaṃ garukaroti, mānetabbaṃ māneti, pūjetabbaṃ pūjeti.
296. ''Idha, māṇava, ekacco
itthī vā puriso vā samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā upasaṅkamitvā na paripucchitā hoti :
'kiṃ, bhante, kusalaṃ, kiṃ akusalaṃ kiṃ sāvajjaṃ, kiṃ anavajjaṃ kiṃ sevitabbaṃ,
kiṃ na sevitabbaṃ kiṃ me karīyamānaṃ dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya hoti, kiṃ vā
pana me karīyamānaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya hotīti? so tena kammena evaṃ
samattena evaṃ samādinnena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati
duppañño hoti. Duppaññasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā yadidaṃ : samaṇaṃ vā
brāhmaṇaṃ vā upasaṅkamitvā na paripucchitā hoti : 'kiṃ, bhante, kusalaṃ, kiṃ
akusalaṃ kiṃ sāvajjaṃ, kiṃ anavajjaṃ kiṃ sevitabbaṃ, kiṃ na sevitabbaṃ kiṃ me karīyamānaṃ dīgharattaṃ ahitāya
dukkhāya hoti, kiṃ vā pana me karīyamānaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya hotīti?
''idha pana, māṇava, ekacco itthī vā
puriso vā samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā upasaṅkamitvā paripucchitā hoti : 'kiṃ,
bhante, kusalaṃ, kiṃ akusalaṃ kiṃ sāvajjaṃ, kiṃ anavajjaṃ kiṃ sevitabbaṃ, kiṃ
na sevitabbaṃ kiṃ me karīyamānaṃ dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya hoti, kiṃ vā pana
me karīyamānaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya hotīti? so tena kammena evaṃ
samattena evaṃ samādinnena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapajjati. No ce kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati, sace manussattaṃ āgacchati yattha
yattha paccājāyati mahāpañño hoti. Mahāpaññasaṃvattanikā esā, māṇava, paṭipadā
yadidaṃ : samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā upasaṅkamitvā paripucchitā hoti : 'kiṃ,
bhante, kusalaṃ, kiṃ akusalaṃ kiṃ sāvajjaṃ, kiṃ anavajjaṃ kiṃ sevitabbaṃ , kiṃ
na sevitabbaṃ kiṃ me karīyamānaṃ dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya hoti, kiṃ vā pana
me karīyamānaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya hotīti?
297. ''Iti kho, māṇava,
appāyukasaṃvattanikā paṭipadā appāyukattaṃ upaneti, dīghāyukasaṃvattanikā paṭipadā
dīghāyukattaṃ upaneti bavhābādhasaṃvattanikā paṭipadā bavhābādhattaṃ upaneti,
appābādhasaṃvattanikā paṭipadā appābādhattaṃ upaneti dubbaṇṇasaṃvattanikā paṭipadā dubbaṇṇattaṃ upaneti, pāsādikasaṃvattanikā paṭipadā
pāsādikattaṃ upaneti appesakkhasaṃvattanikā paṭipadā appesakkhattaṃ upaneti,
mahesakkhasaṃvattanikā paṭipadā mahesakkhattaṃ upaneti appabhogasaṃvattanikā paṭipadā
appabhogattaṃ upaneti, mahābhogasaṃvattanikā paṭipadā mahābhogattaṃ upaneti
nīcakulīnasaṃvattanikā paṭipadā nīcakulīnattaṃ upaneti, uccākulīnasaṃvattanikā
paṭipadā uccākulīnattaṃ upaneti duppaññasaṃvattanikā paṭipadā duppaññattaṃ
upaneti, mahāpaññasaṃvattanikā paṭipadā mahāpaññattaṃ upaneti. Kammassakā, māṇava,
sattā kammadāyādā kammayonī kammabandhū kammappaṭisaraṇā. Kammaṃ satte
vibhajati yadidaṃ : hīnappaṇītatāyāti. Evaṃ vutte, subho māṇavo todeyyaputto
bhagavantaṃ etadavoca : ''abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama!
seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya,
mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya :
'cakkhumanto rūpāni dakkhantīti evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo
pakāsito. Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.
Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.
Cūḷakammavibhaṅgasuttaṃ
niṭṭhitaṃ pañcamaṃ.
-ooOoo-
135. Cūḷakammavibhaṅgasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
289. Evaṃ me sutanti
cūḷakammavibhaṅgasuttaṃ. Tattha subhoti so kira dassanīyo ahosi
pāsādiko, tenassa aṅgasubhatāya subhotveva nāmaṃ akaṃsu. Māṇavoti pana
taṃ taruṇakāle vohariṃsu, so mahallakakālepi teneva vohārena vohariyati. Todeyyaputtoti
todeyyassa nāma pasenadirañño purohitabrāhmaṇassa putto. So kira sāvatthiyā
avidūre tudigāmo nāma atthi, tassa adhipatittā todeyyoti saṅkhaṃ gato.
Mahādhano pana hoti sattāsītikoṭivibhavo paramamaccharī, ‘‘dadato bhogānaṃ
aparikkhayo nāma natthī’’ti cintetvā kassaci kiñci na deti. Vuttampi cetaṃ –
‘‘Añjanānaṃ khayaṃ disvā, vammikānañca sañcayaṃ;
Madhūnañca samāhāraṃ, paṇḍito gharamāvase’’ti.
Evaṃ adānameva sikkhāpesi. Dhuravihāre vasato
sammāsambuddhassa yāguuḷuṅgamattaṃ vā bhattakaṭacchumattaṃ vā adatvā
dhanalobhena kālaṃ katvā tasmiṃyeva ghare sunakho hutvā nibbatto. Subho taṃ
sunakhaṃ ativiya piyāyati, attano bhuñjanakabhattaṃyeva bhojeti, ukkhipitvā
varasayane sayāpeti. Atha bhagavā ekadivasaṃ paccūsasamaye lokaṃ volokento taṃ
sunakhaṃ disvā – ‘‘todeyyabrāhmaṇo dhanalobhena attanova ghare sunakho hutvā
nibbatto, ajja mayi subhassa gharaṃ gate maṃ disvā sunakho bhukkāraṃ karissati,
athassāhaṃ ekaṃ vacanaṃ vakkhāmi, so ‘jānāti maṃ samaṇo gotamo’ti gantvā
uddhanaṭṭhāne nipajjissati. Tatonidānaṃ subhassa mayā saddhiṃ eko kathāsallāpo
bhavissati, so dhammaṃ sutvā saraṇesu patiṭṭhahissati, sunakho pana kālaṃ katvā
niraye nibbattissatī’’ti imaṃ māṇavassa saraṇesu patiṭṭhānabhāvaṃ ñatvā bhagavā
taṃ divasaṃ sarīrapaṭijagganaṃ katvā ekakova gāmaṃ pavisitvā nikkhante māṇave
taṃ gharaṃ piṇḍāya pāvisi.
Sunakho bhagavantaṃ disvā bhukkāraṃ karonto bhagavato
samīpaṃ gato. Tato naṃ bhagavā etadavoca – ‘‘todeyya tvaṃ pubbepi maṃ bho bhoti
paribhavitvā sunakho jāto, idānipi bhukkāraṃ katvā avīciṃ gamissasī’’ti.
Sunakho taṃ sutvā – ‘‘jānāti maṃ samaṇo gotamo’’ti vippaṭisārī hutvā gīvaṃ
onāmetvā uddhanantare chārikāyaṃ nipanno. Manussā ukkhipitvā sayane sayāpetuṃ
nāsakkhiṃsu. Subho āgantvā – ‘‘kenāyaṃ sunakho sayanā oropito’’ti āha. Manussā
na kenacīti vatvā taṃ pavattiṃ ārocesuṃ. Māṇavo sutvā – ‘‘mama pitā brahmaloke
nibbatto, todeyyo nāma sunakho natthi. Samaṇo pana gotamo pitaraṃ sunakhaṃ
karoti, yaṃkiñci esa mukhāruḷhaṃ bhāsatī’’ti kujjhitvā bhagavantaṃ musāvādena
niggahetukāmo vihāraṃ gantvā taṃ pavattiṃ pucchi.
Bhagavāpi tassa tatheva vatvā avisaṃvādanatthaṃ āha –
‘‘atthi pana te māṇava pitarā anakkhātaṃ dhana’’nti. Atthi, bho gotama,
satasahassagghanikā suvaṇṇamālā satasahassagghanikā suvaṇṇapādukā
satasahassagghanikā suvaṇṇapāti satasahassañca kahāpaṇanti. Gaccha taṃ sunakhaṃ
appodakapāyāsaṃ bhojāpetvā sayane āropetvā īsakaṃ niddaṃ okkantakāle puccha,
sabbaṃ te ācikkhissati. Atha naṃ jāneyyāsi ‘‘pitā me eso’’ti. Māṇavo – ‘‘sace
saccaṃ bhavissati, dhanaṃ lacchāmi, no ce, samaṇaṃ gotamaṃ musāvādena niggaṇhissāmī’’ti
dvīhipi kāraṇehi tuṭṭho gantvā tathā akāsi. Sunakho – ‘‘ñātomhi iminā’’ti
roditvā huṃ hunti karonto dhananidhānaṭṭhānaṃ gantvā pādena pathaviṃ khaṇitvā
saññaṃ adāsi, māṇavo dhanaṃ gahetvā – ‘‘bhavapaṭicchannaṃ nāma evaṃ sukhumaṃ paṭisandhiantaraṃ
pākaṭaṃ samaṇassa gotamassa, addhā esa sabbaññū’’ti bhagavati pasannacitto
cuddasa pañhe abhisaṅkhari. Aṅgavijjāpāṭhako kiresa, tenassa etadahosi – ‘‘idaṃ
dhammapaṇṇākāraṃ gahetvā samaṇaṃ gotamaṃ pañhe pucchissāmī’’ti dutiyagamanena
yena bhagavā tenupasaṅkami, tena puṭṭhapañhe pana bhagavā ekappahāreneva
vissajjento kammassakātiādimāha.
Tattha kammaṃ etesaṃ sakaṃ attano bhaṇḍakanti kammassakā.
Kammassa dāyādāti kammadāyādā, kammaṃ etesaṃ dāyajjaṃ bhaṇḍakanti attho.
Kammaṃ etesaṃ yoni kāraṇanti kammayonī. Kammaṃ etesaṃ bandhūti kammabandhū,
kammañātakāti attho. Kammaṃ etesaṃ paṭisaraṇaṃ patiṭṭhāti kammapaṭisaraṇā.
Yadidaṃ hīnappaṇītatāyāti yaṃ idaṃ ‘‘tvaṃ hīno bhava, tvaṃ paṇīto,
tvaṃ appāyuko, tvaṃ dīghāyuko…pe… tvaṃ duppañño bhava, tvaṃ paññavā’’ti evaṃ
hīnappaṇītatāya vibhajanaṃ, taṃ na añño koci karoti, kammameva evaṃ satte
vibhajatīti attho. Na māṇavo kathitassa atthaṃ sañjānāsi, ghanadussapaṭṭenassa
mukhaṃ bandhitvā madhuraṃ purato ṭhapitaṃ viya ahosi. Mānanissito kiresa paṇḍitamānī,
attanā samaṃ na passati. Athassa ‘‘kiṃ samaṇo gotamo katheti, yamahaṃ jānāmi,
tadeva kathetīti ayaṃ māno mā ahosī’’ti mānabhañjanatthaṃ bhagavā ‘‘āditova
duppaṭivijjhaṃ katvā kathessāmi, tato ‘nāhaṃ bho gotama jānāmi, vitthārena me
pākaṭaṃ katvā kathethā’ti maṃ yācissati, athassāhaṃ yācitakāle kathessāmi,
evañcassa sātthakaṃ bhavissatī’’ti duppaṭivijjhaṃ katvā kathesi.
Idāni so attano appaṭividdhabhāvaṃ pakāsento na kho
ahantiādimāha.
290. Samattenāti
paripuṇṇena. Samādinnenāti gahitena parāmaṭṭhena. Appāyukasaṃvattanikā
esā, māṇava, paṭipadā yadidaṃ pāṇātipātīti yaṃ idaṃ pāṇātipātakammaṃ, esā
appāyukasaṃvattanikā paṭipadāti.
Kathaṃ panesā appāyukataṃ karoti? Cattāri hi kammāni
upapīḷakaṃ upacchedakaṃ janakaṃ upatthambhakanti. Balavakammena hi nibbattaṃ
pavatte upapīḷakaṃ āgantvā atthato evaṃ vadati nāma – ‘‘sacāhaṃ paṭhamataraṃ
jāneyyaṃ, na te idha nibbattituṃ dadeyyaṃ, catūsuyeva taṃ apāyesu nibbattāpeyyaṃ.
Hotu, tvaṃ yattha katthaci nibbatta, ahaṃ upapīḷakakammaṃ nāma taṃ pīḷetvā
nirojaṃ niyūsaṃ kasaṭaṃ karissāmī’’ti. Tato paṭṭhāya taṃ tādisaṃ karoti. Kiṃ
karoti? Parissayaṃ upaneti, bhoge vināseti.
Tattha dārakassa mātukucchiyaṃ nibbattakālato paṭṭhāya
mātu assādo vā sukhaṃ vā na hoti, mātāpitūnaṃ pīḷāva uppajjati. Evaṃ parissayaṃ
upaneti. Dārakassa pana mātukucchimhi nibbattakālato paṭṭhāya gehe bhogā udakaṃ
patvā loṇaṃ viya rājādīnaṃ vasena nassanti, kumbhadohanadhenuyo khīraṃ na
denti, sūratā goṇā caṇḍā honti, kāṇā honti, khujjā honti, gomaṇḍale rogo
patati, dāsādayo vacanaṃ na karonti, vāpitaṃ sassaṃ na jāyati, gehagataṃ gehe,
araññagataṃ araññe nassati, anupubbena ghāsacchādanamattaṃ dullabhaṃ hoti,
gabbhaparihāro na hoti, vijātakāle mātuthaññaṃ chijjati, dārako parihāraṃ
alabhanto pīḷito nirojo niyūso kasaṭo hoti, idaṃ upapīḷakakammaṃ nāma.
Dīghāyukakammena pana nibbattassa upacchedakakammaṃ
āgantvā āyuṃ chindati. Yathā hi puriso aṭṭhusabhagamanaṃ katvā saraṃ khipeyya
tamañño dhanuto vimuttamattaṃ muggarena paharitvā tattheva pāteyya, evaṃ
dīghāyukakammena nibbattassa upacchedakakammaṃ āyuṃ chindati. Kiṃ karoti?
Corānaṃ aṭaviṃ paveseti, vāḷamacchodakaṃ otāreti, aññataraṃ vā pana saparissayaṭṭhānaṃ
upaneti, idaṃ upacchedakakammaṃ nāma, ‘‘upaghātaka’’ntipi etasseva nāmaṃ.
Paṭisandhinibbattakaṃ pana kammaṃ janakakammaṃ
nāma. Appabhogakulādīsu nibbattassa bhogasampadādikaraṇena upatthambhakakammaṃ upatthambhakakammaṃ
nāma.
Imesu catūsu purimāni dve akusalāneva, janakaṃ
kusalampi akusalampi, upatthambhakaṃ kusalameva. Tattha pāṇātipātakammaṃ
upacchedakakammena appāyukasaṃvattanikaṃ hoti. Pāṇātipātinā vā kataṃ
kusalakammaṃ uḷāraṃ na hoti, dīghāyukapaṭisandhiṃ janetuṃ na sakkoti. Evaṃ pāṇātipāto
appāyukasaṃvattaniko hoti. Paṭisandhimeva vā niyāmetvā appāyukaṃ karoti, sanniṭṭhānacetanāya
vā niraye nibbattati, pubbāparacetanāhi vuttanayena appāyuko hoti.
Dīghāyukasaṃvattanikā esā māṇava paṭipadāti
ettha parittakammenapi nibbattaṃ pavatte etaṃ pāṇātipātā viratikammaṃ āgantvā
atthato evaṃ vadati nāma – ‘‘sacāhaṃ paṭhamataraṃ jāneyyaṃ, na te idha
nibbattituṃ dadeyyaṃ, devalokeyeva taṃ nibbattāpeyyaṃ. Hotu, tvaṃ yattha
katthaci nibbatti, ahaṃ upatthambhakakammaṃ nāma thambhaṃ te karissāmī’’ti
upatthambhaṃ karoti. Kiṃ karoti? Parissayaṃ nāseti, bhoge uppādeti.
Tattha dārakassa mātukucchiyaṃ nibbattakālato paṭṭhāya mātāpitūnaṃ sukhameva sātameva hoti. Yepi pakatiyā manussāmanussaparissayā honti, te sabbe apagacchanti. Evaṃ parissayaṃ nāseti. Dārakassa pana mātukucchimhi nibbattakālato paṭṭhāya gehe bhogānaṃ pamāṇaṃ na hoti, nidhikumbhiyo puratopi pacchatopi gehaṃ pavaṭṭamānā pavisanti. Mātāpitaro parehi ṭhapitadhanassāpi sammukhībhāvaṃ gacchanti. Dhenuyo bahukhīrā honti, goṇā sukhasīlā honti, vappaṭṭhāne sassāni sampajjanti. Vaḍḍhiyā vā sampayuttaṃ, tāvakālikaṃ vā dinnaṃ dhanaṃ acoditā sayameva āharitvā denti, dāsādayo suvacā honti, kammantā na parihāyanti. Dārako gabbhato paṭṭhāya parihāraṃ labhati, komārikavejjā sannihitāva honti. Gahapatikule jāto seṭṭhiṭṭhānaṃ, amaccakulādīsu jāto senāpatiṭṭhānādīni labhati. Evaṃ bhoge uppādeti. So aparissayo sabhogo ciraṃ jīvatīti. Evaṃ apāṇātipātakammaṃ dīghāyukasaṃvattanikaṃ hoti.
Apāṇātipātinā vā kataṃ aññampi kusalaṃ uḷāraṃ hoti,
dīghāyukapaṭisandhiṃ janetuṃ sakkoti, evampi dīghāyukasaṃvattanikaṃ hoti. Paṭisandhimeva
vā niyāmetvā dīghāyukaṃ karoti. Sanniṭṭhānacetanāya vā devaloke nibbattati,
pubbāparacetanāhi vuttanayena dīghāyuko hoti. Iminā nayena
sabbapañhavissajjanesu attho veditabbo.
Viheṭhanakammādīnipi hi pavatte āgantvā atthato
tatheva vadamānāni viya upapīḷanena nibbhogataṃ āpādetvā paṭijagganaṃ
alabhantassa roguppādanādīhi vā, viheṭhakādīhi katassa kusalassa anuḷāratāya
vā, āditova paṭisandhiniyāmanena vā, vuttanayeneva pubbāparacetanāvasena vā
bahvābādhatādīni karonti, apāṇātipāto viya ca aviheṭhanādīnipi
appābādhatādīnīti.
293. Ettha pana issāmanakoti
issāsampayuttacitto. Upadussatīti issāvaseneva upakkosanto dussati. Issaṃ
bandhatīti yavakalāpaṃ bandhanto viya yathā na nassati evaṃ bandhitvā viya ṭhapeti.
Appesakkhoti appaparivāro, rattiṃ khitto viya saro na paññāyati, ucchiṭṭhahattho
nisīditvā udakadāyakampi na labhati.
294. Na dātā hotīti
macchariyavasena na dātā hoti. Tena kammenāti tena macchariyakammena.
295. Abhivādetabbanti
abhivādanārahaṃ buddhaṃ vā paccekabuddhaṃ vā ariyasāvakaṃ vā. Paccuṭṭhātabbādīsupi
eseva nayo. Imasmiṃ pana pañhavissajjane upapīḷakaupatthambhakakammāni na
gahetabbāni. Na hi pavatte nīcakulinaṃ vā uccākulinaṃ vā sakkā kātuṃ, paṭisandhimeva
pana niyāmetvā nīcakuliyaṃ kammaṃ nīcakule nibbatteti, uccākuliyaṃ kammaṃ
uccākule.
296. Na paripucchitā hotīti
ettha pana aparipucchanena niraye na nibbattati. Aparipucchako pana ‘‘idaṃ
kātabbaṃ, idaṃ na kātabba’’nti na jānāti, ajānanto kātabbaṃ na karoti, akātabbaṃ
karoti. Tena niraye nibbattati, itaro sagge. Iti kho, māṇava…pe… yadidaṃ
hīnappaṇītatāyāti satthā desanaṃ yathānusandhiṃ pāpesi. Sesaṃ sabbattha
uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Cūḷakammavibhaṅgasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Subhasuttantipi vuccati.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Tại sao theo Phật Pháp quả của nghiệp là một trong bốn điều bất khả tư nghì (acinteyya) ? Nếu không thể nghĩ bàn thì tại sao có những lúc vẫn được nói đến như trong bài kinh hôm nay? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Chúng ta nên hiểu thế nào là tương xứng giữa nhân quả? Thí dụ cho cơm đến người ăn xin đâu phải sao nầy làm người ăn xin để được cho lại? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. Tại sao có những trường hợp nhân quả thoạt nghe không tương xứng như bố thí thực phẩm là nhân sanh biện tài? Hay người thường nói lời vô ích nhảm nhí thì quả sanh ra thân thể còm cỏi? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 4. Có những người thường sát sanh nhưng mỗi tháng đều kiêng sát sanh vào những ngày giới ,vậy thì quả báo thế nào? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 5. Tại sao phước trí ở đây chỉ đề cập tới văn huệ? Hay trong Phật ngôn tiềm ẩn cả văn huệ, tư huệ và tu huệ? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 4. Có những người thường sát sanh nhưng mỗi tháng đều kiêng sát sanh vào những ngày giới ,vậy thì quả báo thế nào? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 5. Tại sao phước trí ở đây chỉ đề cập tới văn huệ? Hay trong Phật ngôn tiềm ẩn cả văn huệ, tư huệ và tu huệ? - TT Tuệ Siêu
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment