Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: ĐĐ Pháp Tín
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 21/5/2020
129. Kinh Hiền Ngu (Bālapaṇḍita Sutta)
Kinh Hiền Ngu là pháp thoại của Đức Phật giảng về người hiền trí
(paṇḍita) và kẻ ngu ác (bāla). Chữ hiền ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng là “hiền
nhân”; chữ ngu ở đây không nên hiểu đần độn mà là người muốn hạnh phúc nhưng lại
gây khổ cho mình cho người. Pháp thoại nầy của Đức Phật đưa ra những chi tiết về
sở hành của chúng sanh trong hiện tại và cảnh giới tái sanh ỏ tương lai.
1117. Hành tướng người ngu
Chính lời nói, hành động và ý nghĩ cho thấy một người là thiện hay ác:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà viên), tại
tịnh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Tại đấy, Thế Tôn gọi các
Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng, bạch Thế
Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
(Người Ngu)
-- Này các Tỷ-kheo, có ba đặc điểm, đặc tướng, và đặc ấn này
của người ngu. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người ngu tư duy
ác tư duy, nói lời ác ngữ và hành các ác hạnh. Này các Tỷ-kheo, nếu
người ngu không tư duy ác tư duy, không nói lời ác ngữ, không hành ác
hạnh, thời làm sao kẻ trí biết được người ấy: "Người này là
người ngu, không phải là Chân nhân"? Và vì rằng, này các Tỷ-kheo,
người ngu tư duy ác tư duy, nói lời ác ngữ, hành ác hạnh, do vậy,
người trí biết người ấy: "Người này là người ngu, không phải là
Chân nhân".
1118. Quả báo nhãn tiền của người ngu
Người ác sống trong phiền muộn ngay trong kiếp hiện tại:
Người ngu ấy, này các Tỷ-kheo, ngay trong hiện tại cảm thọ ba
loại khổ ưu. Này các Tỷ-kheo, nếu người ngu ngồi giữa hội chúng, hay
ngồi bên đường có xe cộ qua lại, hay tại ngã (ba, ngã tư) đường, tại
đấy (nếu) có người nghĩ đến câu chuyện thích hợp về người ấy. Nếu
người ngu, này các Tỷ-kheo, sát sanh, lấy của không cho, theo tà hạnh
trong dâm dục, nói láo, say rượu men, rượu nấu, thường ở đây, này các
Tỷ-kheo, người ngu ấy suy nghĩ như sau: "Các người ấy nghĩ đến
câu chuyện thích hợp về ta, vì những pháp ấy thật có nơi ta và ta có
những pháp ấy". Này các Tỷ-kheo, đây là loại khổ ưu thứ nhất,
người ngu cảm thọ ngay trong hiện tại.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ngu thấy các vua chúa sau khi bắt
tên trộm cướp có phạm tội liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ
đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ
chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo tai, họ cắt mũi, họ xẻo tai cắt
mũi; họ dùng hình phạt vạc dầu, họ dùng hình phạt bối đồi hình (xẻo
đỉnh đầu thành hình con sò) họ dùng hình phạt la hầu khẩu hình, hỏa man
hình (lấy lửa đốt thành vòng hoa), chúc thủ hình (đốt tay), khu hành hình
(lấy rơm bện lại rồi siết chặt) bì y hình (lấy vỏ cây làm áo), linh
dương hình (hình phạt con dê núi), câu nhục hình (lấy câu móc vào thịt),
tiền hình (cắt thịt thành hình đồng tiền), khối trấp hình, chuyển hình,
cao đạp đài, họ tưới bằng dầu sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những
người sống, họ lấy gươm chặt đầu. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
ngu nghĩ như sau: "Do nhân các ác hành như vậy, các vua chúa sau khi
bắt tên trộm cướp có phạm tội, liền áp dụng những hình phạt sai khác.
Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ
chặt chân, họ chặt tay chân… họ lấy gươm chặt đầu. Những pháp ấy có
thật nơi ta và ta có những pháp ấy. Nếu các vua chúa biết về ta, các vua
chúa ấy sau khi bắt ta liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh
bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn... họ lấy gươm chặt
đầu. "Này các Tỷ-kheo, đây là loại khổ ưu thứ hai, người ngu cảm
thọ ngay trong hiện tại.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi người ngu leo ngồi trên ghế, hay
trên giường, hay nằm trên đất, lúc bấy giờ, những ác nghiệp người ấy
làm từ trước, như thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, treo nằm, treo
áp, treo đè lên người ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, vào buổi chiều,
những bóng các đỉnh núi treo nằm, treo áp, treo đè trên đất; cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, khi người ngu ngồi trên ghế, hay ngồi trên giường, hay
nằm dưới đất, trong khi ấy các nghiệp quá khứ của người ấy, tức là
thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, treo nằm, treo áp, treo đè trên
người ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người ngu suy nghĩ như sau:
"Thật sự ta không làm điều phước, không làm điều thiện, không làm
điều chống lại sợ hãi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều tội
lỗi. Do không làm điều phước, không làm điều thiện, không làm điều
chống lại sợ hãi, do làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều tội lỗi
nên phải đi đến ác thú; ác thú ấy sau khi chết ta phải đi". Người
ấy sầu muộn, than van, than khóc, đấm ngực, rên la và rơi vào bất tỉnh.
Này các Tỷ-kheo, đây là sự khổ ưu thứ ba, ngay trong hiện tại, người
ngu (phải) cảm thọ.
1119. Cảnh giới thọ sanh của người ngu
Cảnh giới tái sanh khổ đau của người ngu ác thật là đầy bất hạnh:
Này các Tỷ-kheo, kẻ ngu kia sau khi làm thân ác hành, sau khi làm khẩu ác hành, sau khi làm ý ác hành, khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
(Ðịa ngục)
Này các Tỷ-kheo, nếu có ai nói một cách đúng đắn về người ấy,
phải nói rằng người ấy hoàn toàn không tốt đẹp, hoàn toàn không khả ái,
hoàn toàn không thích ý. Cũng như muốn nói một cách đúng đắn về Ðịa
ngục, phải nói rằng Ðịa ngục, hoàn toàn không tốt đẹp, hoàn toàn không
khả ái, hoàn toàn không thích ý. Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, cho đến
một ví dụ cũng không dễ gì, vì rất nhiều là sự đau khổ của Ðịa ngục.
Khi được nói vậy, một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể cho con
một ví dụ được không? Thế Tôn đáp:
-- Có thể được, này Tỷ-kheo. Ví như, này Tỷ-kheo, có người bắt
được một tên trộm cắp, dẫn đến trước mặt vua và thưa: "Tâu Ðại
vương, đây là một tên trộm cướp phạm tội cho Ngài! Hãy hình phạt nó
như Ðại vương muốn". Và vị vua ấy nói như sau về tên trộm cướp
ấy: "Này các Ông hãy đi và vào buổi sáng hãy đâm người này với một
trăm ngọn giáo". Và vào buổi sáng, họ đâm người ấy với một trăm
ngọn giáo. Rồi đến trưa, vua nói như sau: "Này các Ông, người ấy
ra sao?"
-- "Tâu Ðại vương, nó vẫn còn sống". Rồi vua lại nói
như sau về tên trộm cướp ấy: "Này các Ông, hãy đi và vào buổi
trưa, hãy đâm người này với một trăm ngọn giáo". Và vào buổi trưa,
họ đâm người ấy với một trăm ngọn giáo. Rồi đến chiều, vua nói như
sau: "Này các Ông, người ấy ra sao?" -- "Tâu Ðại vương, nó
vẫn còn sống". Rồi vua lại nói như sau về người kia: "Này các
Ông, vào buổi chiều, họ đâm người này với một trăm ngọn giáo". Và
vào buổi chiều, họ đâm người ấy với một trăm ngọn giáo.
Này các Tỷ-kheo, Ông nghĩ thế nào? Người ấy bị đâm ba trăm ngọn
giáo, do nhân duyên ấy, có cảm thọ khổ ưu không?
-- Bạch Thế Tôn, chỉ bị ngọn giáo đâm một lần, người kia do
nhân duyên ấy cũng cảm thấy khổ ưu, còn nói gì đến ba trăm ngọn giáo!
Rồi Thế Tôn lượm lên một hòn đá nhỏ, lớn bằng bàn tay và nói
với các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Cái gì lớn hơn, hòn đá
này, to bằng bàn tay do ta lượm lên, hay núi Tuyết Sơn (Himavā), vua các
loại núi?
-- Thật là quá nhỏ, bạch Thế Tôn, hòn đá này lớn bằng bàn tay do
Thế Tôn lượm lên. So sánh với Tuyết Sơn vua các loại núi, nó không đáng
kể gì, nó không bằng một phần ngàn vạn lần (của núi Tuyết) nó không
thể so sánh được!
-- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, người ấy bị đâm bởi ba trăm ngọn
giáo, do nhân duyên ấy cảm thọ khổ ưu. Khổ ưu ấy so sánh với khổ ưu
ở Ðịa ngục không đáng kể gì, không bằng một phần ngàn vạn lần, không
thể so sánh được. Này các Tỷ-kheo, các người giữ địa ngục bắt người
ấy chịu hình phạt gọi là năm cọc (pañcavidhābandhanaṃ). Họ lấy cọc
sắt nung đỏ đóng vào một bàn tay, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn
tay thứ hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn chân, họ lấy cọc sắt
nung đỏ đóng vào bàn chân thứ hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào giữa
ngực. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc
liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp
của người ấy chưa được tiêu trừ.
Này các Tỷ-kheo, các người giữ Ðịa ngục bắt người ấy nằm
xuống và lấy búa chặt người ấy. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm
giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không thể mệnh
chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.
Này các Tỷ-kheo, các người giữ Ðịa ngục dựng ngược người ấy
chân phía trên, đầu phía dưới và lấy búa chặt người ấy. Người ấy ở
đây cảm thọ... chưa được tiêu trừ.
Này các Tỷ-kheo, các người giữ Ðịa ngục cột người ấy vào một
chiếc xe, kéo người ấy chạy tới chạy lui trên đất được đốt cháy đỏ,
cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây cảm thọ... chưa được
tiêu trừ.
Rồi này các Tỷ-kheo, các người giữ Ðịa ngục đẩy người ấy lên
kéo người ấy xuống trên một sườn núi đầy than hừng, cháy đỏ, cháy
thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây cảm thọ... chưa được tiêu
trừ.
Rồi này các Tỷ-kheo, các người giữ Ðịa ngục dựng ngược người
ấy chân phía trên, đầu phía dưới và quăng người ấy vào một vạc dầu
bằng đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở
đây bị nấu với bọt nước sôi sùng sục, ở đây bị nấu với vạc nước
sôi sùng sục; khi thì nổi lên trên, khi thì chìm xuống đáy, khi thì trôi
dạt ngang. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ,
khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác
nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.
Rồi này các Tỷ-kheo, những người giữ Ðịa ngục quăng người ấy
vào Ðại địa ngục. Này các Tỷ-kheo, Ðại địa ngục ấy, có bốn góc, bốn
cửa, chia thành phần bằng nhau; xung quanh có tường sắt; mái sắt lợp
lên trên. Nền Ðịa ngục bằng sắt nung đỏ, cháy đỏ rực; đứng thẳng,
luôn có mặt, rộng một trăm do tuần.
Này các Tỷ-kheo, với rất nhiều pháp môn, Ta nói về Ðịa ngục,
nhưng thật khó nói cho được đầy đủ, này các Tỷ-kheo, vì đau khổ ở Ðịa
ngục quá nhiều.
(Cõi thú)
Này các Tỷ-kheo, có những loại sanh vật thuộc loại bàng sanh, có
hơi thở, ăn cỏ. Chúng ăn những cỏ ướt và khô, với răng nhai nghiền,
cỏ ấy. Này các Tỷ-kheo, những sanh vật ấy thuộc loại bàng sanh, có hơi
thở, ăn cỏ là gì? Các loại ngựa, trâu, bò, lừa, dê, nai hay các sanh vật
khác, thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, ăn cỏ. Này các Tỷ-kheo, người
ngu ấy do trước kia hưởng thọ ở đây, do trước kia làm các ác nghiệp,
ở đây, sau khi thân hoại mạng chung, sanh ra cọng trú với các loài hữu
tình ấy, những loại hữu tình ăn cỏ.
Này các Tỷ-kheo, có các sanh vật thuộc loại bàng sanh, có hơi thở
và ăn phân. Chúng ngửi được mùi phân từ đường xa, liền chạy tới,
nghĩ rằng: "Chúng ta sẽ ăn ở đây, chúng ta sẽ ăn ở đây". Ví
như các Bà- la-môn chạy đến, ngửi được mùi lễ tế sanh, nghĩ rằng:
"Chúng ta sẽ ăn ở đây, chúng ta sẽ ăn ở đây". Cũng vậy này
các Tỷ-kheo, có các loại sanh vật, thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, và
ăn phân. Chúng ngửi được mùi phân từ đường xa, liền chạy tới, nghĩ
rằng: "Chúng ta sẽ ăn ở đây, chúng ta sẽ ăn ở đây". Và này các
Tỷ-kheo, các sanh vật ấy, thuộc loại bàng sanh, có hơi thở và ăn phân
là gì? Các loại gà, heo, chó, chó rừng (giả can), hay tất cả các sanh vật
khác, thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, ăn phân. Này các Tỷ-kheo, người
ngu ấy do trước kia hưởng thọ ở đây, do trước kia làm các ác nghiệp
ở đây, sau khi thân hoại mạng chung sanh ra cọng trú với các loại hữu
tình ấy, những loại hữu tình ăn phân.
Này các Tỷ-kheo, có các loại sanh vật thuộc loại bàng sanh, có hơi
thở, sanh ra trong bóng tối, già trong bóng tối và chết trong bóng tối.
Này các Tỷ-kheo, những sanh vật ấy, thuộc loại bàng sanh, có hơi thở,
sanh ra trong bóng tối, già trong bóng tối và chết trong bóng tối là gì?
Các loại côn trùng, con sùng, con dòi, con sâu đôm đốm và các loại sanh vật
khác thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, sống trong bóng tối. Này các
Tỷ-kheo, người ngu ấy do trước kia hưởng thọ ở đây, do trước kia
làm các ác nghiệp ở đây, sau khi thân hoại mạng chung, sanh ra cọng trú
với các loài hữu tình ấy tức là các loại hữu tình sinh ra trong bóng
tối, già trong bóng tối, chết trong bóng tối.
Này các Tỷ-kheo, có những sanh vật, thuộc loại bàng sanh, có hơi
thở, sinh ra trong nước, già trong nước, chết trong nước. Và này các
Tỷ-kheo, các sanh vật ấy thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, sanh ra trong
nước, già trong nước, chết trong nước là gì? Các loại cá, rùa, cá sấu,
hay các sanh vật khác, thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, sanh ra trong
nước, già trong nước, chết trong nước. Này các Tỷ-kheo, người ngu
ấy, do trước kia hưởng thọ ở đây, do trước kia làm các ác nghiệp ở đây,
sau khi thân hoại mạng chung sanh ra cọng trú với các loài hữu tình ấy,
tức là các loài hữu tình sanh ra trong nước, già trong nước, chết trong
nước.
Này các Tỷ-kheo, có các sanh vật thuộc loài bàng sanh, có hơi thở,
sanh ra trong bất tịnh, già trong bất tịnh, chết trong bất tịnh. Và này
các Tỷ-kheo, các sanh vật ấy, các loại thuộc bàng sanh, có hơi thở, sanh
ra trong bất tịnh, già trong bất tịnh, chết trong bất tịnh là gì? Này
các Tỷ-kheo, các loài hữu tình nào sanh ra trong cá thúi hay già trong cá
thúi, hay chết trong cá thúi, hay trong tử thi thúi, hay trong đồ ăn thúi,
hay trong vũng nước, hay sinh ra trong đầm nước (nhớp)... già... hay
chết trong đầm nước (nhớp). Này các Tỷ-kheo, người ngu ấy, do trước
kia hưởng thọ ở đây, do trước kia làm các ác nghiệp ở đây, sau khi thân
hoại mạng chung, sanh ra cọng trú với các loài hữu tình ấy, tức là các
loài hữu tình sanh ra trong bất tịnh, già trong bất tịnh, chết trong bất
tịnh.
Này các Tỷ-kheo, với rất nhiều pháp môn, Ta nói về các loại bàng
sanh, nhưng thật khó nói cho được đầy đủ, này các Tỷ-kheo, vì đau khổ
ở loài bàng sanh quá nhiều.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người quăng một khúc cây có một cái
lỗ trên biển, một ngọn gió từ phương Ðông thổi nó trôi qua phía tây;
một ngọn gió từ phương Tây thổi nó trôi qua phía đông; một ngọn gió từ
phương Bắc thổi nó trôi qua phía nam; một ngọn gió từ phương Nam thổi
nó trôi qua phía bắc. Rồi có một con rùa mù, cứ một trăm năm mới trồi
đầu lên một lần. Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Con rùa mù ấy có
thể đút cổ nó vào trong lỗ cây này được không?
-- Nếu có được chăng nữa, bạch Thế Tôn, thời chỉ được một
lần, sau một thời gian rất lâu dài.
-- Còn mau hơn, này các Tỷ-kheo, con rùa mù ấy có thể chui cổ vào
khúc cây có lỗ hổng kia; nhưng này các Tỷ-kheo, ta tuyên bố rằng còn khó
hơn được làm người trở lại, một khi người ngu bị rơi vào đọa xứ.
Vì sao vậy? Vì ở đấy, này các Tỷ-kheo, không có pháp hành, an tịnh hành,
thiện hành, phước hành. Này các Tỷ-kheo, ở đây chỉ có ăn lẫn nhau và
ăn thịt kẻ yếu.
Và này các Tỷ-kheo, nếu người ngu ấy sau một thời gian rất lâu
dài, có được làm người trở lại, thời người ấy sẽ sanh trong gia đình
thấp hèn, trong gia đình hạ cấp, trong gia đình kẻ đi săn, trong gia đình
kẻ đan tre, trong gia đình người làm xe, hay trong gia đình người đổ
phân, trong những gia đình nghèo khốn, không đủ để uống hay để ăn, cho
đến miếng vải che lưng cũng khó tìm được. Lại nữa, người ấy thô
xấu, khó nhìn, lùn thấp, hay bệnh, mù hay có tật, què hay bị bại, người
ấy không có thể được các đồ ăn, đồ uống, vải xa, vòng hoa, hương
liệu, giường nằm, chỗ trú xứ và ánh sáng. Người ấy hành thân ác hành,
khẩu ác hành, ý ác hành; vì hành thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành; sau
khi thân hoại mạng chung, sinh ra trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ, Ðịa
ngục.
1120. Sự bất hạnh từ khởi điểm đến cuối hành trình của kẻ ngu
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người đánh bạc, trong canh đổ bạc
đầu tiên, mất con, mất vợ, mất tất cả tài sản, lại cuối cùng phải tù
tội. Nhưng này các Tỷ-kheo, còn nhỏ bé canh đổ bạc ấy, do canh đổ bạc
đầu tiên này, người ấy mất con, mất vợ, mất tất cả tài sản, lại
cuối cùng phải tù tội. Và canh bạc này to lớn hơn, với canh bạc ấy
người ngu, do thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, sau khi thân hoại
mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, Ðịa ngục. Này các
Tỷ-kheo, đây là địa xứ hoàn toàn viên mãn của kẻ ngu.
1121. Hành tướng của người hiền trí
Biểu lộ của người hiền trí là ba nghiệp hiền hiền thiện:
Này các Tỷ-kheo, có ba đặc điểm, đặc tướng, và đặc ấn này của
người trí. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người trí tư duy
thiện tư duy, nói lời thiện ngữ, và hành các thiện hành. Này các
Tỷ-kheo, nếu người trí không tư duy thiện tư duy, không nói lời thiện
ngữ, không hành các thiện hành, thời làm sao kẻ trí biết được người
ấy: "Vị này là người trí, là bậc Chân nhân"? Và vì rằng, này
các Tỷ-kheo, người trí tư duy thiện tư duy, nói lời thiện ngữ, hành
thiện hành, do vậy người trí biết người ấy: "Vị này là người có
trí, là bậc Chân nhân".
1122. Hiện báo nghiệp của người hiền thiện
Người sống vối tam nghiệp hiền thiện tự tại giữa cuộc đời:
Người trí ấy, này các Tỷ-kheo, ngay trong hiện tại cảm thọ ba
loại lạc hỷ. Này các Tỷ-kheo, nếu người trí ngồi giữa hội chúng, hay
ngồi bên đường có xe cộ qua lại, hay tại ngã (ba, ngã tư) đường, tại
đấy (nếu) có người nghĩ đến câu chuyện thích hợp về người ấy; nếu
người trí, này các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho,
từ bỏ tà hạnh trong dâm dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ say rượu men rượu
nấu, thời ở đây này các Tỷ-kheo, người trí ấy suy nghĩ như sau:
"Các người ấy nghĩ đến câu chuyện thích hợp về ta, vì những pháp
ấy thật có nơi ta và ta có những pháp ấy". Này các Tỷ-kheo, đây là
loại lạc hỷ thứ nhất, người trí cảm thọ ngay trong hiện tại.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, người trí thấy các vua chúa, sau khi bắt
tên trộm cướp phạm tội, liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ
đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn... họ lấy gươm
chặt đầu. Ở đây, này các Tỷ-kheo người trí suy nghĩ như sau: "Do
nhân các ác hành như vậy, các vua chúa sau khi bắt tên trộm cướp có phạm
tội, liền áp dụng những hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh
bằng gậy... họ lấy gươm chặt đầu, những pháp ấy thật không có nơi
ta, và ta không có những pháp ấy". Này các Tỷ-kheo, đây là loại lạc
hỷ thứ hai, người trí cảm thọ ngay trong hiện tại.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi người trí leo ngồi trên ghế, hay
trên giường, hay nằm trên đất, lúc bấy giờ những thiện nghiệp người
ấy làm từ trước, như thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành
treo nằm, treo áp, treo đè trên người ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, vào
buổi chiều, những bóng các đỉnh núi treo nằm, treo áp, treo đè trên đất;
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi người trí ngồi trên ghế hay ngồi trên
giường, hay nằm dưới đất, trong khi các nghiệp quá khứ của người ấy
tức là thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành treo nằm, treo áp, treo đè trên
người ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người trí suy nghĩ như sau:
"Thật sự ta không làm điều ác, không làm điều hung bạo, không làm
điều tội lỗi, lại làm điều phước, làm điều thiện, làm điều chống sợ
hãi. Do không làm điều ác, không làm điều hung bạo, không làm điều tội
lỗi, do làm điều phước, làm điều thiện, làm điều chống sợ hãi, được
đi đến (thiện) thú nào, (thiện) thú ấy sau khi chết, ta được đi".
Vị ấy không sầu muộn, không than van, không than khóc, không đấm ngực,
rên la và rơi vào bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, đây là sự lạc hỷ thứ ba,
ngay trong hiện tại người trí được cảm thọ.
1123. Con đường cao rộng của hiền nhân
Khó nói hết những lợi lạc của người sống theo thiện pháp:
Này các Tỷ-kheo, kẻ trí kia sau khi làm thân thiện hành, sau khi làm
khẩu thiện hành, sau khi làm ý thiện hành, sau khi thân hoại mạng chung,
sanh ra trong thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ- kheo, nếu có
ai nói một cách đúng đắn về vị ấy phải nói rằng vị ấy hoàn toàn tốt
đẹp, hoàn toàn khả ái, hoàn toàn thích ý. Cũng như muốn nói một cách đúng
đắn về Thiên giới phải nói rằng Thiên giới hoàn toàn tốt đẹp, hoàn toàn
khả ái, hoàn toàn thích ý. Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, cho đến một
ví dụ cũng không dễ gì, vì rất nhiều là sự (an) lạc của Thiên giới,
Khi được nói vậy, một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể làm cho
con một ví dụ được không?
-- Có thể được, này Tỷ-kheo. Ví như, này các Tỷ-kheo, vị vua
Chuyển luân có đầy đủ bảy món báu và bốn như ý đức, do nhân duyên ấy
cảm thọ lạc hỷ. Thế nào là bảy?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vua Sát đế lỵ, đã làm lễ quán đảnh, vào
ngày Bố-tát trăng rằm sau khi gội đầu, lên cao điện để trai giới, thời
Thiên luân báu hiện ra, đủ một ngàn cọng xa, với vành xe, trục xe, đầy
đủ mọi bộ phận. Thấy vậy, vua Sát đế lỵ đã làm lễ quán đảnh suy
nghĩ: "Ta nghe như vầy: Khi một vị vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán
đảnh vào ngày Bố-tát trăng rằm, sau khi gội đầu, lên cao điện để trai
giới, nếu có Thiên luân báu hiện ra, đủ một ngàn cọng xe, với vành xe và
trục xe, đầy đủ mọi bộ phận, thời vị vua ấy là Chuyển luân vương.
Như vậy ta có thể là Chuyển luân vương".
Này các Tỷ-kheo, rồi vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, từ chỗ
ngồi đứng dậy, đắp thượng y trên một vai, tay trái cầm bình nước và
với tay phải rưới nước trên xe báu và nói: "Này xe báu hãy lăn
khắp. Này xe báu hãy chinh phục!" Và này các Tỷ-kheo, xe báu lăn về
hướng Ðông và vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh cùng với bốn loại binh
chủng đi theo sau. Và này các Tỷ-kheo, chỗ nào xe báu dừng lại, chỗ ấy
vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, an trú cùng với bốn loại binh chủng.
Này các Tỷ-kheo, các địch vương ở phương Ðông đến yết kiến vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, và nói: "Hãy đến đây, Ðại
vương!" Hoan nghênh, đón mừng Ðại vương! Tâu Ðại vương, tất cả
đều thuộc của Ngài. Ðại vương hãy giáo huấn cho chúng tôi!"
Vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, nói rằng: "Không được sát
sanh. Không được lấy của không cho. Không được tà dâm. Không được nói láo.
Không được uống rượu. Hãy ăn uống cho thích nghi".
Này các Tỷ-kheo, tất cả địch vương ở phương Ðông đều trở
thành chư hầu vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, rồi xe báu ấy lặn xuống biển lớn ở phương
Ðông rồi nổi lên và lặn về phương Nam... lặn xuống biển lớn ở
phương Nam, rồi nổi lên và lặn về phương Tây... lặn xuống biển lớn
ở phương Tây.. , rồi nổi lên và lặn về phương Bắc và vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh cùng với bốn loại binh chủng đi theo sau. Này các
Tỷ-kheo, chỗ nào xe báu dừng lại, chỗ ấy vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán
đảnh an trú cùng với bốn loại binh chủng.
Này các Tỷ-kheo, các địch vương ở phương Bắc đến yết kiến vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh và nói: "Hãy đến đây, Ðại vương!
Hoan nghênh, đón mừng Ðại vương! Tâu Ðại vương; tất cả đều thuộc
của Ngài, tất cả đều thuộc của Ngài. Ðại vương hãy giáo huấn cho
chúng tôi!"
Này các Tỷ-kheo, tất cả địch vương ở phương Bắc đều trở
thành chư hầu vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, xe báu ấy sau khi chinh phục trái đất cho đến hải
biên, liền trở về kinh đô Ku-savati, và đứng trước pháp đình, trên cửa
nội cung như một trang bảo cho nội cung của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự xuất hiện của xe báu của vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, voi báu xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh, thuần trắng, bảy xứ kiên cường, có thần lực, phi
hành trên hư không và tên là Uposatha (Bố-tát). Thấy (voi báu), vua Sát-đế-
lỵ đã làm lễ quán đảnh, sanh tâm hoan hỷ và nghĩ: "Lành thay được
cỡi con voi này, nếu nó chịu sự điều ngự" Và này các Tỷ-kheo, như
một con hiền tượng quý phái chịu sự điều ngự lâu ngày, con voi báu ấy
tự đến để chịu điều ngự. Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh, để thử voi báu này, sáng sớm cỡi voi đi khắp quả đất
cho đến hải biên rồi về lại kinh đô Kusavati kịp giờ ăn sáng. Này các
Tỷ-kheo, như vậy là sự xuất hiện voi báu của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ngựa báu xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh, thuần trắng, đầu đen như quạ, bờm ngựa màu đen,
có thần lực, phi hành trên hư không và tên là Valahaka. Thấy (ngựa báu),
vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, sanh tâm hoan hỷ và nghĩ: "Tốt
đẹp thay được cỡi con ngựa này nếu nó chịu sự điều ngự". Và này
các Tỷ-kheo, như một con hiền mã quý phái, chịu sự điều ngự lâu ngày,
con ngựa báu ấy tự đến để chịu sự điều ngự. Này các Tỷ-kheo, thuở
xưa, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh để thử con ngựa báu này, sáng
sớm liền cỡi ngựa, đi khắp quả đất cho đến hải biên, rồi về lại
kinh đô Kusavati kịp giờ ăn sáng. Này các Tỷ-kheo, như vậy là xuất hiện
ngựa báu của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, châu báu lại xuất hiện cho vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh. Châu báu ấy là lưu ly châu, sáng suốt,
thuần chất, có tám mặt, khó dũa, khó mài, thanh tịnh, trong suốt, hoàn
hảo mọi phương diện. Này các Tỷ-kheo, hào quang châu báu này chiếu sáng
cùng khắp một do tuần. Này các Tỷ- kheo, thuở xưa, vua Sát-đế-lỵ đã làm
lễ quán đảnh để thử châu báu này đã cho dàn bày bốn binh chủng, đặt bảo
châu cao trên quân kỳ và có thể tiến quân trong đêm tối âm u. Này các
Tỷ-kheo, mọi người trong làng ở xung quanh đều bắt đầu làm việc,
tưởng rằng trời đã sáng rồi. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự xuất
hiện châu báu của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, nữ báu lại xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đã làm
lễ quán đảnh, mỹ miều, khả ái, cử chỉ đoan trang, màu da tuyệt mỹ,
không quá cao, không quá thấp, không béo, không gầy, không quá đen, không quá
trắng, vượt trên dung sắc loài Người, ánh sáng bằng dung sắc chư
Thiên. Này các Tỷ-kheo, thân xác nữ báu này là (êm mịn) như bông, như
nhung. Này các Tỷ-kheo, khi trời lạnh, chân tay nữ báu này trở thanh ấm
áp; khi trời nóng, trở thành lạnh mát. Này các Tỷ-kheo, thân nữ báu tỏa
mùi thơm chiên đàn, miệng tỏa mùi thơm hoa sen. Này các Tỷ-kheo, nữ báu
này dậy trước và đi ngủ sau vua Sát- đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, mọi
hành động làm vua thỏa thích, yên lành khả ái. Này các Tỷ-kheo, nữ báu này
không có môt tư tưởng nào bất tín đối với vua Sát đế lỵ đã làm lễ quán
đảnh, huống nữa là về thân thể. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự xuất
hiện nữ báu của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, cư sĩ báu xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh, chứng được thiên nhãn, do nghiệp dị thục sanh và
nhờ thiên nhãn này có thể thấy châu báu chôn cất có chủ hay không có chủ.
Cư sĩ báu này đến vua Sát-đế-lỵ đã làm quán đảnh và nói:
-- "Tâu Ðại vương, Ðại vương chớ có lo âu, thần sẽ xử lý
thích nghi tài sản Ðại vương".
Này các Tỷ-kheo, thuở xưa vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh,
muốn thử cư sĩ báu này, liền cỡi thuyền, chèo ra giữa sông Hằng và
bảo cư sĩ báu:
"- Này cư sĩ, ta cần vàng.
"- Tâu Ðại vương, hãy cho chèo thuyền gần bờ
nào cũng được. "- Này cư sĩ, ta cần vàng ngay tại đây.
Này các Tỷ-kheo, khi ấy cư sĩ báu thọc hai tay xuống nước nhắc
lên một ghè đầy cả vàng ròng rồi tâu với vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán
đảnh:
"- Tâu Ðại vương, như vậy đã đủ chưa? Tâu Ðại vương, làm
như vậy đã được chưa?" Vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh trả
lời:
"- Này Cư sĩ, như vậy là đủ. Này Cư sĩ, làm như vậy là
được rồi. Này Cư sĩ, cúng dường như vậy là được rồi".
Này các Tỷ-kheo, như vâĩy là sự xuất hiện cư sĩ báu của vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Lai nữa, này các Tỷ-kheo, tướng quân báu xuất hiện cho vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, có học thức, thông minh, sáng suốt, có
khả năng khuyến cáo vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, khi đáng tiến
thì tiến, khi đáng lùi thì lùi, khi đáng dừng thì dừng:
Vị này đến tâu vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh:
"- Tâu Ðại vương, Ðại vương chớ
có lo âu, thần sẽ cố vấn Ðại vương".
Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự xuất hiện tướng
quân báu của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh có đầy đủ bảy báu như vậy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh có đầy đủ bốn như ý đức. Thế nào là bốn?
Này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh đẹp trai, khả
ái, cử chỉ thanh lịch, sắc diện tuyệt luân, thấy xa hơn mọi người.
Này các Tỷ-kheo, đó là như ý đức thứ nhất của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh sống
lâu, tuổi thọ thắng xa các người khác. Này các Tỷ-kheo, đó là như ý đức
thứ hai của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh ít
bệnh tật, ít tai ương thể nhiệt không quá lạnh, không quá nóng, được
quân phân để điều hòa sự tiêu hóa, thắng xa các người khác. Nụày các
Tỷ- kheo, đó là như ý đức thứ ba của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán
đảnh.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ, đã làm lễ quán đảnh
được các Bà-la-môn và Gia chủ ái kính và yêu mến. Này các Tỷ-kheo, như
người cha được các người con ái kính và yêu mến; cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh được các Bà-la-môn và Gia
chủ ái kính và yêu mến. Này các Tỷ-kheo, các vị Bà-la-môn và Gia chủ
được vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh ái kính và yêu mến. Này các
Tỷ-kheo, như những người con được người cha ái kính và yêu mến; cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn và Gia chủ được vua Sát-đế-lỵ, đã
làm lễ quán đảnh ái kính và yêu mến. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh đi đến hoa viên cùng với bốn loại binh
chủng. Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn và Gia chủ đến vua Sát-đế-lỵ đã làm
lễ quán đảnh và tâu rằng:
"- Tâu Ðại vương, hãy cho đi chậm chậm để chúng tôi có thể
chiêm ngưỡng lâu dài hơn.
". Này các Tỷ-kheo nhưng vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh
lại ra lệnh cho người đánh xe:
"- Này anh Ðánh xe, hãy đánh xe chậm chậm đủ để ta có thể
thấy các vị Bà-la-môn và Gia chủ lâu dài hơn".
Này các Tỷ-kheo, như vậy là như ý đức thứ tư của vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh.
Và này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh suy nghĩ:
"Nay ta hãy cho xây những hồ sen giữa các hàng cây tala, cứ cách
khoảng một trăm cung tầm!"
Này các Tỷ-kheo, vua Chuyển luân có đầy đủ bốn như ý đức này.
Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Vua Chuyển luân, đầy đủ
bảy món báu và bốn như ý đức; do nhân duyên ấy, có cảm thọ lạc hỷ
không?
-- Bạch Thế Tôn, vua Chuyển luân chỉ đầy đủ một món báu, do nhân
duyên ấy, có cảm thọ lạc hỷ; còn nói gì đầy đủ bảy món báu và bốn như
ý đức.
Rồi Thế Tôn lượm lên một hòn đá nhỏ, lớn bằng bàn tay và nói
với các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Cái gì lớn hơn? Hòn đá
này, to bằng bàn tay do Ta lượm lên hay núi Tuyết Sơn, vua các loại núi?
-- Thật là quá nhỏ, bạch Thế Tôn là hòn đá này, lớn bằng bàn tay,
do Thế Tôn lượm lên, so sánh với Tuyết Sơn vua các loại núi, nó không
đáng kể gì, nó không bằng một phần ngàn vạn lần (của núi Tuyết), nó
không thể so sánh được.
-- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vua Chuyển luân với bảy món báu và
bốn như ý đức, do nhân duyên ấy cảm thọ lạc hỷ, lạc hỷ ấy so sánh
với Thiên lạc không đáng kể gì, không bằng một phần ngàn vạn lần, không
thể so sánh được. Này các Tỷ-kheo, người có trí ấy, nếu sau một thời
gian rất lâu dài, được sinh làm người, người ấy sẽ sinh ra trong một
gia đình cao quí Sát-đế-lỵ đại gia, hay Bà-la-môn đại gia, hay Cư sĩ đại
gia giàu có, tài sản nhiều, tài nguyên nhiều, vàng và bạc phong phú, tài
vật phong phú, lúa thóc phong phú. Hơn nữa, vị ấy đẹp trai, khả ái, dễ
thương, đầy đủ dung sắc tối thượng. Vị ấy nhận được đồ ăn, đồ
uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, giường, trú xứ và ánh
sáng. Vị ấy sống với thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành.
Sống với thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành, sau khi thân
hoại mạng chung, vị ấy được sanh lên thiện thú, Thiên giới.
1124. Bậc thiện trí có thành tựu lớn trong hiện tại và
tương lai
Người sống đời hiền thiện an lạc trong hiện tại và tương lai:
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người đánh bạc, chính trong canh bạc
thứ nhất (đổ xúc sắc) được tiền bạc rất nhiều. Thật là quá nhỏ, này
các Tỷ-kheo, là canh bạc ấy, nhờ canh bạc đầu tiên này người đánh bạc
ấy được tiền bạc rất nhiều. Lớn hơn canh bạc ấy là canh bạc nhờ đó
người trí sau khi hành thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành,
sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, đây là địa vức hoàn toàn viên mãn của bậc có trí.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ
lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân
đoạn & chú thích: Tỳ Kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 129
[tóm tắt]
Kinh Hiền Ngu
(Bālapaṇḍita Sutta)
(M.iii, 163)
Đức Phật định nghĩa người ngu, nói về quả báo của người ngu
trong hiện tại và tương lai; định nghĩa người trí và nói về quả báo
của người trí trong hiện tại và tương lai.
Người ngu có ba đặc tướng mà do vậy người trí biết được đó là
kẻ ngu: Tư duy ác, nói ác và làm ác. Trong hiện tại, nó có ba quả báo
khổ:
1. Khổ khi hành vi ác của nó được nhiều người biết đến đúng
như thật;
2. Khổ khi thấy những hình phạt của nhà nước áp dụng cho kẻ
phạm tội, nó lo lắng thân phận mình cũng bị hình phạt như thế, nếu
hành vi ác của mình được phát giác;
3. Khổ khi bị ám ảnh bởi ác hạnh của mình đè nặng lương tâm.
Sau khi thân hoại mạng chung, kẻ ngu với những ác hạnh của nó về thân,
ngữ, ý phải bị sanh vào cõi dữ, đọa xứ, địa ngục.
Những thống khổ ở địa ngục gấp muôn vạn lần nỗi khổ của kẻ
bị ba trăm ngọn giáo đâm vào cơ thể, vậy mà nạn nhân vẫn phải sống
để thọ khổ cho đến khi ác nghiệp tiêu trừ.
Do những hưởng thụ và ác nghiệp hiện tại, kẻ ngu phải chịu
sanh vào bàng sanh. Có nhiều loài bàng sanh, loài ăn cỏ, loài ăn phân, loài
sinh ra sống và chết trong bóng tối, loài sinh ra sống và chết trong
nước, loài sinh ra sống và chết ở những chỗ bất tịnh như tử thi,
đống rác, hố nước bẩn, đồ ăn bị thối.
Khi đã rơi vào những đọa xứ nói trên, thật vô cùng khó khăn để
được sanh làm người trở lại. Đức Phật lấy ví dụ có một con rùa mù ở
dưới biển, 100 năm mới trồi đầu lên một lần, trên biển có một khúc
cây có một lỗ hổng trôi dạt theo gió bốn phương thổi đến. Việc con
rùa đút cổ vào trong lỗ hổng của khúc cây trôi giạt giữa biển thì thật
là vô cùng khó. Vậy mà chưa khó bằng được làm người trở lại sau khi đã
rơi vào đọa xứ, vì ở đó chỉ có tình trạng ăn thịt lẫn nhau và mạnh
hiếp yếu, không có pháp hành, phước hành, thiện hành. Nếu kẻ ngu ấy sau
một thời gian rất lâu dài, được làm người trở lại thì nó sẽ sanh vào
gia đình thấp hèn hạ tiện, dung mạo xấu xí, thiếu thốn các đồ ăn,
mặc, ở và làm các ác nghiệp về thân, ngữ, ý. Do những ác hạnh này, sau
khi chết nó lại rơi vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Vợ con lại bị
tù tội, nỗi mất mát lớn lao của nó cũng không sánh được với sự mất
mát to lớn của kẻ ngu do ác nghiệp đưa đến đọa xứ.
Người trí có ba đặc trưng, do vậy, một người trí biết được
đấy là người trí: Tư duy
thiện, nói lời thiện và làm việc thiện. Trong hiện tại, kẻ ấy
cảm thọ ba loại hỷ:
1. Được thiên hạ nói tốt về những việc có thật nơi người trí
ấy;
2. Không sợ bị hình phạt của vua áp dụng cho kẻ ác;
3. Tâm được an ổn vì không buồn sầu, sợ hãi, không bị ác nghiệp
quá khứ đè nặng trên mình vì đã không làm những ác nghiệp ấy. Chết được
sanh Thiên giới.
Rất nhiều sự an lạc của các cõi trời. Ví dụ Vua chuyển luân có
bảy thứ báu là xa luân, voi, ngựa, ngọc nữ, châu báu, cư sĩ báu và
tướng quân báu; lại có bốn Như ý đức là dung sắc đẹp đẽ, thọ mạng
lâu dài, sức khỏe hoàn toàn, được mọi người yêu mến và yêu mến mọi
người. Do duyên bảy báu và bốn đức ấy, Vua chuyển luân cảm thọ nhiều
hỷ lạc. Vậy mà đem so sánh với hỷ lạc Thiên giới, thì chỉ như hòn đá
nhỏ sánh với Tuyết sơn.
Người trí ấy sau một thời gian dài được sanh vào gia đình cao
quý, dung mạo đẹp đẽ, có nhiều đồ dùng và trang sức, sống với thân,
ngữ, ý thiện hành. Khi chết được sanh Thiên giới. Lợi ích thiện nghiệp
của người trí còn to lớn hơn nhiều cái lợi của người ăn canh bạc
đầu tiên, được rất nhiều tiền bạc.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, các vị Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ
lời Thế Tôn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 129 [dàn ý]
Kinh Hiền Ngu
(Bālapaṇḍita Sutta)
(M.iii, 163)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và thuyết giảng.
B. Chánh kinh:
I. Những đặc tướng,
những nỗi khổ, những cảnh giới đọa xứ của người ngu:
1.Ba đặc điểm, đặc tướng của người ngu.
2.Ba loại khổ ưu của người ngu hay cảm thọ.
3.Kẻ ngu sau mạng chung phải sanh vào ác thú, đọa xứ, địa ngục.
4. Nỗi khổ trong địa ngục, bàng sanh, đọa xứ:
a. Ví dụ với nỗi đau khổ trong địa ngục:
i. Ví dụ những nỗi khổ đau.
ii. Năm loại bàng sanh và sự đau khổ trong loại bàng sanh.
b. Đã sanh vào đọa xứ rất khó làm người trở lại vì ở đấy
không có pháp hành.
Nếu được làm người phải sanh trong gia đình hạ cấp, nghèo đói, xấu xí,
và hành ác hạnh.
5. Kẻ ngu hành ác hạnh như đánh canh bạc, khi thân hoại mạng chung phải
sanh vào đọa xứ, địa ngục.
II. Những đặc tướng,
những hỷ lạc, những cảnh giới thiện thú của người trí:
1. Ba đặc điểm, đặc tướng của người trí.
2. Ba loại lạc hỷ của người trí.
3. Bậc trí, sau khi mạng chung được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi
đời này.
4. Thiên giới hoàn toàn khả ái, tốt đẹp, thích thú:
a. Ví dụ sự tốt đẹp của thiên giới:
i. Vua Chuyển luân với bảy món báu, 4 như ý đức.
ii. Bảy món báu.
iii. Bốn như ý đức.
b. Lạc hỷ của vua Chuyển luân, với 7 món báu và 4 như ý
đức.
c. Được sanh làm người, sinh trong các gia đình phú quý.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 129 [toát yếu]
Kinh Hiền Ngu
(Bālapaṇḍita Sutta)
(M.iii, 163)
I. Toát yếu
Fools and Wise Men.
The sufferings of hell and animal life onto which a
fool is reborn through his evil deeds, and the pleasures of heaven that a wise
man reaps through his good deeds.
Kẻ ngu và người trí.
Những thống khổ của cõi địa ngục và súc sinh
mà do ác nghiệp, kẻ ngu tái sinh vào, và những thiên lạc mà người
trí gặt hái do thiện hành.
II. Tóm tắt
Phật dạy chúng tỷ kheo về kẻ ngu và người
trí.
A. Người ngu:
Có ba đặc điểm là nghĩ ác, nói ác và làm
ác; cảm thọ ba loại khổ trong hiện tại khi nghe ai nói động đến việc
ác mình có làm, khi thấy kẻ có tội như mình bị trừng phạt bằng
các cực hình [1], và khi nằm ngồi thường bị ám ảnh bởi tội lỗi
đã làm, như xế chiều bóng núi đổ trên mặt đất. Khi chết người ngu
tái sinh vào cõi dữ như địa ngục chịu khổ hơn cả người mỗi ngày
bị đâm ba trăm mũi giáo [2], hoặc vào các loài bàng sinh ăn bẩn,
sinh ra và chết nơi u tối ẩm thấp tùy theo nghiệp ácđã làm. Trả
hết nghiệp được làm người thì bị sinh vào gia đình hèn hạ, lại
làm ác và phải đọa như trước. Ðược làm người là một cơ may
hiếm có như rùa mù chui cổ vào một tấm ván có lỗ trôi lênh đênh
trên biển. Như người thua canh bạc đầu tiên phải bán cả gia sản vợ
con là một sự mất mát lớn, nhưng còn vô vàn lớn hơn thế nữa là
sự mất mát của kẻ ngu làm ác bị đọa. Ðây là chu kỳ trọn vẹn của
kẻ ngu [3].
B. Người trí:
Ðặc điểm của người trí là nghĩ lành, nói
lành và làm lành; hiện tại cảm thọ va sự vui là lúc nghe bàn tán
sự từ bỏ các ác hành và tự xét mình không làm ác [4]; lúc thấy
kẻ ác bị trừng phạt do ác hành và tự xét mình không có như vậy;
và lúc nghỉ ngơi tự xét đã không làm điều quấy nên được an ổn.
Khi chết tái sinh vào cõi trời hưởng thiên lạc thù thắng hơn vua
chuyển luân [5] với bảy báu (xe, voi, ngựa, cư sĩ, nữ báu, tướng
quân và châu báu) và bốn đức (đẹp, sống lâu, khỏe mạnh, được dân
chúng yêu mến). Sau một thời gian dài hưởng thiên lạc, nếu lại sinh
làm người thì vào nhà quyền quý cao sang. Như kẻ đánh bạc thắng
canh bạc đầu tiên được rất nhiều tài sản, lợi lạc của người trí
làm ba thiện hành còn vạn lần lớn hơn. Ðây là chu kỳ trọn vẹn của
người trí [6].
III. CHÚ GIẢI
1. Như kinh số 13.
2. Ẩn dụ sau đây được giải thích trong kinh
Tương ưng 12 để hiển thị sự ăn bằng thức (thức thực).
3. MA: Nghĩa là, kẻ ngu do làm ba ác hành mà
tái sinh vào địa ngục. Do quả báo của nghiệp địa ngục còn sót lại,
nên khi được trở lại làm người thì sinh vào gia đình hèn hạ, rồi
lại làm ba ác hành và lại đọa địa ngục.
4. Mặc dù trong nguyên bản Pali không có chữ na
ở đầu, ở đây cần thêm na mới có nghĩa muốn nói, như trong các
mệnh đề tương đương ở đoạn sau.
5. Xem kinh 91. Huyền thoại về Chuyển luân
vương được bàn rộng rãi trong kinh Trường bộ 17 và 26.
6. MA: Nghĩa là, người trí nhờ làm ba thiện
hành mà được sinh lên trời. Khi trở lại nhân gian, họ sinh vào nhà
lành, có tài sản và sắc đẹp. Họ lại làm ba thiện hành và lại sinh
lên trời. Cần để ý rằng sự hoàn thiện của người trí ở đây hoàn
toàn thuộc thế gian, không nói gì đến những giai đoạn thù thắng hơn
trên con đường đưa đến giải thoát.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
‘Phật dạy chúng tỷ kheo
Về kẻ ngu, người trí
Ba đặc điểm kẻ ngu
Là nghĩ, nói, làm ác.
Ba đặc điểm kẻ ngu
Là nghĩ, nói, làm ác.
Hiện tại có ba khổ:
Khi nghe chuyện liên hệ
Những việc ác mình làm
Khi thấy kẻ như mình
Bị phạt bằng cực hình
Khi tâm tư bị ám
Bởi tội lỗi đã làm
Như xế chiều bóng núi.
Khi tâm tư bị ám
Bởi tội lỗi đã làm
Như xế chiều bóng núi.
Chết tái sinh cõi dữ
Ðọa địa ngục, bàng sinh
Ðọa địa ngục, bàng sinh
Theo nghiệp trước kia
tạo.
Ðã đọa vào cõi ấy
Thì khó lại làm người
Rùa mù gặp lỗ ván
Trôi nổi giữa biển khơi
Ðến khi được làm người
Tái sinh nhà hèn hạ
Lại làm ác, lại đọa.
Tình trạng thảm thê hơn
Lại làm ác, lại đọa.
Tình trạng thảm thê hơn
Kẻ thua canh bạc lớn
Ðấy bức tranh toàn vẹn
Hoàn cảnh của kẻ ngu.
‘Người trí có đặc điểm
Nghĩ nói làm điều lành
Hiện tại có ba vui:
Khi nghe chuyện liên hệ
Khi nghe chuyện liên hệ
Các ác mình đã bỏ;
Thấy kẻ bị trừng phạt
Do ác hành đã làm
Tự xét mình không vậy;
Và do không làm quấy
Tâm tư luôn an vui
Chết sinh vào cõi trời
Chết sinh vào cõi trời
Hưởng thiên lạc thù
thắng
Hơn cả chuyển luân
vương
Với bảy báu bốn đức
Sau một thời gian dài
Hưởng thụ các thiên lạc
Nếu trở lại làm người
Sinh vào nhà quyền quý
Lợi lạc của kẻ trí
Thật vô vàn lớn hơn
Ðánh thắng canh bạc lớn.
Ðấy bức tranh toàn vẹn
Hoàn cảnh của kẻ hiền.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí
Hải
-ooOoo-
129. Bālapaṇḍitasuttaṃ [Mūla]
246. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca : ''tīṇimāni, bhikkhave, bālassa bālalakkhaṇāni bālanimittāni
bālāpadānāni. Katamāni tīṇi? idha, bhikkhave, bālo duccintitacintī ca hoti
dubbhāsitabhāsī ca dukkaṭakammakārī ca. No cetaṃ [no cedaṃ (Saṃyutta Nikāye
3.27-28)], bhikkhave, bālo
duccintitacintī ca abhavissa dubbhāsitabhāsī ca dukkaṭakammakārī ca kena
naṃ [na tena naṃ (ka.), na naṃ (?)] paṇḍitā jāneyyuṃ : 'bālo ayaṃ bhavaṃ
asappurisoti? yasmā ca kho, bhikkhave, bālo duccintitacintī ca hoti
dubbhāsitabhāsī ca dukkaṭakammakārī ca tasmā naṃ paṇḍitā jānanti : 'bālo ayaṃ
bhavaṃ asappurisoti. Sa kho so, bhikkhave, bālo tividhaṃ diṭṭheva dhamme dukkhaṃ
domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Sace, bhikkhave, bālo sabhāyaṃ vā nisinno hoti,
rathikāya [rathiyāya (bahūsu)] vā nisinno hoti, siṅghāṭake vā nisinno hoti
tatra ce jano tajjaṃ tassāruppaṃ kathaṃ manteti. Sace, bhikkhave, bālo pāṇātipātī
hoti, adinnādāyī hoti, kāmesumicchācārī hoti, musāvādī hoti, surāmerayamajjapamādaṭṭhāyī
hoti, tatra, bhikkhave, bālassa evaṃ hoti
: 'yaṃ kho jano tajjaṃ tassāruppaṃ kathaṃ manteti, saṃvijjanteva te [saṃvijjante
te ca (sī. syā. kaṃ. pī.)] dhammā mayi, ahañca tesu dhammesu sandissāmīti. Idaṃ,
bhikkhave, bālo paṭhamaṃ diṭṭheva dhamme dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti.
247. ''Puna
caparaṃ, bhikkhave, bālo passati rājāno coraṃ āgucāriṃ gahetvā vividhā
kammakāraṇā kārente : kasāhipi tāḷente
vettehipi tāḷente addhadaṇḍakehipi tāḷente hatthampi chindante pādampi
chindante hatthapādampi chindante kaṇṇampi chindante nāsampi chindante kaṇṇanāsampi
chindante bilaṅgathālikampi karonte saṅkhamuṇḍikampi karonte rāhumukhampi
karonte jotimālikampi karonte hatthapajjotikampi karonte erakavattikampi
karonte cīrakavāsikampi karonte eṇeyyakampi karonte baḷisamaṃsikampi karonte
kahāpaṇikampi karonte khārāpatacchikampi
[khārāpaṭicchakampi (ka.)] karonte palighaparivattikampi karonte palālapīṭhakampi
[palālapiṭṭhakampi (pī.)] karonte tattenapi telena osiñcante sunakhehipi
khādāpente jīvantampi sūle uttāsente asināpi sīsaṃ chindante. Tatra, bhikkhave,
bālassa evaṃ hoti : 'yathārūpānaṃ kho pāpakānaṃ kammānaṃ hetu rājāno coraṃ
āgucāriṃ gahetvā vividhā kammakāraṇā kārenti : kasāhipi tāḷenti - pe - asināpi
sīsaṃ chindanti saṃvijjanteva te dhammā mayi, ahañca tesu dhammesu sandissāmi.
Maṃ cepi rājāno [sace mampi (ka.)] jāneyyuṃ, mampi rājāno gahetvā vividhā
kammakāraṇā kāreyyuṃ : kasāhipi tāḷeyyuṃ - pe - jīvantampi sūle
uttāseyyuṃ, asināpi sīsaṃ chindeyyunti. Idampi, bhikkhave, bālo dutiyaṃ diṭṭheva
dhamme dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti.
248. ''Puna
caparaṃ, bhikkhave, bālaṃ pīṭhasamārūḷhaṃ vā mañcasamārūḷhaṃ vā chamāyaṃ
[chamāya (sī. pī.)] vā semānaṃ, yānissa pubbe pāpakāni kammāni katāni kāyena
duccaritāni vācāya duccaritāni manasā duccaritāni tānissa tamhi samaye
olambanti ajjholambanti abhippalambanti. Seyyathāpi, bhikkhave, mahataṃ
pabbatakūṭānaṃ chāyā sāyanhasamayaṃ pathaviyā olambanti ajjholambanti
abhippalambanti evameva kho, bhikkhave, bālaṃ pīṭhasamārūḷhaṃ vā mañcasamārūḷhaṃ
vā chamāyaṃ vā semānaṃ, yānissa pubbe pāpakāni
kammāni katāni kāyena duccaritāni vācāya duccaritāni manasā duccaritāni
tānissa tamhi samaye olambanti ajjholambanti abhippalambanti. Tatra, bhikkhave,
bālassa evaṃ hoti : 'akataṃ vata me kalyāṇaṃ, akataṃ kusalaṃ, akataṃ bhīruttāṇaṃ
kataṃ pāpaṃ, kataṃ luddaṃ, kataṃ kibbisaṃ. Yāvatā, bho, akatakalyāṇānaṃ
akatakusalānaṃ akatabhīruttāṇānaṃ katapāpānaṃ kataluddānaṃ katakibbisānaṃ gati
taṃ gatiṃ pecca gacchāmīti. So socati kilamati paridevati urattāḷiṃ kandati
sammohaṃ āpajjati. Idampi, bhikkhave, bālo tatiyaṃ diṭṭheva dhamme dukkhaṃ
domanassaṃ paṭisaṃvedeti. ''Sa kho so,
bhikkhave, bālo kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā
duccaritaṃ caritvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ
upapajjati. Yaṃ kho taṃ, bhikkhave, sammā vadamāno vadeyya : 'ekantaṃ aniṭṭhaṃ
ekantaṃ akantaṃ ekantaṃ amanāpanti, nirayameva taṃ sammā vadamāno vadeyya :
'ekantaṃ aniṭṭhaṃ ekantaṃ akantaṃ ekantaṃ
amanāpanti. Yāvañcidaṃ, bhikkhave, upamāpi [upamāhipi (sī.)] na sukarā yāva
dukkhā nirayāti.
249. Evaṃ
vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca : ''sakkā pana, bhante, upamaṃ
kātunti? ''sakkā bhikkhūti Bhagavā avoca. Seyyathāpi, bhikkhu, coraṃ
āgucāriṃ gahetvā rañño dasseyyuṃ : 'ayaṃ kho, deva, coro āgucārī, imassa yaṃ
icchasi taṃ daṇḍaṃ paṇehīti. Tamenaṃ rājā evaṃ vadeyya : 'gacchatha, bho, imaṃ
purisaṃ pubbaṇhasamayaṃ sattisatena hanathāti . Tamenaṃ pubbaṇhasamayaṃ
sattisatena haneyyuṃ. Atha rājā majjhanhikasamayaṃ [majjhantikasamayaṃ (sī.
syā. kaṃ. ka.), majjhantikaṃ samayaṃ (pī.)] evaṃ vadeyya : 'ambho, kathaṃ so
purisoti? '''tatheva, deva, jīvatīti. Tamenaṃ rājā evaṃ vadeyya : 'gacchatha,
bho, taṃ purisaṃ majjhanhikasamayaṃ sattisatena hanathāti. Tamenaṃ
majjhanhikasamayaṃ sattisatena haneyyuṃ. Atha rājā sāyanhasamayaṃ evaṃ vadeyya
: 'ambho, kathaṃ so purisoti? 'tatheva, deva, jīvatīti. Tamenaṃ rājā evaṃ
vadeyya : 'gacchatha, bho, taṃ purisaṃ sāyanhasamayaṃ sattisatena hanathāti.
Tamenaṃ sāyanhasamayaṃ sattisatena
haneyyuṃ. Taṃ kiṃ maññatha , bhikkhave, api nu so puriso tīhi sattisatehi
haññamāno tatonidānaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvediyethāti? ''ekissāpi,
bhante, sattiyā haññamāno so puriso tatonidānaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvediyetha,
ko pana vādo tīhi sattisatehīti?
250. Atha kho Bhagavā
parittaṃ pāṇimattaṃ pāsāṇaṃ gahetvā bhikkhū āmantesi : ''taṃ kiṃ maññatha,
bhikkhave, katamo nu kho mahantataro : yo cāyaṃ mayā paritto pāṇimatto pāsāṇo
gahito, yo ca himavā pabbatarājāti? ''appamattako ayaṃ, bhante, bhagavatā
paritto pāṇimatto pāsāṇo gahito, himavantaṃ pabbatarājānaṃ upanidhāya saṅkhampi
na upeti, kalabhāgampi na upeti, upanidhampi [upanidhimpi (sī. pī.)] na upeti.
''Evameva kho, bhikkhave, yaṃ so puriso tīhi sattisatehi haññamāno tatonidānaṃ
dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti taṃ nirayakassa dukkhassa upanidhāya saṅkhampi
na upeti, kalabhāgampi na upeti, upanidhampi na upeti. ''Tamenaṃ, bhikkhave,
nirayapālā pañcavidhabandhanaṃ nāma kammakāraṇaṃ karonti : tattaṃ ayokhilaṃ
[ayokhīlaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] hatthe gamenti, tattaṃ ayokhilaṃ dutiye hatthe
gamenti, tattaṃ ayokhilaṃ pāde gamenti, tattaṃ ayokhilaṃ dutiye pāde gamenti,
tattaṃ ayokhilaṃ majjhe urasmiṃ gamenti. So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na
ca tāva kālaṃ karoti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti [byantihoti (pī. ka.)].
Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā saṃvesetvā
kuṭhārīhi [kudhārīhi (ka.)] tacchanti. So tattha dukkhā tibbā - pe -
byantīhoti. Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā uddhaṃpādaṃ adhosiraṃ gahetvā vāsīhi
tacchanti. So tattha dukkhā tibbā - pe -
byantīhoti. Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā rathe yojetvā ādittāya pathaviyā
sampajjalitāya sajotibhūtāya [sañjotibhūtāya (syā. kaṃ. pī.)] sārentipi
paccāsārentipi . So tattha dukkhā tibbā - pe - byantīhoti. Tamenaṃ, bhikkhave,
nirayapālā mahantaṃ aṅgārapabbataṃ ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ
āropentipi oropentipi. So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca
tāva kālaṃ karoti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti. Tamenaṃ, bhikkhave,
nirayapālā uddhaṃpādaṃ adhosiraṃ gahetvā tattāya lohakumbhiyā pakkhipanti
ādittāya sampajjalitāya sajotibhūtāya. So tattha pheṇuddehakaṃ paccati. So
tattha pheṇuddehakaṃ paccamāno sakimpi uddhaṃ gacchati, sakimpi adho gacchati,
sakimpi tiriyaṃ gacchati. So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na
ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti. Tamenaṃ, bhikkhave,
nirayapālā [nirayapālā punappunaṃ (ka.)] mahāniraye pakkhipanti. So kho pana,
bhikkhave, mahānirayo :
''Catukkaṇṇo
catudvāro, vibhatto bhāgaso mito.
Ayopākārapariyanto,
ayasā paṭikujjito..
''Tassa
ayomayā bhūmi, jalitā tejasā yutā.
Samantā
yojanasataṃ, pharitvā tiṭṭhati sabbadā..
''Anekapariyāyenapi kho ahaṃ, bhikkhave, nirayakathaṃ katheyyaṃ yāvañcidaṃ,
bhikkhave, na sukarā akkhānena pāpuṇituṃ yāva dukkhā nirayā.
251. ''Santi,
bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā tiṇabhakkhā. Te allānipi tiṇāni sukkhānipi tiṇāni
dantullehakaṃ khādanti. Katame ca, bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā tiṇabhakkhā?
hatthī assā goṇā gadrabhā ajā migā, ye vā panaññepi keci tiracchānagatā pāṇā tiṇabhakkhā. Sa kho so, bhikkhave, bālo
idha pubbe rasādo idha pāpāni kammāni karitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tesaṃ
sattānaṃ sahabyataṃ upapajjati ye te sattā tiṇabhakkhā. ''Santi, bhikkhave,
tiracchānagatā pāṇā gūthabhakkhā. Te dūratova gūthagandhaṃ ghāyitvā dhāvanti :
'ettha bhuñjissāma, ettha bhuñjissāmāti. Seyyathāpi nāma brāhmaṇā āhutigandhena dhāvanti : 'ettha
bhuñjissāma, ettha bhuñjissāmāti evameva kho, bhikkhave, santi tiracchānagatā
pāṇā gūthabhakkhā, te dūratova gūthagandhaṃ
ghāyitvā dhāvanti : 'ettha bhuñjissāma, ettha bhuñjissāmāti. Katame ca,
bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā gūthabhakkhā? kukkuṭā sūkarā soṇā siṅgālā, ye vā
panaññepi keci tiracchānagatā pāṇā gūthabhakkhā. Sa kho so, bhikkhave, bālo
idha pubbe rasādo idha pāpāni kammāni karitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tesaṃ
sattānaṃ sahabyataṃ upapajjati ye te
sattā gūthabhakkhā. ''Santi, bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā andhakāre jāyanti
andhakāre jīyanti [jiyyanti (ka.)] andhakāre mīyanti [miyyanti (ka.)]. Katame
ca, bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā andhakāre jāyanti andhakāre jīyanti
andhakāre mīyanti? kīṭā puḷavā [paṭaṅgā (syā. kaṃ. ka.)] gaṇḍuppādā, ye vā
panaññepi keci tiracchānagatā pāṇā andhakāre jāyanti andhakāre jīyanti
andhakāre mīyanti. Sa kho so, bhikkhave, bālo idha pubbe rasādo, idha pāpāni
kammāni karitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tesaṃ sattānaṃ sahabyataṃ upapajjati
ye te sattā andhakāre jāyanti andhakāre jīyanti andhakāre mīyanti. ''Santi,
bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā udakasmiṃ jāyanti udakasmiṃ jīyanti udakasmiṃ
mīyanti. Katame ca, bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā udakasmiṃ jāyanti udakasmiṃ
jīyanti udakasmiṃ mīyanti? macchā kacchapā susumārā, ye vā panaññepi keci
tiracchānagatā pāṇā udakasmiṃ jāyanti udakasmiṃ jīyanti udakasmiṃ mīyanti. Sa
kho so, bhikkhave, bālo idha pubbe rasādo idha pāpāni kammāni karitvā kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā tesaṃ sattānaṃ sahabyataṃ upapajjati ye te sattā udakasmiṃ
jāyanti udakasmiṃ jīyanti udakasmiṃ mīyanti. ''Santi , bhikkhave,
tiracchānagatā pāṇā asucismiṃ jāyanti asucismiṃ
jīyanti asucismiṃ mīyanti. Katame ca, bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā
asucismiṃ jāyanti asucismiṃ jīyanti asucismiṃ mīyanti? ye te, bhikkhave, sattā
pūtimacche vā jāyanti pūtimacche vā jīyanti pūtimacche vā mīyanti pūtikuṇape vā
- pe - pūtikummāse vā... candanikāya vā... oligalle vā jāyanti, (ye vā panaññepi keci
tiracchānagatā pāṇā asucismiṃ jāyanti asucismiṃ jīyanti asucismiṃ mīyanti.) [(
) Natthi sī. syā. kaṃ. pī. potthakesu] sa kho so, bhikkhave, bālo idha pubbe rasādo idha pāpāni kammāni karitvā
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tesaṃ sattānaṃ sahabyataṃ upapajjati ye te sattā
asucismiṃ jāyanti asucismiṃ jīyanti asucismiṃ mīyanti. ''Anekapariyāyenapi kho
ahaṃ, bhikkhave, tiracchānayonikathaṃ katheyyaṃ yāvañcidaṃ, bhikkhave, na
sukaraṃ akkhānena pāpuṇituṃ yāva dukkhā tiracchānayoni.
252.
''Seyyathāpi, bhikkhave, puriso ekacchiggalaṃ yugaṃ mahāsamudde pakkhipeyya.
Tamenaṃ puratthimo vāto pacchimena saṃhareyya, pacchimo vāto puratthimena saṃhareyya,
uttaro vāto dakkhiṇena saṃhareyya, dakkhiṇo vāto uttarena saṃhareyya. Tatrāssa
kāṇo kacchapo, so vassasatassa vassasatassa [vassasatassa vassasahassassa
vassasatasahassassa (sī.), vassasatassa (syā. kaṃ. pī.)] accayena sakiṃ
ummujjeyya. Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so kāṇo kacchapo amusmiṃ
ekacchiggale yuge gīvaṃ paveseyyāti? (''no hetaṃ, bhante.) [( ) Natthi sī. pī.
potthakesu] ''yadi pana [yadi nūna (sī. syā. kaṃ. pī.)], bhante, kadāci
karahaci dīghassa addhuno accayenāti.
''Khippataraṃ kho so, bhikkhave, kāṇo kacchapo amusmiṃ ekacchiggale yuge gīvaṃ
paveseyya, ato dullabhatarāhaṃ, bhikkhave, manussattaṃ vadāmi sakiṃ
vinipātagatena bālena. Taṃ kissa hetu? na hettha, bhikkhave, atthi dhammacariyā
samacariyā kusalakiriyā puññakiriyā. Aññamaññakhādikā ettha, bhikkhave, vattati
dubbalakhādikā. ''Sa kho so, bhikkhave, bālo sace kadāci karahaci dīghassa
addhuno accayena manussattaṃ āgacchati, yāni tāni nīcakulāni : caṇḍālakulaṃ vā
nesādakulaṃ vā venakulaṃ [veṇakulaṃ (sī. pī.)] vā rathakārakulaṃ vā pukkusakulaṃ
vā. Tathārūpe kule paccājāyati dalidde appannapānabhojane kasiravuttike, yattha
kasirena ghāsacchādo labbhati. So ca hoti dubbaṇṇo duddasiko okoṭimako
bavhābādho [bahvābādho (ka.)] kāṇo vā kuṇī vā khujjo vā pakkhahato vā na
lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa
mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena duccaritaṃ carati
vācāya duccaritaṃ carati manasā duccaritaṃ carati. So kāyena duccaritaṃ caritvā
vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. ''Seyyathāpi, bhikkhave,
akkhadhutto paṭhameneva kaliggahena puttampi jīyetha, dārampi jīyetha, sabbaṃ
sāpateyyampi jīyetha, uttaripi adhibandhaṃ
[anubandhaṃ (sī. pī.), addhubandhaṃ (syā. kaṃ.)] nigaccheyya.
Appamattako so, bhikkhave, kaliggaho yaṃ so akkhadhutto paṭhameneva kaliggahena
puttampi jīyetha, dārampi jīyetha, sabbaṃ sāpateyyampi jīyetha, uttaripi
adhibandhaṃ nigaccheyya. Atha kho ayameva tato mahantataro kaliggaho yaṃ so
bālo kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ
caritvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ
upapajjati. Ayaṃ, bhikkhave, kevalā paripūrā [kevalaparipūrā (sī. pī.)
mAnguttara Nikāye 1.244 pāḷiyā saṃsandetabbā] bālabhūmīti.
253. ''Tīṇimāni,
bhikkhave, paṇḍitassa paṇḍitalakkhaṇāni paṇḍitanimittāni paṇḍitāpadānāni.
Katamāni tīṇi? idha, bhikkhave, paṇḍito sucintitacintī ca hoti subhāsitabhāsī
ca sukatakammakārī ca. No cetaṃ, bhikkhave, paṇḍito sucintitacintī ca abhavissa
subhāsitabhāsī ca sukatakammakārī ca, kena naṃ [na tena naṃ (ka.), na naṃ (?)]
paṇḍitā jāneyyuṃ : 'paṇḍito ayaṃ bhavaṃ sappurisoti? yasmā ca kho, bhikkhave,
paṇḍito sucintitacintī ca hoti subhāsitabhāsī ca sukatakammakārī ca tasmā naṃ
paṇḍitā jānanti : 'paṇḍito ayaṃ bhavaṃ sappurisoti. Sa kho so, bhikkhave, paṇḍito
tividhaṃ diṭṭheva dhamme sukhaṃ somanassaṃ paṭisaṃvedeti. Sace, bhikkhave, paṇḍito
sabhāyaṃ vā nisinno hoti, rathikāya vā nisinno hoti, siṅghāṭake vā nisinno hoti
tatra ce jano tajjaṃ tassāruppaṃ kathaṃ manteti . Sace, bhikkhave, paṇḍito pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā paṭivirato hoti,
kāmesumicchācārā paṭivirato hoti,
musāvādā paṭivirato hoti, surāmerayamajjappamādaṭṭhānā paṭivirato hoti tatra,
bhikkhave, paṇḍitassa evaṃ hoti : 'yaṃ kho jano tajjaṃ tassāruppaṃ kathaṃ
manteti saṃvijjanteva te dhammā mayi, ahañca tesu dhammesu sandissāmīti. Idaṃ,
bhikkhave, paṇḍito paṭhamaṃ diṭṭheva dhamme sukhaṃ somanassaṃ paṭisaṃvedeti.
254.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, paṇḍito
passati rājāno coraṃ āgucāriṃ gahetvā vividhā kammakāraṇā kārente : kasāhipi tāḷente
vettehipi tāḷente addhadaṇḍakehipi tāḷente hatthampi chindante pādampi
chindante hatthapādampi chindante kaṇṇampi chindante nāsampi chindante kaṇṇanāsampi
chindante bilaṅgathālikampi karonte saṅkhamuṇḍikampi karonte rāhumukhampi
karonte jotimālikampi karonte hatthapajjotikampi karonte erakavattikampi
karonte cīrakavāsikampi karonte eṇeyyakampi karonte balisamaṃsikampi karonte
kahāpaṇikampi karonte khārāpatacchikampi karonte palighaparivattikampi karonte
palālapīṭhakampi karonte tattenapi telena osiñcante sunakhehipi khādāpente
jīvantampi sūle uttāsente asināpi sīsaṃ chindante. Tatra, bhikkhave, paṇḍitassa
evaṃ hoti : 'yathārūpānaṃ kho pāpakānaṃ kammānaṃ hetu rājāno coraṃ āgucāriṃ
gahetvā vividhā kammakāraṇā kārenti kasāhipi tāḷenti, vettehipi tāḷenti,
addhadaṇḍakehipi tāḷenti, hatthampi chindanti , pādampi chindanti,
hatthapādampi chindanti, kaṇṇampi chindanti, nāsampi chindanti, kaṇṇanāsampi
chindanti, bilaṅgathālikampi karonti, saṅkhamuṇḍikampi karonti, rāhumukhampi
karonti, jotimālikampi karonti, hatthapajjotikampi karonti, erakavattikampi karonti,
cīrakavāsikampi karonti, eṇeyyakampi karonti, balisamaṃsikampi karonti, kahāpaṇikampi
karonti, khārāpatacchikampi karonti, palighaparivattikampi karonti, palālapīṭhakampi
karonti, tattenapi telena osiñcanti, sunakhehipi khādāpenti, jīvantampi sūle uttāsenti,
asināpi sīsaṃ chindanti, na te dhammā mayi saṃvijjanti, ahañca na tesu dhammesu
sandissāmīti. Idampi, bhikkhave, paṇḍito dutiyaṃ diṭṭheva dhamme sukhaṃ
somanassaṃ paṭisaṃvedeti.
255.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, paṇḍitaṃ pīṭhasamārūḷhaṃ
vā mañcasamārūḷhaṃ vā chamāyaṃ vā semānaṃ, yānissa pubbe kalyāṇāni kammāni
katāni kāyena sucaritāni vācāya sucaritāni manasā sucaritāni tānissa tamhi
samaye olambanti - pe - seyyathāpi, bhikkhave, mahataṃ pabbatakūṭānaṃ chāyā
sāyanhasamayaṃ pathaviyā olambanti ajjholambanti abhippalambanti evameva kho,
bhikkhave, paṇḍitaṃ pīṭhasamārūḷhaṃ vā mañcasamārūḷhaṃ vā chamāyaṃ vā semānaṃ
yānissa pubbe kalyāṇāni kammāni katāni kāyena sucaritāni vācāya sucaritāni
manasā sucaritāni tānissa tamhi samaye olambanti ajjholambanti abhippalambanti.
Tatra, bhikkhave, paṇḍitassa evaṃ hoti :
'akataṃ vata me pāpaṃ, akataṃ luddaṃ, akataṃ kibbisaṃ kataṃ kalyāṇaṃ, kataṃ
kusalaṃ, kataṃ bhīruttāṇaṃ. Yāvatā, bho, akatapāpānaṃ akataluddānaṃ
akatakibbisānaṃ katakalyāṇānaṃ katakusalānaṃ katabhīruttāṇānaṃ gati taṃ gatiṃ pecca gacchāmīti. So na
socati, na kilamati, na paridevati, na urattāḷiṃ kandati, na sammohaṃ āpajjati.
Idampi, bhikkhave, paṇḍito tatiyaṃ diṭṭheva dhamme sukhaṃ somanassaṃ paṭisaṃvedeti.
''Sa kho so, bhikkhave, paṇḍito kāyena sucaritaṃ caritvā vācāya sucaritaṃ
caritvā manasā sucaritaṃ caritvā kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. Yaṃ kho taṃ, bhikkhave,
sammā vadamāno vadeyya : 'ekantaṃ iṭṭhaṃ ekantaṃ kantaṃ ekantaṃ manāpanti,
saggameva taṃ sammā vadamāno vadeyya : 'ekantaṃ iṭṭhaṃ ekantaṃ kantaṃ ekantaṃ
manāpanti. Yāvañcidaṃ, bhikkhave, upamāpi na sukarā yāva sukhā saggāti.
256. Evaṃ
vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca : ''sakkā pana, bhante, upamaṃ
kātunti? ''sakkā bhikkhūti Bhagavā avoca. ''Seyyathāpi, bhikkhave, rājā
cakkavattī sattahi ratanehi samannāgato catūhi ca iddhīhi tatonidānaṃ sukhaṃ
somanassaṃ paṭisaṃvedeti. Katamehi sattahi? idha, bhikkhave, rañño khattiyassa
muddhāvasittassa tadahuposathe pannarase sīsaṃnhātassa uposathikassa uparipāsādavaragatassa
dibbaṃ cakkaratanaṃ pātubhavati
sahassāraṃ sanemikaṃ sanābhikaṃ sabbākāraparipūraṃ. Taṃ disvāna rañño
khattiyassa muddhāvasittassa evaṃ hoti [etadahosi (syā. kaṃ. ka.)] : 'sutaṃ kho
pana metaṃ yassa rañño khattiyassa
muddhāvasittassa tadahuposathe pannarase sīsaṃnhātassa uposathikassa
uparipāsādavaragatassa dibbaṃ cakkaratanaṃ pātubhavati sahassāraṃ sanemikaṃ
sanābhikaṃ sabbākāraparipūraṃ, so hoti rājā cakkavattīti. Assaṃ nu kho ahaṃ
rājā cakkavattīti? ''atha kho, bhikkhave, rājā khattiyo muddhāvasitto vāmena
hatthena bhiṅkāraṃ gahetvā dakkhiṇena hatthena cakkaratanaṃ abbhukkirati :
'pavattatu bhavaṃ cakkaratanaṃ, abhivijinātu bhavaṃ cakkaratananti. Atha kho taṃ,
bhikkhave, cakkaratanaṃ puratthimaṃ disaṃ pavattati. Anvadeva rājā cakkavattī saddhiṃ
caturaṅginiyā senāya. Yasmiṃ kho pana, bhikkhave, padese cakkaratanaṃ patiṭṭhāti
tattha rājā cakkavattī vāsaṃ upeti saddhiṃ caturaṅginiyā senāya. Ye kho pana,
bhikkhave , puratthimāya disāya paṭirājāno te rājānaṃ cakkavattiṃ upasaṅkamitvā
evamāhaṃsu : 'ehi kho, mahārāja! svāgataṃ te, mahārāja [svāgataṃ mahārāja (sī.
syā. kaṃ. pī.)]! sakaṃ te, mahārāja! anusāsa, mahārājāti . Rājā cakkavattī
evamāha : 'pāṇo na hantabbo, adinnaṃ nādātabbaṃ, kāmesumicchā na caritabbā,
musā na bhāsitabbā, majjaṃ na pātabbaṃ, yathābhuttañca bhuñjathāti. Ye kho
pana, bhikkhave, puratthimāya disāya paṭirājāno te rañño cakkavattissa anuyantā
[anuyuttā (sī. syā. kaṃ. pī.)] bhavanti [ahesuṃ (syā. kaṃ. ka.)].
257. ''Atha kho
taṃ, bhikkhave, cakkaratanaṃ puratthimaṃ
samuddaṃ ajjhogāhetvā [ajjhogahetvā (sī. syā. kaṃ. pī.)] paccuttaritvā
dakkhiṇaṃ disaṃ pavattati - pe - dakkhiṇaṃ samuddaṃ ajjhogāhetvā paccuttaritvā
pacchimaṃ disaṃ pavattati... pacchimaṃ samuddaṃ ajjhogāhetvā paccuttaritvā
uttaraṃ disaṃ pavattati anvadeva rājā cakkavattī saddhiṃ caturaṅginiyā senāya.
Yasmiṃ kho pana, bhikkhave, padese cakkaratanaṃ patiṭṭhāti tattha rājā
cakkavattī vāsaṃ upeti saddhiṃ caturaṅginiyā senāya. ''Ye kho pana, bhikkhave,
uttarāya disāya paṭirājāno te rājānaṃ cakkavattiṃ upasaṅkamitvā evamāhaṃsu :
'ehi kho, mahārāja! svāgataṃ te, mahārāja! sakaṃ te, mahārāja! anusāsa,
mahārājāti. Rājā cakkavattī evamāha : 'pāṇo na hantabbo, adinnaṃ nādātabbaṃ,
kāmesumicchā na caritabbā, musā na
bhāsitabbā, majjaṃ na pātabbaṃ yathābhuttañca bhuñjathāti. Ye kho pana,
bhikkhave, uttarāya disāya paṭirājāno te rañño cakkavattissa anuyantā bhavanti.
''Atha kho taṃ, bhikkhave, cakkaratanaṃ samuddapariyantaṃ pathaviṃ
abhivijinitvā tameva rājadhāniṃ paccāgantvā rañño cakkavattissa antepuradvāre
akkhāhataṃ maññe tiṭṭhati rañño cakkavattissa antepuradvāraṃ upasobhayamānaṃ.
Rañño, bhikkhave, cakkavattissa evarūpaṃ cakkaratanaṃ pātubhavati.
258. ''Puna
caparaṃ, bhikkhave, rañño cakkavattissa hatthiratanaṃ pātubhavati : sabbaseto
sattappatiṭṭho iddhimā vehāsaṅgamo uposatho
nāma nāgarājā. Taṃ disvāna rañño cakkavattissa cittaṃ pasīdati :
'bhaddakaṃ vata, bho, hatthiyānaṃ, sace damathaṃ upeyyāti. Atha kho taṃ,
bhikkhave, hatthiratanaṃ seyyathāpi nāma
bhaddo hatthājānīyo dīgharattaṃ suparidanto evameva damathaṃ upeti. Bhūtapubbaṃ,
bhikkhave, rājā cakkavattī tameva hatthiratanaṃ vīmaṃsamāno pubbaṇhasamayaṃ abhiruhitvā samuddapariyantaṃ pathaviṃ anusaṃyāyitvā
tameva rājadhāniṃ paccāgantvā pātarāsamakāsi. Rañño, bhikkhave, cakkavattissa
evarūpaṃ hatthiratanaṃ pātubhavati. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, rañño
cakkavattissa assaratanaṃ pātubhavati : sabbaseto kāḷasīso muñjakeso iddhimā
vehāsaṅgamo valāhako nāma assarājā. Taṃ disvāna rañño cakkavattissa cittaṃ
pasīdati : 'bhaddakaṃ vata, bho, assayānaṃ, sace damathaṃ upeyyāti. Atha kho taṃ,
bhikkhave, assaratanaṃ seyyathāpi nāma bhaddo assājānīyo dīgharattaṃ
suparidanto evameva damathaṃ upeti. Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, rājā cakkavattī
tameva assaratanaṃ vīmaṃsamāno pubbaṇhasamayaṃ abhiruhitvā samuddapariyantaṃ
pathaviṃ anusaṃyāyitvā tameva rājadhāniṃ paccāgantvā pātarāsamakāsi. Rañño,
bhikkhave, cakkavattissa evarūpaṃ assaratanaṃ pātubhavati. ''Puna caparaṃ, bhikkhave,
rañño cakkavattissa maṇiratanaṃ pātubhavati. So hoti maṇi veḷuriyo subho jātimā
aṭṭhaṃso suparikammakato . Tassa kho pana, bhikkhave, maṇiratanassa ābhā
samantā yojanaṃ phuṭā hoti. Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, rājā cakkavattī tameva maṇiratanaṃ
vīmaṃsamāno caturaṅginiṃ senaṃ
sannayhitvā maṇiṃ dhajaggaṃ āropetvā rattandhakāratimisāya pāyāsi. Ye kho pana,
bhikkhave, samantā gāmā ahesuṃ te tenobhāsena kammante payojesuṃ 'divāti
maññamānā. Rañño, bhikkhave, cakkavattissa evarūpaṃ maṇiratanaṃ pātubhavati.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, rañño cakkavattissa itthiratanaṃ pātubhavati. Sā
abhirūpā dassanīyā pāsādikā paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgatā nātidīghā
nātirassā nātikisā nātithūlā nātikāḷikā
[nātikāḷī (sī. pī.)] nāccodātā, atikkantā mānusaṃ vaṇṇaṃ, appattā dibbaṃ vaṇṇaṃ.
Tassa kho pana, bhikkhave, itthiratanassa evarūpo kāyasamphasso hoti seyyathāpi
nāma tūlapicuno vā kappāsapicuno vā. Tassa kho pana, bhikkhave, itthiratanassa
sīte uṇhāni gattāni honti, uṇhe sītāni gattāni honti. Tassa kho pana,
bhikkhave, itthiratanassa kāyato candanagandho vāyati, mukhato uppalagandho
vāyati. Taṃ kho pana, bhikkhave, itthiratanaṃ rañño cakkavattissa pubbuṭṭhāyinī
hoti pacchānipātinī kiṃkārapaṭissāvinī manāpacārinī piyavādinī. Taṃ kho pana,
bhikkhave, itthiratanaṃ rājānaṃ cakkavattiṃ
manasāpi no aticarati, kuto pana kāyena? rañño, bhikkhave, cakkavattissa
evarūpaṃ itthiratanaṃ pātubhavati.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, rañño cakkavattissa gahapatiratanaṃ pātubhavati.
Tassa kammavipākajaṃ dibbacakkhu pātubhavati, yena nidhiṃ passati sassāmikampi
assāmikampi. So rājānaṃ cakkavattiṃ upasaṅkamitvā evamāha : 'appossukko tvaṃ,
deva, hohi. Ahaṃ te dhanena dhanakaraṇīyaṃ [dhanena karaṇīyaṃ (ka.)]
karissāmīti. Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, rājā cakkavattī tameva gahapatiratanaṃ
vīmaṃsamāno nāvaṃ abhiruhitvā majjhe gaṅgāya nadiyā sotaṃ ogāhitvā [ogahetvā
(sī. pī.)] gahapatiratanaṃ etadavoca : 'attho me, gahapati, hiraññasuvaṇṇenāti.
'Tena hi, mahārāja, ekaṃ tīraṃ nāvā upetūti. 'Idheva me, gahapati, attho
hiraññasuvaṇṇenāti. Atha kho taṃ, bhikkhave, gahapatiratanaṃ ubhohi hatthehi
udake omasitvā pūraṃ hiraññasuvaṇṇassa kumbhiṃ uddharitvā rājānaṃ cakkavattiṃ
etadavoca : 'alamettāvatā, mahārāja! katamettāvatā, mahārāja! pūjitamettāvatā,
mahārājāti. Rājā cakkavattī evamāha : 'alamettāvatā, gahapati! katamettāvatā,
gahapati! pūjitamettāvatā, gahapatīti . Rañño, bhikkhave, cakkavattissa evarūpaṃ
gahapatiratanaṃ pātubhavati. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, rañño cakkavattissa
pariṇāyakaratanaṃ pātubhavati : paṇḍito
byatto medhāvī paṭibalo rājānaṃ cakkavattiṃ upayāpetabbaṃ upayāpetuṃ [upaṭṭhapetabbaṃ
upaṭṭhapetuṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] apayāpetabbaṃ apayāpetuṃ ṭhapetabbaṃ ṭhapetuṃ.
So rājānaṃ cakkavattiṃ upasaṅkamitvā evamāha : 'appossukko tvaṃ , deva, hohi.
Ahamanusāsissāmīti. Rañño, bhikkhave, cakkavattissa evarūpaṃ pariṇāyakaratanaṃ
pātubhavati. Rājā, bhikkhave, cakkavattī imehi sattahi ratanehi samannāgato
hoti.
259. ''Katamāhi
catūhi iddhīhi? idha, bhikkhave, rājā cakkavattī abhirūpo hoti dassanīyo
pāsādiko paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato ativiya aññehi manussehi. Rājā,
bhikkhave, cakkavattī imāya paṭhamāya iddhiyā samannāgato hoti. ''Puna caparaṃ,
bhikkhave, rājā cakkavattī dīghāyuko hoti ciraṭṭhitiko ativiya aññehi manussehi. Rājā, bhikkhave, cakkavattī imāya
dutiyāya iddhiyā samannāgato hoti. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, rājā cakkavattī
appābādho hoti appātaṅko samavepākiniyā gahaṇiyā samannāgato nātisītāya nāccuṇhāya
ativiya aññehi manussehi. Rājā, bhikkhave, cakkavattī imāya tatiyāya iddhiyā
samannāgato hoti. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, rājā cakkavattī brāhmaṇagahapatikānaṃ
piyo hoti manāpo. Seyyathāpi, bhikkhave, pitā puttānaṃ piyo hoti manāpo,
evameva kho, bhikkhave, rājā cakkavattī brāhmaṇagahapatikānaṃ piyo hoti manāpo.
Raññopi, bhikkhave, cakkavattissa brāhmaṇagahapatikā piyā honti manāpā. Seyyathāpi,
bhikkhave, pitu puttā piyā honti manāpā, evameva kho, bhikkhave, raññopi
cakkavattissa brāhmaṇagahapatikā piyā
honti manāpā. ''Bhūtapubbaṃ , bhikkhave, rājā cakkavattī caturaṅginiyā senāya
uyyānabhūmiṃ niyyāsi. Atha kho, bhikkhave, brāhmaṇagahapatikā rājānaṃ
cakkavattiṃ upasaṅkamitvā evamāhaṃsu : 'ataramāno, deva, yāhi yathā taṃ mayaṃ
cirataraṃ passeyyāmāti. Rājāpi, bhikkhave, cakkavattī sārathiṃ āmantesi :
'ataramāno , sārathi, pesehi yathā maṃ brāhmaṇagahapatikā cirataraṃ
passeyyunti. Rājā, bhikkhave, cakkavattī imāya catutthāya iddhiyā samannāgato
hoti. Rājā, bhikkhave, cakkavattī imāhi catūhi iddhīhi samannāgato hoti. ''Taṃ
kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu kho rājā cakkavattī imehi sattahi ratanehi
samannāgato imāhi catūhi ca iddhīhi tatonidānaṃ sukhaṃ somanassaṃ paṭisaṃvediyethāti?
''ekamekenapi, bhante, ratanena [tena ratanena (sī.)] samannāgato rājā
cakkavattī tatonidānaṃ sukhaṃ somanassaṃ paṭisaṃvediyetha, ko pana vādo sattahi
ratanehi catūhi ca iddhīhīti?
260. Atha kho Bhagavā
parittaṃ pāṇimattaṃ pāsāṇaṃ gahetvā bhikkhū āmantesi : ''taṃ kiṃ maññatha,
bhikkhave, katamo nu kho mahantataro : yo cāyaṃ mayā paritto pāṇimatto pāsāṇo gahito yo ca himavā pabbatarājāti?
''appamattako ayaṃ, bhante, bhagavatā paritto pāṇimatto pāsāṇo gahito himavantaṃ
pabbatarājānaṃ upanidhāya saṅkhampi na upeti kalabhāgampi na upeti upanidhampi
na upetīti. ''Evameva kho, bhikkhave, yaṃ rājā cakkavattī sattahi ratanehi
samannāgato catūhi ca iddhīhi tatonidānaṃ
sukhaṃ somanassaṃ paṭisaṃvedeti taṃ dibbassa sukhassa upanidhāya saṅkhampi na
upeti kalabhāgampi na upeti upanidhampi na upeti. ''Sa kho so, bhikkhave, paṇḍito
sace kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena manussattaṃ āgacchati, yāni tāni
uccākulāni : khattiyamahāsālakulaṃ vā brāhmaṇamahāsālakulaṃ vā gahapatimahāsālakulaṃ
vā tathārūpe kule paccājāyati aḍḍhe mahaddhane mahābhoge pahūtajātarūparajate
pahūtavittūpakaraṇe pahūtadhanadhaññe. So ca hoti abhirūpo dassanīyo pāsādiko
paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato,
lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa
seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena sucaritaṃ carati, vācāya sucaritaṃ carati,
manasā sucaritaṃ carati. So kāyena
sucaritaṃ caritvā, vācāya sucaritaṃ caritvā, manasā sucaritaṃ caritvā,
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. Seyyathāpi,
bhikkhave, akkhadhutto paṭhameneva kaṭaggahena mahantaṃ bhogakkhandhaṃ
adhigaccheyya appamattako so, bhikkhave, kaṭaggaho yaṃ so akkhadhutto paṭhameneva
kaṭaggahena mahantaṃ bhogakkhandhaṃ adhigaccheyya. Atha kho ayameva tato
mahantataro kaṭaggaho yaṃ so paṇḍito kāyena sucaritaṃ caritvā, vācāya sucaritaṃ
caritvā, manasā sucaritaṃ caritvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. Ayaṃ, bhikkhave, kevalā
paripūrā paṇḍitabhūmīti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato
bhāsitaṃ abhinandunti.
Bālapaṇḍitasuttaṃ
niṭṭhitaṃ navamaṃ.
-ooOoo-
129. Bālapaṇḍitasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
246. Evaṃ me sutanti
bālapaṇḍitasuttaṃ. Tattha bālalakkhaṇānīti bālo ayanti etehi lakkhiyati
ñāyatīti bālalakkhaṇāni. Tāneva tassa sañjānanakāraṇānīti bālanimittāni.
Bālassa apadānānīti bālāpadānāni. Duccintitacintīti cintayanto
abhijjhābyāpādamicchādassanavasena duccintitameva cinteti. Dubbhāsitabhāsīti
bhāsamānopi musāvādādibhedaṃ dubbhāsitameva bhāsati. Dukkaṭakammakārīti
karontopi pāṇātipātādivasena dukkaṭakammameva karoti. Tatra ceti yattha
nisinno, tassaṃ parisati. Tajjaṃ tassāruppanti tajjātikaṃ tadanucchavikaṃ,
pañcannaṃ verānaṃ diṭṭhadhammakasamparāyikaādīnavappaṭisaṃyuttanti adhippāyo. Tatrāti
tāya kathāya kacchamānāya. Bālantiādīni sāmiatthe upayogavacanaṃ.
248. Olambantīti upaṭṭhahanti.
Sesapadadvayaṃ tasseva vevacanaṃ, olambanādiākārena hi tāni upaṭṭhahanti, tasmā
evaṃ vuttaṃ. Pathaviyā olambantīti pathavitale pattharanti.
Sesapadadvayaṃ tasseva vevacanaṃ. Pattharaṇākāroyeva hesa. Tatra, bhikkhave,
bālassāti tasmiṃ upaṭṭhānākāre āpāthagate bālassa evaṃ hoti.
249. Etadavocāti
anusandhikusalo bhikkhu ‘‘nirayassa upamā kātuṃ na sakkā’’ti na bhagavā vadati,
‘‘na sukarā’’ti pana vadati, na sukaraṃ pana sakkā hoti kātuṃ, handāhaṃ
dasabalaṃ upamaṃ kārāpemīti cintetvā etaṃ ‘‘sakkā, bhante’’ti vacanaṃ avoca. Haneyyunti
vinivijjhitvā gamanavasena yathā ekasmiṃ ṭhāne dve pahārā nipatanti, evaṃ
haneyyuṃ. Tenassa dve vaṇamukhasatāni honti. Ito uttaripi eseva nayo.
250. Pāṇimattanti antomuṭṭhiyaṃ
ṭhapanamattaṃ. Saṅkhampi na upetīti gaṇanamattampi na gacchati. Kalabhāgampīti
satimaṃ kalaṃ sahassimaṃ kalaṃ satasahassimaṃ vā kalaṃ upagacchatītipi
vattabbataṃ na upeti. Upanidhampīti upanikkhepanamattampi na upeti,
olokentassa olokitamattampi natthi. Tattaṃ ayokhilanti tigāvutaṃ
attabhāvaṃ sampajjalitāya lohapathaviyā uttānakaṃ nipajjāpetvā tassa dakkhiṇahatthe
tālappamāṇaṃ ayasūlaṃ pavesenti, tathā vāmahatthādīsu. Yathā ca uttānakaṃ
nipajjāpetvā, evaṃ urenapi dakkhiṇapassenapi vāmapassenapi nipajjāpetvā taṃ
kammakāraṇaṃ karontiyeva. Saṃvesetvāti sampajjalitāya lohapathaviyā
tigāvutaṃ attabhāvaṃ nipajjāpetvā. Kuṭhārīhīti mahatīhi gehassa
ekapakkhachadanamattāhi kuṭhārīhi tacchanti. Lohitaṃ nadī hutvā sandati,
lohapathavito jālā uṭṭhahitvā tacchitaṭṭhānaṃ gaṇhanti. Mahādukkhaṃ uppajjati,
tacchantā pana suttāhataṃ karitvā dārū viya aṭṭhaṃsampi chaḷaṃsampi karonti. Vāsīhīti
mahāsuppapamāṇāhi vāsīhi. Tāhi tacchantā tacato yāva aṭṭhīni saṇikaṃ tacchanti,
tacchitaṃ tacchitaṃ paṭipākatikaṃ hoti. Rathe yojetvāti saddhiṃ
yugayottapañcaracakkakubbarapācanehi sabbato sampajjalite rathe yojetvā. Mahantanti
mahākūṭāgārappamāṇaṃ. Āropentīti sampajjalitehi ayamuggarehi pothentā āropenti.
Sakimpi uddhanti supakkuthitāya ukkhaliyā pakkhittataṇḍulā viya
uddhaṃ adho tiriyañca gacchati.
Bhāgaso
mitoti bhāge ṭhapetvā
ṭhapetvā vibhatto. Pariyantoti parikkhitto. Ayasāti upari ayapaṭṭena
chādito.
Samantā
yojanasataṃ pharitvā tiṭṭhatīti evaṃ pharitvā tiṭṭhati, yathā samantā yojanasate ṭhāne ṭhatvā
olokentassa akkhīni yamakagoḷakā viya nikkhamanti.
Na sukarā
akkhānena pāpuṇitunti nirayo
nāma evampi dukkho evampi dukkhoti vassasataṃ vassasahassaṃ kathentenāpi
matthakaṃ pāpetvā kathetuṃ na sukarāti attho.
251. Dantullehakanti dantehi
ullehitvā, luñcitvāti vuttaṃ hoti. Rasādoti rasagedhena paribhuttaraso.
252. Aññamaññakhādikāti
aññamaññakhādanaṃ.
Dubbaṇṇoti durūpo. Duddasikoti
dārakānaṃ bhayāpanatthaṃ katayakkho viya duddaso. Okoṭimakoti lakuṇḍako
paviṭṭhagīvo mahodaro. Kāṇoti ekakkhikāṇo vā ubhayakkhikāṇo vā. Kuṇīti
ekahatthakuṇī vā ubhayahatthakuṇī vā. Pakkhahatoti pīṭhasappī. So
kāyenāti idamassa dukkhānupabandhadassanatthaṃ āraddhaṃ.
Kaliggahenāti parājayena. Adhibandhaṃ
nigaccheyyāti yasmā bahuṃ jito sabbasāpateyyampissa nappahoti, tasmā
attanāpi bandhaṃ nigaccheyya. Kevalā paripūrā bālabhūmīti bālo tīṇi
duccaritāni pūretvā niraye nibbattati, tattha pakkāvasesena manussattaṃ āgato
pañcasu nīcakulesu nibbattitvā puna tīṇi duccaritāni pūretvā niraye
nibbattatīti ayaṃ sakalā paripuṇṇā bālabhūmi.
253. Paṇḍitalakkhaṇānītiādi
vuttānusāreneva veditabbaṃ. Sucintitacintītiādīni cettha
manosucaritādīnaṃ vasena yojetabbāni.
Cakkaratanavaṇṇanā
256. Sīsaṃ nhātassāti sīsena
saddhiṃ gandhodakena nhātassa. Uposathikassāti samādinnauposathaṅgassa. Uparipāsādavaragatassāti
pāsādavarassa upari gatassa subhojanaṃ bhuñjitvā pāsādavarassa upari mahātale
sirīgabbhaṃ pavisitvā sīlāni āvajjantassa. Tadā kira rājā pātova satasahassaṃ
vissajjetvā mahādānaṃ datvā punapi soḷasahi gandhodakaghaṭehi sīsaṃ nhāyitvā
katapātarāso suddhaṃ uttarāsaṅgaṃ ekaṃsaṃ katvā uparipāsādassa sirīsayane pallaṅkaṃ
ābhujitvā nisinno attano dānamayapuññasamudayaṃ āvajjetvā nisīdati, ayaṃ
sabbacakkavattīnaṃ dhammatā.
Tesaṃ taṃ
āvajjantānaṃyeva vuttappakārapuññakammapaccayaṃ utusamuṭṭhānaṃ nīlamaṇisaṅghāṭasadisaṃ
pācīnasamuddajalatalaṃ chindamānaṃ viya ākāsaṃ alaṅkurumānaṃ viya dibbaṃ
cakkaratanaṃ pātubhavati. Tayidaṃ dibbānubhāvayuttattā dibbanti vuttaṃ.
Sahassaṃ assa arānanti sahassāraṃ. Saha nemiyā saha nābhiyā cāti sanemikaṃ
sanābhikaṃ. Sabbehi ākārehi paripūranti sabbākāraparipūraṃ.
Tattha
cakkañca taṃ ratijananaṭṭhena ratanañcāti cakkaratanaṃ. Yāya pana taṃ
nābhiyā ‘‘sanābhika’’nti vuttaṃ, sā indanīlamaṇimayā hoti. Majjhe panassā rajatamayā
panāḷi, yāya suddhasiniddhadantapantiyā hasamānaṃ viya virocati. Majjhe
chiddena viya candamaṇḍalena ubhosupi bāhirantesu rajatapaṭṭena kataparikkhepo
hoti. Tesu panassā nābhipanāḷi parikkhepapaṭṭesu yuttaṭṭhāne paricchedalekhā
suvibhattāva hutvā paññāyanti. Ayaṃ tāvassa nābhiyā sabbākāraparipūratā.
Yehi pana
taṃ arehi ‘‘sahassāra’’nti vuttaṃ, te sattaratanamayā sūriyarasmiyo viya
pabhāsampannā honti. Tesampi ghaṭamaṇikaparicchedalekhādīni suvibhattāneva
paññāyanti. Ayamassa arānaṃ sabbākāraparipūratā.
Yāya pana
taṃ nemiyā saha ‘‘sanemika’’nti vuttaṃ, sā bālasūriyarasmikalāpasiriṃ
avahasamānā viya surattasuddhasiniddhapavāḷamayā hoti. Sandhīsu panassā
sañjhārāgasassirikarattajambonadapaṭṭā vaṭṭaparicchedalekhā ca suvibhattā
paññāyanti. Ayamassa nemiyā sabbākāraparipūratā.
Nemimaṇḍalapiṭṭhiyaṃ
panassa dasannaṃ dasannaṃ arānamantare dhamanavaṃso viya antosusiro chiddamaṇḍalacitto
vātagāhī pavāḷadaṇḍo hoti, yassa vātena paharitassa sukusalasamannāhatassa
pañcaṅgikatūriyassa viya saddo vaggu ca rajanīyo ca kamanīyo ca hoti. Tassa kho
pana pavāḷadaṇḍassa upari setacchattaṃ, ubhosu passesu
samosaritakusumadāmapantiyoti evaṃ samosaritakusumadāmapantisatadvayaparivārena
setacchattasatadhārinā pavāḷadaṇḍasatena samupasobhitanemiparikkhepassa
dvinnampi nābhipanāḷīnaṃ anto dve sīhamukhāni honti, yehi tālakkhandhappamāṇā
puṇṇacandakiraṇakalāpasassirikā taruṇaravisamānarattakambalageṇḍukapariyantā
ākāsagaṅgāgatisobhaṃ abhibhavamānā viya dve muttakalāpā olambanti, yehi
cakkaratanena saddhiṃ ākāse samparivattamānehi tīṇi cakkāni ekato
parivattantāni viya khāyanti. Ayamassa sabbaso sabbākāraparipūratā.
Taṃ panetaṃ
evaṃ sabbākāraparipūraṃ pakatiyā sāyamāsabhattaṃ bhuñjitvā attano attano
gharadvāre paññattāsanesu nisīditvā pavattakathāsallāpesu manussesu vīthicatukkādīsu
kīḷamāne dārakajane nātiuccena nātinīcena vanasaṇḍamatthakāsannena
ākāsappadesena upasobhayamānaṃ viya rukkhasākhaggāni, dvādasayojanato paṭṭhāya
suyyamānena madhurassarena sattānaṃ sotāni odhāpayamānaṃ yojanato paṭṭhāya
nānappabhāsamudayasamujjalena vaṇṇena nayanāni samākaḍḍhantaṃ rañño
cakkavattissa puññānubhāvaṃ ugghosayantaṃ viya rājadhāniabhimukhaṃ āgacchati.
Atha tassa
cakkaratanassa saddassavaneneva ‘‘kuto nu kho, kassa nu kho ayaṃ saddo’’ti
āvajjitahadayānaṃ puratthimadisaṃ olokayamānānaṃ tesaṃ manussānaṃ aññataro
aññataraṃ evamāha – ‘‘passa bho acchariyaṃ, ayaṃ puṇṇacando pubbe eko
uggacchati, ajja pana attadutiyo uggato, etañhi rājahaṃsamithunaṃ viya puṇṇacandamithunaṃ
pubbāpariyena gaganatalaṃ abhilaṅghatī’’ti. Tamañño āha – ‘‘kiṃ kathesi samma
kahaṃ nāma tayā dve puṇṇacandā ekato uggacchantā diṭṭhapubbā, nanu esa
tapanīyaraṃsidhāro piñcharakiraṇo divākaro uggato’’ti. Tamañño sitaṃ katvā
evamāha – ‘‘kiṃ ummattosi, nanu kho idānimeva divākaro atthaṅgato, so kathaṃ
imaṃ puṇṇacandaṃ anubandhamāno uggacchissati, addhā panetaṃ
anekaratanappabhāsamujjalaṃ ekassa puññavato vimānaṃ bhavissatī’’ti. Te sabbepi
apasādayantā aññe evamāhaṃsu – ‘‘kiṃ bahuṃ vippalapatha, nevesa puṇṇacando, na
sūriyo na devavimānaṃ. Na hetesaṃ evarūpā sirisampatti atthi, cakkaratanena
panetena bhavitabba’’nti.
Evaṃ
pavattasallāpasseva tassa janassa candamaṇḍalaṃ ohāya taṃ cakkaratanaṃ
abhimukhaṃ hoti. Tato tehi ‘‘kassa nu kho idaṃ nibbatta’’nti vutte bhavanti
vattāro – ‘‘na kassaci aññassa, nanu amhākaṃ rājā pūritacakkavattivatto,
tassetaṃ nibbatta’’nti. Atha so ca mahājano, yo ca añño passati, sabbo
cakkaratanameva anugacchati. Tampi cakkaratanaṃ raññoyeva atthāya attano
āgatabhāvaṃ ñāpetukāmaṃ viya sattakkhattuṃ pākāramatthakeneva nagaraṃ anusaṃyāyitvā
rañño antepuraṃ padakkhiṇaṃ katvā antepurassa uttarasīhapañjaraāsanne ṭhāne
yathā gandhapupphādīhi sukhena sakkā hoti pūjetuṃ, evaṃ akkhāhataṃ viya tiṭṭhati.
Evaṃ ṭhitassa
panassa vātapānacchiddādīhi pavisitvā nānāvirāgaratanappabhāsamujjalaṃ anto
pāsādaṃ alaṅkurumānaṃ pabhāsamūhaṃ disvā dassanatthāya sañjātābhilāso rājā
hoti. Parijanopissa piyavacanapābhatena āgantvā tamatthaṃ nivedeti. Atha rājā
balavapītipāmojjaphuṭasarīro pallaṅkaṃ mocetvā uṭṭhāyāsanā sīhapañjarasamīpaṃ
gantvā taṃ cakkaratanaṃ disvā ‘‘sutaṃ kho pana meta’’ntiādikaṃ cintanaṃ
cintesi. Tena vuttaṃ – ‘‘disvāna rañño khattiyassa…pe… assaṃ nu kho ahaṃ rājā
cakkavattī’’ti. Tattha so hoti rājā cakkavattīti kittāvatā cakkavattī
hoti? Ekaṅguladvaṅgulamattampi cakkaratane ākāsaṃ abbhuggantvā pavatte.
Idāni tassa
pavattāpanatthaṃ yaṃ kātabbaṃ taṃ dassento atha kho, bhikkhavetiādimāha.
Tattha uṭṭhāyāsanāti nisinnāsanato uṭṭhahitvā cakkaratanasamīpaṃ
āgantvā. Bhiṅkāraṃ gahetvāti hatthisoṇḍasadisapanāḷiṃ suvaṇṇabhiṅkāraṃ
ukkhipitvā vāmahatthena udakaṃ gahetvā. Pavattatu bhavaṃ cakkaratanaṃ,
abhivijinātu bhavaṃ cakkaratananti. Anvadeva rājā cakkavattī saddhiṃ caturaṅginiyā
senāyāti sabbacakkavattīnañhi udakena abhisiñcitvā ‘‘abhivijānātu bhavaṃ
cakkaratana’’nti vacanasamanantarameva vehāsaṃ abbhuggantvā cakkaratanaṃ
pavattati, yassa pavattisamakālameva so rājā cakkavattī nāma hoti.
Pavatte
pana cakkaratane taṃ anubandhamānova rājā cakkavattī yānavaraṃ āruyha vehāsaṃ
abbhuggacchati, athassa chattacāmarādihattho parijano ceva antepurajano ca.
Tato nānappakārakañcukakavacādisannāhavibhūsitena vividhāharaṇappabhāsamujjalitena
samussitaddhajapaṭākapaṭimaṇḍitena attano attano balakāyena saddhiṃ
uparājasenāpati pabhūtayopi vehāsaṃ abbhuggantvā rājānameva parivārenti.
Rājayuttā pana janasaṅgahatthaṃ nagaravīthīsu bheriyo carāpenti ‘‘tātā amhākaṃ
rañño cakkaratanaṃ nibbattaṃ, attano attano vibhavānurūpena maṇḍitappasādhitā
sannipatathā’’ti. Mahājano pana pakatiyā cakkaratanasaddeneva sabbakiccāni
pahāya gandhapupphādīni ādāya sannipatitova, sopi sabbo vehāsaṃ abbhuggantvā rājānameva
parivāreti. Yassa yassa hi raññā saddhiṃ gantukāmatā uppajjati, so so
ākāsagatova hoti. Evaṃ dvādasayojanāyāmavitthārā parisā hoti. Tattha
ekapurisopi chinnabhinnasarīro vā kiliṭṭhavattho vā natthi. Suciparivāro hi
rājā cakkavattī. Cakkavattiparisā nāma vijjādharaparisā viya ākāse gacchamānā
indanīlamaṇitale vippakiṇṇaratanasadisā hoti. Tena vuttaṃ ‘‘anvadeva rājā
cakkavattī saddhiṃ caturaṅginiyā senāyā’’ti.
Tampi
cakkaratanaṃ rukkhaggānaṃ uparūpari nātiuccena gaganapadesena pavattati, yathā
rukkhānaṃ pupphaphalapallavehi atthikā tāni sukhena gahetuṃ sakkonti, bhūmiyaṃ ṭhitā
‘‘esa rājā, esa uparājā, esa senāpatī’’ti sallakkhetuṃ sakkonti. Ṭhānādīsupi
iriyāpathesu yo yena icchati, so teneva gacchati. Cittakammādisippapasutā
cettha attano attano kiccaṃ karontāyeva gacchanti. Yatheva hi bhūmiyaṃ, tathā
nesaṃ sabbakiccāni ākāse ijjhanti. Evaṃ cakkavattiparisaṃ gahetvā taṃ
cakkaratanaṃ vāmapassena sineruṃ pahāya samuddassa uparibhāgena aṭṭhayojanasahassappamāṇaṃ
pubbavidehaṃ gacchati.
Tattha yo
vinibbedhena dvādasayojanāya parikkhepato chattiṃsayojanaparisāya
sannivesakkhamo sulabhāhārūpakaraṇo chāyūdakasampanno sucisamatalo ramaṇīyo
bhūmibhāgo, tassa uparibhāge taṃ cakkaratanaṃ ākāse akkhāhataṃ viya tiṭṭhati.
Atha tena saññāṇena so mahājano otaritvā yathāruci nhānabhojanādīni
sabbakiccāni karonto vāsaṃ kappeti, tena vuttaṃ ‘‘yasmiṃ kho pana, bhikkhave,
padese taṃ cakkaratanaṃ patiṭṭhāti, tattha rājā cakkavattī vāsaṃ upeti saddhiṃ
caturaṅginiyā senāyā’’ti.
Evaṃ vāsaṃ
upagate cakkavattimhi ye tattha rājāno, te ‘‘paracakkaṃ āgata’’nti sutvāpi na
balakāyaṃ sannipātetvā yuddhasajjā honti. Cakkaratanassa uppattisamanantarameva
natthi so satto nāma, yo paccatthikasaññāya rājānaṃ ārabbha āvudhaṃ ukkhipituṃ
visaheyya. Ayamanubhāvo cakkaratanassa.
Cakkānubhāvena
hi tassa rañño,
Arī asesā
damathaṃ upenti;
Arindamaṃ
nāma narādhipassa,
Teneva taṃ
vuccati tassa cakkaṃ.
Tasmā
sabbepi te rājāno attano attano rajjasirivibhavānurūpaṃ pābhataṃ gahetvā taṃ
rājānaṃ upagamma onatasirā attano moḷiyamaṇippabhābhisekenassa pādapūjaṃ
karonto ‘‘ehi kho mahārājā’’tiādīhi vacanehi tassa kiṅkārappaṭissāvitaṃ
āpajjanti. Tena vuttaṃ ye kho pana, bhikkhave, puratthimāya…pe… anusāsa
mahārājāti.
Tattha svāgatanti
suāgamanaṃ. Ekasmiñhi āgate socanti, gate nandanti. Ekasmiṃ āgate nandanti, gate
socanti. Tādiso tvaṃ āgatanandano gamanasocano, tasmā tava āgamanaṃ
suāgamananti vuttaṃ hoti. Evaṃ vutte pana cakkavattī nāpi ‘‘ettakaṃ nāma me
anuvassaṃ baliṃ upakappethā’’ti vadati, nāpi aññassa bhogaṃ acchinditvā aññassa
deti. Attano pana dhammarājabhāvassa anurūpāya paññāya pāṇātipātādīni
upaparikkhitvā pemanīyena mañjunā sarena ‘‘passatha tātā, pāṇātipāto nāmesa
āsevito bhāvito bahulīkato nirayasaṃvattaniko hotī’’tiādinā nayena dhammaṃ
desetvā ‘‘pāṇo na hantabbo’’tiādikaṃ ovādaṃ deti. Tena vuttaṃ rājā
cakkavattī evamāha pāṇo na hantabbo…pe… yathābhuttañca bhuñjathāti.
Kiṃ pana
sabbepi rañño imaṃ ovādaṃ gaṇhantīti. Buddhassapi tāva sabbe na gaṇhanti, rañño
kiṃ gaṇhissanti. Tasmā ye paṇḍitā vibhāvino, te gaṇhanti. Sabbe pana anuyantā
bhavanti. Tasmā ‘‘ye kho pana, bhikkhave’’tiādimāha.
Atha taṃ
cakkaratanaṃ evaṃ pubbavidehavāsīnaṃ ovāde dinne katapātarāse cakkavattībalena
vehāsaṃ abbhuggantvā puratthimaṃ samuddaṃ ajjhogāhati. Yathā yathā ca taṃ
ajjhogāhati, tathā tathā agadagandhaṃ ghāyitvā saṃkhittaphaṇo nāgarājā viya saṃkhittaūmivipphāraṃ
hutvā ogacchamānaṃ mahāsamuddasalilaṃ yojanamattaṃ ogantvā antosamudde veḷuriyabhitti
viya tiṭṭhati. Taṅkhaṇaññeva ca tassa rañño puññasiriṃ daṭṭhukāmāni viya
mahāsamuddatale vippakiṇṇāni nānāratanāni tato tato āgantvā taṃ padesaṃ
pūrayanti. Atha sā rājaparisā taṃ nānāratanaparipūraṃ mahāsamuddatalaṃ disvā
yathāruci ucchaṅgādīhi ādiyati, yathāruci ādinnaratanāya pana parisāya taṃ
cakkaratanaṃ paṭinivattati. Paṭinivattamāne ca tasmiṃ parisā aggato hoti, majjhe
rājā, ante cakkaratanaṃ. Tampi jalanidhijalaṃ palobhiyamānamiva
cakkaratanasiriyā, asahamānamiva ca tena viyogaṃ, nemimaṇḍalapariyantaṃ
abhihanantaṃ nirantarameva upagacchati.
257. Evaṃ rājā cakkavattī
puratthimasamuddapariyantaṃ pubbavidehaṃ abhivijinitvā dakkhiṇasamuddapariyantaṃ
jambudīpaṃ vijetukāmo cakkaratanadesitena maggena dakkhiṇasamuddābhimukho
gacchati. Tena vuttaṃ atha kho taṃ, bhikkhave, cakkaratanaṃ
puratthimasamuddaṃ ajjhogāhetvā paccuttaritvā dakkhiṇaṃ disaṃ pavattatīti.
Evaṃ pavattamānassa pana tassa pavattanavidhānaṃ senāsanniveso paṭirājagamanaṃ
tesaṃ anusāsanippadānaṃ dakkhiṇasamuddaṃ ajjhogāhanaṃ samuddasalilassa
ogacchanaṃ ratanādānanti sabbaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.
Vijinitvā
pana taṃ dasasahassayojanappamāṇaṃ jambudīpaṃ dakkhiṇasamuddatopi paccuttaritvā
sattayojanasahassappamāṇaṃ aparagoyānaṃ vijetuṃ pubbe vuttanayeneva gantvā
tampi samuddapariyantaṃ tatheva abhivijinitvā pacchimasamuddatopi paccuttaritvā
aṭṭhayojanasahassappamāṇaṃ uttarakuruṃ vijetuṃ tatheva gantvā tampi samuddapariyantaṃ
tatheva abhivijiya uttarasamuddatopi paccuttarati.
Ettāvatā
raññā cakkavattinā cāturantāya pathaviyā ādhipaccaṃ adhigataṃ hoti. So evaṃ
vijitavijayo attano rajjasirisampattidassanatthaṃ sapariso uddhaṃ gaganatalaṃ
abhilaṅghitvā suvikasitapadumuppalapuṇḍarīkavanavicitte cattāro jātassare viya
pañcasatapañcasataparittadīpaparivāre cattāro mahādīpe oloketvā
cakkaratanadesiteneva maggena yathānukkamaṃ attano rājadhānimeva paccāgacchati.
Atha taṃ cakkaratanaṃ antepuradvāraṃ sobhayamānaṃ viya hutvā tiṭṭhati.
Evaṃ patiṭṭhite
pana tasmiṃ cakkaratane rājantepure ukkāhi vā dīpikāhi vā kiñci karaṇīyaṃ na
hoti, cakkaratanobhāsoyeva rattiṃ andhakāraṃ vidhamati. Ye ca pana rattiṃ
andhakāratthikā honti, tesaṃ andhakārameva hoti. Tena vuttaṃ dakkhiṇasamuddaṃ
ajjhogāhetvā…pe… evarūpaṃ cakkaratanaṃ pātubhavatīti.
Hatthiratanavaṇṇanā
258. Evaṃ pātubhūtacakkaratanassa
panassa cakkavattino amaccā pakatimaṅgalahatthiṭṭhānaṃ sucibhūmibhāgaṃ kāretvā
haricandanādīhi surabhigandhehi upalimpāpetvā heṭṭhā vicittavaṇṇasurabhikusumasamākiṇṇaṃ
upari suvaṇṇatārakānaṃ antarantarā samosaritamanuñña-kusumadāmappaṭimaṇḍitavitānaṃ
devavimānaṃ viya abhisaṅkharitvā ‘‘evarūpassa nāma deva hatthiratanassa āgamanaṃ
cintethā’’ti vadanti. So pubbe vuttanayeneva mahādānaṃ datvā sīlāni samādāya taṃ
puññasampattiṃ āvajjanto nisīdati, athassa puññānubhāvacodito chaddantakulā vā
uposathakulā vā taṃ sakkāravisesaṃ anubhavitukāmo taruṇaravimaṇḍalābhirattacaraṇa-gīvamukhappaṭimaṇḍitavisuddhasetasarīro
sattappatiṭṭho susaṇṭhitaṅgapaccaṅgasanniveso vikasitaratta-padumacārupokkharo
iddhimā yogī viya vehāsaṃ gamanasamattho manosilācuṇṇarañjitapariyanto viya
rajatapabbato hatthiseṭṭho tasmiṃ padese patiṭṭhāti. So chaddantakulā
āgacchanto sabbakaniṭṭho āgacchati, uposathakulā sabbajeṭṭho. Pāḷiyaṃ pana ‘‘uposatho
nāgarājā’’ icceva āgacchati. Svāyaṃ pūritacakkavattivattānaṃ cakkavattīnaṃ
sutte vuttanayeneva cintayantānaṃ āgacchati, na itaresaṃ. Sayameva pakatimaṅgalahatthiṭṭhānaṃ
āgantvā maṅgalahatthiṃ apanetvā tattha tiṭṭhati. Tena vuttaṃ puna caparaṃ, bhikkhave…pe…
nāgarājāti.
Evaṃ
pātubhūtaṃ pana taṃ hatthiratanaṃ disvā hatthigopakādayo haṭṭhatuṭṭhā vegena
gantvā rañño ārocenti. Rājā turitaturitaṃ āgantvā taṃ disvā pasannacitto
‘‘bhaddakaṃ vata bho hatthiyānaṃ, sace damathaṃ upeyyā’’ti cintayanto hatthaṃ
pasāreti. Atha so gharadhenuvacchako viya kaṇṇe olambetvā sūratabhāvaṃ dassento
rājānaṃ upasaṅkamati, rājā taṃ abhiruhitukāmo hoti. Athassa parijanā adhippāyaṃ
ñatvā taṃ hatthiratanaṃ sovaṇṇaddhajaṃ sovaṇṇālaṅkāraṃ hemajālapaṭicchannaṃ
katvā upanenti. Rājā taṃ anisīdāpetvāva sattaratanamayāya nisseṇiyā abhiruyha
ākāsaṃ gamananinnacitto hoti. Tassa saha cittuppādeneva so hatthirājā rājahaṃso
viya indanīlamaṇippabhājālanīlagaganatalaṃ abhilaṅghati, tato cakkacārikāya
vuttanayeneva sakalarājaparisā. Iti sapariso rājā antopātarāseyeva
sakalapathaviṃ anusaṃyāyitvā rājadhāniṃ paccāgacchati, evaṃ mahiddhikaṃ
cakkavattino hatthiratanaṃ hoti. Tena vuttaṃ disvāna rañño
cakkavattissa…pe… evarūpaṃ hatthiratanaṃ pātubhavatīti.
Assaratanavaṇṇanā
Evaṃ
pātubhūtahatthiratanassa pana cakkavattino parisā pakatimaṅgalaassaṭṭhānaṃ
sucisamatalaṃ kāretvā alaṅkaritvā ca purimanayeneva rañño tassa
āgamanacintanatthaṃ ussāhaṃ janenti. So purimanayeneva katadānasakkāro
samādinnasīlova pāsādatale nisinno puññasampattiṃ samanussarati, athassa
puññānubhāvacodito sindhavakulato
vijjullatāvinaddhasaradakālasetavalāhakarāsisassiriko rattapādo rattatuṇḍo
candappabhāpuñjasadisasuddhasiniddhaghanasaṅghātasarīro kākagīvā viya
indanīlamaṇi viya ca kāḷavaṇṇena sīsena samannāgatattā kāḷasīso suṭṭhu
kappetvā ṭhapitehi viya muñjasadisehi saṇhavaṭṭaujugatigatehi kesehi
samannāgatattā muñjakeso vehāsaṅgamo valāhako nāma assarājā āgantvā
tasmiṃ ṭhāne patiṭṭhāti. Sesaṃ sabbaṃ hatthiratane vuttanayeneva veditabbaṃ.
Evarūpaṃ assaratanaṃ sandhāya bhagavā puna caparantiādimāha.
Maṇiratanavaṇṇanā
Evaṃ
pātubhūtaassaratanassa pana rañño cakkavattissa catuhatthāyāmaṃ sakaṭanābhisamappamāṇaṃ
ubhosu antesu kaṇṇikapariyantato viniggatasuparisuddhamuttākalāpehi dvīhi
kañcanapadumehi alaṅkataṃ caturāsītimaṇisahassaparivāraṃ tārāgaṇaparivutassa puṇṇacandassa
siriṃ paṭippharamānaṃ viya vepullapabbatato maṇiratanaṃ āgacchati.
Tassevaṃ āgatassa muttājālake ṭhapetvā veḷuparamparāya saṭṭhihatthappamāṇaṃ
ākāsaṃ āropitassa rattibhāge samantā yojanappamāṇaṃ okāsaṃ ābhā pharati, yāya
sabbo so okāso aruṇuggamanavelā viya sañjātāloko hoti. Tato kassakā kasikammaṃ,
vāṇijā āpaṇugghāṭanaṃ, te te ca sippino taṃ taṃ kammantaṃ payojenti divāti
maññamānā. Tena vuttaṃ puna caparaṃ, bhikkhave…pe… maṇiratanaṃ pātubhavatīti.
Itthiratanavaṇṇanā
Evaṃ
pātubhūtamaṇiratanassa pana cakkavattissa visayasukhavisesakāraṇaṃ itthiratanaṃ
pātubhavati. Maddarājakulato vā hissa aggamahesiṃ ānenti, uttarakuruto vā
puññānubhāvena sayaṃ āgacchati. Avasesā panassā sampatti ‘‘puna caparaṃ,
bhikkhave, rañño cakkavattissa itthiratanaṃ pātubhavati abhirūpā
dassanīyā’’tiādinā nayena pāḷiyaṃyeva āgatā.
Tattha saṇṭhānapāripūriyā
adhikaṃ rūpaṃ assāti abhirūpā. Dissamānā ca cakkhūni pīṇayati, tasmā
aññaṃ kiccavikkhepaṃ hitvāpi daṭṭhabbāti dassanīyā. Dissamānā ca
somanassavasena cittaṃ pasādetīti pāsādikā. Paramāyāti evaṃ
pasādāvahattā uttamāya. Vaṇṇapokkharatāyāti vaṇṇasundaratāya. Samannāgatāti
upetā. Abhirūpā vā yasmā nātidīghā nātirassā dassanīyā yasmā
nātikisā nātithūlā, pāsādikā yasmā nātikāḷikā naccodātā. Paramāya vaṇṇapokkharatāya
samannāgatā yasmā atikkantā mānusaṃ vaṇṇaṃ appattā dibbavaṇṇaṃ. Manussānañhi
vaṇṇābhā bahi na niccharati, devānaṃ atidūraṃ niccharati, tassā pana
dvādasahatthappamāṇaṃ padesaṃ sarīrābhā obhāseti.
Nātidīghādīsu
cassā paṭhamayugaḷena ārohasampatti, dutiyayugaḷena pariṇāhasampatti,
tatiyayugaḷena vaṇṇasampatti vuttā. Chahi vāpi etehi kāyavipattiyā abhāvo,
atikkantā mānusaṃ vaṇṇanti iminā kāyasampatti vuttā.
Tūlapicuno
vā kappāsapicuno vāti sappimaṇḍe
pakkhipitvā ṭhapitassa satavihatassa tūlapicuno vā satavihatassa kappāsapicuno
vā kāyasamphasso hoti. Sīteti rañño sītakāle. Uṇheti rañño uṇhakāle.
Candanagandhoti niccakālameva supisitassa abhinavassa
catujjātisamāyojitassa haricandanassa gandho kāyato vāyati. Uppalagandhoti
hasitakathitakālesu mukhato nikkhanto taṅkhaṇaṃ vikasitasseva nīluppalassa
atisurabhigandho vāyati.
Evaṃ
rūpasamphassagandhasampattiyuttāya panassā sarīrasampattiyā anurūpaṃ ācāraṃ
dassetuṃ taṃ kho panātiādi vuttaṃ. Tattha rājānaṃ disvā nisinnāsanato
aggidaḍḍhā viya paṭhamameva uṭṭhātīti pubbuṭṭhāyinī. Tasmiṃ nisinne
tassa rañño tālavaṇṭena bījanādikiccaṃ katvā pacchā nipatati nisīdatīti pacchānipātinī.
Kiṃ karomi devāti tassa kiṃkāraṃ paṭissāvetīti kiṃkārapaṭissāvinī. Rañño
manāpameva carati karotīti manāpacārinī. Yaṃ rañño piyaṃ, tadeva
vadatīti piyavādinī.
Idāni
svāssā ācāro bhāvasuddhiyā eva, na sāṭheyyenāti dassetuṃ taṃ kho panātiādimāha.
Tattha no aticaratīti na atikkamitvā carati, aññaṃ purisaṃ cittenapi na
patthetīti vuttaṃ hoti. Tattha ye tassā ādimhi ‘‘abhirūpā’’tiādayo ante ‘‘pubbuṭṭhāyinī’’tiādayo
guṇā vuttā, te pakatiguṇā eva ‘‘atikkantā mānusaṃ vaṇṇa’’ntiādayo pana
cakkavattino puññaṃ upanissāya cakkaratanapātubhāvato paṭṭhāya
purimakammānubhāvena nibbattantīti veditabbā. Abhirūpatādikāpi vā
cakkaratanapātubhāvato paṭṭhāya sabbākārapāripūrā jātā. Tenāha evarūpaṃ
itthiratanaṃ pātubhavatīti.
Gahapatiratanavaṇṇanā
Evaṃ
pātubhūtaitthiratanassa pana rañño cakkavattissa dhanakaraṇīyānaṃ kiccānaṃ
yathāsukhappavattanatthaṃ gahapatiratanaṃ pātubhavati. So pakatiyāva
mahābhogo mahābhogakule jāto rañño dhanarāsivaḍḍhako seṭṭhi gahapati hoti,
cakkaratanānubhāvasahitaṃ panassa kammavipākajaṃ dibbacakkhu pātubhavati, yena
antopathaviyaṃ yojanabbhantare nidhiṃ passati. So taṃ sampattiṃ disvā tuṭṭhahadayo
gantvā rājānaṃ dhanena pavāretvā sabbāni dhanakaraṇīyāni sampādeti. Tena vuttaṃ
puna caparaṃ, bhikkhave…pe… evarūpaṃ gahapatiratanaṃ pātubhavatīti.
Pariṇāyakaratanavaṇṇanā
Evaṃ
pātubhūtagahapatiratanassa pana rañño cakkavattissa sabbakiccasaṃvidhānasamatthaṃ
pariṇāyakaratanaṃ pātubhavati. So rañño jeṭṭhaputtova hoti. Pakatiyā eva
paṇḍito byatto medhāvī, rañño puññānubhāvaṃ nissāya panassa attano
kammānubhāvena paracittañāṇaṃ uppajjati. Yena dvādasayojanāya rājaparisāya
cittācāraṃ ñatvā rañño ahite hite ca vavatthapetuṃ samattho hoti. Sopi taṃ
attano ānubhāvaṃ disvā tuṭṭhahadayo rājānaṃ sabbakiccānusāsanena pavāreti. Tena
vuttaṃ puna caparaṃ…pe… pariṇāyakaratanaṃ pātubhavatīti. Tattha ṭhapetabbaṃ
ṭhapetunti tasmiṃ tasmiṃ ṭhānantare ṭhapetabbaṃ ṭhapetuṃ.
259. Samavepākiniyātiādi heṭṭhā
vuttameva.
260. Kaṭaggahenāti jayaggāhena.
Mahantaṃ bhogakkhandhanti ekappahāreneva dve vā tīṇi vā satasahassāni. Kevalā
paripūrā paṇḍitabhūmīti paṇḍito tīṇi sucaritāni pūretvā sagge nibbattati,
tato manussalokaṃ āgacchanto kularūpabhogasampattiyaṃ nibbattati, tattha ṭhito
tīṇi ca sucaritāni pūretvā puna sagge nibbattatīti ayaṃ sakalā paripuṇṇā paṇḍitabhūmi.
Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Bālapaṇḍitasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment