Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 20/5/2020 Phân đoạn [1123 – 112…]
128. Kinh Tùy Phiền Não (Upakkilesa Sutta)
Thuật ngữ upakkilesa thường dịch là tuỳ phiền não là những pháp ngăn
ngại sự tiến bộ trong thiền định. Những pháp nầy có thể là phó sản (byproduct)
của sự tu tập như sự hân hoan hay tinh cần quá độ chứ không nhất thiết là tham,
sân, si. Đức Thế Tôn ghé thăm ba vị tôn giả Anurudha, Nandiya và Kimbila khi ba vị nầy đang trong giai đoạn nỗ
lực hướng đến sự giác ngộ viên mãn. Tôn giả Anuruddha đã bạch hỏi tại sao trong
lúc nhập định những hiện tượng như hào quang và sắc tướng không tồn tại lâu. Đức
Thế Tôn chỉ dẫn bằng cách giải thích về các tuỳ phiền não. Sau nầy tôn giả
Anuruddha được xác chứng là bậc đại đệ tử đệ nhất về thiên nhãn.
1123. Trường hợp tranh chấp u mê “trời gầm không nhả”
Có những chúng sanh do phiền não chế ngự ngay cả chính khi gặp Đức Phật
cũng không chuyển hoá được. Câu chuyện tranh chấp giữa hai nhóm tỳ kheo tại
Kosambi đã ghi lại mãnh lực của tranh chấp hơn thua:
Như vầy tôi nghe
Một thời Thế Tôn ở
Kosambī (Kiều-thưởng-di), tại tịnh xá Ghosita (Cù-sư-la).
Lúc bấy giờ các Tỷ-kheo
ở Kosambī sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau
bằng những binh khí miệng lưỡi. Rồi một Tỷ-kheo đến chỗ Thế Tôn
ở, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên,
Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn,
các Tỷ-kheo ở Kosambī, sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả
thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi. Tốt lành thay, bạch Thế
Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn, đến các Tỷ-kheo ấy.
Thế Tôn im lặng nhận
lời. Rồi Thế Tôn đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau khi đến liền nói với
họ:
-- Thôi vừa rồi, các
Tỷ-kheo! Chớ có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh nhau! Khi
nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn bậc Pháp Chủ, hãy dừng lại! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có
nhọc lòng! Thế Tôn hãy an trú, chú tâm và hiện tại lạc trú! Vì
rằng chúng con chịu trách nhiệm về sự cạnh tranh, luận tranh, phân tranh,
đấu tranh này.
Lần thứ hai, Thế Tôn
nói với các Tỷ-kheo ấy:
-- Thôi vừa rồi, này
các Tỷ-kheo! Chớ có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh nhau.
Lần thứ hai Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn bậc Pháp Chủ hãy dừng lại! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có nhọc
lòng! Thế Tôn hãy an trú, chú tâm và hiện tại lạc trú! Vì rằng
chúng con chịu trách nhiệm về sự cạnh tranh, luận tranh, phân tranh,
đấu tranh này.
Lần thứ ba, Thế Tôn nói
với các Tỷ-kheo ấy:
-- Thôi vừa rồi, này
các Tỷ-kheo! Chớ có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh nhau!
Lần thứ ba, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn bậc Pháp Chủ hãy dừng lại! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có nhọc
lòng! Thế Tôn hãy an trú, chú tâm vào hiện tại lạc trú! Vì rằng
chúng con chịu trách nhiệm về sự cạnh tranh, luận tranh, phân tranh,
đấu tranh này.
1124. Thà đi một mình hơn sống
với kẻ ngu
Đức Thế Tôn phải dùng tới
biện pháp đi vào rừng để đánh động sự tỉnh thức của những người đang cuồng
nhiệt tranh chấp:
Rồi Thế Tôn vào buổi
sáng đắp y, cầm y bát và đi vào Kosambī để khất thực. Sau khi đi khất
thực ở Kosambī, ăn xong, trên con đường khi khất thực trở về, sau khi
dọn dẹp chỗ nằm, lấy y bát, Ngài đứng và nói bài kệ:
Giữa quần chúng la ó,
Không ai nghĩ mình ngu,
Giữa Tăng chúng phân ly
Có ai nghĩ hướng
thượng?
Thất niệm kẻ trí nói,
Ba hoa trăm thứ chuyện,
Ba hoa trăm thứ chuyện,
Miệng há, nói thả dàn,
Dẫn đi đâu, ai biết?
"Nó mắng tôi, đánh
tôi!
Nó hại tôi, cướp
tôi!"
Ai ôm oán niệm ấy,
Hận thù không thể nguôi.
Ai ôm oán niệm ấy,
Hận thù không thể nguôi.
"Nó mắng tôi, đánh
tôi!
Nó hại tôi, cướp
tôi!"
Không ôm oán niệm ấy,
Hận thù sẽ tự nguôi.
Hận thù diệt hận thù,
Không đời nào diệt
được,
Từ bi diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu.
Là định luật ngàn thu.
"Người khác không
hiểu biết,
Ở đây ta bị diệt",
Những ai hiểu điều này,
Nhờ vậy, tranh luận tiêu.
Những ai hiểu điều này,
Nhờ vậy, tranh luận tiêu.
Kẻ chủ xướng hại mạng,
Cướp bò, ngựa tài sản,
Kẻ cướp đoạt quốc độ,
Họ còn biết đoàn kết,
Sao các Ông không vậy?
Nếu được bạn hiền trí,
Ðồng hành, khéo an trú,
Ðả thắng mọi hiểm nạn,
Sống hoan hỷ chánh niệm.
Nếu không bạn hiền trí,
Như vua bỏ quốc độ,
Cô độc như voi rừng.
Tốt hơn, sống một mình,
Không bè bạn kẻ ngu,
Cô độc không làm ác,
Nhàn hạ, như voi rừng.
1125. Những đệ tử đúng nghĩa
là con Phật
Trên đường đến rừng sống độc
cư ba tháng, Đức Thế Tôn đã ghé thăm những đệ tử tịnh tu:
Rồi Thế Tôn đứng nói
lên những câu kệ này, rồi đi đến làng Bālakaloṇakāra. Khi ấy, Tôn
giả Bhagu sống ở trong làng Bālakaloṇakāra. Tôn giả Bhagu thấy Thế Tôn
từ xa đi đến, liền sắp đặt chỗ ngồi và nước rửa chân. Thế Tôn
ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn; sau khi ngồi, Ngài rửa chân. Tôn
giả Bhagu đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói
với Tôn giả Bhagu đang ngồi một bên:
-- Này Tỷ-kheo, có được
an lành không? Có được sống yên vui không? Ði khất thực, có khỏi
mệt nhọc không?
-- Bạch Thế Tôn, con
được an lành. Bạch Thế Tôn, con sống yên vui. Bạch Thế Tôn, con đi
khất thực khỏi có mệt nhọc.
Rồi Thế Tôn sau khi với
thời thuyết pháp khích lệ Tôn giả Bhagu, làm cho hân hoan, làm cho
phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Pācīnavaṃsadāya.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Anurudha (A- na-luật), Tôn giả Nandiya (Nan-đề)
và Tôn giả Kimbila (Kim-ty-la) trú ở Pācīnavaṃsadāya. Người giữ vườn
thấy Thế Tôn từ xa đi đến, khi thấy vậy liền bạch Thế Tôn:
Này Sa-môn, chớ có vào
khu vườn này. Có ba Thiện gia nam tử, rất ái luyến tự ngã (attakāmanīpā)
trú tại đây. Chớ có phiền nhiễu các vị ấy.
Tôn giả Anuruddha nghe người
giữ khu vườn nói chuyện với Thế Tôn, liền nói với người giữ
vườn:
-- Này người Giữ vườn, chớ
có ngăn chặn Thế Tôn! Thế Tôn bậc Ðạo sư của chúng tôi đã đến.
Rồi Tôn giả Anuruddha đi
đến Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila và nói:
-- Chư Tôn giả hãy đến!
Chư Tôn giả hãy đến! Thế Tôn, bậc Ðạo sư của chúng ta đã đến.
Rồi Tôn giả Anuruddha,
Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila ra đón Thế Tôn, một người cầm y
bát Thế Tôn, một người sửa soạn chỗ ngồi, một người đặt sẵn
nước rửa chân. Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn; sau khi ngồi,
Thế Tôn rửa chân. Rồi các Tôn giả ấy đảnh lễ Thế Tôn và ngồi
xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Anuruddha đang ngồi
xuống một bên:
-- Này các Anuruddha, các
Ông có được an lành không? Có được sống yên vui không? Ði khất
thực có khỏi mệt nhọc không?
-- Bạch Thế Tôn, chúng
con được an lành. Bạch Thế Tôn, chúng con sống yên vui. Bạch Thế
Tôn, chúng con đi khất thực khỏi có mệt nhọc.
-- Này các Anuruddha, các
Ông có sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, không có cãi nhau. Như nước
với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm không?
-- Bạch Thế Tôn, thật
sự chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, không có cãi nhau, như
nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm.
-- Này các Anuruddha, như
thế nào các Ông sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa,
sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm?
-- Bạch Thế Tôn, ở đây
chúng con nghĩ như sau: "Thật lợi ích thay cho ta! Thật khéo lợi
ích thay cho ta, khi ta được sống với các đồng Phạm hạnh như vậy!
Bạch Thế Tôn, do vậy đối với các vị đồng Phạm hạnh này, con khởi
lên từ thân nghiệp, trước mặt và sau lưng; con khởi lên từ khẩu
nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ ý nghiệp, trước
mặt và sau lưng. Bạch Thế Tôn do vậy chúng con nghĩ như sau: "Ta
hãy từ bỏ tâm của ta và sống thuận theo tâm của những Tôn giả
này". Và bạch Thế Tôn, con từ bỏ tâm của con, và sống thuận
theo tâm của những Tôn giả ấy. Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác
thân nhưng giống như đồng một tâm.
Rồi Tôn giả Nandiya...
Rồi Tôn giả Kimbila bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, ở đây
chúng con nghĩ như sau: "Thật lợi ích thay cho ta! Thật khéo lợi
ích thay cho ta, khi ta được sống với các vị đồng Phạm hạnh như
vậy!" Bạch Thế Tôn, do vậy đối với các vị đồng Phạm hạnh này,
con khởi lên từ thân nghiệp, trước mặt và sau lưng; con khởi lên
từ khẩu nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ ý nghiệp,
trước mặt và sau lưng. Bạch Thế Tôn, do vậy chúng con nghĩ như sau:
"Ta hãy từ bỏ tâm của ta và sống thuận theo tâm của những Tôn
giả này". Và bạch Thế Tôn, con từ bỏ tâm của con và sống thuận
theo tâm của những Tôn giả ấy. Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác
thân nhưng giống như đồng một tâm. Bạch Thế Tôn, như vậy chúng con
sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau
với cặp mắt thiện cảm.
-- Lành thay, lành thay,
này các Anuruddha! và này các Anuruddha, các Ông có sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần không?
-- Bạch Thế Tôn, thật
sự chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
-- Này các Anuruddha, như
thế nào, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần?
-- Ở đây, bạch Thế Tôn
chúng con ai đi vào làng khất thực về trước, người ấy sắp đặt các
chỗ ngồi, soạn sẵn nước uống, nước rửa chân, soạn sẵn một bát
để bỏ đồ dư. Ai đi vào làng khất thực về sau, người ấy, còn đồ
ăn để lại, nếu muốn thì ăn, nếu không muốn thời bỏ vào chỗ không
có cỏ xanh hay đổ vào nước không có loài côn trùng. Người ấy xếp
dọn lại các chỗ ngồi, cất đi nước uống, nước rửa chân, cất đi
cái bát để bỏ đồ dư và quét sạch nhà ăn. Ai thấy ghè nước uống,
ghè nước rửa chân, hay ghè nước trong nhà cầu hết nước trống
không, người ấy sẽ lo liệu (nước). Nếu làm không nỗi với sức bàn
tay của mình, người ấy dùng tay ra hiệu gọi người thứ hai:
"Chúng ta hãy lo liệu (nước)". Dầu vậy, bạch Thế Tôn,
chúng con không vì vậy gây ra tiếng động. Và đến ngày thứ năm, bạch
Thế Tôn, suốt cả một đêm chúng con ngồi đàm luận về đạo pháp. Như
vậy, bạch Thế Tôn, chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh
cần.
1126. Một câu hỏi về về
thiền định và lời dạy về tuỳ phiền não
Tôn giả Anuruddha đã bạch
hỏi về trường hợp tại sao quang tướng và sắc tướng trong thiền định không duy
trì được lâu. Bậc Đạo Sư dạy về các tuỳ phiền não (chữ các trong “Nầy các
Anuruddha” của bản dịch nên được bỏ bớt):
-- Lành thay, lành thay,
này các Anurudda! Này Anuruddha, các Ông sống không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần như vậy, các Ông có chứng được pháp thượng nhân tri
kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh, sống thoải mái an lạc không?
-- Ở đây, bạch Thế Tôn,
chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, chúng
con nhận thấy được hào quang, cũng như sự hiện khởi các sắc pháp.
Nhưng hào quang ấy không bao lâu biến mất cùng với sự hiện khởi
các sắc pháp. Chúng con không được hiểu rõ tướng ấy là gì.
-- Này các Anuruddha,
tướng ấy các Ông cần phải hiểu rõ. Ta cũng vậy, này các Anuruddha,
trước khi giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta
nhận thấy hào quang và sự hiện khởi các sắc pháp. Nhưng hào quang
ấy không bao lâu biến mất nơi Ta cùng với sự hiện khởi các sắc
pháp. Này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau: "Do nhân gì, do
duyên gì hào quang biến mất đối với Ta, cùng với sự hiện khởi các
sắc pháp?" Này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau: "Nghi hoặc
khởi lên nơi Ta. Vì có nghi hoặc nên định của Ta bị biến diệt; khi
định biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc
pháp. Vậy Ta sẽ phải làm thế nào để nghi hoặc không khởi lên nơi
Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, nhận thấy được hào quang
cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Nhưng hào quang ấy không bao
lâu biến mất nơi Ta, cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Rồi
này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau: "Do nhân gì, do duyên gì,
hào quang biến mất nơi Ta, cùng với sự hiện khởi của các sắc
pháp?" Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau: "Không tác
ý khởi lên nơi Ta Vì không có tác ý, nên định bị biến diệt nơi
Ta; khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi
các sắc pháp. Vậy Ta phải làm như thế nào để nghi hoặc và không
tác ý không khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật... Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
"Hôn trầm, thụy miên, khởi lên nơi Ta. Vì có hôn trầm, thụy
miên nên định của Ta bị biến diệt; khi định bị biến diệt, hào quang
biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm như
thế nào để nghi hoặc, không tác ý và hôn trầm, thụy miên không
khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật... Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
"Sự sợ hãi khởi lên nơi Ta. Vì có sợ hãi, nên định bị biến
diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự
hiện khởi các sắc pháp". Ví như, này các Anuruddha, một người
đang đi trên con đường, có kẻ giết người nhảy đến (công kích) từ
hai phía. Do nhân duyên từ hai phía, người ấy khởi lên sợ hãi.
Cũng vậy, này các Anuruddha, sợ hãi khởi lên nơi Ta. Vì có sợ hãi,
nên định bị biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào quang biến
mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm thế nào
để nghi hoặc, không tác ý hôn trầm, thụy miên và sự sợ hãi không
khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật… Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
"Sự phấn chấn (ubbilla) khởi lên nơi Ta. Vì có sự phấn chấn,
nên định bị biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào quang biến
mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Ví như, này các Anuruddha,
một người đi tìm cửa miệng một kho tàng, và trong một lần tìm
được năm cửa miệng kho tàng, do nhân duyên này phấn chấn khởi lên.
Cũng vậy, này các Anuruddha, phấn chấn khởi lên nơi Ta. Vì có phấn
chấn nên định bị biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt mất cùng
với sự hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm thế nào, để nghi
hoặc, không tác ý, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi và sự phấn chấn
không khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật... Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
"Dâm ý (duṭṭhullaṃ) khởi lên nơi Ta. Vì có dâm ý, nên định bị
biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng
với sự hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm thế nào để nghi
hoặc không tác ý, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi, phấn chấn, dâm ý
không khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật... Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
"Sự tinh cần quá độ khởi lên nơi Ta, và vì có tinh cần quá
độ, nên định lực biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào quang
biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Ví như này các
Anuruddha, một người với hai tay bắt nắm quá chặt một con chim cáy
khiến con chim chết liền tại chỗ. Cũng vậy, này các Anuruddha, tinh
cần quá độ khởi lên nơi Ta. Vì có tinh cần quá độ... cùng với sự
hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc,
không tác ý, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi, phấn chấn, dâm ý, và
tinh cần quá độ không khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật... Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
"Tinh cần quá yếu đuối khởi lên nơi Ta. Vì có tinh cần quá yếu
đuối, nên định biến diệt nơi Ta; khi định biến diệt, hào quang biến
mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Ví như này các Anuruddha,
một người bắt một con chim cáy quá lỏng lẻo, con chim ấy bay khỏi hai
tay của người ấy. Cũng vậy, này các Anuruddha,.. cùng với sự hiện
khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc, không tác
ý, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi, phấn chấn, dâm ý, tinh cần quá độ
và tinh cần quá yếu đuối không khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật... Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
"Ái dục khởi lên nơi Ta. Vì có ái dục… với sự hiện khởi các
sắc pháp... Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc, không tác ý...
tinh cần quá yếu đuối và ái dục không khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật... Rồi này các Anuruddha, Ta nghĩ như sau:
"Sai biệt tưởng khởi lên nơi Ta... cùng với sự hiện khởi các
sắc pháp. Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc... ái dục và sai
biệt tưởng không khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, và Ta nhận thấy được
hào quang cùng với sự hiện khởi sắc pháp. Những hào quang ấy không
bao lâu biến mất nơi Ta cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Rồi
này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau: "Do nhân gì, do duyên gì,
hào quang biến mất nơi Ta cùng với sự hiện khởi các sắc pháp?"
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau: "Một trạng thái quá
chú tâm vào các sắc pháp khởi lên nơi Ta... cùng với sự hiện khởi
các sắc pháp. Vậy Ta phải làm như thế nào để nghi hoặc ... (như
trên) ... các tưởng sai biệt và trạng thái quá chú tâm vào các
sắc pháp không khởi lên nơi Ta nữa". Rồi này các Anuruddha, sau
khi biết được nghi hoặc là một phiền não của tâm, Ta đoạn trừ nghi
hoặc, phiền não của tâm; sau khi biết được không tác ý là một
phiền não của tâm, Ta đoạn trừ không tác ý, phiền não của tâm; sau
khi biết được hôn trầm, thụy miên... sau khi biết được sợ hãi...
sau khi biết được phấn chấn.... sau khi biết được dâm ý... sau khi
biết được sự tinh cần quá độ... sau khi biết được sự tinh cần quá
yếu đuối... sau khi biết được dục ái... sau khi biết được tưởng sai
biệt; sau khi biết được trạng thái quá chú tâm đến sắc pháp là
một phiền não của tâm, Ta đoạn trừ trạng thái quá chú trọng vào
các sắc pháp, một phiền não của tâm.
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, nhận thấy được hào quang
nhưng Ta không thấy các sắc pháp cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả
ngày. Ta thấy các sắc pháp nhưng không nhận thấy hào quang. Về vấn
đề này, này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau: "Do nhân gì, do
duyên gì, Ta chỉ nhận thấy hào quang, nhưng không thấy sắc pháp: cả
đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày?" Ta chỉ thấy các sắc pháp
nhưng không nhận thấy hào quang. Về vấn đề này, này các Anuruddha,
Ta suy nghĩ như sau: "Trong khi Ta không tác ý sắc tướng, nhưng
có tác ý hào quang tướng, trong khi ấy ta nhận thấy hào quang,
(nhưng) không thấy sắc pháp. Còn trong khi Ta không tác ý hào quang
tướng (nhưng) tác ý sắc tướng; trong khi ấy Ta thấy các sắc pháp,
(nhưng) không nhận thấy hào quang, cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả
ngày".
Rồi này các Anuruddha, Ta
sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, nhận thấy hào quang có
hạn lượng và thấy được các sắc pháp có hạn lượng; nhận thấy
hào quang vô lượng và nhận thấy được các sắc pháp vô lượng, cả
đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày. Về vấn đề này, này các
Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau: "Do nhân gì, do duyên gì, Ta nhận
thấy hào quang có hạn lượng và thấy các sắc pháp có hạn lượng;
nhận thấy hào quang vô lượng và thấy được các sắc pháp vô
lượng, cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày?" Về vấn đề này,
này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau: "Khi nào định có hạn
lượng, khi ấy mắt của Ta có hạn lượng; với con mắt có hạn lượng.
Ta nhận thấy hào quang có hạn lượng và thấy sắc pháp có hạn
lượng. Nhưng khi nào định của Ta không hạn lượng, trong khi ấy mắt
của Ta thành vô lượng, và với con mắt vô lượng ấy, Ta nhận thấy
hào quang vô lượng và thấy các sắc pháp vô lượng cả đêm, cả
ngày, cả đêm và cả ngày".
Này các Anuruddha, khi
nào biết được nghi hoặc là một phiền não của tâm, thời nghi hoặc
phiền não của tâm được đoạn trừ; khi nào biết được không tác ý
là một phiền não của tâm, thời không tác ý phiền não của tâm được
đoạn trừ; khi nào biết được hôn trầm, thụy miên... ; khi nào biết
được sợ hãi... ; khi nào biết được phấn chấn... ; khi nào biết
được dâm ý... ; khi nào biết được tinh cần quá độ... ; khi nào
biết được sự tinh cần quá yếu đuối... ; khi nào biết được dục
ái... ; khi nào biết được tưởng sai biệt... ; khi nào biết được
trạng thái quá chú tâm đến các sắc pháp là một phiền não của
tâm, thời trạng thái quá chú tâm đến các sắc pháp một phiền não
của tâm được đoạn trừ. Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
"Những phiền não tâm của Ta đã được đoạn trừ. Nay Ta tu tập ba
loại định".
Rồi này các Anuruddha, Ta
tu tập định có tầm, có tứ; Ta tu tập định không có tầm, chỉ có
tứ; Ta tu tập định không tầm không tứ; Ta tu tập định có hỷ; Ta tu
tập định không có hỷ; Ta tu tập định câu hữu với lạc; Ta tu tập
định câu hữu với xả.
Này các Anuruddha, khi
nào Ta tu tập định có tầm, có tứ; khi nào Ta tu tập định không tầm
chỉ có tứ; khi nào Ta tu tập định không có tầm, không có tứ; khi
nào Ta tu tập định có hỷ; khi nào Ta tu tập định không có hỷ; khi
nào Ta tu tập định câu hữu với xả, thời tri kiến khởi lên nơi Ta:
"Giải thoát của Ta là bất động, đây là đời sống cuối cùng của
Ta, nay không còn hiện hữu".
Thế Tôn thuyết giảng
như vậy. Tôn giả Anuruddha hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 128 [tóm tắt]
Kinh
Tùy Phiền Não
(Upakkilesa
Sutta)
(M.iii, 152)
Khi được nghe các Tỷ-kheo ở Kosambī
sống bất hòa, tranh cãi nhau, đức Thế Tôn đến khuyên họ bỏ việc ấy,
nhưng khuyên can ba lần, họ vẫn không chịu nghe. Do vậy, Thế Tôn thốt
lên bài kệ kết thúc bằng lời: “Thà sống một mình, không bè bạn với kẻ
ngu!”, rồi Ngài đi thăm các Tỷ-kheo ở những trú xứ khác nhau. Kinh này
thuật lại cuộc đối thoại giữa Thế Tôn với Tôn giả Anuruddha, khi Ngài
đến thăm Tôn giả và thuyết pháp cho Tôn giả.
Anuruddha ở chung với hai Tôn giả
Nandiya (Nan-đề) và Kinbila (Kim-tỳ-la) và họ sống hòa hợp như nước
với sữa. Đức Phật hỏi làm thế nào sống hòa hợp? Tôn giả Anuruddha và
Kimbila đều trả lời, do thấy sự lợi ích được sống với những vị
đồng Phạm hạnh, nên mỗi người đều khởi lên từ thân nghiệp, từ khẩu
nghiệp, từ ý nghiệp đối với nhau trước mặt và sau lưng. Mỗi người
sống thuận theo tâm của người khác không theo ý riêng của mình. Rồi đức
Phật hỏi họ có sống không phóng dật nhiệt tâm, tinh cần không? Anuruddha
bạch, có. Mỗi người đều tự giác bổn phận của mình, không nề hà các
công việc chung, và họ thường cùng nhau đàm luận về đạo pháp suốt một
đêm. Như vậy, họ sống nhiệt tâm tinh cần. Đức Phật tán thán và hỏi
tiếp là có chứng được pháp thượng nhân? Anuruddha trả lời, do sống nhiệt
tâm, tinh cần tu tập thiền định, có thấy được hào quang và các sắc pháp
hiện khởi, nhưng rồi lại biến mất, và hỏi Thế Tôn lý do của những
tướng trạng ấy. Đức Phật giải thích rằng, những tướng tốt ấy trong
lúc còn là Bồ-tát, Ngài cũng nhận thấy, và chúng cũng biến mất không bao
lâu sau khi xuất hiện. Vì những nguyên nhân như sau:
1. Vì còn nghi hoặc nên định biến diệt,
do định biến diệt nên hào quang và các sắc pháp cũng diệt.
2. Vì không khởi lên sự tác ý, định
biến diệt ...
3. Vì hôn trầm thụy miên, định biến diệt
...
4. Vì sợ hãi, định biến diệt ...
5. Vì phấn chấn hân hoan đối với
những tướng ấy, định biến diệt ...
6. Vì dâm ý, định biến diệt ...
7. Vì tinh cần quá độ ...
8. Vì chưa tinh cần đúng mức ...
9. Vì ái dục sanh khởi ...
10. Vì sai biệt tưởng khởi ...
11. Vì quá chú tâm ...
Đó là mười một tùy phiền não của tâm,
sau khi biết được, Ngài đoạn trừ chúng. Do tinh cần, Ngài thấy được
hào quang nhưng lại không thấy sắc pháp, có khi thấy sắc pháp thì không
thấy hào quang. Ngài suy nghĩ và được biết nguyên do là trong lúc thiền
định, tác ý sắc tướng, không tác ý hào quang thì chỉ thấy sắc tướng.
Nếu tác ý hào quang, không tác ý sắc thì chỉ thấy hào quang (có khi thấy
hào quang và sắc có hạn lượng, có khi thấy hào quang và sắc vô lượng).
Ngài suy nghĩ nguyên nhân và được biết, khi định có hạn lượng thì mắt
có hạn lượng và thấy quang, sắc có hạn lượng, còn khi định của Ngài
không hạn lượng, mắt cũng thành vô lượng và thấy được quang, sắc vô
lượng. Với con mắt vô lượng, Ngài thấy quang, sắc vô lượng cả đêm
cả ngày, cả đêm và ngày.
Sau khi đoạn trừ mười một phiền não
của tâm, Ngài tu tập các loại định: định có hỷ, định không hỷ, định
câu hữu với lạc, định câu hữu với xả và tri kiến khởi lên nơi Ngài:
“Giải thoát của Ta là bất động, đây là đời sống cuối cùng của Ta”.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn
giả Anuruddha hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 128
[dàn ý]
Kinh Tùy Phiền Não
(Upakkilesa Sutta)
(M.iii, 152)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn khuyên các Tỷ-kheo
ở Kosambī chớ có đấu tranh cãi nhau nhưng không được, nên bỏ đi và nói lên những
bài kệ về hận thù, không hận thù, đoàn kết, không đoàn kết, bè bạn kẻ ngu và sống
cô độc. Rồi Thế Tôn đến thăm Tôn giả Bhagu và đến thăm 3 Tôn giả Anuruddha,
Kimbila, Nandiya.
B. Chánh kinh:
I. Cuộc nói chuyện giữa Thế Tôn với
3 vị Tôn giả về 3 vấn đề:
1. Sống hòa hợp nhìn
nhau với cặp mắt thiện cảm.
2. Sống không phóng dật,
nhiệt tâm tinh cần.
3. Chứng được các
pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng.
II. Thế Tôn giải thích các hiện tượng
vì sao khi tu định được hào quang và các sắc pháp nhưng lại biến mất, hoặc hào
quang và các sắc pháp có sự sai khác:
1. Thế Tôn giải thích
do 11 tùy phiền não khởi lên nên hào quang và sắc pháp biến mất.
2. Thế Tôn giải thích
vì có tác ý hay không tác ý, nên có khi thấy hào quang nhưng không thấy sắc
pháp, khi thấy sắc pháp nhưng không thấy hào quang.
3. Thế Tôn giải thích
vì định có hạn lượng nên hào quang và sắc pháp có hạn lượng.
III. Thế Tôn tu tập 3 loại
định và cuối cùng chứng quả.
C. Kết luận:
Tôn giả Anuruddha hoan hỷ tín thọ
lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 128 [toát
yếu]
Kinh Tùy Phiền Não
(Upakkilesa Sutta)
(M.iii, 152)
I. Toát yếu
Imperfections.
The Buddha discusses the various impediments to
meditative progress he encountered during his quest for enlightenment, with
particular reference to the divine eye.
Những ô nhiễm.
Phật bàn về các chướng ngại trong quá trình
tu thiền của
Ngài để đạt giác ngộ, đặc biệt đề cập về
thiên nhãn.
II. Tóm tắt
Chúng tỷ kheo ở Kosambī (Kiều-thưởng-di) chia phe đấu tranh cãi cọ [1],
Phật can không được, Ngài nói bài kệ dài [2] rồi du hành đến thăm
tôn giả Bhagu, thuyết pháp khích lệ, và đến trú xứ các tôn giả
A-na-luật. Tại đấy có ba vị đang cư trú [3]. Phật hỏi thăm sự sống
và đường lối tu hành của họ.
Tôn giả A-na-luật trình bày cách sống hòa hợp
của họ là mỗi người đều bỏ tâm mình mà sống bằng tâm người
khác, tự giác giữ gìn trật tự nếp sống chung, không phóng dật,
nhiệt tâm tinh cần tu thiền [4], thấy ánh sáng và các sắc hiện ra,
nhưng quang và sắc ấy chỉ hiện một lúc rồi tan biến. Ngài thỉnh
vấn Phật về tình trạng ấy.
Phật dạy tôn giả cần phải tìm nguyên nhân
tại sao mà ra như thế [5]. Lúc còn là Bồ-tát đang tu thiền Ngài
cũng gặp như vậy, và truy tìm những nguyên nhân làm định tướng
(quang và sắc) biến mất là do tâm có khởi lên 11 tùy phiền não:
nghi hoặc, không tác ý, hôn trầm, sợ hãi, phấn chấn (như một
người tìm lối vào kho tàng bí mật, bỗng dưng gặp được năm lối
vào, thì sẽ khởi lên sự phấn chấn) dâm ý, tinh cần quá độ, thiếu
tinh cần, ái dục [6], sai biệt tưởng [7], và quá chú tâm vào sắc
pháp [8]. Mỗi khi nhận diện được các tùy phiền não [9] ấy, Ngài
đoạn trừ chúng.
Và khi chúng đã được đoạn
trừ, Ngài tu tập ba cách [10]: định có tầm tứ, định chỉ có tứ, và
định không tầm tứ; định có hỷ, không hỷ, định câu hữu lạc, câu
hữu xả [11]. Và khi tu tập như vậy, Ngài biết đã đạt giải thoát
bất động, đây là đời sống cuối cùng, sau đời sống này không còn
đời nào khác [12].
III. Chú giải
1. Kinh này mở đầu giống kinh
số 48.
2. Bài kệ này theo gần trọn
bản dịch của HT TMC. Ðoạn 3, 4, 5 của bài kệ xuất hiện trong Pháp cú
3, 5, 6. Ba bài kệ cuối có trong Pháp cú 328-330.
3. Những đoạn kinh này gần
giống với kinh 31. Nhưng rõ ràng kinh này được nói sớm hơn, vì
trong kinh 31 cả ba vị tỷ kheo đều đã đắc quả A-la-hán, trong khi ở
kinh này, họ chỉ đang nỗ lực tu hành để chứng quả.
4. Từ điểm này trở đi kinh bắt
đầu khác với kinh 31. MA giải thích obhàsa ánh sáng hay quang sắc, là
ánh sáng phát sinh lúc đắc thiền, và thêm rằng người chứng thiền
thứ tư khai triển kasina ánh sáng làm chuẩn bị để đắc thiên nhãn.
Sự thấy sắc là thấy các hình dạng với thiên nhãn. Về sau Phật đã
công bố tôn giả là bậc đệ nhất về thiên nhãn.
5. Nimittam pativijjhitabham, nghĩa
là ngươi nên đi sâu vào tướng ấỵ
6. Xem kinh 52.
7. MA: Trong khi ta tác ý một
tướng duy nhất, ta khởi lên mong ước rằng ta nên tác ý nhiều
tướng khác nhau. Rồi khi thì ta tác ý cõi trời, khi lại tác ý cõi
người. Vì tác ý đến các loại tướng khác nhau như vậy mà sai biệt
tưởng khởi lên trong ta.
8. Atinijjhāyitattam rūpānam. MA:
Khi sai biệt tưởng khởi lên, ta nghĩ mình sẽ tác ý một loại sắc
duy nhất, dù dễ chịu hay khó chịu. Khi làm thế, thiền quán ráo riết
về sắc khởi lên trong ta.
9. Cittassa upakkileso. Cấu
uế của tâm. Cũng danh từ này được dùng trong kinh số 7, mặc dù ở
đây nó không có nghĩa là nhiễm ô do phiền não mà là những khiếm
khuyết trong sự tu tập định. Do đó từ ngữ này được dịch là tùy
phiền não thay vì dịch là cấu uế như kinh 7.
10. Ba đường lối có lẽ là ba
loại định đầu tiên đề cập trong đoạn kế tiếp, mà Trường bộ 33
cũng đề cập kể như một bộ ba. Ðầu tiên là sơ thiền, thứ ba là ba
thiền sau trong hệ thống bốn thiền. Loại định thứ hai không có chỗ
đứng trong bốn thiền, nhưng được gọi là thiền thứ hai trong hệ
thống năm thiền được nói trong tạng Luận. Thiền thứ hai trong năm
thiền được chứng bởi những người không thể vượt qua tầm tứ cùng
một lúc mà phải tuần tự diệt tầm rồi diệt tứ.
11. MA: Ðịnh có hỷ là hai thiền
thấp; không hỷ là hai thiền cao; câu hữu với lạc là ba thiền đầu,
câu hữu với xả là thiền thứ tư.
12. Theo MA, Phật khai triển các
thiền chứng này vào canh cuối của đêm Ngài chứng đạo trong khi ngồi
dưới cội bồ đề.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
“Ðại
chúng Câu-diệm-bì
Kịch
liệt đả kích nhau
Không
nghe Phật can gián
Ngài
nói kệ như sau:
Giữa
quần chúng la ó
Không
ai nghĩ mình ngu
Giữa
tăng chúng phân ly
Có
ai nghĩ hướng thượng.
‘Thất
niệm kẻ trí nói
Ba hoa trăm thứ chuyện
Ba hoa trăm thứ chuyện
Há
miệng nói thả dàn
Dẫn
đến đâu, ai biết?
Nó
mắng tôi, đánh tôi
Nó
hại tôi, cướp tôi
Ai ôm oán niệm ấy
Hận thù không thể nguôi.
Ai ôm oán niệm ấy
Hận thù không thể nguôi.
Nó
mắng tôi đánh tôi
Nó
hại tôi, cướp tôi
Không
ôm oán niệm ấy
Hận
thù sẽ tự nguôi.
‘Hận
thù diệt hận thù
Không
đời nào diệt được
Từ
bi diệt hận thù
Là định luật ngàn thu.
Là định luật ngàn thu.
Người
khác không hiểu biết
Rồi
ta sẽ hoại diệt
Những ai hiểu điều này
Những ai hiểu điều này
Nhờ
vậy tranh chấp tiêu.
Kẻ
chủ xướng hại mạng
Cướp
bò ngựa tài sản
Kẻ
cướp đoạt quốc độ
Chúng
còn biết đoàn kết
Sao
các ông không vậy?
Nếu
được bạn hiền trí
Ðồng
hành khéo ở chung
Thì
vượt mọi nguy nan
Cùng
sống vui chánh niệm.
Nếu
không bạn hiền trí
Như
vua bỏ quốc độ
Ðể độc hành độc bộ
Ðể độc hành độc bộ
Như
voi trú rừng sâu.
Thà
một mình mình sống
Không
làm bạn kẻ ngu.
Ðộc
hành không ác hạnh
Thoải
mái như voi rừng.
Ngài
bỏ đi du hành
Thăm
tôn giả Bhagu,
Thuyết
pháp khích lệ ông
Rồi
đến nơi trú xứ
Tôn giả A-na-luật
Tôn giả A-na-luật
Nan-đề,
Kim-tỳ-la
Ba người đang cộng trú
Ba người đang cộng trú
Phật
hỏi thăm sinh hoạt
A-na-luật
trình bày
Sự sống chung hòa hợp
Sự sống chung hòa hợp
Mỗi
người bỏ ý riêng
Sống
bằng tâm kẻ khác
Tự
giác trật tự chung
Tinh cần không phóng dật
Tinh cần không phóng dật
Nhiệt
tâm tu thiền định.
Họ
đã thấy ánh sáng
Và các sắc hiện ra
Nhưng rồi tan biến mất.
Và các sắc hiện ra
Nhưng rồi tan biến mất.
Phật
dạy A-na-luật
Cần phải tìm nguyên nhân
Cần phải tìm nguyên nhân
Tại
sao định tướng mất.
Xưa
kia còn đang tu
Ngài cũng gặp như vậy
Ngài cũng gặp như vậy
Và
truy tìm nguyên nhân
Thấy
do tùy phiền não:
Nghi
hoặc, không tác ý
Hôn
trầm và sợ hãi,
Hoặc
đâm ra phấn chấn
Như
kẻ được hũ vàng.
Hoặc
là do dâm ý,
Tinh
cần thiếu hay thừa
Ái dục, sai biệt tưởng
Quá chú vào sắc pháp.
Khi thấy các pháp này
Ái dục, sai biệt tưởng
Quá chú vào sắc pháp.
Khi thấy các pháp này
Chướng
ngại cho thiền chứng
Ngài
liền gột trừ chúng
Và
tu tập ba cách
Ðịnh
có tầm có tứ
Ðịnh
không tầm có tứ
Và
định không tứ tầm
Hoặc
có hỷ, không hỷ
Ðịnh
câu hữu lạc, xả
Khi
tu tập như vậy
Ngài
đạt đến Bất động
Biết
đây đời sống cuối
Không
còn phải tái sinh.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
128. Upakkilesasuttaṃ
[Mūla]
236. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
kosambiyaṃ viharati ghositārāme. Tena kho pana samayena kosambiyaṃ bhikkhū bhaṇḍanajātā
kalahajātā vivādāpannā aññamaññaṃ mukhasattīhi vitudantā viharanti. Atha kho
aññataro bhikkhu yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Ekamantaṃ ṭhito kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca : ''idha, bhante,
kosambiyaṃ bhikkhū bhaṇḍanajātā kalahajātā vivādāpannā aññamaññaṃ mukhasattīhi
vitudantā viharanti. Sādhu, bhante, Bhagavā yena te bhikkhū tenupasaṅkamatu
anukampaṃ upādāyāti. Adhivāsesi Bhagavā tuṇhībhāvena. Atha kho Bhagavā
yena te bhikkhū tenupasaṅkami upasaṅkamitvā te bhikkhū etadavoca : ''alaṃ,
bhikkhave, mā bhaṇḍanaṃ, mā kalahaṃ, mā viggahaṃ, mā vivādanti.
Evaṃ
vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca : ''āgametu, bhante! Bhagavā
dhammassāmī appossukko, bhante, Bhagavā diṭṭhadhammasukhavihāraṃ
anuyutto viharatu mayametena bhaṇḍanena kalahena viggahena vivādena
paññāyissāmāti. Dutiyampi kho Bhagavā te bhikkhū etadavoca : ''alaṃ,
bhikkhave, mā bhaṇḍanaṃ, mā kalahaṃ, mā viggahaṃ, mā vivādanti. Dutiyampi kho
so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca :
''āgametu, bhante! Bhagavā dhammassāmī appossukko, bhante, Bhagavā
diṭṭhadhammasukhavihāraṃ anuyutto viharatu mayametena bhaṇḍanena kalahena
viggahena vivādena paññāyissāmāti. Tatiyampi
kho Bhagavā te bhikkhū etadavoca : ''alaṃ, bhikkhave, mā bhaṇḍanaṃ,
mā kalahaṃ, mā viggahaṃ, mā vivādanti. Tatiyampi kho so bhikkhu bhagavantaṃ
etadavoca : ''āgametu, bhante, Bhagavā dhammassāmī appossukko, bhante, Bhagavā
diṭṭhadhammasukhavihāraṃ anuyutto viharatu mayametena bhaṇḍanena kalahena
viggahena vivādena paññāyissāmāti.
Atha kho Bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā
pattacīvaramādāya kosambiṃ piṇḍāya pāvisi. Kosambiyaṃ piṇḍāya caritvā
pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto senāsanaṃ saṃsāmetvā pattacīvaramādāya ṭhitakova
imā gāthā abhāsi :
237.
''Puthusaddo samajano, na bālo koci maññatha.
Saṅghasmiṃ
bhijjamānasmiṃ, nāññaṃ bhiyyo amaññaruṃ..
''Parimuṭṭhā
paṇḍitābhāsā, vācāgocarabhāṇino.
Yāvicchanti
mukhāyāmaṃ, yena nītā na taṃ vidū..
''Akkocchi
maṃ avadhi maṃ, ajini maṃ ahāsi me.
Ye ca taṃ
upanayhanti, veraṃ tesaṃ na sammati..
''Akkocchi
maṃ avadhi maṃ, ajini maṃ ahāsi me.
Ye ca taṃ nupanayhanti, veraṃ tesūpasammati..
''Na hi
verena verāni, sammantīdha kudācanaṃ.
Averena
ca sammanti, esa dhammo sanantano..
''Pare ca
na vijānanti, mayamettha yamāmase.
Ye ca
tattha vijānanti, tato sammanti medhagā..
''Aṭṭhicchinnā
pāṇaharā, gavassadhanahārino.
Raṭṭhaṃ
vilumpamānānaṃ, tesampi hoti saṅgati.
Kasmā
tumhākaṃ no siyā..
''Sace labhetha nipakaṃ sahāyaṃ,
Saddhiṃ
caraṃ sādhuvihāri dhīraṃ.
Abhibhuyya
sabbāni parissayāni,
Careyya
tenattamano satīmā..
''No ce labhetha nipakaṃ sahāyaṃ,
Saddhiṃ
caraṃ sādhuvihāri dhīraṃ.
Rājāva raṭṭhaṃ
vijitaṃ pahāya,
Eko care
mātaṅgaraññeva nāgo..
''Ekassa
caritaṃ seyyo, natthi bāle sahāyatā.
Eko care
na ca pāpāni kayirā,
Appossukko
mātaṅgaraññeva nāgoti..
238. Atha kho Bhagavā ṭhitakova
imā gāthā bhāsitvā yena bālakaloṇakāragāmo [bālakaloṇakagāmo (ka.), tathā
vinayepi] tenupasaṅkami. Tena kho pana samayena
āyasmā bhagu bālakaloṇakāragāme viharati. Addasā kho āyasmā bhagu
bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna āsanaṃ paññapesi udakañca pādānaṃ
dhovanaṃ [udakañca pādānaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)]. Nisīdi Bhagavā paññatte
āsane. Nisajja pāde pakkhālesi. Āyasmāpi kho bhagu bhagavantaṃ abhivādetvā
ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ bhaguṃ Bhagavā
etadavoca : ''kacci, bhikkhu, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci piṇḍakena na
kilamasīti? ''khamanīyaṃ Bhagavā, yāpanīyaṃ Bhagavā, na cāhaṃ,
bhante, piṇḍakena kilamāmīti. Atha kho Bhagavā āyasmantaṃ bhaguṃ
dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṃsetvā uṭṭhāyāsanā
yena pācīnavaṃsadāyo tenupasaṅkami. Tena kho pana samayena āyasmā ca anuruddho
āyasmā ca nandiyo [bhaddiyo (mAnguttara Nikāye 2.166 naḷakapāne] āyasmā ca
kimilo [kimbilo (sī. syā. kaṃ. pī.)] pācīnavaṃsadāye viharanti. Addasā kho
dāyapālo bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna bhagavantaṃ etadavoca :
''mā, mahāsamaṇa, etaṃ dāyaṃ pāvisi. Santettha tayo kulaputtā attakāmarūpā viharanti. Mā tesaṃ
aphāsumakāsīti. Assosi kho āyasmā anuruddho dāyapālassa bhagavatā saddhiṃ
mantayamānassa. Sutvāna dāyapālaṃ etadavoca : ''mā, āvuso dāyapāla, bhagavantaṃ
vāresi. Satthā no Bhagavā anuppattoti.
239. Atha kho āyasmā anuruddho
yenāyasmā ca nandiyo yenāyasmā ca kimilo tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
āyasmantañca nandiyaṃ āyasmantañca kimilaṃ etadavoca : ''abhikkamathāyasmanto,
abhikkamathāyasmanto, satthā no Bhagavā anuppattoti. Atha kho āyasmā ca
anuruddho āyasmā ca nandiyo āyasmā ca kimilo bhagavantaṃ paccuggantvā eko
bhagavato pattacīvaraṃ paṭiggahesi, eko āsanaṃ paññapesi, eko pādodakaṃ upaṭṭhapesi.
Nisīdi Bhagavā paññatte āsane. Nisajja pāde pakkhālesi. Tepi kho
āyasmanto bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho
āyasmantaṃ anuruddhaṃ Bhagavā etadavoca : ''kacci vo, anuruddhā,
khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci piṇḍakena na kilamathāti? ''khamanīyaṃ Bhagavā, yāpanīyaṃ Bhagavā, na
ca mayaṃ, bhante, piṇḍakena kilamāmāti. ''Kacci pana vo, anuruddhā, samaggā
sammodamānā avivadamānā khīrodakībhūtā aññamaññaṃ piyacakkhūhi sampassantā
viharathāti? ''taggha mayaṃ, bhante, samaggā sammodamānā avivadamānā
khīrodakībhūtā aññamaññaṃ piyacakkhūhi sampassantā viharāmāti. ''Yathā kathaṃ
pana tumhe, anuruddhā, samaggā sammodamānā avivadamānā khīrodakībhūtā aññamaññaṃ
piyacakkhūhi sampassantā viharathāti? ''idha mayhaṃ, bhante, evaṃ hoti : 'lābhā
vata me, suladdhaṃ vata me yohaṃ
evarūpehi sabrahmacārīhi saddhiṃ viharāmīti. Tassa mayhaṃ, bhante, imesu
āyasmantesu mettaṃ kāyakammaṃ paccupaṭṭhitaṃ āvi ceva raho ca, mettaṃ vacīkammaṃ
paccupaṭṭhitaṃ āvi ceva raho ca, mettaṃ manokammaṃ paccupaṭṭhitaṃ āvi ceva raho
ca. Tassa, mayhaṃ, bhante, evaṃ hoti : 'yaṃnūnāhaṃ sakaṃ cittaṃ nikkhipitvā
imesaṃyeva āyasmantānaṃ cittassa vasena vatteyyanti. So kho ahaṃ, bhante, sakaṃ
cittaṃ nikkhipitvā imesaṃyeva āyasmantānaṃ cittassa vasena vattāmi. Nānā hi kho
no, bhante, kāyā, ekañca pana maññe cittanti. Āyasmāpi kho nandiyo - pe -
āyasmāpi kho kimilo bhagavantaṃ etadavoca : ''mayhampi kho, bhante, evaṃ hoti :
'lābhā vata me, suladdhaṃ vata me yohaṃ evarūpehi sabrahmacārīhi saddhiṃ viharāmīti. Tassa mayhaṃ, bhante,
imesu āyasmantesu mettaṃ kāyakammaṃ paccupaṭṭhitaṃ āvi ceva raho ca, mettaṃ
vacīkammaṃ paccupaṭṭhitaṃ āvi ceva raho ca, mettaṃ manokammaṃ paccupaṭṭhitaṃ āvi ceva raho ca. Tassa mayhaṃ, bhante, evaṃ
hoti : 'yaṃnūnāhaṃ sakaṃ cittaṃ nikkhipitvā imesaṃyeva āyasmantānaṃ cittassa
vasena vatteyyanti. So kho ahaṃ, bhante, sakaṃ cittaṃ nikkhipitvā imesaṃyeva
āyasmantānaṃ cittassa vasena vattāmi. Nānā hi kho no, bhante, kāyā, ekañca pana
maññe cittanti. Evaṃ kho mayaṃ, bhante, samaggā sammodamānā avivadamānā
khīrodakībhūtā aññamaññaṃ piyacakkhūhi
sampassantā viharāmāti.
240. ''Sādhu, sādhu, anuruddhā! kacci pana vo, anuruddhā, appamattā ātāpino
pahitattā viharathāti? ''taggha mayaṃ,
bhante, appamattā ātāpino pahitattā viharāmāti. ''Yathā kathaṃ pana tumhe,
anuruddhā, appamattā ātāpino pahitattā viharathāti? ''idha, bhante, amhākaṃ yo
paṭhamaṃ gāmato piṇḍāya paṭikkamati, so āsanāni paññapeti, pānīyaṃ
paribhojanīyaṃ upaṭṭhāpeti, avakkārapātiṃ upaṭṭhāpeti. Yo pacchā gāmato piṇḍāya
paṭikkamati : sace hoti bhuttāvaseso, sace ākaṅkhati, bhuñjati no ce ākaṅkhati,
appaharite vā chaḍḍeti apāṇake vā udake opilāpeti : so āsanāni paṭisāmeti,
pānīyaṃ paribhojanīyaṃ paṭisāmeti, avakkārapātiṃ dhovitvā paṭisāmeti, bhattaggaṃ
sammajjati. Yo passati pānīyaghaṭaṃ vā paribhojanīyaghaṭaṃ vā vaccaghaṭaṃ vā
rittaṃ tucchaṃ so upaṭṭhāpeti. Sacassa hoti avisayhaṃ, hatthavikārena dutiyaṃ
āmantetvā hatthavilaṅghakena upaṭṭhāpema [upaṭṭhapeti (sī.)], na tveva mayaṃ,
bhante, tappaccayā vācaṃ bhindāma. Pañcāhikaṃ kho pana mayaṃ, bhante,
sabbarattiṃ dhammiyā kathāya sannisīdāma. Evaṃ kho mayaṃ, bhante, appamattā
ātāpino pahitattā viharāmāti.
241. ''Sādhu, sādhu, anuruddhā! atthi pana vo, anuruddhā, evaṃ appamattānaṃ
ātāpīnaṃ pahitattānaṃ viharataṃ uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsuvihāroti? ''idha mayaṃ, bhante,
appamattā ātāpino pahitattā viharantā obhāsañceva sañjānāma dassanañca rūpānaṃ.
So kho pana no obhāso nacirasseva antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ tañca
nimittaṃ nappaṭivijjhāmāti. ''Taṃ kho
pana vo, anuruddhā, nimittaṃ paṭivijjhitabbaṃ. Ahampi sudaṃ, anuruddhā, pubbeva
sambodhā anabhisambuddho bodhisattova samāno obhāsañceva sañjānāmi dassanañca
rūpānaṃ. So kho pana me obhāso nacirasseva
antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi :
'ko nu kho hetu ko paccayo yena me obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānanti?
tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi : 'vicikicchā kho me udapādi,
vicikicchādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso
antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ tathā karissāmi yathā me puna na
vicikicchā uppajjissatīti. ''So kho ahaṃ, anuruddhā, appamatto ātāpī pahitatto
viharanto obhāsañceva sañjānāmi dassanañca rūpānaṃ. So kho pana me obhāso
nacirasseva antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Tassa mayhaṃ, anuruddhā,
etadahosi : 'ko nu kho hetu ko paccayo yena me obhāso antaradhāyati dassanañca
rūpānanti? tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi : 'amanasikāro kho me udapādi,
amanasikārādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ tathā
karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati na amanasikāroti. ''So kho
ahaṃ, anuruddhā - pe - tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi : 'thinamiddhaṃ kho
me udapādi, thinamiddhādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute
obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ tathā karissāmi yathā me puna na
vicikicchā uppajjissati na amanasikāro na thinamiddhanti. ''So kho ahaṃ,
anuruddhā - pe - tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi : 'chambhitattaṃ kho me
udapādi, chambhitattādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso
antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Seyyathāpi, anuruddhā, puriso addhānamaggappaṭipanno,
tassa ubhatopasse vaṭṭakā [vadhakā (sī. syā. kaṃ. pī.)] uppateyyuṃ, tassa
tatonidānaṃ chambhitattaṃ uppajjeyya evameva kho me, anuruddhā, chambhitattaṃ
udapādi, chambhitattādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso
antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati na
amanasikāro na thinamiddhaṃ na chambhitattanti.
''So kho
ahaṃ, anuruddhā - pe - tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi : 'uppilaṃ [ubbillaṃ
(sī. pī.), ubbilaṃ (syā. kaṃ.)] kho me udapādi, uppilādhikaraṇañca pana me
samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ .
Seyyathāpi, anuruddhā, puriso ekaṃ nidhimukhaṃ gavesanto sakideva
pañcanidhimukhāni adhigaccheyya, tassa tatonidānaṃ uppilaṃ uppajjeyya evameva
kho me, anuruddhā, uppilaṃ udapādi, uppilādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ tathā karissāmi
yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṃ, na
chambhitattaṃ, na uppilanti. ''So kho ahaṃ, anuruddhā - pe - tassa mayhaṃ,
anuruddhā, etadahosi : 'duṭṭhullaṃ kho me udapādi, duṭṭhullādhikaraṇañca pana
me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ
tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na
thinamiddhaṃ, na chambhitattaṃ, na uppilaṃ, na duṭṭhullanti. ''So kho ahaṃ,
anuruddhā - pe - tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi : 'accāraddhavīriyaṃ kho me
udapādi, accāraddhavīriyādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute
obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Seyyathāpi, anuruddhā, puriso ubhohi
hatthehi vaṭṭakaṃ gāḷhaṃ gaṇheyya, so tattheva patameyya [matameyya (bahūsu) pa
+ taṃ + eyya patameyya-iti padavibhāgo] evameva kho me, anuruddhā,
accāraddhavīriyaṃ udapādi, accāraddhavīriyādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati
dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā
uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṃ, na chambhitattaṃ, na uppilaṃ, na
duṭṭhullaṃ, na accāraddhavīriyanti. ''So kho ahaṃ, anuruddhā - pe - tassa mayhaṃ,
anuruddhā, etadahosi : 'atilīnavīriyaṃ kho me udapādi , atilīnavīriyādhikaraṇañca
pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ.
Seyyathāpi, anuruddhā, puriso vaṭṭakaṃ sithilaṃ gaṇheyya, so tassa hatthato
uppateyya evameva kho me, anuruddhā, atilīnavīriyaṃ udapādi,
atilīnavīriyādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso
antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ tathā karissāmi yathā me puna na
vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṃ, na chambhitattaṃ, na
uppilaṃ, na duṭṭhullaṃ, na accāraddhavīriyaṃ, na atilīnavīriyanti. ''So kho ahaṃ,
anuruddhā - pe - tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi : 'abhijappā kho me
udapādi, abhijappādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso
antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ tathā karissāmi yathā me puna na
vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṃ, na chambhitattaṃ, na
uppilaṃ, na duṭṭhullaṃ, na accāraddhavīriyaṃ, na atilīnavīriyaṃ, na
abhijappāti. ''So kho ahaṃ, anuruddhā -
pe - tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi : 'nānattasaññā kho me udapādi,
nānattasaññādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso
antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ tathā karissāmi yathā me puna na
vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṃ, na chambhitattaṃ, na
uppilaṃ, na duṭṭhullaṃ, na accāraddhavīriyaṃ, na atilīnavīriyaṃ, na abhijappā,
na nānattasaññāti. ''So kho ahaṃ, anuruddhā, appamatto ātāpī pahitatto
viharanto obhāsañceva sañjānāmi dassanañca rūpānaṃ. So kho pana me obhāso
nacirasseva antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Tassa mayhaṃ anuruddhā etadahosi
: 'ko nu kho hetu ko paccayo yena me obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānanti.
Tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi : 'atinijjhāyitattaṃ kho me rūpānaṃ udapādi,
atinijjhāyitattādhikaraṇañca pana me rūpānaṃ samādhi cavi. Samādhimhi cute
obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Sohaṃ tathā karissāmi yathā me puna na
vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṃ, na chambhitattaṃ, na
uppilaṃ, na duṭṭhullaṃ, na accāraddhavīriyaṃ, na atilīnavīriyaṃ, na abhijappā,
na nānattasaññā, na atinijjhāyitattaṃ rūpānanti.
242. ''So kho ahaṃ, anuruddhā,
'vicikicchā cittassa upakkilesoti : iti
viditvā vicikicchaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ, 'amanasikāro cittassa
upakkilesoti : iti viditvā amanasikāraṃ cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ,
'thinamiddhaṃ cittassa upakkilesoti : iti viditvā thinamiddhaṃ cittassa
upakkilesaṃ pajahiṃ, 'chambhitattaṃ cittassa upakkilesoti : iti viditvā
chambhitattaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ, 'uppilaṃ cittassa upakkilesoti :
iti viditvā uppilaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ, 'duṭṭhullaṃ cittassa upakkilesoti
: iti viditvā duṭṭhullaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ, 'accāraddhavīriyaṃ
cittassa upakkilesoti : iti viditvā accāraddhavīriyaṃ cittassa upakkilesaṃ
pajahiṃ, 'atilīnavīriyaṃ cittassa upakkilesoti : iti viditvā atilīnavīriyaṃ
cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ, 'abhijappā cittassa upakkilesoti : iti viditvā
abhijappaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ, 'nānattasaññā cittassa upakkilesoti :
iti viditvā nānattasaññaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ, 'atinijjhāyitattaṃ
rūpānaṃ cittassa upakkilesoti : iti
viditvā atinijjhāyitattaṃ rūpānaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ.
243. ''So kho ahaṃ, anuruddhā, appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañhi
kho sañjānāmi, na ca rūpāni passāmi rūpāni hi kho passāmi, na ca obhāsaṃ
sañjānāmi : 'kevalampi rattiṃ, kevalampi divaṃ [divasaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)],
kevalampi rattindivaṃ [rattidivaṃ (ka.)]. Tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi :
'ko nu kho hetu ko paccayo yvāhaṃ obhāsañhi kho sañjānāmi na ca rūpāni passāmi
rūpāni hi kho [kho tasmiṃ samaye (sī. ka.)] passāmi na ca obhāsaṃ sañjānāmi :
kevalampi rattiṃ, kevalampi divaṃ, kevalampi rattindivanti. Tassa mayhaṃ,
anuruddhā, etadahosi : 'yasmiñhi kho ahaṃ
samaye rūpanimittaṃ amanasikaritvā obhāsanimittaṃ manasi karomi, obhāsañhi kho
tasmiṃ samaye sañjānāmi, na ca rūpāni passāmi. Yasmiṃ panāhaṃ samaye
obhāsanimittaṃ amanasikaritvā rūpanimittaṃ manasi karomi, rūpāni hi kho tasmiṃ
samaye passāmi na ca obhāsaṃ sañjānāmi : kevalampi rattiṃ, kevalampi divaṃ,
kevalampi rattindivanti. ''So kho ahaṃ,
anuruddhā, appamatto ātāpī pahitatto viharanto parittañceva obhāsaṃ sañjānāmi,
parittāni ca rūpāni passāmi appamāṇañceva obhāsaṃ sañjānāmi, appamāṇāni ca rūpāni passāmi : kevalampi rattiṃ,
kevalampi divaṃ, kevalampi rattindivaṃ. Tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi :
'ko nu kho hetu ko paccayo yvāhaṃ parittañceva obhāsaṃ sañjānāmi, parittāni ca
rūpāni passāmi appamāṇañceva obhāsaṃ
sañjānāmi, appamāṇāni ca rūpāni passāmi : kevalampi rattiṃ, kevalampi divaṃ,
kevalampi rattindivanti. Tassa mayhaṃ, anuruddhā, etadahosi : 'yasmiṃ kho me
samaye paritto samādhi hoti, parittaṃ me tasmiṃ samaye cakkhu hoti. Sohaṃ parittena
cakkhunā parittañceva obhāsaṃ sañjānāmi, parittāni ca rūpāni passāmi. Yasmiṃ
pana me samaye appamāṇo samādhi hoti, appamāṇaṃ me tasmiṃ samaye cakkhu hoti.
Sohaṃ appamāṇena cakkhunā appamāṇañceva obhāsaṃ sañjānāmi, appamāṇāni ca rūpāni
passāmi : kevalampi rattiṃ, kevalampi divaṃ, kevalampi rattindivanti.
244. Yato kho me , anuruddhā, 'vicikicchā cittassa upakkilesoti : iti
viditvā vicikicchā cittassa upakkileso pahīno ahosi, 'amanasikāro cittassa
upakkilesoti : iti viditvā amanasikāro cittassa upakkileso pahīno ahosi,
'thinamiddhaṃ cittassa upakkilesoti : iti viditvā thinamiddhaṃ cittassa
upakkileso pahīno ahosi, 'chambhitattaṃ cittassa upakkilesoti : iti viditvā
chambhitattaṃ cittassa upakkileso pahīno ahosi, 'uppilaṃ cittassa upakkilesoti
: iti viditvā uppilaṃ cittassa upakkileso pahīno ahosi, 'duṭṭhullaṃ cittassa
upakkilesoti : iti viditvā duṭṭhullaṃ cittassa upakkileso pahīno ahosi,
'accāraddhavīriyaṃ cittassa upakkilesoti : iti viditvā accāraddhavīriyaṃ
cittassa upakkileso pahīno ahosi, 'atilīnavīriyaṃ cittassa upakkilesoti : iti
viditvā atilīnavīriyaṃ cittassa upakkileso pahīno ahosi, 'abhijappā cittassa
upakkilesoti : iti viditvā abhijappā cittassa upakkileso pahīno ahosi,
'nānattasaññā cittassa upakkilesoti : iti viditvā nānattasaññā cittassa upakkileso
pahīno ahosi, 'atinijjhāyitattaṃ rūpānaṃ cittassa upakkilesoti : iti viditvā atinijjhāyitattaṃ rūpānaṃ cittassa upakkileso
pahīno ahosi.
245. ''Tassa mayhaṃ, anuruddhā,
etadahosi : 'ye kho me cittassa upakkilesā te me pahīnā. Handa, dānāhaṃ tividhena
samādhiṃ bhāvemīti [bhāvesinti (sī. syā. kaṃ.)]. So kho ahaṃ, anuruddhā,
savitakkampi savicāraṃ samādhiṃ bhāvesiṃ [bhāvemi (ka.)], avitakkampi
vicāramattaṃ samādhiṃ bhāvesiṃ, avitakkampi avicāraṃ samādhiṃ bhāvesiṃ,
sappītikampi samādhiṃ bhāvesiṃ, nippītikampi samādhiṃ bhāvesiṃ, sātasahagatampi
samādhiṃ bhāvesiṃ, upekkhāsahagatampi samādhiṃ bhāvesiṃ. Yato kho me,
anuruddhā, savitakkopi savicāro samādhi bhāvito ahosi, avitakkopi vicāramatto
samādhi bhāvito ahosi, avitakkopi avicāro samādhi bhāvito ahosi, sappītikopi
samādhi bhāvito ahosi, nippītikopi samādhi bhāvito ahosi, sātasahagatopi
samādhi bhāvito ahosi, upekkhāsahagatopi samādhi bhāvito ahosi. ñĀṇañca pana me
dassanaṃ udapādi, akuppā me cetovimutti. Ayamantimā jāti, natthi dāni
punabbhavoti. Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā anuruddho bhagavato
bhāsitaṃ abhinandīti.
Upakkilesasuttaṃ
niṭṭhitaṃ aṭṭhamaṃ.
-ooOoo-
128.
Upakkilesasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
236. Evaṃ me sutanti upakkilesasuttaṃ.
Tattha etadavocāti neva bhedādhippāyena na piyakamyatāya, atha khvāssa
etadahosi – ‘‘ime bhikkhū mama vacanaṃ gahetvā na oramissanti, buddhā ca nāma
hitānukampakā, addhā nesaṃ bhagavā ekaṃ kāraṇaṃ kathessati, taṃ sutvā ete
oramissanti, tato tesaṃ phāsuvihāro bhavissatī’’ti. Tasmā etaṃ ‘‘idha,
bhante’’tiādivacanamavoca. Mā bhaṇḍanantiādīsu ‘‘akatthā’’ti pāṭhasesaṃ
gahetvā ‘‘mā bhaṇḍanaṃ akatthā’’ti evaṃ attho daṭṭhabbo. Aññataroti so
kira bhikkhu bhagavato atthakāmo, ayaṃ kirassa adhippāyo – ‘‘ime bhikkhū
kodhābhibhūtā satthu vacanaṃ na gaṇhanti, mā bhagavā ete ovadanto kilamī’’ti,
tasmā evamāha.
Piṇḍāya pāvisīti na kevalaṃ pāvisi, yenapi janena na diṭṭho, so maṃ
passatūtipi adhiṭṭhāsi. Kimatthaṃ adhiṭṭhāsīti? Tesaṃ bhikkhūnaṃ damanatthaṃ.
Bhagavā hi tadā piṇḍapātappaṭikkanto ‘‘puthusaddo samajano’’tiādigāthā bhāsitvā
kosambito bālakaloṇakāragāmaṃ gato. Tato pācīnavaṃsadāyaṃ, tato
pālileyyakavanasaṇḍaṃ gantvā pālileyyahatthināgena upaṭṭhahiyamāno temāsaṃ
vasi. Nagaravāsinopi – ‘‘satthā vihāraṃ gato, gacchāma dhammassavanāyā’’ti
gandhapupphahatthā vihāraṃ gantvā ‘‘kahaṃ, bhante, satthā’’ti pucchiṃsu. ‘‘Kahaṃ
tumhe satthāraṃ dakkhatha, satthā ‘ime bhikkhū samagge karissāmī’ti āgato,
samagge kātuṃ asakkonto nikkhamitvā gato’’ti. ‘‘Mayaṃ satampi sahassampi datvā
satthāraṃ ānetuṃ na sakkoma, so no ayācito sayameva āgato, mayaṃ ime bhikkhū
nissāya satthu sammukhā dhammakathaṃ sotuṃ na labhimhā. Ime satthāraṃ uddissa
pabbajitā, tasmimpi sāmaggiṃ karonte samaggā na jātā, kassāññassa vacanaṃ
karissanti. Alaṃ na imesaṃ bhikkhā dātabbā’’ti sakalanagare daṇḍaṃ ṭhapayiṃsu.
Te punadivase sakalanagaraṃ piṇḍāya caritvā kaṭacchumattampi bhikkhaṃ alabhitvā
vihāraṃ āgamaṃsu. Upāsakāpi te puna āhaṃsu – ‘‘yāva satthāraṃ na khamāpetha,
tāva vo tameva daṇḍakamma’’nti. Te ‘‘satthāraṃ khamāpessāmā’’ti bhagavati
sāvatthiyaṃ anuppatte tattha agamaṃsu. Satthā tesaṃ aṭṭhārasa bhedakaravatthūni
desesīti ayamettha pāḷimuttakakathā.
237. Idāni puthusaddotiādigāthāsu puthu mahāsaddo
assāti puthusaddo. Samajanoti samāno ekasadiso jano, sabbovāyaṃ bhaṇḍanakārakajano
samantato saddaniccharaṇena puthusaddo ceva sadiso cāti vuttaṃ hoti. Na bālo
koci maññathāti tatra koci ekopi ahaṃ bāloti na maññati, sabbepi paṇḍitamāninoyeva.
Nāññaṃ bhiyyo amaññarunti koci ekopi ahaṃ bāloti na ca maññi, bhiyyo ca saṅghasmiṃ
bhijjamāne aññampi ekaṃ ‘‘mayhaṃ kāraṇā saṅgho bhijjatī’’ti idaṃ kāraṇaṃ na
maññīti attho.
Parimuṭṭhāti muṭṭhassatino. Vācāgocarabhāṇinoti rākārassa
rassādeso kato; vācāgocarāva, na satipaṭṭhānagocarā, bhāṇino ca, kathaṃ bhāṇino?
Yāvicchanti mukhāyāmaṃ, yāva mukhaṃ pasāretuṃ icchanti, tāva pasāretvā
bhāṇino, ekopi saṅghagāravena mukhasaṅkocanaṃ na karotīti attho. Yena nītāti
yena kalahena imaṃ nillajjabhāvaṃ nītā. Na taṃ vidū na taṃ jānanti ‘‘evaṃ
sādīnavo aya’’nti.
Ye ca taṃ upanayhantīti taṃ akkocchi
mantiādikaṃ ākāraṃ ye upanayhanti. Sanantanoti porāṇo.
Pareti paṇḍite ṭhapetvā tato aññe bhaṇḍanakārakā pare
nāma. Te ettha saṅghamajjhe kalahaṃ karontā ‘‘mayaṃ yamāmase upayamāma nassāma
satataṃ samitaṃ maccusantikaṃ gacchāmā’’ti na jānanti. Ye ca tattha
vijānantīti ye ca tattha paṇḍitā ‘‘mayaṃ maccuno samīpaṃ gacchāmā’’ti
vijānanti. Tato sammanti medhagāti evañhi te jānantā yonisomanasikāraṃ
uppādetvā medhagānaṃ kalahānaṃ vūpasamāya paṭipajjanti.
Aṭṭhicchinnāti ayaṃ gāthā jātake (jā. 1.9.16) āgatā,
brahmadattañca dīghāvukumārañca sandhāya vuttā. Ayañhettha attho – tesampi
tathā pavattaverānaṃ hoti saṅgati, kasmā tumhākaṃ na hoti, yesaṃ vo neva
mātāpitūnaṃ aṭṭhīni chinnāni, na pāṇā haṭā na gavāssadhanāni haṭānīti.
Sace labhethātiādigāthā paṇḍitasahāyassa ca
bālasahāyassa ca vaṇṇāvaṇṇadīpanatthaṃ vuttā. Abhibhuyya sabbāni parissayānīti
pākaṭaparissaye ca paṭicchannaparissaye ca abhibhavitvā tena saddhiṃ attamano
satimā careyyāti.
Rājāva raṭṭhaṃ vijitanti yathā attano
vijitaraṭṭhaṃ mahājanakarājā ca arindamamahārājā ca pahāya ekakā vicariṃsu, evaṃ
vicareyyāti attho. Mātaṅgaraññeva nāgoti mātaṅgo araññe nāgova. Mātaṅgoti
hatthi vuccati. Nāgoti mahantādhivacanametaṃ. Yathā hi mātuposako mātaṅganāgo
araññe eko cari, na ca pāpāni akāsi, yathā ca pālileyyako, evaṃ eko care, na ca
pāpāni kayirāti vuttaṃ hoti.
238. Bālakaloṇakāragāmoti upāligahapatissa
bhogagāmo. Tenupasaṅkamīti kasmā upasaṅkami? Gaṇe kirassa ādīnavaṃ disvā
ekavihāriṃ bhikkhuṃ passitukāmatā udapādi, tasmā sītādīhi pīḷito uṇhādīni patthayamāno
viya upasaṅkami. Dhammiyā kathāyāti ekībhāve ānisaṃsappaṭisaṃyuttāya.
Yena pācīnavaṃsadāyo, tattha kasmā upasaṅkami? Kalahakārake kirassa diṭṭhādīnavattā
samaggavāsino bhikkhū passitukāmatā udapādi, tasmā sītādīhi pīḷito uṇhādīni
patthayamāno viya tattha upasaṅkami. Āyasmā ca anuruddhotiādi
vuttanayameva.
241. Atthi pana voti pacchimapucchāya
lokuttaradhammaṃ puccheyya. So pana therānaṃ natthi, tasmā taṃ pucchituṃ na
yuttanti parikammobhāsaṃ pucchati. Obhāsañceva sañjānāmāti
parikammobhāsaṃ sañjānāma. Dassanañca rūpānanti dibbacakkhunā
rūpadassanañca sañjānāma. Tañca nimittaṃ nappaṭivijjhāmāti tañca kāraṇaṃ
na jānāma, yena no obhāso ca rūpadassanañca antaradhāyati.
Taṃ kho pana vo anuruddhā nimittaṃ paṭivijjhitabbanti taṃ vo kāraṇaṃ jānitabbaṃ. Ahampi sudanti anuruddhā tumhe kiṃ
na āḷulessanti, ahampi imehi ekādasahi upakkilesehi āḷulitapubboti dassetuṃ imaṃ
desanaṃ ārabhi. Vicikicchā kho metiādīsu mahāsattassa ālokaṃ vaḍḍhetvā
dibbacakkhunā nānāvidhāni rūpāni disvā ‘‘idaṃ kho ki’’nti vicikicchā udapādi. Samādhi
cavīti parikammasamādhi cavi. Obhāsoti parikammobhāsopi antaradhāyi,
dibbacakkhunāpi rūpaṃ na passi. Amanasikāroti rūpāni passato vicikicchā
uppajjati, idāni kiñci na manasikarissāmīti amanasikāro udapādi.
Thinamiddhanti kiñci amanasikarontassa thinamiddhaṃ udapādi.
Chambhitattanti himavantābhimukhaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā
dānavarakkhasaajagarādayo addasa, athassa chambhitattaṃ udapādi.
Uppilanti ‘‘mayā diṭṭhabhayaṃ pakatiyā olokiyamānaṃ natthi.
Adiṭṭhe kiṃ nāma bhaya’’nti cintayato uppilāvitattaṃ udapādi. Sakidevāti
ekapayogeneva pañca nidhikumbhiyopi passeyya.
Duṭṭhullanti mayā vīriyaṃ gāḷhaṃ paggahitaṃ, tena me uppilaṃ
uppannanti vīriyaṃ sithilamakāsi, tato kāyadaratho kāyaduṭṭhullaṃ kāyālasiyaṃ
udapādi.
Accāraddhavīriyanti mama vīriyaṃ sithilaṃ
karoto duṭṭhullaṃ uppannanti puna vīriyaṃ paggaṇhato accāraddhavīriyaṃ udapādi.
Patameyyāti mareyya.
Atilīnavīriyanti mama vīriyaṃ paggaṇhato evaṃ jātanti puna vīriyaṃ
sithilaṃ karoto atilīnavīriyaṃ udapādi.
Abhijappāti devalokābhimukhaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā devasaṅghaṃ
passato taṇhā udapādi.
Nānattasaññāti mayhaṃ ekajātikaṃ rūpaṃ manasikarontassa abhijappā
uppannā, nānāvidharūpaṃ manasi karissāmīti kālena devalokābhimukhaṃ kālena
manussalokābhimukhaṃ vaḍḍhetvā nānāvidhāni rūpāni manasikaroto nānattasaññā
udapādi.
Atinijjhāyitattanti mayhaṃ nānāvidhāni
rūpāni manasikarontassa nānattasaññā udapādi, iṭṭhaṃ vā aniṭṭhaṃ vā
ekajātikameva manasi karissāmīti tathā manasikaroto atinijjhāyitattaṃ rūpānaṃ
udapādi.
243. Obhāsanimittaṃ manasi karomīti
parikammobhāsameva manasi karomi. Na ca rūpāni passāmīti dibbacakkhunā
rūpāni na passāmi. Rūpanimittaṃ manasi karomīti dibbacakkhunā
visayarūpameva manasi karomi.
Parittañceva obhāsanti parittakaṭṭhāne obhāsaṃ.
Parittāni ca rūpānīti parittakaṭṭhāne rūpāni. Vipariyāyena dutiyavāro
veditabbo. Paritto samādhīti parittako parikammobhāso,
obhāsaparittatañhi sandhāya idha parikammasamādhi ‘‘paritto’’ti vutto. Parittaṃ
me tasmiṃ samayeti tasmiṃ samaye dibbacakkhupi parittakaṃ hoti. Appamāṇavārepi
eseva nayo.
245. Avitakkampi vicāramattanti pañcakanaye
dutiyajjhānasamādhiṃ. Avitakkampi avicāranti catukkanayepi pañcakanayepi
jhānattayasamādhiṃ. Sappītikanti dukatikajjhānasamādhiṃ. Nippītikanti
dukajjhānasamādhiṃ. Sātasahagatanti tikacatukkajjhānasamādhiṃ. Upekkhāsahagatanti
catukkanaye catutthajjhānasamādhiṃ pañcakanaye pañcamajjhānasamādhiṃ.
Kadā pana
bhagavā imaṃ tividhaṃ samādhiṃ bhāveti? Mahābodhimūle nisinno pacchimayāme.
Bhagavato hi paṭhamamaggo paṭhamajjhāniko ahosi, dutiyādayo
dutiyatatiyacatutthajjhānikā. Pañcakanaye pañcamajjhānassa maggo natthīti so
lokiyo ahosīti lokiyalokuttaramissakaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Sesaṃ sabbattha
uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Upakkilesasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Xin định nghĩa thế nào tùy phiền não-(upakkilesa) - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. TT Giác Đẳng chia sẻ thêm về bài học
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment