Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Siêu
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 28/5/2020
137. Kinh Phân Biệt Sáu Xứ
(Saḷāyatanavibhaṅga Sutta)
Cuộc sống của con người là một guồng máy phức tạp và
vô cùng khó hiểu. Khi Đức Phật dạy nên quán chiếu tự thân Ngài đưa ra nhiều phương
cách. Một trong những cách đó là quán sát sáu giác quan. Từ sáu giác quan hành
giả cần có khả năng phân biệt căn, cảnh, thức và cảm thọ sanh khời từ những mấu
chốt đó. Đức Phật đặc biệt nói đến cảm thọ của người có tu tập và người không
tu tập. Từ điểm nầy tạo nên ngã rẽ về cuộc sống buông xuôi theo thói quen và cuộc
sống với ý chí chuyển hoá. Toàn bài kinh là một cẩm nang về pháp hành nên lời
kinh rất cô đọng.
1143. Sự sống theo ý nghĩa cô đọng và toàn diện
Sáu giác quan với những liên hệ trực tiếp và gián tiếp
tạo nên một hình ảnh hoạt dụng của toàn bộ sự sống của chúng sanh:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ),
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Ở đấy
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo"
--"Bạch Thế Tôn". Các vị
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các
Ông phân biệt sáu xứ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
-- Có sáu nội xứ cần phải biết. Có sáu
ngoại xứ cần phải biết. Có sáu thức thân cần phải biết. Có sáu xúc
thân cần phải biết. Có mười tám ý hành cần phải biết. Có ba mươi sáu
loại hữu tình cần phải biết. Tại đây, do y cứ cái này, đoạn tận cái
này, có ba niệm xứ mà một bậc Thánh phải thực hành, và có thực hành (niệm
xứ) ấy, bậc Thánh mới xứng là bậc Ðạo sư diễn giảng đồ chúng. Trong
các bậc Huấn luyện sư, vị ấy được gọi là bậc Vô thượng Ðiều ngự
sư, điều phục các hạng người đáng được điều phục. Ðây là tổng
thuyết về phân biệt sáu xứ.
1144. Những chi tiết có thể nắm bắt trong
cuộc sống rối rắm
Một cách để hiểu rõ những phức cảm là nhìn
sự thể với sự phân biệt từng phần một:
Khi được nói đến "Sáu nội xứ
cần phải biết", do duyên gì, được nói đến như vậy? Nhãn xứ, nhĩ
xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Khi được nói đến: "Sáu nội
xứ cần phải biết", chính do duyên này, được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Sáu ngoại xứ
cần phải biết", do duyên gì, được nói đến như vậy? Sắc xứ, thanh
xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ. Khi được nói đến: "Sáu
ngoại xứ cần phải biết", chính do duyên này, được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Sáu thức thân
cần phải biết", do duyên gì, được nói đến như vậy? Nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Khi được nói đến:
"Sáu thức thân cần phải biết", chính do duyên này, được nói đến
như vậy.
Khi được nói đến "Sáu xúc thân
cần phải biết", do duyên gì được nói đến như vậy? Nhãn xúc, nhĩ
xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Khi được nói đến: "Sáu xúc
thân cần phải biết", chính do duyên này, được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Mười tám ý
hành cần phải biết", do duyên gì được nói đến như vậy? Sau khi
mắt thấy sắc, (ý) chạy theo sắc trú xứ của hỷ, chạy theo sắc trú xứ
của ưu, chạy theo sắc trú xứ của xả; sau khi tai nghe tiếng... ; sau
khi mũi ngửi hương... sau khi lưỡi nếm vị... sau khi thân cảm xúc...
sau khi ý nhận thức pháp, ý chạy theo pháp khởi lên hỷ chạy theo pháp
khởi lên ưu, chạy theo pháp khởi lên xả. Như vậy, có sáu hỷ hành, có
sáu ưu hành, có sáu xả hành. Khi được nói đến "Mười tám ý hành cần
phải biết", chính do duyên này, được nói đến như vậy.
1145. Cảm thọ của người có tu tập và cảm
thọ của người không tu tập cần được phân biệt
Người tu tập không hẳn lúc nào cũng vui
nhưng vui khổ của người có tu tập dẫn đến hướng đi khác:
Khi được nói đến "Ba mươi sáu
loại hữu tình cần phải biết", do duyên gì, được nói đến như vậy?
Sáu hỷ liên hệ tại gia, sáu hỷ liên hệ xuất ly, sáu ưu liên hệ tại
gia, sáu ưu liên hệ xuất ly, sáu xả liên hệ tại gia, sáu xả liên hệ
xuất ly.
Ở đây, thế nào là sáu hỷ liên hệ tại
gia? Có hỷ khởi lên, hoặc do nhận được hay thấy sự nhận được các
sắc do con mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ
đến thế vật; hoặc do nhớ được những gì đã nhận được về trước, đã
qua, đã diệt, đã biến hoại. Loại hỷ như vậy được gọi là hỷ liên hệ
tại gia. Có hỷ khởi lên, hoặc do nhận được hay thấy sự nhận được
các tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các vị do
lưỡi nhận thức... các xúc do thân nhận thức... các pháp do ý nhận thức,
khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý liên hệ đến thế vật; hoặc do nhớ
được những gì đã nhận được về trước, đã qua, đã diệt, đã biến hoại.
Loại hỷ như vậy được gọi là hỷ liên hệ đến tại gia. Sáu hỷ này liên
hệ đến tại gia.
Ở đây, thế nào là sáu hỷ liên hệ đến
xuất ly? Sau khi biết các sắc pháp là vô thường, biến hoại, ly tham,
biến diệt và nghĩ rằng: "Các sắc pháp xưa kia và các sắc pháp hiện
tại, tất cả sắc pháp là vô thường, khổ, biến hoại". Sau khi như
thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, có hỷ khởi lên. Loại hỷ như vậy
được gọi là hỷ liên hệ đến xuất ly. Sau khi biết được các tiếng...
các hương... các vị... các xúc... các pháp là vô thường, biến hoại, ly
dục, biến diệt và nghĩ rằng: "Các pháp xưa kia và các pháp hiện
tại, tất cả các pháp là vô thường, khổ, biến hoại". Sau khi như
thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, có hỷ khởi lên. Loại hỷ như vậy
được gọi là hỷ liên hệ đến xuất ly. Sáu hỷ này liên hệ đến xuất ly.
Ở đây, thế nào là sáu ưu liên hệ tại
gia? Có ưu khởi lên; hoặc do không nhận được hay thấy sự không nhận được
các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ
đến thế vật; hoặc do nhớ được những gì không nhận được về trước,
đã qua, đã diệt, đã biến hoại. Loại ưu như vậy được gọi là ưu liên hệ
tại gia. Có ưu khởi lên, hoặc do không nhận được hay thấy sự không nhận
được các tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các
vị do lưỡi nhận thức... các xúc do thân nhận thức... các pháp do ý nhận
thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến thế vật; hoặc do
nhớ được những gì không nhận được về trước, đã qua, đã diệt, đã
biến hoại. Loại ưu như vậy được gọi là ưu liên hệ đến tại gia. Sáu
ưu này liên hệ đến tại gia.
Ở đây, thế nào là sáu ưu liên hệ đến
xuất ly? Sau khi biết được các sắc pháp là vô thường, biến hoại, ly
tham, biến diệt và nghĩ rằng: "Các sắc pháp xưa kia và các sắc pháp
hiện tại, tất cả sắc pháp là vô thường, khổ, biến hoại". Sau khi
như thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, vị ấy khởi lên ước muốn
đối với vô thượng giải thoát, nghĩ rằng: "Khi nào ta có thể chứng
đạt và an trú trong xứ (āyatana) mà các bậc Thánh đang chứng đạt và an
trú?" Như vậy, do ước muốn đối với các vô thượng giải thoát, ưu
khởi lên do duyên ước muốn. Loại ưu như vậy được gọi là ưu liên hệ
xuất ly. Sau khi biết được các tiếng... các hương... các vị... các
xúc... các pháp là vô thường, biến hoại, ly dục, biến diệt và nghĩ
rằng: "Các pháp xưa kia và các pháp hiện tại, tất cả các pháp là vô
thường, khổ, biến hoại". Sau khi sự thật thấy như vậy với chánh
trí tuệ, vị ấy khởi lên ước muốn đối với các vô thượng giải thoát,
nghĩ rằng: "Khi nào ta có thể chứng đạt và an trú trong xứ (āyatana)
mà các bậc Thánh đang chứng đạt và an trú?" Như vậy, do ước muốn
đối với các vô thượng giải thoát, ưu khởi lên do duyên ước muốn.
Loại ưu như vậy được gọi là ưu liên hệ xuất ly. Sáu ưu này liên hệ
xuất ly.
Ở đây, thế nào là sáu xả liên hệ tại
gia? Khi một người ngu si, ám độn, phàm phu thấy sắc với con mắt, xả
khởi lên của một vô văn phàm phu, không chinh phục được (phiền não),
không chinh phục được quả dị thục, không thấy sự nguy hiểm. Loại xả
như vậy không vượt khỏi sắc pháp. Do vậy, đây được gọi là xả liên hệ
tại gia. Khi một người ngu si, ám độn, phàm phu nghe tiếng với tai...
ngửi hương với mũi... nếm vị với lưỡi... cảm xúc với thân... nhận
thức pháp với ý, xả khởi lên của một vô văn phàm phu, không chinh phục
được (phiền não), không chinh phục được quả dị thục, không thấy sự
nguy hiểm. Loại xả như vậy không vượt khỏi các pháp. Do vậy, đây
được gọi là xả liên hệ tại gia. Sáu xả này liên hệ tại gia.
Ở đây, thế nào là sáu xả liên hệ xuất
ly? Sau khi biết sắc pháp là vô thường, biến hoại, ly tham, biến diệt,
nghĩ rằng: "Các sắc pháp xưa kia và sắc pháp hiện tại, tất cả
sắc pháp là vô thường, khổ, biến hoại". Sau khi như thật thấy
như vậy với chánh trí tuệ, xả khởi lên. Loại xả như vậy được gọi
là xả liên hệ xuất ly. Sau khi biết được các tiếng... các hương... các
vị... các xúc... các pháp là vô thường, biến hoại, ly dục, biến diệt,
nghĩ rằng: "Các pháp xưa kia và các pháp hiện tại, tất cả các pháp
là vô thường, khổ, biến, hoại". Sau khi như thật thấy như vậy
với chánh trí tuệ, xả khởi lên. Loại xả như vậy được gọi là xả liên
hệ xuất ly. Sáu xả này liên hệ xuất ly.
Khi được nói đến "Ba mươi sáu
loại hữu tình cần phải biết", chính do duyên này, được nói đến
như vậy.
Khi được nói đến "Ở đây, do y cứ
cái này, đoạn tận cái này", do duyên gì, được nói đến như vậy? Tại
đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ do duyên sáu hỷ liên hệ xuất ly, đoạn tận,
vượt qua sáu hỷ liên hệ tại gia. Như vậy là sự đoạn tận chúng; như vậy
là sự vượt qua chúng. Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên sáu ưu
liên hệ xuất ly; đoạn tận, vượt qua sáu ưu liên hệ tại gia. Như vậy
là sự đoạn tận chúng; như vậy là sự vượt qua chúng. Tại đây, này các
Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên sáu xả liên hệ xuất ly, đoạn tận, vượt qua
sáu xả liên hệ tại gia. Như vậy là sự đoạn tận chúng, là sự vượt qua
chúng. Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên sáu hỷ liên hệ xuất
ly, đoạn tận, vượt qua sáu ưu liên hệ xuất ly. Như vậy là sự đoạn tận
chúng, là sự vượt qua chúng. Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên
xả liên hệ xuất ly, đoạn tận, vượt qua sáu hỷ liên hệ xuất ly. Như vậy
là sự đoạn tận chúng, là sự vượt qua chúng.
Này các Tỷ-kheo, có xả đa diện, y cứ
đa diện; có xả nhứt diện, y cứ nhứt diện. Này các Tỷ-kheo, thế nào là
xả đa diện, y cứ đa diện? Này các Tỷ-kheo, có xả đối với các sắc pháp,
có xả đối với các tiếng, có xả đối với các hương, có xả đối với các
vị có xả đối với các xúc. Như vậy, này các Tỷ-kheo là xả đa diện, y
cứ đa diện. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là xả nhứt diện, y cứ nhứt diện?
Có xả y cứ Hư không vô biên xứ, có xả y cứ Thức vô biên xứ, có xả y
cứ Vô sở hữu xứ, có xả y cứ Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy,
này các Tỷ-kheo là xả nhứt diện, y cứ nhứt diện. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên xả nhứt diện, xả y cứ nhứt diện, đoạn tận
vượt qua xả đa diện, xả y cứ đa diện. Như vậy là sự đoạn tận (xả)
này, như vậy là sự vượt qua (xả) này. Này các Tỷ-kheo, do y cứ không
tham dục, do duyên không tham dục, đoạn tận, vượt qua xả nhứt diện,
xả y cứ nhứt diện ấy. Như vậy là sự đoạn tận (xả) này, như vậy là
sự vượt qua (xả) này. Khi được nói đến "Tại đây do y cứ cái này,
đoạn tận cái này", chính do duyên này, được nói đến như vậy.
1146. Ba cái nhìn và thái độ của Đức Thế
Tôn đối với chúng sanh
Chữ satipaṭṭhāna, ở đây dịch là niệm xứ,
không mang ý nghĩa như trong tứ niệm xứ mà cần được hiểu theo ngữ cảnh của chánh
kinh:
Khi được nói đến: "Có ba niệm xứ
mà một bậc Thánh phải thực hành, và có thực hành (niệm xứ) ấy, bậc
Thánh mới xứng là bậc Ðạo sư diễn giảng đồ chúng", do duyên gì,
được nói đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, bậc Ðạo sư thuyết pháp
cho các đệ tử, vì lòng từ mẫn, vì lo cho hạnh phúc của họ, vì thương
tưởng họ, nói rằng: "Ðây là hạnh phúc cho các Ông, đây là an lạc cho
các Ông". Một số đệ tử của bậc Ðạo sư ấy không có khéo nghe,
không có lóng tai, không có an trú tâm vào chánh trí, và hành động ngược
lại lời dạy của bậc Ðạo sư. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai không
có hoan hỷ, không có cảm giác hoan hỷ, nhưng sống không có dao động,
chánh niệm, tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, đây là niệm xứ thứ nhất, một bậc
Thánh phải thực hành, và có thực hành niệm xứ ấy, bậc Thánh mới xứng
là bậc Ðạo sư diễn giảng đồ chúng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, bậc Ðạo sư
thuyết pháp cho các đệ tử, vì lòng từ mẫn, vì lo cho hạnh phúc của họ,
vì thương tưởng họ, nói rằng: "Ðây là hạnh phúc cho các Ông, đây là
an lạc cho các Ông". Một số đệ tử bậc Ðạo sư ấy không có khéo
nghe, không có lóng tai, không có an trú tâm vào chánh trí, và hành động
ngược lại lời dạy của bậc Ðạo sư. Có một số đệ tử khéo nghe, lóng
tai, an trú tâm vào chánh trí, và không hành động ngược lại lời dạy của
bậc Ðạo sư. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai không có hoan hỷ, không có
cảm giác hoan hỷ, không có không hoan hỷ, không có cảm giác không hoan hỷ;
sau khi đoạn bỏ cả hai, hoan hỷ và không hoan hỷ, Như Lai trú xả, chánh
niệm, tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, đây là niệm xứ hai, một bậc Thánh
phải thực hành, và có thực hành niệm xứ ấy, bậc Thánh mới xứng là bậc
Ðạo sư diễn giảng đồ chúng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có bậc Ðạo
Sư thuyết pháp cho các đệ tử, vì lòng từ mẫn, vì lo cho hạnh phúc của
họ, vì thương tưởng họ, nói rằng: "Ðây là hạnh phúc cho các Ông,
đây là an lạc cho các Ông". Ðệ tử của bậc Ðạo Sư ấy khéo nghe,
lóng tai, an trú tâm vào chánh trí và không đi ngược lời dạy của bậc Ðạo
Sư. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Như lai hoan hỷ, và cảm giác hoan hỷ,
sống không dao động, chánh niệm, tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, đây là niệm
xứ thứ ba, một bậc Thánh phải thực hành, và có thực hành niệm xứ ấy,
bậc Thánh mới xứng là bậc Ðạo sư diễn giảng cho đồ chúng.
Khi được nói đến "Có ba niệm xứ,
một bậc Thánh phải thực hành, và có (thực hành) niệm xứ ấy, bậc Thánh
mới xứng đáng là bậc Ðạo sư diễn giảng cho đồ chúng", chính do
duyên này, được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Trong các vị
Huấn luyện sư, vị ấy được gọi là vị Vô thượng Ðiều ngự sư, điều
phục hạng người đáng được điều phục", do duyên gì được nói đến
như vậy? Này các Tỷ-kheo, một con voi được điều phục do một vị điều
ngự tượng sư dắt dẫn chỉ chạy về một phương, phương Ðông,
phương Tây, phương Bắc hay phương Nam. Này các Tỷ-kheo, một con ngựa
được điều phục do một vị điều ngự mã sư dắt dẫn chỉ chạy về một
phương, phương Ðông, phương Tây, phương Bắc hay phương Nam. Này các
Tỷ-kheo, một con bò được điều phục do một vị điều ngự sư dắt dẫn
chỉ chạy về một phương, phương Ðông, phương Tây, phương Bắc hay
phương Nam.
Này các Tỷ-kheo, một người được
điều phục do Như Lai, bậc A-La-Hán, Chánh Ðẳng Giác dắt dẫn, được
chạy cùng khắp cả tám phương.
Có sắc, thấy các sắc pháp; đó là
phương thứ nhất. Không có tưởng nội sắc, thấy các ngoại sắc; đó là
phương thứ hai. Nghĩ đến thanh tịnh, chú tâm trên ấy; đó là phương
thứ ba. Vượt qua một cách hoàn toàn các sắc tưởng, diệt trừ đối ngại
tưởng, không tác ý sai biệt tưởng; và nghĩ rằng "Hư không là vô
biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ; đó là phương thứ tư.
Vượt qua một cách hoàn toàn Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là
vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ; đó là phương thứ
năm. Vượt qua một cách hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng:
"Không có gì cả", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ; đó là
phương thứ sáu. Vượt qua một cách hoàn toàn Vô sở hữu xứ; chứng đạt
và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ; đó là phương thứ bảy. Vượt qua
một cách hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đạt và an trú Diệt
thọ tưởng (định); đó là phương thứ tám.
Này các Tỷ-kheo, một người đáng được
điều phục do Như Lai, bậc A-La-Hán, Chánh Ðẳng Giác dắt dẫn, được
chạy cùng khắp tám phương này.
Khi được nói đến "Trong các vị
Huấn luyện sư, vị ấy được gọi là Vô thượng Ðiều ngự sư, điều
phục hạng người đáng điều phục", chính do duyên này, được nói đến
như vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 137
[tóm tắt]
Kinh
Phân Biệt Sáu Xứ
(Saḷāyatanavibhanga
Sutta)
(M.iii,
215)
Thế Tôn thuyết giảng về các pháp liên
hệ đến sáu xứ như sau:
1/ Sáu nội xứ: Nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý.
2/ Sáu ngoại xứ: Sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp.
3/ Sáu thức: Nhãn thức,.. cho
đến ý thức.
4/ Sáu xúc thân: Nhãn xúc,.. cho đến ý xúc.
5/ Ý hành: Mắt thấy sắc khởi
lên ba loại hành là hỷ, ưu, xả. Tai nghe tiếng..., ý biết pháp, cũng vậy,
thành 18:
- Sáu hỷ hành (đối với sáu căn). - Sáu
ưu hành (đối với sáu căn). - Sáu xả hành (đối với sáu căn).
6/ Ba mươi sáu loại hữu tình:
Do duyên mười tám ý hành (như trên) liên hệ tại gia và mười tám ý hành
liên hệ xuất ly. Sáu hỷ liên hệ tại gia là hỷ khởi lên do sáu căn tiếp
xúc sáu trần khả hỷ, khả ái, liên hệ thế vật. Sáu ưu liên hệ tại gia
là ưu tư khởi lên do sáu căn không nhận được các sắc, thanh,.. khả ái.
Sáu xả liên hệ tại gia là xả khởi lên của người phàm phu khi mắt thấy
sắc, tai nghe tiếng..., xả ấy không chinh phục được phiền não, không
chinh phục được quả dị thục, không thấy sự nguy hiểm. Đó là mười tám
ý hành tại gia đưa đến mười tám loài hữu tình. Sáu liên hệ xuất ly là
sáu hỷ khởi lên khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng... nhận chân các sắc
pháp là vô thường, biến hoại, sau khi thấy như thật với chánh trí tuệ,
có hỷ khởi. Sáu ưu liên hệ xuất ly là ưu tư khởi lên khi có ước muốn
đối với vô thượng giải thoát vì đã thấy rõ sắc pháp là vô thường,
biến hoại. Sáu xả liên hệ xuất ly là xả khởi lên sau khi thấy như thật
với chánh trí tuệ rằng tất cả sắc pháp là vô thường. Đây là mười tám
ý hành xuất ly đưa đến mười tám loài hữu tình xuất ly.
7/ Do y cứ cái này, đoạn tận cái này:
Nghĩa là do thấy sáu hỷ liên hệ xuất ly mà đoạn tận sáu hỷ tại gia. Do
sáu ưu liên hệ xuất ly, đoạn tận sáu ưu tại gia. Do sáu xả liên hệ
xuất ly, đoạn tận sáu xả tại gia. Do sáu hỷ xuất ly mà đoạn tận sáu
ưu liên hệ đến xuất ly. Do sáu xả xuất ly, đoạn tận sáu hỷ liên hệ
đến xuất ly.
Có nhiều loại xả, nên phải vượt qua
xả này để đạt đến xả khác thù thắng hơn. Có xả nhất diện, xả đa diện.
Xả đa diện là xả đối với các sắc, xả đối với các tiếng, xả đối với
các hương.... Xả nhất diện là xả y cứ nhất diện như hư không vô biên
xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Do y
cứ xả nhất diện đoạn tận xả đa diện.
8/ Có ba niệm xứ, một bậc Thánh thực
hành để xứng đáng bậc Đạo sư thuyết pháp vì lòng từ mẫn thương
tưởng chúng sanh. Một là khi một số đệ tử không nghe theo lời dạy,
hành động ngược lại, khi ấy Như Lai không có hoan hỷ, nhưng sống không
dao động, chánh niệm tỉnh giác. Hai là khi có một số đệ tử nghe theo, một
số không nghe, thì Như Lai xả bỏ cả hai cảm thọ hoan hỷ và không hoan
hỷ, chánh niệm tỉnh giác. Ba là khi tất cả đều nghe theo lời dạy, thì
Như Lai cảm giác hoan hỷ nhưng sống dao động (vì tham ái), chánh niệm
tỉnh giác.
9/ Trong các bậc huấn luyện sư, vị
ấy được gọi là bậc Vô thượng điều ngự sư, điều phục những ai đáng
điều phục. Một con voi, ngựa, hay bò khéo huấn luyện chỉ được huấn
luyện chạy về một phương hướng. Còn khi một người được Như Lai
khéo điều ngự, chạy cùng khắp cả tám phương là giải thoát:
- Có sắc, thấy sắc pháp.
-
Không tưởng nội sắc, thấy ngoại sắc.
- Nghĩ đến
thanh tịnh, chú tâm ở đó.
- Vượt qua sắc tưởng, trú không vô
biên.
- Vượt không vô biên, trú thức vô biên.
-
Vượt thức vô biên, trú vô sở hữu xứ.
- Vượt vô sở
hữu xứ, trú phi tưởng phi phi tưởng xứ. - Vượt phi tưởng phi phi
tưởng xứ, trú diệt thọ tưởng. Đấy là tổng thuyết và biệt thuyết về
phân biệt sáu xứ.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 137
[dàn ý]
Kinh
Phân Biệt Sáu Xứ
(Saḷāyatanavibhanga
Sutta)
(M.iii,
215)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo
và nói sẽ giảng về phân biệt sáu xứ.
B. Chánh kinh:
I. Thế Tôn tổng thuyết
về phân biệt sáu xứ.
II. Thế Tôn biệt thuyết
về sáu xứ.
1.Sáu nội xứ cần phải biết.
2.Sáu ngoại xứ cần phải biết.
3.Sáu thức xứ cần phải biết.
4.Sáu xúc thân cần phải biết.
5.18 ý hành cần phải biết.
6.36 loại hữu tình cần phải biết.
7.Do y cứ cái này, đoạn tận cái này.
8.Có 3 niệm xứ một bậc Thánh phải
thực hành...
9. Trong các vị huấn
luyện sư, vị ấy được gọi là Vô thượng Điều ngự sư.
C. Kết luận:
Các vị Tỷ-kheo hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 137
[toát yếu]
Kinh
Phân Biệt Sáu Xứ
(Saḷāyatanavibhanga
Sutta)
(M.iii,
215)
I. Toát yếu
The Exposition of the
Sixfold Base.
The Buddha expounds
the six internal and external sense bases and other related topics.
Trình bày về sáu xứ.
Phật giảng giải sáu nội
ngoại xứ và các đề tài liên hệ.
II. Tóm tắt
Phật giảng về 6 căn,
6 trần, 6 thức, 6 xúc, 18 ý hành [1] (6 khổ, 6 ưu, 6 xả), 36 loại hữu tình (18
ý hành liên hệ tại gia, 18 liên hệ xuất gia), ba loại cảm thọ [2], ba niệm của
bậc đạo sư, về Vô thượng điều ngự. Về xả (trong ba cảm thọ), có xả liên hệ tại
gia hay xả y cứđa diện, xả liên hệ xuất ly hay xả y cứ nhất diện. Xả tại gia, y
cứ đa diện là xả sắc thanh hương vị xúc, xả này không chinh phục đượcphiền não
và quả dị thục [3]. Xả xuất ly, y cứ nhất diện, là xả thuộc thiền như xả tầm tứ
hỷ lạc. Y cứ cái này đoạn tận cái kia có nghĩa là theo hỷ ưu xuất gia, bỏ hỷ ưu
tại gia. Bỏ xả đa diện và hỷ nhất diện để có xả nhất diện.
Ba niệm của đấng đạo
sư đối với ba loại hội chúng nghe pháp là, đối với hội chúng có đa số biếng
nhác, Ngài không hoan hỷ nhưng vẫn giữ chánh niệm không phiền não, với loại hội
chúng có một số siêng năng một số biếng nhác thái độ Ngài không hoan hỷ cũng
không không hoan hỷ, với hội chúng có đa số siêng năng, Ngài hoan hỷ trong
chánh niệm.
Trong các vị huấn luyện
sư, Phật là đấng vô thượng điều ngự. Vì trong khi voi, ngựa hay bò được người
huấn luyện chỉ chạy theo một trong bốn hướng đông tây nam bắc, thì một tỷ kheo
được Phật huấn luyện đi khắp tám hướng [4], đấy là tám giải thoát: nội có sắc quán ngoại sắc, nội không sắc
quán ngoại sắc, chú tâm trên thanh tịnh, hư không vô biên, thức vô biên, vô sở
hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ và Diệt thọ tưởng định.
III. Chú giải
1. Ý hành, (manopavicāra, mental
exploration) là tầm và tứ. Người ta tra tầm, xem xét đối tượng do sự sinh khởi
của tứ (vicāra).
2. Sau khi thấy sắc với nhãn thức, ta
tra tầm nó như một đối tượng, và thế là nhân của vui, hoặc khổ, hoặc không vui
không khổ.
3. Xả thanh hương vị xúc... hay xả đa diện
không chinh phục được phiền não và quả dị thục nghĩa là khổ hạnh về thân xác
không ăn thua gì, vì phiền não (tham sân si) không thể chấm dứt chỉ bằng cách
bưng tai nhắm mắt trước thanh sắc trần gian; cũng không tránh khỏi quả dị thục
là không thoát khỏi luân hồi sinh tử, khi chỉ tu kềm chế các giác quan mà không
có trí tuệ thấy rõ sự vô ích, trống rỗng của dục vọng.
4. Ðấy là những cảnh giới (đạo, thú) của
các loại hữu tình.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Phật dạy các tỷ kheo
Cần biết rõ sáu xứ:
Sáu nội xứ là mắt
Tai mũi lưỡi thân ý;
Sáu ngoại xứ là sắc
Thanh hương vị xúc pháp
Sáu thức thân:
nhãn thức
Nhĩ thức đến ý thức.
Sáu xúc thân: nhãn xúc
Nhĩ xúc đến ý xúc.
Khi con mắt thấy sắc
Ðến ý nhận thức pháp
Khởi lên hỷ, ưu, xả.
Cộng mười tám ý hành
Có băm sáu hữu tình:
Sáu hỷ thuộc tại gia
Khi mắt tai mũi lưỡi
Nhận được những khoái cảm
Do tiếp xúc đối tượng;
Sáu hỷ thuộc xuất
ly
Khi biết với trí tuệ
Tính vô thường nơi sắc
Thanh hương vị xúc pháp.
Sáu ưu thuộc tại gia:
Lo mắt không thấy được
Các sắc đẹp khả ái;
Tương tự, với tai, mũi
Lưỡi thân và ý thức
Lo không thể tiếp nhận
Những đối tượng đẹp lòng.
Sáu ưu thuộc xuất ly:
Khi biết sắc vô thường
Thanh hương vị xúc pháp
Cả sáu đều vô thường,
Ưu tư mong chứng đạt
Ðến tối thượng giải thoát.
Sáu xả thuộc tại gia
Như phàm phu thấy sắc
Có thể khởi tâm xả
Nhưng không thấy nguy hiểm
Nên không hết não phiền
Không khỏi quả dị thục
Xả thanh hương vị xúc
Nơi phàm phu cũng thế.
Sáu xả thuộc xuất ly
Khi với chánh trí tuệ
Rõ các pháp vô thường
Ðau khổ và biến hoại
Nên khởi tâm xả bỏ
Ðối với sáu ngoại
xứ.
Do y cứ cái này
Mà đoạn tận cái kia:
Theo hỷ ưu xuất ly
Ðoạn hỷ ưu tại gia
Ðoạn cả hỷ xuất
ly
Ði đến xả xuất ly
Ðoạn tận xả đa diện
(xả thanh hương vị xúc)
Ði đến xả nhất diện
(xả trong các thiền chứng)
Có ba loại niệm xứ
Nơi một đấng đạo sư:
Khi giảng dạy chánh pháp
Vì an lạc hữu tình
Tâm Ngài không nao núng
Trước ba loại hội
chúng:
Ða số không lóng tai
Không thực hành diệu pháp;
Có người lóng, kẻ không:
Ðối hai hội chúng này
Như Lai không hoan hỷ
Nhưng tâm không giao động;
Nếu gặp chúng đệ tử
Chăm chỉ lóng tai nghe
Không làm trái chánh pháp
Như Lai rất hoan hỷ
Nhưng chánh niệm tỉnh giác.
Ðấy là ba niệm xứ
Xứng với bậc đạo sư.
Bậc vô thượng điều ngự
Giảng dạy tám giải thoát:
Nội có sắc, quán ngoại,
Nội vô sắc quán ngoại,
Chú tâm trên thanh tịnh,
Không vô biên xứ định,
Thức vô biên xứ định,
Vô sở hữu xứ định,
Phi tưởng phi phi tưởng
Và diệt thọ tưởng định.
Tỷ kheo được huấn
luyện
Ði khắp tám phương trời.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
137.
Saḷāyatanavibhaṅgasuttaṃ [Mūla]
304. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca : ''saḷāyatanavibhaṅgaṃ vo, bhikkhave, desessāmi. Taṃ suṇātha,
sādhukaṃ manasi karotha bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhanteti kho te bhikkhū bhagavato
paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca : '''cha
ajjhattikāni āyatanāni veditabbāni, cha bāhirāni āyatanāni veditabbāni,
cha viññāṇakāyā veditabbā, cha phassakāyā veditabbā, aṭṭhārasa manopavicārā
veditabbā, chattiṃsa sattapadā veditabbā, tatra idaṃ nissāya idaṃ pajahatha,
tayo satipaṭṭhānā yadariyo sevati yadariyo
sevamāno satthā gaṇamanusāsitumarahati, so vuccati yoggācariyānaṃ
[yogācariyānaṃ (ka.)] anuttaro purisadammasārathīti : ayamuddeso saḷāyatanavibhaṅgassa.
305. '''Cha ajjhattikāni āyatanāni veditabbānīti : iti kho panetaṃ vuttaṃ.
Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ? 'cakkhāyatanaṃ sotāyatanaṃ ghānāyatanaṃ jivhāyatanaṃ
kāyāyatanaṃ manāyatanaṃ : cha ajjhattikāni āyatanāni veditabbānīti : iti yaṃ taṃ
vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ. '''Cha bāhirāni āyatanāni veditabbānīti : iti
kho panetaṃ vuttaṃ . Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ? 'rūpāyatanaṃ saddāyatanaṃ
gandhāyatanaṃ rasāyatanaṃ phoṭṭhabbāyatanaṃ dhammāyatanaṃ : cha bāhirāni
āyatanāni veditabbānīti : iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ. '''Cha
viññāṇakāyā veditabbāti : iti kho panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?
'cakkhuviññāṇaṃ sotaviññāṇaṃ ghānaviññāṇaṃ jivhāviññāṇaṃ kāyaviññāṇaṃ manoviññāṇaṃ
: cha viññāṇakāyā veditabbāti : iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
'''Cha phassakāyā veditabbāti : iti kho
panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ? 'cakkhusamphasso sotasamphasso
ghānasamphasso jivhāsamphasso kāyasamphasso manosamphasso : cha phassakāyā
veditabbāti : iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ. '''Aṭṭhārasa
manopavicārā veditabbāti : iti kho panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?
'cakkhunā rūpaṃ disvā somanassaṭṭhānīyaṃ rūpaṃ upavicarati, domanassaṭṭhānīyaṃ
rūpaṃ upavicarati, upekkhāṭṭhānīyaṃ rūpaṃ upavicarati. Sotena saddaṃ sutvā - pe
- ghānena gandhaṃ ghāyitvā... jivhāya rasaṃ sāyitvā... kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā... manasā dhammaṃ viññāya somanassaṭṭhānīyaṃ
dhammaṃ upavicarati, domanassaṭṭhānīyaṃ dhammaṃ upavicarati, upekkhāṭṭhānīyaṃ
dhammaṃ upavicarati. Iti cha somanassūpavicārā, cha domanassūpavicārā, cha
upekkhūpavicārā, aṭṭhārasa manopavicārā veditabbāti : iti yaṃ taṃ vuttaṃ
idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
306. '''Chattiṃsa sattapadā
veditabbāti : iti kho panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ? cha gehasitāni
[gehassitāni (?)] somanassāni, cha nekkhammasitāni [nekkhammassitāni (ṭīkā)]
somanassāni, cha gehasitāni domanassāni, cha nekkhammasitāni domanassāni, cha
gehasitā upekkhā, cha nekkhammasitā upekkhā. Tattha katamāni cha gehasitāni
somanassāni? cakkhuviññeyyānaṃ rūpānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ manoramānaṃ
lokāmisapaṭisaṃyuttānaṃ paṭilābhaṃ vā paṭilābhato samanupassato pubbe vā paṭiladdhapubbaṃ
atītaṃ niruddhaṃ vipariṇataṃ samanussarato uppajjati somanassaṃ. Yaṃ evarūpaṃ
somanassaṃ idaṃ vuccati gehasitaṃ somanassaṃ. Sotaviññeyyānaṃ saddānaṃ...
ghānaviññeyyānaṃ gandhānaṃ... jivhāviññeyyānaṃ rasānaṃ... kāyaviññeyyānaṃ phoṭṭhabbānaṃ...
manoviññeyyānaṃ dhammānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ - pe - somanassaṃ. Yaṃ
evarūpaṃ somanassaṃ idaṃ vuccati gehasitaṃ somanassaṃ. Imāni cha gehasitāni
somanassāni. ''Tattha katamāni cha nekkhammasitāni somanassāni? rūpānaṃtveva
aniccataṃ viditvā vipariṇāmavirāganirodhaṃ [vipariṇāmaṃ virāgaṃ nirodhaṃ
(ka.)], 'pubbe ceva rūpā etarahi ca sabbe te rūpā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammāti
evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passato uppajjati somanassaṃ. Yaṃ evarūpaṃ somanassaṃ idaṃ vuccati
nekkhammasitaṃ somanassaṃ. Saddānaṃtveva... gandhānaṃtveva... rasānaṃtveva...
phoṭṭhabbānaṃtveva... dhammānaṃtve
aniccataṃ viditvā vipariṇāmavirāganirodhaṃ, 'pubbe ceva dhammā
etarahi ca sabbe te dhammā aniccā dukkhā
vipariṇāmadhammāti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passato uppajjati
somanassaṃ. Yaṃ evarūpaṃ somanassaṃ idaṃ vuccati nekkhammasitaṃ somanassaṃ.
Imāni cha nekkhammasitāni somanassāni.
307. ''Tattha katamāni cha gehasitāni domanassāni? cakkhuviññeyyānaṃ rūpānaṃ
- pe - sotaviññeyyānaṃ saddānaṃ... ghānaviññeyyānaṃ gandhānaṃ...
jivhāviññeyyānaṃ rasānaṃ... kāyaviññeyyānaṃ phoṭṭhabbānaṃ... manoviññeyyānaṃ
dhammānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ manoramānaṃ lokāmisapaṭisaṃyuttānaṃ appaṭilābhaṃ
vā appaṭilābhato samanupassato pubbe vā appaṭiladdhapubbaṃ atītaṃ niruddhaṃ
vipariṇataṃ samanussarato uppajjati domanassaṃ. Yaṃ evarūpaṃ domanassaṃ idaṃ vuccati gehasitaṃ domanassaṃ. Imāni cha
gehasitāni domanassāni. ''Tattha katamāni cha nekkhammasitāni domanassāni?
rūpānaṃtveva aniccataṃ viditvā vipariṇāmavirāganirodhaṃ,
'pubbe ceva rūpā etarahi ca sabbe te rūpā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammāti
evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā anuttaresu vimokkhesu pihaṃ upaṭṭhāpeti
: 'kudāssu [kadāssu (syā. kaṃ. pī.)] nāmāhaṃ tadāyatanaṃ upasampajja viharissāmi
yadariyā etarahi āyatanaṃ upasampajja viharantīti iti anuttaresu vimokkhesu
pihaṃ upaṭṭhāpayato uppajjati pihapaccayā domanassaṃ. Yaṃ evarūpaṃ domanassaṃ
idaṃ vuccati nekkhammasitaṃ domanassaṃ. Saddānaṃtveva - pe - gandhānaṃtveva...
rasānaṃtveva... phoṭṭhabbānaṃtveva... dhammānaṃtveva aniccataṃ viditvā vipariṇāmavirāganirodhaṃ,
'pubbe ceva dhammā etarahi ca sabbe te dhammā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammāti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā
anuttaresu vimokkhesu pihaṃ upaṭṭhāpeti : 'kudāssu nāmāhaṃ tadāyatanaṃ
upasampajja viharissāmi yadariyā etarahi āyatanaṃ upasampajja viharantīti iti
anuttaresu vimokkhesu pihaṃ upaṭṭhāpayato uppajjati pihapaccayā domanassaṃ. Yaṃ
evarūpaṃ domanassaṃ idaṃ vuccati nekkhammasitaṃ domanassaṃ. Imāni cha
nekkhammasitāni domanassāni.
308. ''Tattha katamā cha gehasitā upekkhā? cakkhunā rūpaṃ disvā uppajjati
upekkhā bālassa mūḷhassa ( ) [(mandassa) (ka.)] puthujjanassa anodhijinassa
avipākajinassa anādīnavadassāvino assutavato puthujjanassa. Yā evarūpā upekkhā,
rūpaṃ sā nātivattati. Tasmā sā [sāyaṃ (ka.)] upekkhā 'gehasitāti vuccati. Sotena saddaṃ sutvā... ghānena
gandhaṃ ghāyitvā... jivhāya rasaṃ sāyitvā... kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā...
manasā dhammaṃ viññāya uppajjati upekkhā bālassa mūḷhassa puthujjanassa
anodhijinassa avipākajinassa anādīnavadassāvino assutavato puthujjanassa. Yā
evarūpā upekkhā, dhammaṃ sā nātivattati. Tasmā sā upekkhā 'gehasitāti vuccati.
Imā cha gehasitā upekkhā. ''Tattha katamā cha nekkhammasitā upekkhā? rūpānaṃtveva
aniccataṃ viditvā vipariṇāmavirāganirodhaṃ, 'pubbe ceva rūpā etarahi ca sabbe
te rūpā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammāti
evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passato uppajjati upekkhā. Yā evarūpā
upekkhā, rūpaṃ sā ativattati. Tasmā sā upekkhā 'nekkhammasitāti vuccati.
Saddānaṃtveva... gandhānaṃtveva... rasānaṃtveva... phoṭṭhabbānaṃtveva...
dhammānaṃtveva aniccataṃ viditvā vipariṇāmavirāganirodhaṃ, 'pubbe ceva dhammā
etarahi ca sabbe te dhammā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammāti evametaṃ yathābhūtaṃ
sammappaññāya passato uppajjati upekkhā. Yā evarūpā upekkhā, dhammaṃ sā
ativattati. Tasmā sā upekkhā 'nekkhammasitāti vuccati. Imā cha nekkhammasitā
upekkhā. 'Chattiṃsa sattapadā veditabbāti : iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca
vuttaṃ.
309. ''Tatra idaṃ nissāya idaṃ
pajahathāti : iti kho panetaṃ vuttaṃ kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ? tatra, bhikkhave,
yāni cha nekkhammasitāni somanassāni tāni nissāya tāni āgamma yāni cha
gehasitāni somanassāni tāni pajahatha, tāni samatikkamatha. Evametesaṃ pahānaṃ
hoti, evametesaṃ samatikkamo hoti. ''Tatra, bhikkhave, yāni cha nekkhammasitāni
domanassāni tāni nissāya tāni āgamma yāni cha gehasitāni domanassāni tāni
pajahatha, tāni samatikkamatha. Evametesaṃ pahānaṃ hoti, evametesaṃ samatikkamo
hoti. ''Tatra, bhikkhave, yā cha nekkhammasitā upekkhā tā nissāya tā āgamma yā
cha gehasitā upekkhā tā pajahatha, tā
samatikkamatha. Evametāsaṃ pahānaṃ hoti, evametāsaṃ samatikkamo hoti. ''Tatra,
bhikkhave, yāni cha nekkhammasitāni somanassāni tāni nissāya tāni āgamma yāni
cha nekkhammasitāni domanassāni tāni pajahatha, tāni samatikkamatha. Evametesaṃ
pahānaṃ hoti, evametesaṃ samatikkamo hoti. ''Tatra, bhikkhave, yā cha
nekkhammasitā upekkhā tā nissāya tā āgamma yāni cha nekkhammasitāni somanassāni
tāni pajahatha, tāni samatikkamatha. Evametesaṃ pahānaṃ hoti, evametesaṃ
samatikkamo hoti.
310. ''Atthi , bhikkhave, upekkhā nānattā nānattasitā, atthi upekkhā ekattā
ekattasitā. Katamā ca, bhikkhave, upekkhā nānattā nānattasitā? atthi,
bhikkhave, upekkhā rūpesu, atthi saddesu , atthi gandhesu, atthi rasesu, atthi
phoṭṭhabbesu : ayaṃ, bhikkhave, upekkhā nānattā nānattasitā. Katamā ca,
bhikkhave, upekkhā ekattā ekattasitā? atthi, bhikkhave, upekkhā
ākāsānañcāyatananissitā, atthi viññāṇañcāyatananissitā, atthi
ākiñcaññāyatananissitā, atthi nevasaññānāsaññāyatananissitā : ayaṃ, bhikkhave,
upekkhā ekattā ekattasitā. ''Tatra, bhikkhave, yāyaṃ upekkhā ekattā ekattasitā
taṃ nissāya taṃ āgamma yāyaṃ upekkhā nānattā nānattasitā taṃ pajahatha, taṃ
samatikkamatha. Evametissā pahānaṃ hoti, evametissā samatikkamo hoti.
''Atammayataṃ, bhikkhave, nissāya atammayataṃ āgamma yāyaṃ upekkhā ekattā
ekattasitā taṃ pajahatha, taṃ samatikkamatha. Evametissā pahānaṃ hoti,
evametissā samatikkamo hoti. 'Tatra idaṃ
nissāya idaṃ pajahathāti : iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
311. '''Tayo satipaṭṭhānā yadariyo
sevati, yadariyo sevamāno satthā gaṇamanusāsitumarahatīti : iti kho panetaṃ
vuttaṃ kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ? idha, bhikkhave, satthā sāvakānaṃ dhammaṃ
deseti anukampako hitesī anukampaṃ upādāya : 'idaṃ vo hitāya, idaṃ vo
sukhāyāti. Tassa sāvakā na sussūsanti, na sotaṃ odahanti, na aññā cittaṃ upaṭṭhapenti
, vokkamma ca satthusāsanā vattanti. Tatra, bhikkhave, tathāgato na ceva
anattamano hoti, na ca anattamanataṃ paṭisaṃvedeti, anavassuto ca viharati sato
sampajāno. Idaṃ, bhikkhave, paṭhamaṃ satipaṭṭhānaṃ yadariyo sevati, yadariyo
sevamāno satthā gaṇamanusāsitumarahati. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, satthā
sāvakānaṃ dhammaṃ deseti anukampako hitesī anukampaṃ upādāya : 'idaṃ vo hitāya,
idaṃ vo sukhāyāti. Tassa ekacce sāvakā na sussūsanti, na sotaṃ odahanti, na
aññā cittaṃ upaṭṭhapenti, vokkamma ca satthusāsanā vattanti ekacce sāvakā
sussūsanti, sotaṃ odahanti, aññā cittaṃ upaṭṭhapenti, na ca vokkamma
satthusāsanā vattanti . Tatra, bhikkhave, tathāgato na ceva anattamano hoti, na
ca anattamanataṃ paṭisaṃvedeti na ca attamano hoti, na ca attamanataṃ paṭisaṃvedeti.
Anattamanatā ca attamanatā ca : tadubhayaṃ abhinivajjetvā upekkhako viharati
sato sampajāno. Idaṃ vuccati, bhikkhave, dutiyaṃ satipaṭṭhānaṃ yadariyo sevati,
yadariyo sevamāno satthā gaṇamanusāsitumarahati. ''Puna caparaṃ, bhikkhave,
satthā sāvakānaṃ dhammaṃ deseti anukampako hitesī anukampaṃ upādāya : 'idaṃ vo
hitāya, idaṃ vo sukhāyāti. Tassa sāvakā sussūsanti, sotaṃ odahanti, aññācittaṃ upaṭṭhapenti, na ca vokkamma satthusāsanā
vattanti. Tatra, bhikkhave, tathāgato attamano ceva hoti, attamanatañca paṭisaṃvedeti,
anavassuto ca viharati sato sampajāno. Idaṃ vuccati, bhikkhave, tatiyaṃ satipaṭṭhānaṃ
yadariyo sevati, yadariyo sevamāno satthā gaṇamanusāsitumarahati. 'Tayo satipaṭṭhānā yadariyo sevati, yadariyo
sevamāno satthā gaṇamanusāsitumarahatīti : iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca
vuttaṃ.
312. '''So vuccati yoggācariyānaṃ anuttaro purisadammasārathīti : iti kho
panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?
hatthidamakena, bhikkhave, hatthidammo sārito ekaṃyeva disaṃ dhāvati :
puratthimaṃ vā pacchimaṃ vā uttaraṃ vā dakkhiṇaṃ vā. Assadamakena, bhikkhave,
assadammo sārito ekaññeva disaṃ dhāvati : puratthimaṃ vā pacchimaṃ vā uttaraṃ
vā dakkhiṇaṃ vā. Godamakena, bhikkhave, godammo sārito ekaṃyeva disaṃ dhāvati :
puratthimaṃ vā pacchimaṃ vā uttaraṃ vā dakkhiṇaṃ vā. Tathāgatena hi, bhikkhave,
arahatā sammāsambuddhena purisadammo sārito aṭṭha disā vidhāvati. Rūpī rūpāni
passati : ayaṃ ekā disā ajjhattaṃ arūpasaññī bahiddhā rūpāni passati : ayaṃ
dutiyā disā subhantveva adhimutto hoti : ayaṃ tatiyā disā sabbaso rūpasaññānaṃ
samatikkamā paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā nānattasaññānaṃ amanasikārā 'ananto
ākāsoti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja
viharati : ayaṃ catutthī disā sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma 'anantaṃ
viññāṇanti viññāṇañcāyatanaṃ upasampajja viharati : ayaṃ pañcamī disā sabbaso
viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma 'natthi kiñcīti ākiñcaññāyatanaṃ
upasampajja viharati : ayaṃ chaṭṭhī disā
sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma nevasaññānāsaññāyatanaṃ upasampajja
viharati : ayaṃ sattamī disā sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma
saññāvedayitanirodhaṃ upasampajja viharati : ayaṃ aṭṭhamī disā. Tathāgatena,
bhikkhave, arahatā sammāsambuddhena purisadammo sārito imā aṭṭha disā
vidhāvati. 'So vuccati yoggācariyānaṃ anuttaro purisadammasārathīti : iti yaṃ
taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttanti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te
bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Saḷāyatanavibhaṅgasuttaṃ niṭṭhitaṃ sattamaṃ.
-ooOoo-
137. Saḷāyatanavibhaṅgasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
304. Evaṃ me
sutanti saḷāyatanavibhaṅgasuttaṃ. Tattha veditabbānīti
sahavipassanena maggena jānitabbāni. Manopavicārāti vitakkavicārā.
Vitakkuppādakañhi mano idha manoti adhippetaṃ, manassa upavicārāti
manopavicārā. Sattapadāti vaṭṭavivaṭṭanissitānaṃ sattānaṃ padā. Ettha hi
aṭṭhārasa vaṭṭapadā nāma, aṭṭhārasa vivaṭṭapadā nāma, tepi sahavipassanena
maggeneva veditabbā. Yoggācariyānanti hatthiyoggādiācārasikkhāpakānaṃ,
dametabbadamakānanti attho. Sesaṃ vibhaṅgeyeva āvibhavissati. Ayamuddesoti
idaṃ mātikāṭṭhapanaṃ.
305. Cakkhāyatanādīni
visuddhimagge vitthāritāni. Cakkhuviññāṇanti kusalākusalavipākato dve
cakkhuviññāṇāni. Sesapasādaviññāṇesupi eseva nayo. Imāni pana dasa ṭhapetvā
sesaṃ idha manoviññāṇaṃ nāma.
Cakkhusamphassoti cakkhumhi
samphasso. Cakkhuviññāṇasampayuttasamphassassetaṃ adhivacanaṃ. Sesesupi eseva
nayo.
Cakkhunā rūpaṃ disvāti
cakkhuviññāṇena rūpaṃ disvā. Eseva nayo sabbattha. Somanassaṭṭhāniyanti
somanassassa ārammaṇavasena kāraṇabhūtaṃ. Upavicaratīti tattha
vicārapavattanena upavicarati, vitakko taṃsampayutto cāti iminā nayena aṭṭhārasa
vitakkavicārasaṅkhātā manopavicārā veditabbā. Cha somanassūpavicārāti
ettha pana somanassena saddhiṃ upavicarantīti somanassūpavicārā.
Sesapadadvayepi eseva nayo.
306. Gehasitānīti
kāmaguṇanissitāni. Nekkhammasitānīti vipassanānissitāni. Iṭṭhānanti
pariyesitānaṃ. Kantānanti kāmitānaṃ. Manoramānanti mano etesu
ramatīti manoramāni, tesaṃ manoramānaṃ. Lokāmisapaṭisaṃyuttānanti taṇhāpaṭisaṃyuttānaṃ.
Atītanti paṭiladdhaṃ. Paccuppannaṃ tāva ārabbha somanassaṃ uppajjatu,
atīte kathaṃ uppajjatīti. Atītepi – ‘‘yathāhaṃ etarahi iṭṭhārammaṇaṃ
anubhavāmi, evaṃ pubbepi anubhavi’’nti anussarantassa balavasomanassaṃ
uppajjati.
Aniccatanti aniccākāraṃ.
Vipariṇāmavirāganirodhanti pakativijahanena vipariṇāmaṃ, vigacchanena
virāgaṃ, nirujjhanena nirodhaṃ. Sammapaññāyāti vipassanāpaññāya. Idaṃ
vuccati nekkhammasitaṃ somanassanti idaṃ rañño viya attano sirisampattiṃ
olokentassa vipassanaṃ paṭṭhapetvā nisinnassa saṅkhārānaṃ bhedaṃ passato saṅkhāragatamhi
tikkhe sūre vipassanāñāṇe vahante uppannasomanassaṃ ‘‘nekkhammasitaṃ
somanassa’’nti vuccati. Vuttampi cetaṃ –
‘‘Suññāgāraṃ paviṭṭhassa, santacittassa bhikkhuno;
Amānusī ratī hoti, sammā dhammaṃ vipassato.
Yato yato sammasati, khandhānaṃ udayabbayaṃ;
Labhatī pītipāmojjaṃ, amatantaṃ vijānata’’nti. (dha.
pa. 373-374);
Imānīti imāni chasu
dvāresu iṭṭhārammaṇe āpāthagate aniccādivasena vipassanaṃ paṭṭhapetvā
nisinnassa uppannāni cha nekkhammasitāni somanassāni.
307. Atītanti
paccuppannaṃ tāva patthetvā alabhantassa domanassaṃ uppajjatu, atīte kathaṃ
uppajjatīti. Atītepi ‘‘yathāhaṃ etarahi iṭṭhārammaṇaṃ patthetvā na labhāmi, evaṃ
pubbepi patthetvā na labhi’’nti anussarantassa balavadomanassaṃ uppajjati.
Anuttaresu vimokkhesūti anuttaravimokkho nāma arahattaṃ, arahatte patthanaṃ paṭṭhapentassāti
attho. Āyatananti arahattāyatanaṃ. Pihaṃ upaṭṭhāpayatoti patthanaṃ
paṭṭhapentassa. Taṃ panetaṃ patthanaṃ paṭṭhapentassa uppajjati, iti
patthanāmūlakattā ‘‘pihaṃ upaṭṭhāpayato’’ti vuttaṃ. Imāni cha
nekkhammasitāni domanassānīti imāni evaṃ chasu dvāresu iṭṭhārammaṇe
āpāthagate arahatte pihaṃ paṭṭhapetvā tadadhigamāya aniccādivasena vipassanaṃ
upaṭṭhapetvā ussukkāpetuṃ asakkontassa – ‘‘imampi pakkhaṃ imampi māsaṃ imampi
saṃvaccharaṃ arahattaṃ pāpuṇituṃ nāsakkhi’’nti anusocato
gāmantapabbhāravāsimahāsīvattherassa viya assudhārāpavattanavasena
uppannadomanassāni cha nekkhammasitadomanassānīti veditabbāni. Vatthu pana sumaṅgalavilāsiniyā
dīghanikāyaṭṭhakathāya sakkapañhavaṇṇanāyaṃ (dī. ni. aṭṭha. 2.361)
vitthāritaṃ, icchantena tato gahetabbaṃ.
308. Uppajjati
upekkhāti ettha upekkhā nāma aññāṇupekhā. Anodhijinassāti kilesodhiṃ
jinitvā ṭhitattā khīṇāsavo odhijino nāma, tasmā akhīṇāsavassāti attho. Avipākajinassāti
etthapi āyatiṃ vipākaṃ jinitvā ṭhitattā khīṇāsavova vipākajino nāma, tasmā akhīṇāsavassevāti
attho. Anādīnavadassāvinotiādīnavato upaddavato apassantassa. Imā cha
gehasitā upekkhāti imā evaṃ chasu dvāresu iṭṭhārammaṇe āpāthagate guḷapiṇḍake
nilīnamakkhikā viya rūpādīni anativattamānā tattha laggā laggitā hutvā uppannā
upekkhā cha gehasitā upekkhāti veditabbā.
Rūpaṃ sā ativattatīti rūpaṃ
sā anatikkamati, tattha nikantivasena na tiṭṭhati. Imā cha nekkhammasitā
upekkhāti imā evaṃ chasu dvāresu iṭṭhādiārammaṇe āpāthagate iṭṭhe
arajjantassa, aniṭṭhe adussantassa, asamapekkhane asammuyhantassa, uppannavipassanā-ñāṇasampayuttā
cha nekkhammasitā upekkhāti veditabbā.
309. Tatra idaṃ
nissāya idaṃ pajahathāti tesu chattiṃsasattapadesu aṭṭhārasa nissāya aṭṭhārasa
pajahathāti attho. Teneva – ‘‘tatra, bhikkhave, yāni cha
nekkhammasitānī’’tiādimāha. Nissāya āgammāti pavattanavasena nissāya
ceva āgamma ca. Evametesaṃ samatikkamo hotīti evaṃ
nekkhammasitānaṃ pavattanena gehasitāni atikkantāni nāma honti.
Evaṃ sarikkhakeneva sarikkhakaṃ jahāpetvā idāni
balavatā dubbalaṃ jahāpento – ‘‘tatra, bhikkhave, yāni cha nekkhammasitāni
somanassānī’’tiādimāha. Evaṃ nekkhammasitasomanassehi nekkhammasitadomanassāni,
nekkhammasitaupekkhāhi ca nekkhammasitasomanassāni jahāpentena balavatā
dubbalappahānaṃ kathitaṃ.
Ettha pana ṭhatvā upekkhākathā veditabbā – aṭṭhasu hi
samāpattīsu paṭhamādīni ca tīṇi jhānāni, suddhasaṅkhāre ca pādake katvā
vipassanaṃ āraddhānaṃ catunnaṃ bhikkhūnaṃ pubbabhāgavipassanā somanassasahagatā
vā hoti upekkhāsahagatā vā, vuṭṭhānagāminī pana somanassasahagatāva.
Catutthajjhānādīni pādakāni katvā vipassanaṃ āraddhānaṃ pañcannaṃ
pubbabhāgavipassanā purimasadisāva. Vuṭṭhānagāminī pana upekkhāsahagatā hoti.
Idaṃ sandhāya – ‘‘yā cha nekkhammasitā upekkhā, tā nissāya tā āgamma, yāni cha
nekkhammasitāni somanassāni, tāni pajahathā’’ti vuttaṃ. Na kevalañca evaṃpaṭipannassa
bhikkhuno ayaṃ vipassanāya vedanāvisesova hoti, ariyamaggepi pana jhānaṅgabojjhaṅgamaggaṅgānampi
viseso hoti.
Ko panetaṃ visesaṃ niyameti? Keci tāva therā
vipassanāpādakajjhānaṃ niyametīti vadanti, keci vipassanāya ārammaṇabhūtā
khandhā niyamentīti vadanti, keci puggalajjhāsayo niyametīti vadanti. Tesampi
vāde ayameva pubbabhāge vuṭṭhānagāminīvipassanā niyametīti veditabbā.
Vinicchayakathā panettha visuddhimagge saṅkhārupekkhāniddese vuttāva.
310. Nānattāti
nānā bahū anekappakārā. Nānattasitāti nānārammaṇanissitā. Ekattāti
ekā. Ekattasitāti ekārammaṇanissitā. Katamā panāyaṃ upekkhāti? Heṭṭhā
tāva aññāṇupekkhā vuttā, upari chaḷaṅgupekkhā vakkhati, idha samathaupekkhā,
vipassanupekkhāti dve upekkhā gahitā.
Tattha yasmā aññāva rūpesu upekkhā, aññāva saddādīsu,
na hi yā rūpe upekkhā, sā saddādīsu hoti. Rūpe upekkhā ca rūpameva ārammaṇaṃ
karoti, na saddādayo. Rūpe upekkhābhāvañca aññā samathaupekkhā pathavīkasiṇaṃ
ārammaṇaṃ katvā uppajjati, aññā āpokasiṇādīni. Tasmā nānattaṃ nānattasitaṃ
vibhajanto atthi, bhikkhave, upekkhā rūpesūtiādimāha. Yasmā pana dve vā
tīṇi vā ākāsānañcāyatanāni vā viññāṇañcāyatanādīni vā natthi, tasmā ekattaṃ
ekattasitaṃ vibhajanto atthi, bhikkhave, upekkhā ākāsānañcāyatananissitātiādimāha.
Tattha ākāsānañcāyatanaupekkhā sampayuttavasena
ākāsānañcāyatananissitā, ākāsānañcāyatanakhandhe vipassantassa vipassanupekkhā
ārammaṇavasena ākāsānañcāyatananissitā. Sesāsupi eseva nayo.
Taṃ pajahathāti ettha
arūpāvacarasamāpattiupekkhāya rūpāvacarasamāpattiupekkhaṃ pajahāpeti,
arūpāvacaravipassanupekkhāya rūpāvacaravipassanupekkhaṃ.
Atammayatanti ettha
tammayatā nāma taṇhā, tassā pariyādānato vuṭṭhānagāminīvipassanā atammayatāti
vuccati. Taṃ pajahathāti idha vuṭṭhānagāminīvipassanāya
arūpāvacarasamāpattiupekkhañca vipassanupekkhañca pajahāpeti.
311. Yadariyoti
ye satipaṭṭhāne ariyo sammāsambuddho sevati. Tattha tīsu ṭhānesu satiṃ paṭṭhapento
satipaṭṭhāne sevatīti veditabbo. Na sussūsantīti saddahitvā sotuṃ na
icchanti. Na aññāti jānanatthāya cittaṃ na upaṭṭhapenti. Vokkammāti
atikkamitvā. Satthu sāsanāti satthu ovādaṃ gahetabbaṃ pūretabbaṃ na
maññantīti attho. Na ca attamanoti na sakamano. Ettha ca
gehasitadomanassavasena appatīto hotīti na evamattho daṭṭhabbo, appaṭipannakesu
pana attamanatākāraṇassa abhāvenetaṃ vuttaṃ. Anavassutoti paṭighaavassavena
anavassuto. Sato sampajānoti satiyā ca ñāṇena ca samannāgato. Upekkhakoti
chaḷaṅgupekkhāya upekkhako. Attamanoti idhāpi gehasitasomanassavasena
uppilāvitoti na evamattho daṭṭhabbo, paṭipannakesu pana anattamanatākāraṇassa
abhāvenetaṃ vuttaṃ. Anavassutoti rāgāvassavena anavassuto.
312. Sāritoti
damito. Ekameva disaṃ dhāvatīti anivattitvā dhāvanto ekaṃyeva disaṃ
dhāvati, nivattitvā pana aparaṃ dhāvituṃ sakkoti. Aṭṭha disā
vidhāvatīti ekapallaṅkena nisinno kāyena anivattitvāva vimokkhavasena ekappahāreneva
aṭṭha disā vidhāvati, puratthābhimukho vā dakkhiṇādīsu aññataradisābhimukho vā
nisīditvā aṭṭha samāpattiyo samāpajjatiyevāti attho. Sesaṃ sabbattha
uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Saḷāyatanavibhaṅgasuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Phải chăng mặc dù hầu hết chúng ta có đầy đủ sáu giác quan nhưng mỗi người có khuynh hướng thiên nặng về giác quan nào đó? - TT Pháp Đăng
Thảo luận 2. Phật pháp dạy phân biệt nội xứ và ngoại xứ. Xin phân biệt một người thiên nặng về thiệt căn và một người dính mắc cảnh vị? - TT Pháp Tân
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment