Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 16/5/2020
124. Kinh Bạc-Câu-La
(Bakkula Sutta)
Bakkula có nghĩa là “hai gia
đình” nên cũng có thể gọi kinh nầy là “Kinh Nhị Gia Tôn Giả” vì đề cập đến một
vị trưởng lão đệ tử Phật khi còn ấu nhi được cứu từ bụng cá. Gia đình cha mẹ ruột
đồng ý để người cứu con mình nuôi dưỡng đứa con bị nạn nên Ngài lớn lên trong sự
quan tâm thương yêu cả hai bên. Cả hai gia đình đều là quý tộc giàu có. Những điều
kỳ lạ về vị nầy không phải chỉ có vậy. Ngài sống đời cư sĩ tám mươi năm với sức
khoẻ khang kiện trọng bối cảnh sung túc. Rồi đi xuất gia theo Phật làm tỳ kheo
tám mươi năm nữa. Đức Phật xác chứng Ngài là bậc thinh văn đệ nhất về khang kiện
thể lực. Sống lâu đến mức mà câu chuyện về đời vị tôn giả, bài kinh nầy, được
ghi rõ là đưa vào Tam Tạng vào lần Trùng Tuyên Giáo Điển lần II tại Vesali. Ngoài
thân thế đặc biệt, Ngài có có những điểm được ghi nhận là “vô cùng hiếm có” của
một vị thánh đệ tử Phật. Những điều nầy không nhất thiết là mẫu mực tiêu biểu của
một tỳ kheo nhưng lại là những điều hãn hữu. Bài kinh nầy cũng đặc biệt hơn các
bài kinh khác là có những chú thích trực tiếp của chư vị a xà lê kết tập được
ghi thẳng vào chánh văn.
1013. Một cuộc đời với nhiều chuyện hy hữu
Như vầy tôi nghe:
Một thời Tôn giả
Bakkula trú ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi
dưỡng các loài sóc (kalandakanivapa).
Rồi lõa thể
Kassapa, một người bạn trước kia của Tôn giả Bakkula khi còn là cư
sĩ, đi đến Tôn giả Bakkula, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Bakkula
những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, lõa thể
Kassapa nói với Tôn giả Bakkula:
-- Này Hiền giả
Bakkula, Bạn xuất gia đã bao lâu?
-- Ðã được tám
mươi năm, này Hiền giả, từ khi tôi xuất gia.
-- Hiền giả
Bakkula, trong tám mươi năm ấy, đã bao nhiêu lần, Hiền giả hành dâm
dục?
-- Hiền giả
Kassapa, chớ có hỏi tôi như vậy: "Hiền giả Kassapa, trong tám mươi
năm ấy, đã bao nhiều lần Hiền giả hành dâm dục!" Hiền giả
Kassapa, hãy hỏi tôi như sau: "Hiền giả Bakkula, trong tám mươi năm
ấy, đã bao nhiêu lần Hiền giả khởi lên dục tưởng?"
-- Hiền giả
Bakkula, trong tám mươi năm ấy, đã bao nhiêu lần, Hiền giả khởi lên
dục tưởng?
-- Hiền giả
Kassapa, trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không bao giờ nhận
thấy, có dục tưởng khởi lên.
-- (Vì rằng Tôn giả Bakkula trong
tám mươi năm không nhận thấy có dục tưởng khởi lên, chúng tôi thọ trì
sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của Tôn giả Bakkula).
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không bao giờ nhận thấy có
sân tưởng, có hại tưởng khởi lên.
-- (Vì rằng Tôn giả Bakkula trong
tám mươi năm không nhận thấy có sân tưởng, có hại tưởng khởi lên,
chúng tôi thọ trì sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của Tôn
giả Bakkula).
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy dục tầm
nào khởi lên. -- Vì rằng Tôn giả... một vị tằng hữu của Tôn giả
Bakkula.
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thây sân tầm,
hại tầm, nào khởi lên.
-- (Vì rằng Tôn giả... một vị
tằng hữu của Tôn giả Bakkula).
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có thâu nhận
y của cư sĩ. -- Vì rằng Tôn giả... một vị tằng hữu
của Tôn giả Bakkula.
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có cắt y
với con dao.
-- (Vì rằng Tôn giả... một vị
tằng hữu của Tôn giả Bakkula).
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có may y
với cây kim. -- Vì rằng Tôn giả... một vị tằng hữu
của Tôn giả Bakkula.
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm trừ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có nhuộm y
với thuốc nhuộm
-- (Vì rằng Tôn giả... một vị
tằng hữu của Tôn giả Bakkula).
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có may y
kathina.
-- (Vì rằng Tôn giả... một vị
tằng hữu của Tôn giả Bakkula).
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có may y cho
các vị đồng Phạm hạnh... có nhận lời mời ăn... có khởi lên tâm như
sau: "Mong rằng có người mời tôi ăn".
-- (Vì rằng Tôn giả... một vị tằng
hữu của Tôn giả Bakkula).
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có ngồi
trong nhà.. có ngồi ăn trong nhà... có ghi nhận chi tiết các tướng đặc
biệt của nữ nhân... có thuyết pháp cho nữ nhân cho đến câu kệ bốn
câu... có đi đến trú phòng Tỷ-kheo-ni... có thuyết pháp cho Tỷ-kheo-ni....
Tôi không nhận thấy có thuyết pháp cho học pháp nữ... Tôi không nhận
thấy có thuyết pháp cho Sa-di-ni.
-- (Vì rằng Tôn giả Bakkula trong tám
mươi năm không nhận thấy có thuyết pháp cho Sa-di-ni, chúng tôi thọ trì
sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của Tôn giả Bakkula).
-- Này Hiền giả,
trong tám mươi năm từ khi tôi xuất gia, tôi không bao giờ nhận thấy có
xuất gia (cho ai).. có thọ đại giới (cho ai).. có nhận làm y chỉ (cho
ai)... tôi không bao giờ nhận thấy có Sa-di hầu hạ... có tắm trong nhà
tắm... có tắm thoa bột Cunna.. có nhờ đồng Phạm hạnh xoa bóp chân tay..
tôi không bao giờ nhận thấy có bệnh khởi lên, dầu cho một chốc lát.. có
mang theo y dược cho đến một miếng nhỏ từ cây a-li-lặc vàng (harītakīkhaṇḍa)... nằm dựa vào tấm
gỗ dựa... nằm dài xuống ngủ... đi an cư mùa mưa tại trú xứ gần làng.
-- (Vì rằng Tôn giả Bakkula, trong
tám mươi năm không nhận thấy có đi an cư mùa mưa tại trú xứ gần làng,
chúng tôi thọ trì sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của Tôn
giả Bakkula).
-- Vừa đúng trong
bảy ngày, này Hiền giả, còn uế nhiễm, tôi đã ăn đồ ăn của nội địa,
rồi đến ngày thứ tám, chánh trí khởi lên.
-- (Vì rằng Tôn giả Bakkula vừa
đúng trong bảy ngày, còn uế nhiễm, đã ăn đồ ăn của nội địa, rồi đến
ngày thứ tám chánh trí khởi lên, chúng tôi thọ trì sự việc này là một hy
hữu, một vị tằng hữu của Tôn giả Bakkula. Thưa Hiền giả Bakkula, hãy
cho tôi xuất gia trong pháp luật này, hãy cho tôi thọ đại giới).
Rồi lõa thể Kassapa
được xuất gia trong pháp và luật này, được thọ đại giới. Thọ đại
giới không bao lâu, Tôn giả Kassapa, an trú độc cư, viễn ly, không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu với thượng trí tự mình chứng ngộ,
chứng đắc và an trú ngay trong hiện tại vô thượng cứu cánh Phạm hạnh
mà vì mục đích ấy các Thiện nam tử chân chánh xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình hướng đến. Vị ấy biết "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những gì cần làm sẽ làm, không còn trở lại trạng thái này
nữa". Và Tôn giả Kassapa trở thành một A-la-hán nữa.
Rồi Tôn giả
Bakkula, sau một thời gian, cầm chìa khóa, đi từ trú xứ này đến trú xứ
khác và nói như sau:
-- Chư Tôn giả hãy
đi ra! Chư Tôn giả hãy đi ra! Hôm nay tôi sẽ nhập Niết-bàn.
-- (Vì rằng Tôn giả Bakkula cầm
chìa khóa, đi từ trú xứ này đến trú xứ khác và nói như sau: "Chư Tôn
giả hãy đi ra! Chư Tôn giả hãy đi ra! Hôm nay tôi sẽ nhập Niết-bàn";
chúng tôi thọ trì sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của Tôn
giả Bakkula).
Rồi Tôn giả Bakkula
ngồi giữa chúng Tỷ-kheo nhập Niết-bàn.
-- (Vì rằng Tôn giả Bakkula ngồi
giữa chúng Tỷ-kheo nhập Niết-bàn, chúng tôi thọ trì sự việc này là một
hy hữu, một vị tằng hữu của Tôn giả Bakkula).
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 124 [tóm tắt]
Kinh Bạc-Câu-La
(Bakkula Sutta)
(M.iii, 124)
Kinh này đề cập
mười lăm điều hy hữu của Tôn giả Bạc-câu-la, do những vị kết tập kinh
điển ghi nhận từ cuộc đối thoại giữa Tôn giả Bakkula và Loã thể
Kassapa.
1.
Trong 80 năm xuất gia, Tôn giả Bakkula không bao
giờ khởi lên dục tưởng.
2.
Không bao giờ khởi lên sân tưởng, hại tưởng. 3.
Không bao giờ khởi dục tầm.
3.
Không bao
giờ khởi lên sân tầm, hại tầm.
4.
Không bao
giờ thâu nhận y của cư sĩ cúng.
5.
Không bao
giờ cắt y với con dao.
6.
Không may
với kim.
7.
Không nhuộm y với thuốc nhuộm.
8.
Không may y Kathina.
9.
Không may y cho các vị đồng Phạm hạnh, không nhận
lời mời ăn, không khởi tâm mong mỏi được mời.
10.
Không bao giờ ngồi ăn trong nhà, không chú ý các
chi tiết về phụ nữ, không thuyết pháp cho phụ nữ, hay đến chỗ ở
Tỷ-kheo-ni, thuyết pháp cho Tỷ-kheo-ni, cho chánh học nữ, sa-di-ni.
11.
Không bao giờ xuất gia, thọ đại giới, nhận làm y
chỉ cho ai. Không bao giờ có sa di hầu hạ, không tắm trong nhà tắm,
thoa bột cunna, nhờ bạn thoa bóp, không bao giờ có bệnh, không
mang theo y dược, không bao giờ nằm dựa vào tấm gỗ dựa hay nằm dài
xuống ngủ, không an cư gần làng mạc.
12.
Trong bảy ngày còn uế nhiễm, ăn đồ tín thí, đến
ngày thứ 8, vị ấy đạt chánh trí.
13.
Khi nghe mươi ba điều vị tằng hữu này, Lõa thể
Kassapa xin được xuất gia thọ đại giới, và không bao lâu trở thành
một vị A-la-hán.
14.
Sau một thời gian, Tôn giả Bakkula cầm chìa khóa
đi từ chỗ này tới chỗ khác báo tin Tôn giả sắp nhập diệt.
15.
Rồi Tôn giả ngồi giữa chúng Tỷ-kheo, nhập định
hỏa giới (tepodhātu) mà nhập
16.
Niết-bàn, lửa phát ra tự thiêu thân Tôn giả.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 124
[dàn ý]
Kinh
Bạc-Câu-La
(Bakkula
Sutta)
(M.iii, 124)
A. Duyên khởi:
Lõa thể Kassapa đi đến
gặp Tôn giả Bakkula và cuộc nói chuyện này khởi lên.
B. Chánh kinh:
Mười bốn pháp vị tằng
hữu của Tôn giả Bakkula:
1. Trong 80 năm Tôn giả không khởi
lên dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, dục tầm, sân tầm, hại tầm (1-4).
2. Trong 80 năm từ khi xuất gia, Tôn
giả không có nhận y và làm một sự việc gì liên hệ đến y (5-9).
3. Trong 80 năm từ khi xuất gia, Tôn
giả không có nhận lời ngồi ăn, ở trong nhà (10-11), ghi nhận các tướng đặc biệt
của nữ nhân, thuyết pháp cho nữ nhân, đi đến thuyết pháp cho Tỷ-kheo-ni, chánh
học nữ, sa-di nữ (11-12).
4. Trong 80 năm từ khi xuất gia Tôn
giả không có xuất gia thọ đại giới làm y chỉ cho ai, không có sa-di hầu hạ,
không có bệnh và không mang theo y dược, không nằm dựa tấm ván, không nằm dài
xuống ngủ, không an cư mùa mưa gần làng.
5. Tôn giả trong 7 ngày, 6 ngày đầu
còn uế nhiễm, ngày thứ 7 chứng quả A-la-hán.
C. Kết luận:
Lõa thể Kassapa xin
xuất gia, được thọ đại giới và không bao lâu chứng quả.
Tôn giả Bakkula nhập
diệt, ngồi giữa chúng nhập Niết-bàn.
(Bakkula được Đức Phật
xem là 1 vị đệ tử có sức khỏe đệ nhất. Theo bản Sớ giải Trường bộ (DA. ii,413),
Ngài sống đến 160 tuổi. Ngài được xem là vị tu khổ hạnh nhưng không có giảng về
khổ hạnh.
Sanh trong gia đình vị
cố vấn ở Kosambỵ, khi tắm bị rơi xuống sông Galluna, bị con cá nuốt nhưng không
chết. Con cá bị một người đánh cá bắt được, bán cho người vợ ông cố vấn ở
Ba-la-nại, khi mổ bụng cá ra Ngài vẫn còn sống. Sau vua cho phép cả hai gia
đình xem Bakkula là con của mình. Do vậy có tên là Bakkula. Có thuyết cho
Bakkula xuất gia lúc 80 tuổi và sau 8 ngày thì chứng quả).
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 124
[toát yếu]
KINH
BẠC-CÂU-LA
(Bakkula
Sutta)
(M.iii, 124)
I. Toát yếu
The elder disciple
Bakkula enumerates his austere practices during his eighty years in the Sangha
and exhibits a remarkable death.
Tôn giả Bạc câu
la kể ra những khổ hạnh của Ngài suốt 80 năm sống giữa tăng và
hiển bày một cái chết đặc biệt.
II. Tóm tắt
Acela Kassapa bạn
cũ của tôn giả Bakkula lúc còn tại gia, đến thăm Ngài và cuộc vấn
đáp xảy ra. Theo sự trả lời của tôn giả, người bạn xác nhận Ngài
có những điều kỳ diệu như sau. Một là trong tám mươi năm xuất gia [1],
không bao giờ trong tâm Ngài khởi lên dục tưởng, sân tưởng và hại
tưởng. Hai là không nhận hoặc cắt may y phục trong thời may y
Ca-thi-na (Kathina) [2]. Ba không nhận lời mời ăn, cũng không ngồi ăn
dưới một mái nhà. Bốn, không bao giờ để ý tướng chung hay tướng
riêng của một phụ nữ, hoặc giảng pháp cho họ dù chỉ bốn câu, hoặc
đi đến khu vực của ni chúng, hoặc giảng pháp cho ni hay nữ cư sĩ.
Năm là Ngài không từng truyền giới cho ai, là y chỉ sư cho ai, để ai
hầu hạ. Sáu, Ngài không bao giờ tắm trong nhà tắm với bột tắm (xà
phòng), không để ai chà xát thân thể, không bao giờ ốm đau dùng
thuốc, không nằm giường, không an cư mùa mưa dưới một mái nhà
trong thôn xóm. Bảy là, Ngài chỉ mắc nợ thí chủ trong bảy ngày đầu
sau khi xuất gia, đến ngày thứ tám Ngài được thắng trí [3]. Sau khi
xác nhận đấy là những điều kỳ diệu nơi tôn giả Bakkula, Acela
Kassapa cũng xin xuất gia thọ đại giới [4] và không lâu sau đó ông
cũng chứng quả A-la- hán như Ngài. Ðiều kỳ diệu cuối cùng là tôn
giả Bakkula báo tin trước [5], rồi ngồi kiết già giữa đại chúng mà
nhập Niết-bàn [6].
III.
Chú giải
1. MA:
Tôn giả Bạc câu la đi tu năm tám mươi tuổi, tức vào lúc Phật nói
kinh này thì Ngài đã 160 tuổi. Ngài được Phật xem là đệ tử có sức
khỏe tốt nhất.
2. Ðoạn
này và những đoạn kế tiếp chứng tỏ tôn giả Bạc câu la là người
tu khổ hạnh. Thời may y Ca thi na là thời gian sau mùa an cư khi chúng
tỷ kheo dùng những vải vóc họ đã nhận được để may thành y phục.
3. MA:
Sau khi xuất gia, trong bảy ngày đầu Ngài vẫn còn là người bình
thường, nhưng vào ngày thứ tám Ngài đắc quả A-la-hán cùng với các
trí biện tài.
4. MA:
Vì đang tu khổ hạnh, tôn giả Bạc câu la không truyền giới xuất gia
cho người khác, mà chỉ sắp xếp cho các vị khác truyền giới.
5. MA:
Tôn giả Bạc-câu-la xét rằng suốt đời Ngài đã không làm gánh nặng
cho tỷ kheo khác, và cũng không muốn nhục thân trở thành gánh nặng
sau khi chết, nên đã nhập thiền quán nội hỏa (lửa tam muội) để nhập
Niết-bàn, bằng cách khiến cho toàn thân bốc cháy, chỉ còn lại xá
lợi.
6. MA:
Kinh này được tụng đọc tại kỳ đệ nhị Kết tập xảy ra khoảng một
trăm năm sau Phật Niết-bàn.
IV.
Pháp số
(không
có)
V.
Kệ tụng
‘A-chê-la Ca-diếp
Bạn cũ Bạc-câu-la
Ðến thăm tôn giả này
Bạn cũ Bạc-câu-la
Ðến thăm tôn giả này
Thấy những điều kỳ diệu:
‘Trong vòng tám mươi năm
Không bao giờ trong tâm
Ngài khởi lên dục tưởng,
Sân tưởng và hại tưởng
‘Ngài không nhận y phục
Hoặc cắt may quần áo
Trong thời gian may y.
Không nhận lời mời ăn
Không ngồi ăn trong nhà.
Không bao giờ để ý
Dáng dấp của phụ nữ
Hoặc giảng pháp cho họ
Dù chỉ nói vài câu,
Không bao giờ lai vãng
Các nơi ni cư trú
Hoặc giảng pháp cho ni
Hoặc giảng pháp cho ni
Không truyền giới cho người,
Hoặc làm y chỉ sư
Hoặc để người hầu hạ.
Hoặc để người hầu hạ.
Không tắm trong nhà tắm
Với bột tắm (xà phòng)
Không để ai chà xát
Không bao giờ ốm đau
Nên không từng dùng thuốc
Không bao giờ ốm đau
Nên không từng dùng thuốc
Không nằm ngủ trên giường
Không an cư mùa mưa
Dưới mái nhà thôn xóm.
Ngài chỉ nợ thí chủ
Bảy ngày đầu xuất gia
Bảy ngày đầu xuất gia
Ngày thứ tám đắc quả
Với thắng trí thần thông.
‘Sau khi đã thấy được
Những điều vi diệu ấy
Nơi Ngài Bạc-câu-la
A chê-la Ca-diếp
A chê-la Ca-diếp
Xuất gia thọ đại giới
Không bao lâu chứng quả
Thành vị A-la-hán.
‘Ðiều kỳ diệu cuối cùng
Mọi người được chiêm ngưỡng
Mọi người được chiêm ngưỡng
Tôn giả Bạc-câu-la
Báo trước cho đại chúng
Ngồi kiết già giữa chúng
Báo trước cho đại chúng
Ngồi kiết già giữa chúng
Nhập vô dư Niết-bàn.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
124.
Bākulasuttaṃ [Mūla]
209. Evaṃ me sutaṃ
: ekaṃ samayaṃ āyasmā bākulo [bakkulo (sī. syā. kaṃ. pī.)] rājagahe viharati veḷuvane
kalandakanivāpe. Atha kho acelakassapo āyasmato
bākulassa purāṇagihisahāyo yenāyasmā
bākulo tenupasaṅkami upasaṅkamitvā āyasmatā bākulena saddhiṃ sammodi.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno
kho acelakassapo āyasmantaṃ bākulaṃ etadavoca : ''kīvaciraṃ pabbajitosi, āvuso
bākulāti? ''asīti me, āvuso, vassāni pabbajitassāti. ''Imehi pana te, āvuso
bākula, asītiyā vassehi katikkhattuṃ methuno dhammo paṭisevitoti? ''na kho maṃ,
āvuso kassapa, evaṃ pucchitabbaṃ : 'imehi pana te, āvuso bākula, asītiyā
vassehi katikkhattuṃ methuno dhammo paṭisevitoti. Evañca kho maṃ, āvuso
kassapa, pucchitabbaṃ : 'imehi pana te, āvuso bākula, asītiyā vassehi
katikkhattuṃ kāmasaññā uppannapubbāti? ( ) [(imehi pana te āvuso bakkula
asītiyo vassehi katikkhattuṃ kāmasaññā uppannapubbāti.) (Sī0 pī.)]
210. ''Asīti me, āvuso , vassāni pabbajitassa nābhijānāmi
kāmasaññaṃ uppannapubbaṃ. Yaṃpāyasmā bākulo asītiyā vassehi nābhijānāti
kāmasaññaṃ uppannapubbaṃ idampi mayaṃ āyasmato bākulassa acchariyaṃ
abbhutadhammaṃ dhārema. ''Asīti me, āvuso, vassāni pabbajitassa nābhijānāmi
byāpādasaññaṃ - pe - vihiṃsāsaññaṃ uppannapubbaṃ. Yaṃpāyasmā bākulo asītiyā
vassehi nābhijānāti vihiṃsāsaññaṃ uppannapubbaṃ, idampi mayaṃ āyasmato
bākulassa acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhārema. ''Asīti me, āvuso, vassāni
pabbajitassa nābhijānāmi kāmavitakkaṃ uppannapubbaṃ. Yaṃpāyasmā bākulo asītiyā
vassehi nābhijānāti kāmavitakkaṃ uppannapubbaṃ, idampi mayaṃ āyasmato bākulassa
acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhārema.
''Asīti me,
āvuso, vassāni pabbajitassa nābhijānāmi byāpādavitakkaṃ - pe - vihiṃsāvitakkaṃ
uppannapubbaṃ. Yaṃpāyasmā bākulo asītiyā vassehi nābhijānāti vihiṃsāvitakkaṃ uppannapubbaṃ,
idampi mayaṃ āyasmato bākulassa acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhārema.
211. ''Asīti me,
āvuso, vassāni pabbajitassa nābhijānāmi gahapaticīvaraṃ sāditā. Yaṃpāyasmā
bākulo asītiyā vassehi nābhijānāti gahapaticīvaraṃ sāditā, idampi mayaṃ
āyasmato bākulassa acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhārema. ''Asīti me, āvuso,
vassāni pabbajitassa nābhijānāmi satthena cīvaraṃ chinditā. Yaṃpāyasmā bākulo
asītiyā vassehi nābhijānāti satthena cīvaraṃ chinditā - pe - dhārema.
''Asīti me, āvuso, vassāni pabbajitassa nābhijānāmi
sūciyā cīvaraṃ sibbitā - pe - nābhijānāmi rajanena cīvaraṃ rajitā...
nābhijānāmi kathine [kaṭhine (sī. syā. kaṃ. pī.)] cīvaraṃ sibbitā...
nābhijānāmi sabrahmacārīnaṃ cīvarakamme vicāritā [sabrahmacārī cīvarakamme
byāpāritā (sī. pī.)] ... nābhijānāmi nimantanaṃ sāditā... nābhijānāmi evarūpaṃ
cittaṃ uppannapubbaṃ : 'aho vata maṃ
koci nimanteyyāti... nābhijānāmi antaraghare nisīditā... nābhijānāmi
antaraghare bhuñjitā... nābhijānāmi mātugāmassa anubyañjanaso nimittaṃ
gahetā... nābhijānāmi mātugāmassa dhammaṃ desitā antamaso catuppadampi gāthaṃ...
nābhijānāmi bhikkhunupassayaṃ upasaṅkamitā... nābhijānāmi bhikkhuniyā dhammaṃ
desitā... nābhijānāmi sikkhamānāya dhammaṃ desitā... nābhijānāmi sāmaṇeriyā
dhammaṃ desitā... nābhijānāmi pabbājetā... nābhijānāmi upasampādetā...
nābhijānāmi nissayaṃ dātā... nābhijānāmi sāmaṇeraṃ upaṭṭhāpetā... nābhijānāmi
jantāghare nhāyitā... nābhijānāmi cuṇṇena nhāyitā... nābhijānāmi sabrahmacārīgattaparikamme vicāritā [byāpāritā (sī. pī.)] ...
nābhijānāmi ābādhaṃ uppannapubbaṃ, antamaso gaddūhanamattampi... nābhijānāmi
bhesajjaṃ upaharitā, antamaso haritakikhaṇḍampi... nābhijānāmi apassenakaṃ
apassayitā... nābhijānāmi seyyaṃ kappetā. Yaṃpāyasmā - pe - dhārema. ''Asīti
me, āvuso, vassāni pabbajitassa nābhijānāmi gāmantasenāsane vassaṃ upagantā .
Yaṃpāyasmā bākulo asītiyā vassehi
nābhijānāti gāmantasenāsane vassaṃ upagantā, idampi mayaṃ āyasmato
bākulassa acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhārema. ''Sattāhameva kho ahaṃ, āvuso, saraṇo raṭṭhapiṇḍaṃ bhuñjiṃ atha
aṭṭhamiyaṃ aññā udapādi. Yaṃpāyasmā bākulo sattāhameva saraṇo raṭṭhapiṇḍaṃ
bhuñji atha aṭṭhamiyaṃ aññā udapādi idampi mayaṃ āyasmato bākulassa acchariyaṃ
abbhutadhammaṃ dhārema.
212. ''Labheyyāhaṃ, āvuso bākula, imasmiṃ dhammavinaye
pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadanti. Alattha kho acelakassapo imasmiṃ
dhammavinaye pabbajjaṃ, alattha upasampadaṃ. Acirūpasampanno panāyasmā kassapo
eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva : yassatthāya
kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ :
brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
vihāsi. 'Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ
itthattāyāti abbhaññāsi. Aññataro kho panāyasmā kassapo arahataṃ ahosi. Atha
kho āyasmā bākulo aparena samayena avāpuraṇaṃ [apāpuraṇaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)]
ādāya vihārena vihāraṃ upasaṅkamitvā evamāha : ''abhikkamathāyasmanto,
abhikkamathāyasmanto. Ajja me parinibbānaṃ bhavissatīti. ''Yaṃpāyasmā bākulo
avāpuraṇaṃ ādāya vihārena vihāraṃ upasaṅkamitvā evamāha :
'abhikkamathāyasmanto, abhikkamathāyasmanto ajja me parinibbānaṃ bhavissatīti,
idampi mayaṃ āyasmato bākulassa acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhārema. Āyasmā bākulo majjhe bhikkhusaṅghassa nisinnakova
parinibbāyi. ''Yaṃpāyasmā bākulo majjhe bhikkhusaṅghassa nisinnakova
parinibbāyi, idampi mayaṃ āyasmato bākulassa acchariyaṃ abbhutadhammaṃ
dhāremāti.
Bākulasuttaṃ niṭṭhitaṃ catutthaṃ.
-ooOoo-
124.
Bākulasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
209. Evaṃ me sutanti
bākulasuttaṃ. Tattha bākuloti yathā dvāvīsati dvattiṃsātiādimhi vattabbe
bāvīsati bāttiṃsātiādīni vuccanti, evameva dvikuloti vattabbe bākuloti vuttaṃ.
Tassa hi therassa dve kulāni ahesuṃ. So kira devaloko cavitvā kosambinagare
nāma mahāseṭṭhikule nibbatto, tamenaṃ pañcame divase sīsaṃ nhāpetvā gaṅgākīḷaṃ
akaṃsu. Dhātiyā dārakaṃ udake nimujjanummujjanavasena kīḷāpentiyā eko maccho
dārakaṃ disvā ‘‘bhakkho me aya’’nti maññamāno mukhaṃ vivaritvā upagato. Dhātī
dārakaṃ chaḍḍetvā palātā. Maccho taṃ gili. Puññavā satto dukkhaṃ na pāpuṇi,
sayanagabbhaṃ pavisitvā nipanno viya ahosi. Maccho dārakassa tejena
tattakapallaṃ gilitvā dayhamāno viya vegena tiṃsayojanamaggaṃ gantvā bārāṇasinagaravāsino
macchabandhassa jālaṃ pāvisi, mahāmacchā nāma jālabaddhā pahariyamānā maranti.
Ayaṃ pana dārakassa tejena jālato nīhaṭamattova mato. Macchabandhā ca mahantaṃ
macchaṃ labhitvā phāletvā vikkiṇanti. Taṃ pana dārakassa ānubhāvena aphāletvā
sakalameva kājena haritvā sahassena demāti vadantā nagare vicariṃsu. Koci na gaṇhāti.
Tasmiṃ pana nagare aputtakaṃ asītikoṭivibhavaṃ seṭṭhikulaṃ
atthi, tassa dvāramūlaṃ patvā ‘‘kiṃ gahetvā dethā’’ti vuttā kahāpaṇanti āhaṃsu.
Tehi kahāpaṇaṃ datvā gahito. Seṭṭhibhariyāpi aññesu divasesu macche na
kelāyati, taṃ divasaṃ pana macchaṃ phalake ṭhapetvā sayameva phālesi. Macchañca
nāma kucchito phālenti, sā pana piṭṭhito phālentī macchakucchiyaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ
dārakaṃ disvā – ‘‘macchakucchiyaṃ me putto laddho’’ti nādaṃ naditvā dārakaṃ
ādāya sāmikassa santikaṃ agamāsi. Seṭṭhi tāvadeva bheriṃ carāpetvā dārakaṃ
ādāya rañño santikaṃ gantvā – ‘‘macchakucchiyaṃ me deva dārako laddho, kiṃ
karomī’’ti āha. Puññavā esa, yo macchakucchiyaṃ arogo vasi, posehi nanti.
Assosi kho itaraṃ kulaṃ – ‘‘bārāṇasiyaṃ kira ekaṃ seṭṭhikulaṃ
macchakucchiyaṃ dārakaṃ labhatī’’ti, te tattha agamaṃsu. Athassa mātā dārakaṃ
alaṅkaritvā kīḷāpiyamānaṃ disvāva ‘‘manāpo vatāyaṃ dārako’’ti gantvā pavatiṃ
ācikkhi. Itarā mayhaṃ puttotiādimāha. Kahaṃ te laddhoti? Macchakucchiyanti. No
tuyhaṃ putto, mayhaṃ puttoti. Kahaṃ te laddhoti? Mayā dasamāse kucchiyā
dhārito, atha naṃ nadiyā kīḷāpiyamānaṃ maccho gilīti. Tuyhaṃ putto aññena
macchena gilito bhavissati, ayaṃ pana mayā macchakucchiyaṃ laddhoti, ubhopi
rājakulaṃ agamaṃsu. Rājā āha – ‘‘ayaṃ dasa māse kucchiyā dhāritattā amātā kātuṃ
na sakkā, macchaṃ gaṇhantāpi vakkayakanādīni bahi katvā gaṇhantā nāma natthīti
macchakucchiyaṃ laddhattā ayampi amātā kātuṃ na sakkā, dārako ubhinnampi kulānaṃ
dāyādo hotu, ubhopi naṃ jaggathā’’ti ubhopi jaggiṃsu.
Viññutaṃ pattassa dvīsupi nagaresu pāsādaṃ kāretvā nāṭakāni
paccupaṭṭhāpesuṃ. Ekekasmiṃ nagare cattāro cattāro māse vasati, ekasmiṃ nagare
cattāro māse vuṭṭhassa saṅghāṭanāvāya maṇḍapaṃ kāretvā tattha naṃ saddhiṃ nāṭakāhi
āropenti. So sampattiṃ anubhavamāno itaraṃ nagaraṃ gacchati. Taṃnagaravāsino nāṭakāni
upaḍḍhamaggaṃ agamaṃsu. Te paccuggantvā taṃ parivāretvā attano pāsādaṃ nayanti.
Itarāni nāṭakāni nivattitvā attano nagarameva gacchanti. Tattha cattāro māse
vasitvā teneva niyāmena puna itaraṃ nagaraṃ gacchati. Evamassa sampattiṃ
anubhavantassa asīti vassāni paripuṇṇāni.
Atha bhagavā cārikaṃ caramāno bārāṇasiṃ patto. So
bhagavato santike dhammaṃ sutvā paṭiladdhasaddho pabbajito. Pabbajitvā
sattāhameva puthujjano ahosi, aṭṭhame pana so saha paṭisambhidāhi arahattaṃ
pāpuṇīti evamassa dve kulāni ahesuṃ. Tasmā bākuloti saṅkhaṃ agamāsīti.
Purāṇagihisahāyoti pubbe gihikāle sahāyo. Ayampi
dīghāyukova theraṃ pabbajitaṃ passituṃ gacchanto asītime vasse gato. Methuno
dhammoti bālo naggasamaṇako bālapucchaṃ pucchati, na sāsanavacanaṃ, idāni
therena dinnanaye ṭhito imehi pana teti pucchi.
210. Yaṃpāyasmātiādīni padāni sabbavāresu dhammasaṅgāhakattherehi niyametvā ṭhapitāni. Tattha saññā uppannamattāva, vitakko kammapathabhedakoti. Thero panāha – ‘‘kasmā visuṃ karotha, ubhayampetaṃ kammapathabhedakamevā’’ti.
210. Yaṃpāyasmātiādīni padāni sabbavāresu dhammasaṅgāhakattherehi niyametvā ṭhapitāni. Tattha saññā uppannamattāva, vitakko kammapathabhedakoti. Thero panāha – ‘‘kasmā visuṃ karotha, ubhayampetaṃ kammapathabhedakamevā’’ti.
211. Gahapaticīvaranti
vassāvāsikaṃ cīvaraṃ. Satthenāti pipphalakena. Sūciyāti sūciṃ
gahetvā sibbitabhāvaṃ na sarāmīti attho. Kathine cīvaranti kathinacīvaraṃ,
kathinacīvarampi hi vassāvāsikagatikameva. Tasmā tattha ‘‘sibbitā
nābhijānāmī’’ti āha.
Ettakaṃ panassa kālaṃ gahapaticīvaraṃ asādiyantassa
chindanasibbanādīni akarontassa kuto cīvaraṃ uppajjatīti. Dvīhi nagarehi. Thero
hi mahāyasassī, tassa puttadhītaro nattapanattakā sukhumasāṭakehi cīvarāni
kāretvā rajāpetvā samugge pakkhipitvā pahiṇanti. Therassa nhānakāle nhānakoṭṭhake
ṭhapenti. Thero tāni nivāseti ceva pārupati ca, purāṇacīvarāni
sampattapabbajitānaṃ deti. Thero tāni nivāsetvā ca pārupitvā ca navakammaṃ na
karoti, kiñci āyūhanakammaṃ natthi. Phalasamāpattiṃ appetvā appetvā nisīdati.
Catūsu māsesu pattesu lomakiliṭṭhāni honti, athassa puna teneva niyāmena pahiṇitvā
denti. Aḍḍhamāse aḍḍhamāse parivattatītipi vadantiyeva.
Anacchariyañcetaṃ therassa mahāpuññassa mahābhiññassa
satasahassakappe pūritapāramissa, asokadhammarañño kulūpako nigrodhatthero
divasassa nikkhattuṃ cīvaraṃ parivattesi. Tassa hi ticīvaraṃ hatthikkhandhe ṭhapetvā
pañcahi ca gandhasamuggasatehi pañcahi ca mālāsamuggasatehi saddhiṃ pātova
āhariyittha, tathā divā ceva sāyañca. Rājā kira divasassa nikkhattuṃ sāṭake
parivattento ‘‘therassa cīvaraṃ nīta’’nti pucchitvā ‘‘āma nīta’’nti sutvāva
parivattesi. Theropi na bhaṇḍikaṃ bandhitvā ṭhapesi, sampattasabrahmacārīnaṃ
adāsi. Tadā kira jambudīpe bhikkhusaṅghassa yebhuyyena nigrodhasseva santakaṃ
cīvaraṃ ahosi.
Aho vata maṃ koci nimanteyyāti kiṃ pana cittassa anuppādanaṃ
bhāriyaṃ, uppannassa pahānanti. Cittaṃ nāma lahukaparivattaṃ, tasmā anuppādanaṃ
bhāriyaṃ, uppannassa pahānampi bhāriyameva. Antaraghareti
mahāsakuludāyisutte (ma. ni. 2.237) indakhīlato paṭṭhāya antaragharaṃ nāma idha
nimbodakapatanaṭṭhānaṃ adhippetaṃ. Kuto panassa bhikkhā uppajjitthāti. Thero
dvīsu nagaresu abhiññāto, gehadvāraṃ āgatassevassa pattaṃ gahetvā
nānārasabhojanassa pūretvā denti. So laddhaṭṭhānato nivattati, bhattakiccakaraṇaṭṭhānaṃ
panassa nibaddhameva ahosi. Anubyañjanasoti therena kira rūpe nimittaṃ
gahetvā mātugāmo na olokitapubbo. Mātugāmassa dhammanti mātugāmassa
chappañcavācāhi dhammaṃ desetuṃ vaṭṭati, pañhaṃ puṭṭhena gāthāsahassampi vattuṃ
vaṭṭatiyeva. Thero pana kappiyameva na akāsi. Yebhuyyena hi kulūpakatherānametaṃ
kammaṃ hoti. Bhikkhunupassayanti bhikkhuniupassayaṃ. Taṃ pana
gilānapucchakena gantuṃ vaṭṭati, thero pana kappiyameva na akāsi. Esa nayo
sabbattha. Cuṇṇenāti kosambacuṇṇādinā. Gattaparikammeti
sarīrasambāhanakamme. Vicāritāti payojayitā. Gaddūhanamattanti
gāviṃ thane gahetvā ekaṃ khīrabinduṃ dūhanakālamattampi.
Kena pana kāraṇena thero nirābādho ahosi. Padumuttare
kira bhagavati satasahassabhikkhuparivāre cārikaṃ caramāne himavati visarukkhā
pupphiṃsu. Bhikkhusatasahassānampi tiṇapupphakarogo uppajjati. Thero tasmiṃ
samaye iddhimā tāpaso hoti, so ākāsena gacchanto bhikkhusaṅghaṃ disvā otaritvā
rogaṃ pucchitvā himavantato osadhaṃ āharitvā adāsi. Upasiṅghanamatteneva rogo
vūpasami. Kassapasammāsambuddhakālepi paṭhamavappadivase vappaṃ ṭhapetvā
bhikkhusaṅghassa paribhogaṃ aggisālañceva vaccakuṭiñca kāretvā bhikkhusaṅghassa
bhesajjavattaṃ nibandhi, iminā kammena nirābādho ahosi. Ukkaṭṭhanesajjiko
panesa ukkaṭṭhāraññako ca tasmā ‘‘nābhijānāmi apassenakaṃ
apassayitā’’tiādimāha.
Saraṇoti sakileso. Aññā udapādīti
anupasampannassa aññaṃ byākātuṃ na vaṭṭati. Thero kasmā byākāsi? Na thero ahaṃ
arahāti āha, aññā udapādīti panāha. Apica thero arahāti pākaṭo, tasmā evamāha.
212. Pabbajjanti thero sayaṃ
neva pabbājesi, na upasampādesi aññehi pana bhikkhūhi evaṃ kārāpesi. Avāpuraṇaṃ
ādāyāti kuñcikaṃ gahetvā.
Nisinnakova parinibbāyīti ahaṃ
dharamānopi na aññassa bhikkhussa bhāro ahosiṃ, parinibbutassāpi me sarīraṃ
bhikkhusaṅghassa palibodho mā ahosīti tejodhātuṃ samāpajjitvā parinibbāyi.
Sarīrato jālā uṭṭhahi, chavimaṃsalohitaṃ sappi viya jhāyamānaṃ parikkhayaṃ gataṃ,
sumanamakulasadisā dhātuyova avasesiṃsu. Sesaṃ sabbattha pākaṭameva. Idaṃ pana
suttaṃ dutiyasaṅgahe saṅgītanti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Bākulasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
Acchariyaabbhutasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Tại sao có những điểm của Ngài Bakkula như chưa bao giờ truyền giới cho ai xuất gia điều đó có được kể là phước hay hạnh hoặc đức? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Có những người trong cuộc sống trãi qua nhiều điều hiếm có (vi tằng hữu) thì điều đó có phải do phước nghiệp? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. Gặp nạn mà thoát hiểm có gọi là hữu phước chăng? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 4. Một người mà trong cuộc đời có điều hiếm có thí dụ như cả đời sanh ra chỉ ăn trái cây như vậy có gọi là đáng được tôn kính, hâm mộ? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 5. Có những người trong nếp tín ngưỡng thường đi tìm cái gì lạ lùng hiếm thấy. Quan niệm đó có nên khuyến khích? - ĐĐ Nguyên Thông
Thảo luận 6. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
Thảo luận 5. Có những người trong nếp tín ngưỡng thường đi tìm cái gì lạ lùng hiếm thấy. Quan niệm đó có nên khuyến khích? - ĐĐ Nguyên Thông
Thảo luận 6. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment