Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 13/5/2020
122. Kinh Ðại Không (Mahāsuññata
Sutta)
Như đã đề cập trong bài kinh trước, tên của bài kinh nầy
nên được dịch là Đại Kinh Về Không Tánh. Đây là pháp thoại được Bậc Đạo Sư giảng
dạy khi nhìn thấy sàng toạ của chư tỳ kheo được sắp xếp với quy mô lớn tại một
tu viện. Nhân sự việc nầy Đức Phật muốn giảng dạy về sự viễn ly tu tập đối ngược
với ưa thích quần tụ. Chỉ có nếp sống viễn ly mới thích hợp cho sự khai triển
chỉ và quán, mà qua đó, sự quán sát nội không và ngoại không được mỹ mãn. Đức
Phật cũng nhấn mạnh về sự liên hệ giữa Bậc Đạo Sư và hàng đệ tử. Người thụ huấn
cần hiểu rõ và chấp nhận nghiêm huấn để thành tựu mục đích cao cả của đời sống
phạm hạnh bởi vì “Cái gì là cốt lõi thì cái đó sẽ tồn tại
- yo sāro so ṭhassatī”
1095. Hội chúng đông đảo, dù tổ chức rất khéo, không
hẳn là điều Đức Thế Tôn tán thán
Nhìn thấy nhiều sàng toạ tại phước xá trong tu viện
Nirodha (phước xá nầy trước kia do hoàng thân Kalakhemaka xây cất để nghĩ mát
trong ngự viên Nirodha. Về sau nầy Vua Tịnh Phạn cúng dường nơi nầy làm tịnh xá
cho Đức Phật và chư tăng). Theo sớ giải thì Đức Phật biết rõ chư tăng đang tập
hợp đông đảo để may y nhưng Ngài muốn nhân đó nhấn mạnh về đời sống viễn ly đối
ngược với sự quần tụ đông đảo:
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú giữa
các dòng họ Sakka (Thích-ca), tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở tu
viện Nigrodha (Ni-câu-luật Thọ Viên).
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp
y, cầm y bát, đi vào Kapilavatthu để khất thực. Sau khi đi khất thực ở
Kapilavatthu, ăn xong, trên đường đi khất thực trở về, Thế Tôn đi
đến trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka để ở ban
ngày. Lúc bấy giờ, tại tu viện của Thích-ca Kalakhemaka, có sắp đặt
rất nhiều sàng tọa. Thế Tôn thấy rất nhiều sàng tọa tại trú xứ
của Thích-ca Kalakhemaka, thấy vậy Thế Tôn suy nghĩ: "Rất nhiều
sàng tọa được sắp đặt tại tu viện của Thích-ca Kalakhemaka. Không
biết ở đấy có rất nhiều Tỷ- kheo ở không?"
Lúc bấy giờ Tôn giả Ananda
cùng với rất nhiều vị Tỷ-kheo đang làm y (civarakamma) ở trú xứ của
Thích-ca Ghataya. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư
đứng dậy, đi đến trú xứ của Thích- ca Ghataya, sau khi đến liền ngồi
trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:
-- Này Ananda, có rất nhiều
sàng tọa được sắp đặt tại trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka. Không
biết có nhiều Tỷ-kheo trú ở đấy không?
-- Bạch Thế Tôn, có rất nhiều
sàng tọa được sắp đặt ở trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka; có rất
nhiều Tỷ-kheo trú tại chỗ ấy. Bạch Thế Tôn, nay là thời chúng con
làm y.
-- Này Ananda, một Tỷ-kheo không
chói sáng nếu thích thú trong hội chúng của mình, nếu hân hoan trong
hội chúng của mình, nếu hoan hỷ trong hội chúng của mình, nếu thích
thú trong hội chúng của người, nếu hân hoan trong hội chúng của
người, nếu hoan hỷ trong hội chúng của người. Này Ananda, nếu
Tỷ-kheo nào thích thú trong hội chúng của mình, hân hoan trong hội
chúng của mình, hoan hỷ trong hội chúng của mình, thích thú trong
hội chúng của người, hân hoan trong hội chúng của người, hoan hỷ trong
hội chúng của người, có thể là một vị chứng đắc tùy theo ý muốn,
chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, viễn ly lạc,
độc cư lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc; sự kiện như vậy không
xảy ra. Nhưng này Ananda, Tỷ-kheo nào sống một mình, xa lánh tụ hội,
thời vị ấy có hy vọng chứng đắc tùy theo ý muốn, chứng đắc không
khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, viễn ly lạc, độc cư lạc, an
tịnh lạc, chánh giác lạc; sự kiện như vậy có thể xảy ra.
Này Ananda, nếu Tỷ-kheo nào
thích thú trong hội chúng của mình, hân hoan trong hội chúng của
mình, hoan hỷ trong hội chúng của mình, thích thú trong hội chúng
của người, hân hoan trong hội chúng của người, hoan hỷ trong hội
chúng của người sẽ chứng đắc và an trú với tâm giải thoát có hạn
kỳ và thoải mái hay không có hạn kỳ và bất động; sự kiện như vậy
không xảy ra. Nhưng này Ananda, Tỷ-kheo nào sống một mình, xa lánh
tụ hội, thời vị ấy có hy vọng sẽ chứng đắc và an trú với tâm
giải thoát có hạn kỳ và thoái mái, hay không có hạn kỳ và bất
động; sự kiện như vậy có xảy ra.
1096. Đức Thế Tôn sống giữa đám đông
chỉ vì lòng bi mẫn.
Mặc dù nhấn mạnh về đời sống độc cư
viễn ly tu tập nhưng Đức Phật vẫn sống giữa chư tỳ kheo và tiếp xúc với nhiều
người vì đại bi tâm:
Này Ananda, Ta không quán thấy
một sắc pháp nào trong ấy có hoan hỷ, trong ấy có hoan lạc, chịu sự
biến dịch, chịu sự đổi khác mà không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu,
não.
Nhưng sự (an) trú này, này
Ananda, đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, tức là sau khi không
tác ý với tất cả tướng, chứng đắc và (an) trú nội không. Và nếu
này Ananda, trong khi Như Lai an trú trong an trú này, nếu có những
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, quốc vương, đại thần,
ngoại đạo, ngoại đạo đệ tử đến yết kiến, trong khi ấy, này Ananda,
Như Lai với tâm hướng đến viễn ly, thiên về viễn ly, nặng nề viễn
ly, sống độc cư, hoan hỷ trong ly dục, làm cho đoạn tận tất cả các
pháp dựa trên các lậu hoặc an trú, nói lên tại chỗ ấy những lời
thuần túy liên hệ đến khích lệ.
1097. Chỉ quán và không quán
Con đường chỉ quản huân tu định và
niệm nhưng chính không quán giúp hành giả vượt thoát và đạt đến cứu cánh tối hậu:
Do vậy, này Ananda, nếu Tỷ-kheo
ước vọng: "Sau khi chứng đạt nội không, ta sẽ an trú", vị
Tỷ-kheo ấy, này Ananda, cần phải an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an
định nội tâm. Và này Ananda, như thế nào Tỷ- kheo an chỉ, an tọa,
chuyên nhất và an định nội tâm?
Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Sơ thiền, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng
và trú Nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm,
không tứ, nội tĩnh nhứt tâm... Tam thiền... chứng và trú Tứ thiền.
Như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an định
nội tâm.
Vị ấy tác ý nội không. Trong
khi vị ấy tác ý nội không, tâm không thích thú, không tịnh tín,
không an trú, không hướng đến nội không. Sự kiện là như vậy, này
Ananda, Tỷ-kheo biết như sau: "Trong khi ta tác ý nội không, tâm
không thích thú, không tịnh tín, không an trú, không hướng đến nội
không". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Vị ấy tác ý ngoại không. Vị
ấy tác ý nội ngoại không. Vị ấy tác ý bất động. Trong khi vị ấy
tác ý bất động thời tâm không thích thú, không tịnh tín, không an
trú, không hướng đến bất động". Sự kiện là như vậy, này
Ananda, Tỷ-kheo biết như sau: "Trong khi ta tác ý bất động, tâm
không thích thú, không tịnh tín, không an trú, không hướng đến bất
động". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, Tỷ-kheo ấy cần phải
an trú, an tọa, chuyên nhất, và an định nội tâm trên định tướng
(samadhinimitte) đã đề cập về trước ấy. Vị ấy tác ý nội không.
Trong khi vị ấy tác ý nội không, tâm thích thú, tịnh tín, an trú,
hướng đến nội không. Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo biết
như sau: "Trong khi ta tác ý nội không, tâm thích thú, tịnh tín,
an trú, hướng đến nội không". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng
như vậy.
Vị ấy tác ý ngoại không. Vị
ấy tác ý nội ngoại không. Vị ấy tác ý bất động. Trong khi vị ấy
tác ý bất động, tâm thích thú, tịnh tín, an trú hướng đến bất
động. Sự kiện là như vậy, này Ananda, vị Tỷ-kheo biết như sau:
"Trong khi ta tác ý bất động, tâm thích thú, tịnh tín, an trú,
hướng đến bất động". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, nếu Tỷ-kheo ấy đang
an trú trong an trú này, tâm vị ấy hướng đến đi kinh hành, vị ấy đi
kinh hành (cankamati), và nghĩ rằng: "Trong khi ta đang đi kinh hành,
thời tham và ưu, các ác bất thiện pháp không có chảy vào". Ở
đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo đang an
trú trong an trú này, tâm vị ấy hướng đến đứng lại, vị ấy đứng
lại và nghĩ rằng: "Trong khi ta đang đứng lại thời tham và ưu,
các ác bất thiện pháp không có chảy vào". Ở đây, vị ấy ý
thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo
ấy an trú trong sự an trú này, tâm vị ấy hướng đến ngồi, vị ấy
ngồi và nghĩ rằng: "Trong khi ta đang ngồi, tham và ưu, các ác
bất thiện pháp không có chảy vào". Ở đây, vị ấy ý thức rõ
ràng như vậy. Này Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy an trú trong sự an
trú này, tâm vị ấy hướng đến nằm, vị ấy nằm và nghĩ rằng:
"Trong khi ta đang nằm, thời tham và ưu, các ác bất thiện pháp
không chảy vào". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo
ấy an trú trong sự an trú này, tâm vị ấy hướng đến nói, vị ấy suy
nghĩ như sau: "Ta sẽ không nói những câu chuyên hạ liệt, đê
tiện, thuộc phàm phu, không thuộc bậc Thánh, không liên hệ đến mục
đích, không đưa đến yếm ly, ly dục, đoạn tiệt, an tịnh, thắng trí,
giác ngộ. Niết-bàn, như quốc vương luận, đạo tặc luận, đại thần
luận, quân luận, bố úy luận, chiến tranh luận, thực vật luận, ẩm
liệu luận, y phục luận, ngọa cụ luận, hoan man luận, hương liệu
luận, thân thích luận, xa thừa luận, thôn luận, thị trấn luận, đô
thị luận, quốc độ luận, nữ luận, anh hùng luận, hạng trung luận,
thủy bình xứ luận, tiên linh luận, sai biệt luận, thế giới luận,
hải thuyết luận, hữu vô hữu luận". Ở đây, vị ấy ý thức rõ
ràng như vậy.
Nhưng này Ananda, đối với những
lời nói nào khắc khổ, khai tâm, đưa đến nhứt hướng yếm ly, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, như thiểu dục
luận, tri túc luận, độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần luận,
giới luận, định luận, tuệ luận, giải thoát luận, giải thoát tri
kiến luận, vị ấy nghĩ: "Ta sẽ nói các luận như vậy". Ở
đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, nếu Tỷ-kheo ấy trong
khi an trú với sự an trú này, tâm hướng đến suy tầm (vitakka), vị
ấy suy nghĩ: "Ðối với những suy tầm hạ liệt, đê tiện, phàm phu,
không thuộc bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích, không đưa đến
yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn,
như là dục tầm, sân tầm, hại tầm, ta sẽ không suy nghĩ các loại
suy tầm ấy". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Nhưng này Ananda, đối với những
suy tầm này, thuộc bậc Thánh, có khả năng cầu tiến, hướng dẫn
(người suy nghĩ các suy tầm ấy) đến sự đoạn trừ hoàn toàn đau khổ,
như là ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, vị ấy nghĩ: "Ta
sẽ suy tư các loại suy tầm này". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng
như vậy.
1098. Đương đầu với những chi phối
ngoại cảnh
Trong sự tu tập nội tại không thể không
có bản lãnh hoá giải chi phối của ngoại cảnh:
Này Ananda, có năm dục trưởng
dưỡng này. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả
hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn; các tiếng do tai
nhận thức; các hương do mũi nhận thức; các vị do lưỡi nhận thức;
các xúc do thân nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên
hệ đến dục, hấp dẫn. Này Ananda, có năm dục trưởng dưỡng này.
Từ đây Tỷ-kheo cần phải
thường thường quán sát tự tâm như sau: "Trong tâm ta, có khởi
lên tâm hành gì với xứ (ayatana) này hay xứ khác của năm dục
trưởng dưỡng". Này Ananda, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát như
vậy, tuệ tri rằng: "Trong tâm ta, có khởi lên tâm hành với xứ
này hay xứ khác của năm dục trưởng dưỡng... ". Sự kiện là
như vậy, Tỷ-kheo tuệ tri như sau: "Dục ái (chandaraga) này đối
với năm dục trưởng dưỡng đối với ta, chưa đoạn diệt được".
Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo trong
khi quán sát như vậy, tuệ tri rằng: "Trong tâm ta, không có khởi
lên tâm hành với xứ này hay xứ khác của năm dục trưởng
dưỡng...". Sự kiện là như vậy, Tỷ-kheo tuệ tri như sau:
"Dục tham này đối với năm dục trưởng dưỡng đối với ta, đã
được đoạn diệt". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, có năm thủ uẩn. Ở
đây, Tỷ-kheo cần phải đoạn tận chúng, khi vị ấy tùy quán sự sanh
diệt. Ðây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự đoạn
diệt của sắc. Ðây là thọ, đây là sự tập khởi của thọ, đây là sự
đoạn diệt của thọ. Ðây là tưởng... Ðây là hành... Ðây là thức,
đây là sự tập khởi của thức, đây là sự đoạn diệt của thức.
Trong khi vị ấy an trú, tùy
quán sự sanh diệt của năm thủ uẩn này, nếu có ngã mạn nào
(asmimmano) (khởi lên) đối với năm thủ uẩn, ngã mạn ấy được đoạn
tận. Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo tuệ tri như sau:
"Phàm có ngã mạn nào đối với năm thủ uẩn (khởi lên) nơi ta,
ta đã đoạn tận ngã mạn ấy". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như
vậy.
Những pháp này, này Ananda,
thuần nhất liên hệ đến thiện, đều thuộc hiền, Thánh, siêu thế,
vượt ngoài tầm của ác ma.
1099. Một người thụ huấn cần được
nghiêm huấn
Trong sự tương quan thầy trò hay giữa
những pháp lữ đồng phạm hạnh luôn có các hệ luỵ. Vấn đề là trong sự hướng dẫn
hay trợ duyên tu tập có lúc phải “mạnh tay”. Người học tu phải chấp nhận những
thử thách và phải hiểu “Cái gì là cốt lõi thì cái đó sẽ tồn tại - yo sāro so
ṭhassatī”
-- Này Ananda, Ông nghĩ thế
nào? Vì thấy lý do gì, một Thanh văn Ðệ tử tự nghĩ là xứng đáng
(hợp lý) để đi theo một Ðạo sư dầu cho bị hất hủi?
-- Bạch Thế Tôn, đối với chúng
con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế Tôn làm lãnh
đạo, nương tựa Thế Tôn làm y cứ. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu
Thế Tôn thuyết giảng cho ý nghĩa này.
Sau khi được nghe Thế Tôn, các
Tỷ-kheo sẽ hành trì.
-- Này Ananda, thật không xứng
đáng cho một đệ tử bám sát theo vị đạo sư, nếu vì lý do được nghe
giải thích khế kinh và phúng tụng. Vì cớ sao? Trong một thời gian
lâu dài, các pháp đã được các Ông nghe, thọ trì, đọc lớn tiếng,
suy tư với ý, khéo thấu hiểu với chánh trí. Nhưng này Ananda, đối
với những lời nói nào, khắc khổ, khai tâm đưa đến nhất hướng viễn
ly, ly tham, đoạn diệt an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn như là
thiểu dục luận, tri túc luận, độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh
cần luận, giới luận, định luận, tuệ luận, giải thoát luận, giải
thoát tri kiến luận. Này Ananda, do nhân duyên những loại thuyết luận
như vậy, thật xứng đáng cho một Thanh văn đệ tử bám sát vị Ðạo sư
dầu cho bị hất hủi.
Sự kiện là như vậy, này
Ananda, thời có sự phiền lụy (upaddava) cho vị Ðạo sư; sự kiện là
như vậy, thời có sự phiền lụy do đệ tử; sự kiện là như vậy, thời
có sự phiền lụy cho các vị tu Phạm hạnh.
Và này Ananda, như thế nào là
sự phiền lụy cho vị Ðạo sư? Ở đây, này Ananda, có Ðạo sư lựa một
trú xứ (senasanam) xa vắng trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi,
chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời
hay trên một đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy, các
Bà-la- môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh.
Ðược các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung
quanh, vị ấy khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham
ái, trở lui lại đời sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi
là sự phiền lụy của Ðạo sư. Vì sự phiền lụy của Ðạo sư, các ác
bất thiện pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh, đáng sợ hãi, đưa đến
khổ quả dẫn đến sanh, già, chết trong tương lai, các pháp ấy tấn
công vị ấy. Như vậy, này Ananda, là sự phiền lụy của Ðạo sư.
Này Ananda, thế nào là sự
phiền lụy của đệ tử? Này Ananda, đệ tử của một Ðạo sư, bắt chước
đời sống viễn ly của Ðạo sư mình, lựa một trú xứ xa vắng, trong
rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi,
tại bãi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời hay trên một đống rơm. Trong
khi vị ấy sống viễn ly như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân
với quốc dân bao vây xung quanh. Ðược các Bà-la-môn, gia chủ, cả
thị dân và quốc dân bao vây cung quanh, vị ấy khởi lên nhiễm tâm,
rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lui lại đời sống sung túc.
Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của đệ tử. Vì sự
phiền lụy của đệ tử, các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm, dẫn đến
tái sanh, đáng sợ hãi, đưa đến khổ quả, dẫn đến sanh, già, chết
trong tương lai; các pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda,
là sự phiền lụy của đệ tử.
Và này Ananda, như thế nào là
sự phiền lụy của các vị tu Phạm hạnh? Ở đây, này Ananda, Như Lai
xuất hiện ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng,
dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi
tha ma, tại khu rừng, ngoài trời hay trên một đống rơm. Trong khi Ngài
sống viễn ly như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc
dân bao vây xung quanh. Ðược các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và
quốc dân bao vây xung quanh, Ngài không khởi lên nhiễm tâm, không
rơi vào dục vọng, không khởi lên tham ái, không trở lui lại đời
sống sung túc. Nhưng này Ananda, vị đệ tử của bậc Ðạo sư chủ tâm
theo (hạnh) viễn ly của bậc Ðạo sư, bắt chước (theo hạnh ấy) lựa
một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ
hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời,
trên một đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy, các
Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Ðược
các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh,
vị ấy khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở
lại đời sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền
lụy của các vị tu Phạm hạnh. Vì sự phiền lụy của Phạm hạnh, các
ác bất thiện pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh đáng sợ hãi, đưa
đến khổ quả, dẫn đến sanh, già, chết trong tương lai, các pháp ấy
tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda, là sự phiền lụy của các vị
tu Phạm hạnh. Nhưng này Ananda, sự phiền lụy của các vị tu Phạm
hạnh là nhiều quả khổ hơn, nhiều quả não hơn đối với phiền lụy
của Ðạo sư này và phiền lụy của đệ tử này, hơn nữa nó dẫn đến
đọa lạc.
Do vậy, này Ananda, hãy đối xử
với Ta, với tâm thân hữu, không với tâm thù nghịch, và như vậy
các Ông sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài. Và như thế nào là các
đệ tử đối xử vị Ðạo sư với tâm thù nghịch, không với tâm thân
hữu? Ở đây, này Ananda, vị Ðạo sư ấy với lòng từ mẫn thuyết pháp
cho các đệ tử, mong cầu hạnh phúc cho họ, vì lòng từ mẫn nói rằng:
"Ðây là hạnh phúc cho các Ông, đây là an lạc cho các Ông".
Nhưng các đệ tử của vị ấy không chịu nghe theo, không chịu lóng tai,
chú tâm vào hướng khác (annan), ngược lại, họ đi xa lời giảng dạy
của vị Ðạo sư. Như vậy, này Ananda, là các đệ tử đối xử với bậc
Ðạo sư, với tâm thù nghịch, không với tâm thân hữu.
Và như thế nào, này Ananda, là
các đệ tử đối xử với bậc Ðạo sư, với tâm thân hữu, không với
tâm thù nghịch? Ở đây, này Ananda, vị Ðạo sư với lòng từ mẫn
thuyết pháp cho các đệ tử, tìm cầu hạnh phúc cho họ, vì lòng từ
mẫn nói rằng: "Ðây là hạnh phúc cho các Ông, đây là an lạc cho
các Ông". Các đệ tử của vị ấy chịu nghe theo, chịu lóng tai,
không chú tâm vào hướng khác, và không ngược lại đi xa lời dạy
của bậc Ðạo sư. Như vậy, này Ananda, là các đệ tử đối xử với bậc
Ðạo sư, với tâm thân hữu, không phải với tâm thù nghịch. Do vậy,
này Ananda, hãy đối xử với Ta, với tâm thân hữu, chớ với tâm thù
nghịch và như vậy sẽ là hạnh phúc, là an lạc lâu dài cho các Ông.
Ta không sách tấn các Ông như
người thợ gốm đối với các đồ gốm chưa nung, chưa được nung chín.
Ta sẽ nói hết lời chỉ trích này đến lời chỉ trích khác, hết lời
tán thán này đến lời tán thán khác. Cái gì là lõi cây, cái ấy
sẽ đứng vững tồn tại.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 122 [tóm tắt]
Kinh Đại Không
(Mahāsuññata Sutta)
(M.iii,
109)
Khi Thế Tôn đi đến
trú xứ của Thích-ca Kāḷakhemaka, Ngài thấy ở đó có nhiều sàng tọa (chỗ
nằm), sau khi biết có rất đông Tỷ-kheo ở chỗ ấy, Ngài dạy Ānanda về
lợi ích của sự độc cư trong mọi ý nghĩa của danh từ này.
Một vị Tỷ-kheo
thích thú trong hội chúng của mình hoặc của người thì rất khó chứng
đắc xuất ly, độc cư lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc. Nhưng nếu vị
ấy sống một mình, xa lánh tụ hội, thời vị ấy có hy vọng chứng đắc
dễ dàng những pháp lạc ấy. Vị ấy có hy vọng chứng đắc và an trú với
tâm giải thoát có hạn kỳ (bốn sắc giới thiên và bốn vô sắc giới thiên,
vì còn bị thời gian chi phối nên gọi là có hạn kỳ), hay không hạn kỳ và
bất động (bốn đạo và bốn quả).
Nhưng có sự an trú
đã được Như Lai chứng ngộ và an trú nội không, trong khi an trú này, thì
dù ở giữa đám đông, Như Lai vẫn tưởng đến viễn ly, độc cư, hoan hỷ
trong ly dục, đoạn tận các pháp làm chỗ y cứ cho các lậu hoặc. Như vậy,
nên vị Tỷ-kheo muốn chứng trú nội không, cần phải chuyên nhất và an
tịnh nội tâm như sau.
Vị ấy ly dục, ly
bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền, Nhị thiền cho đến Tứ thiền.
Như vậy, vị ấy chuyên nhất, an định nội tâm. Vị ấy tác ý nội không,
trong khi tác ý, vị ấy không hân hoan, không an trú, không giải thoát
đốinvới nội không, và biết rõ như vậy. Vị ấy bèn tác ý ngoại không, nội
ngoại không, bất động. Vị ấy biết trong khi tác ý bất động, tâm không
hân hoan, không an trú, không giải thoát đối với bất động, ý thức rõ ràng
như vậy. Vị ấy lại tác ý nội không, lần này tâm vị ấy thích thú, an
trú giải thoát đối với nội không và biết như vậy, vị ấy tác ý ngoại
không, nội ngoại không, bất động. Trong khi tác ý bất động, vị ấy hân
hoan, an trú, giải thoát đối với bất động, và ý thức rõ như vậy.
Khi an trú trong chỉ
và quán này, nếu tâm vị ấy hướng về kinh hành, thì vị ấy đi kinh hành
với ý nghĩ: “Trong khi ta đi kinh hành, tham và ưu, các ác bất thiện pháp
không có chảy vào”. Nếu muốn đứng lại, vị ấy cũng đứng lại với ý
nghĩ ấy. Ngồi, nằm, cũng vậy. Khi muốn nói, vị ấy sẽ nghĩ: “Ta sẽ
không nói những chuyện hạ liệt, phàm phu, không liên hệ mục đích, không
hướng đến ly dục, yểm ly, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”. Khi
tâm vị ấy hướng đến suy tầm, vị ấy nghĩ: “Ta sẽ không suy tầm các
loại suy tầm không đưa đến yểm ly... Niết- bàn, như là dục tâm, sân
tầm, hại tầm. Ngược lại, vị ấy chỉ nghĩ đến ly dục tầm, vô sân
tầm, vô hại tầm, ý thức rõ ràng như vậy.
Vị ấy thường quán
sát tự tâm để biết ham muốn của mình đối với năm dục trưởng dưỡng:
Sắc, thanh, hương, vị, xúc được đoạn trừ đến mức nào. Vị ấy quán
năm thủ uẩn, tập khởi và đoạn diệt của chúng để đoạn tận ngã mạn
khởi lên đối với năm thủ uẩn.
Mặc dù độc cư là
cần thiết để dễ chứng đắc những gì cần chứng, một vị Đạo sư ngoại
đạo và những vị đệ tử trong khi độc cư núi rừng, có mối nguy là do
hạnh tu của mình được nhiều vua quan, cư sĩ đoanh vây ngưỡng mộ, đâm
ra nhiễm trước, phải trở lui đời sống thế tục. Hơn nữa, ở một mình
thì mất lợi lạc đối với mười pháp này là thiểu dục luận, tri túc luận,
độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần luận, giới luận, định luận,
tuệ luận, giải thoát luận, giải thoát tri kiến luận. Do đó, một đệ tử
thanh văn cần phải theo sát vị Đạo sư dù có bị xua đuổi. Vị ấy nên
đối xử với bậc Đạo sư với tâm thân hữu, không thù nghịch, nghĩa là
chịu nghe theo, không chú tâm vào hướng khác, không đi ngược lại, đi xa
lời dạy của bậc Đạo sư.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 122[dàn
ý]
Kinh Đại Không
(Mahāsuññata Sutta)
(M.iii, 109)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn thấy tại trú
xứ của Thích tử Kḷakhemaka có rất nhiều sàng tọa được sắp đặt nghĩa là có rất
nhiều Tỷ-kheo tụ hội nên mới nói kinh này.
B. Chánh kinh:
I. Tỷ-kheo nào hoan hỷ,
thích thú trong hội chúng của mình, hội chúng của người; không thể chói sáng
trong chánh pháp, không thể chứng đắc viễn ly lạc, độc cư lạc, an tịnh lạc,
chánh giác lạc, không thể chứng đắc và an trú tâm giải thoát có hạn kỳ và thoải
mái hay không có hạn kỳ và bất động. Thế Tôn thấy bất kỳ sắc pháp nào trong ấy
có hoan hỷ, có hoan lạc đều chịu sự biến dịch và khởi lên sầu khổ.
II. Thế Tôn không có
tác ý tất cả tưởng, an trú nội không, do vậy khi tiếp xúc với mọi tầng lớp dân
chúng, Thế Tôn chỉ nói lên những lời thuần túy liên hệ đến khích lệ. Thế Tôn
khuyên các Tỷ-kheo nên chứng đạt và an trú nội không, và muốn vậy cần phải an định
nội tâm.
III. Tỷ-kheo an định
nội tâm tức là chứng đắc 4 thiền.
IV. Tỷ-kheo đang an
trú với an trú này, nếu có đi, đứng, nằm, ngồi, nói, suy tầm, vị ấy ý thức rõ
ràng là trong khi làm các cử chỉ như vậy các ác bất thiện không có chảy vào,
các thiện pháp được thành tựu.
V. Đối với 5 dục công
đức, nếu khởi lên tâm hành gì, có dục ái hay không dục ái, vị Tỷ-kheo đều ý thức
rõ ràng.
VI. Đối với 5 uẩn khi
tùy quán sự sanh diệt, nếu có ngã mạn khởi lên được đoạn tận, Tỷ-kheo ý thức rõ
ràng như vậy.
VII. Vì lý do gì một
thanh văn đệ tử tự nghĩ là xứng đáng để đi theo một bậc Đạo sư dẫu cho bị hất hủi.
VIII. Sự phiền lụy
cho bậc đạo sư, cho đệ tử, cho các vị đồng tu phạm hạnh.
IX. Thế Tôn dạy hãy đối
xử với Ngài, với tâm thân hữu không với tâm thù nghịch.
C. Kết luận:
Tôn giả nanda hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 122[dàn
ý]
Kinh Đại Không
(Mahāsuññata Sutta)
(M.iii, 109)
I. Toát yếu
The Greater Discourse
on Voidness.
Upon finding that the
bhikkhus have grown fond of socialising, the Buddha stresses the need for
seclusion in order to abide in voidness.
Đại kinh về tánh
Không.
Thấy chư tỷ kheo
khởi sự ưa tụ hội, Phật nhấn mạnh nhu yếu độc cư để an trú tánh
Không.
II. Tóm tắt
Nhân thấy trú xứ
của tỷ kheo Kàlakhemaka [2] có nhiều chỗ nằm, Phật hỏi phải chăng ở
đây đang có nhiều tỷ kheo cư trú [3]. Tôn giả A-nan thưa vì đấy là
thời gian may y nên họ mới quy tụ để may y [4]. Phật nhân đấy dạy về
pháp tu Chỉ và Quán nhờ sống viễn ly. Một tỷ kheo ưa quần
tụ thì không thể thưởng thức lạc viễn ly, độc cư, an tịnh, chính
giác [5]; không thể chứng tâm giải thoát có hạn kỳ hay tâm giải
thoát Bất động [6]. Không một sắc (thân) nào bị biến hoại mà không
gây sầu bi khổ ưu não cho người ham thích nó. Nhưng Phật đã tìm ra
một sự an trú, đó là trú Nội Không nhờ không tác ý tất cả tướng
[7]. Trong lúc an trú nội không, dù đông đảo hạng người đến với
Ngài, tâm Phật vẫn hướng đến viễn ly độc cư, và vì không còn
dính gì đến các việc làm căn bản cho hữu lậu pháp, Ngài luôn luôn
dạy họ những lời thuần túy liên hệ đến viễn ly. Rồi Phật dạy A-nan
cách trú Nội Không [8], và kết quả của nó.
Trước hết phải an
chỉ nội tâm nhờ căn bản là một trong bốn thiền (tu Chỉ). Kế tiếp
sau khi đã đắc một thiền làm căn bản (từ thiền thứ nhất cho đến
thiền thứ tư), vị tỷ kheo tác ý đến Nội không hoặc tác ý Ngoại
không hoặc tác ý Bất động [9]. Nếu không có sự hân hoan thích thú
đối với nội không, ngoại không hay bất động, vị ấy cần phải ý
thức rõ như vậy, và nhập lại thiền căn bản [10] để quán trở lại
cho đến khi biết tâm đã thích thú, hân hoan, giải thoát nhờ quán
nội không, ngoại không, nội ngoại không và bất động. Một người đã
an trú trong chỉ và quán như vậy,
1. Khi tâm hướng
về đi hoặc đứng, nằm, ngồi, vị ấy sẽ đi đứng ngồi nằm với ý thức
rõ biết không có tham ưu và các bất thiện pháp ám ảnh tâm trí.
2. Lúc tâm hướng
đến nói chuyện, vị ấy nghĩ mình sẽ chỉ nói chuyện liên hệ đến
mười đề mục là thiểu dục, tri túc, viễn ly, độc cư, tinh cần, giới
định tuệ giải thoát vân vân, tránh tất cả chuyện khác.
3.Lúc suy tầm, vị ấy ý thức rõ mình sẽ suy tư ly dục,vô
sân, bất hại, không suy tư những gì không liên hệ viễn ly, ly tham,
tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
4. Ðối với năm
dục công đức [11] là sắc thanh hương vị xúc, vị ấy phải thường
quán sát tự tâm có còn dục ái đối với chung hay đã đoạn tận, ý
thức rõ ràng như vậy.
5. Ðối với năm
thủ uẩn [12] vị ấy luôn quán sự sinh diệt của chúng, và rõ biết
tâm kiêu mạn tôi là y cứ trên năm thủ uẩn này đã được từ bỏ.
Phật dạy một Thanh văn đệ tử nên sống gần bậc thầy dù có bị xua
đuổi, khi được nghe những lời dạy khắc khổ đưa đến ly tham, tịch
diệt, như dạy thiểu dục, tri túc, viễn ly, độc cư, tinh cần, giới
định tuệ giải thoát và giải thoát tri kiến. (Do vì không tu học chỉ
và quán như trên mà) cả thầy lẫn trò của ngoại đạo trong lúc tu
khổ hạnh cuối cùng đều gặp phiền lụy [13] khi được nổi tiếng, đông
đồ đệ; họ khởi lên nhiễm tâm, trở lui đời sống thế tục, bị các
bất thiện tấn công và không thoát khỏi già chết trong tương lai.
Một số đệ tử Phật tu phạm hạnh cũng rơi vào mối nguy tương tự,
bị phiền lụy khi bắt chước Phật sống viễn ly (mà chưa chuẩn bị chu
đáo.) Nhưng sự phiền lụy của các vị tu phạm hạnh này kết quả còn
bi thảm hơn phiền lụy của thầy trò ngoại đạo [14]. Và Phật khuyên
các đệ tử hãy đối xử với Ngài bằng tâm thân hữu, không thù nghịch.
Thân hữu là không đi ngược lại lời dạy của đấng Ðạo sư đã vì
lòng từ mẫn mà thuyết pháp đem lại hạnh phúc an lạc cho mình. Nhưng
Ngài không đối xử nhẹ tay với đệ tử như thợ gốm đối xử với đồ
gốm [15]. Cái gì là lõi cây thì sẽ đứng vững.
III.
Chú giải
1.
Kinh này cùng với luận giải đã được Ñaṇamoli dịch và ấn hành với
nhan đề Ðại kinh nói về Không.
2.
MA: Trú xứ này được Kalakhemaka dòng Thích ca xây cất trong vườn Ni
câu luật. Giường chiếu ghế và
thảm
được trang bị san sát đến nỗi nó trông như chỗ ở của một hội
chúng tỷ kheo.
3.
MA giải thích đây chỉ là một câu hỏi gặn, vì với thần thông chư
Phật có thể biết những gì các Ngài muốn biết. Phật hỏi câu này
với ý nghĩ: Khi chúng tỷ kheo này tụ hội thành đoàn thể và ưa
thích tụ hội, chúng sẽ hành xử phi pháp. Vậy ta sẽ giảng Pháp tu
vĩ đại về Không, đấy sẽ trở thành giống như một học giới [cấm ưa
quần tụ].
4. MA: Tôn giả
Ānanda định nói: Các tỷ kheo này sống quần tụ như thế không chỉ
vì ưa lăng xăng rộn ràng, mà vì may y.
5. Viễn ly là lìa
dục vọng, độc cư là xa đám đông, an tịnh là đoạn tham sân si, chính
giác là đạo và quả.
6. Giải thoát đầu
là giải thoát nhờ chứng bốn thiền và bốn không (vô sắc), giải
thoát sau là nhờ đạo và quả siêu thế. Xem thêm Trung bộ 29 và chú
thích 348.
7. MA: Phật mở đầu
đoạn này để tránh chỉ trích rằng trong khi Ngài khuyên các đệ tử
sống độc cư, thì bản thân Ngài lại thường được nhiều đồ chúng
quây quần. Không tánh đây là quả chứng về Không, xem chú thích số
1, kinh Trung bộ 121.
8. MA giải thích
nội không là cái không liên hệ đến năm uẩn của tự thân, ngoại
không là cái không liên hệ đến năm uẩn của kẻ khác. Vậy tánh
không đề cập ở đây phải là tâm giải thoát tạm thời nhờ tuệ quán
vô ngã, như kinh 43 giải thích. Khi tuệ về vô ngã được nâng lên
ngang tầm của đạo lộ thì sẽ đưa đến sự chứng quả Niết-bàn theo
khía cạnh Không của nó.
9. MA: Vị ấy tác
ý đến một thiền chứng vô sắc bất động.
10. MA: Ðây nói về
thiền được dùng làm căn bản cho tuệ giác. Nếu sau khi xuất khỏi
thiền căn bản, tâm vị ấy không đi vào Không bằng tuệ quán về năm
uẩn của tự thân hay của người, và cũng không thể đạt đến vô sắc
bất động, thì vị ấy nên trở về thiền căn bản mà mình đã phát
triển được và tác ý đến nó nhiều lần.
11. Theo MA, cho đến
điểm này, Phật đã hiển thị sự tu tập để đắc hai đạo lộ đầu tiên
là Dự lưu và Nhất lai. Ðoạn này làđể nêu rõ tuệ quán cần
thiếtđể đạt đến Bất hoàn đạo mà tột đỉnh là từ bỏ ham muốn dục
lạc.
12.
Ðoạn này hiển thị tuệ giác cần có để đạt đến A-la- hán đạo, mà
tột đỉnh là từ bỏ ngã mạn tôi là.
13.
Upaddava cũng có thể dịch là tai họa. MA giải thích rằng Phật dạy
đoạn kinh này để nêu lên sự nguy hiểm của độc cư khi người ta chưa
hoàn thành mục tiêu của sự sống độc cư. Ðạo sư ở đây là thầy
ngoại đạo.
14.
MA: Sự xuất gia theo ngoại đạo không đem lại lợi ích bao nhiêu, nên
người nào thối thất thì bất quá chỉ mất lợi lạc thuộc thế gian;
họ không có đau khổ gì lớn lắm, cũng như người cỡi lừa té thì
chỉ bị lấm bụi. Nhưng xuất gia trong Pháp Phật đem lại lợi ích lớn
là đạo, quả và Niết- bàn. Bởi thế người nào thối thất trong giáo
lý này gặp phải khổ đau lớn, như người té xuống từ lưng voi.
15.
Tương phản trong ví dụ này là giữa cái cách người thợ gốm nắm
cục đất sét còn ẩm và cách ông nắm đồ gốm đã được nặn từ đất
sét ấy. MA giải rộng câu này như sau: Sau khi đã giáo giới rồi thì
ta sẽ không im lặng; ta sẽ khuyến cáo, dạy bảo bằng cách liên tục
quở trách các ông. Như thợ gốm thử đồ đã nung, đặt sang một bên
những cái bị nứt nẻ, có lỗi, và chỉ giữ lại những đồ gốm đã
vượt qua cuộc thử thách, cũng vậy ta sẽ giáo giới và khuyến cáo
bằng cách thử nghiệm các ông. Người nào trong đây đã đạt đến đạo
và quả, thì sẽ chịu đựng được cơn thử thách. MA thêm rằng những
thiện đức thế gian cũng được xem là tiêu chuẩn của sự lành mạnh.
IV.
Pháp số
(không
có)
V. Kệ tụng
‘Tỷ
kheo ưa quần tụ
Khó
nếm lạc viễn ly
Lạc
độc cư, an tịnh
Khó
nếm lạc chính giác.
‘Cũng
không thể chứng được
Giải
thoát có hạn kỳ
Và giải thoát bất động.
Và giải thoát bất động.
Không
một sắc pháp nào
Bị vô thường biến hoại
Mà không gây đau khổ
Bị vô thường biến hoại
Mà không gây đau khổ
Cho
người ham thích nó.
‘Phật
an trú nội không
Không
tác ý tướng ngoài
Giữa
đồ chúng đủ hạng
Tâm
Phật vẫn như nhiên.
Hướng
viễn ly độc cư
Xa
lìa pháp hữu lậu
Và giảng dạy những lời
Và giảng dạy những lời
Thuần
đưa đến viễn ly.
‘Muốn
an trú nội không
Trước
phải ổn định tâm
Ðắc
một thiền căn bản
Từ
sơ đến tứ thiền
Rồi
tác ý nội không
Hoặc tác ý Ngoại không
Hoặc tác ý Bất động
Nếu trong khi tác ý
Tâm không thấy thích thú
Hoặc tác ý Ngoại không
Hoặc tác ý Bất động
Nếu trong khi tác ý
Tâm không thấy thích thú
Trong
nội không, ngoại không
Cần
biết rõ như vậy
Nhập lại thiền căn bản
Rồi lại quán nội không
(Ngoại không, và Bất động)
Nhập lại thiền căn bản
Rồi lại quán nội không
(Ngoại không, và Bất động)
Cho
đến khi thích thú
Hân
hoan trong pháp này
Và
tâm được giải thoát.
‘Một
người đã an trú
Trong
chỉ và quán này
Thì
trong bốn uy nghi
Tâm
không khởi bất thiện
Cũng
không có tham ưu.
‘Câu
chuyện vị ấy nói
Chỉ
liên hệ thiểu dục
Tri túc và viễn ly
Tri túc và viễn ly
Ðộc
cư và tinh cần
Giới, định, tuệ, giải thoát
Và giải thoát tri kiến
Tránh những chuyện ngoài đề
Giới, định, tuệ, giải thoát
Và giải thoát tri kiến
Tránh những chuyện ngoài đề
‘Lúc
vị ấy suy tầm
Chỉ suy tư ly dục
Vô sân và bất hại
Gạt bỏ ra ngoài tâm
Chỉ suy tư ly dục
Vô sân và bất hại
Gạt bỏ ra ngoài tâm
Những
gì không liên hệ
Ðến
viễn ly, ly tham
Tịch
diệt và thắng trí
Giác
ngộ với Niết-bàn.
‘Ðối
năm dục công đức
Sắc
thanh hương vị xúc
Vị
ấy thường quán sát
Tâm
đoạn dục hay chưa.
‘Ðối
với năm thủ uẩn
Thường
quán sát sinh diệt
Ðể
biết mạn tùy miên
Ðã hoàn toàn từ bỏ
Một Thanh văn đệ tử
Nên sống gần bậc thầy
Ðã hoàn toàn từ bỏ
Một Thanh văn đệ tử
Nên sống gần bậc thầy
Dù
có bị xua đuổi
Ðể
được nghe dạy
Pháp
Liên hệ đến viễn ly
Ly tham và giải thoát.
Ly tham và giải thoát.
‘Vì
không tu chỉ quán
Các
thầy trò ngoại đạo
Dù
có sống độc cư
Cuối
cùng gặp phiền lụy
Bởi
đồ đệ đoanh vây
Bởi dục tham chi phối
Bị bất thiện tấn công
Bởi dục tham chi phối
Bị bất thiện tấn công
Trong
thời gian vị lai
Không
thoát khỏi già chết
Một
số tu phạm hạnh
Theo
gương đức Thế Tôn
Cũng
gặp nguy tương tự
Vì
không tu chỉ quán.
‘Chưa
an trú nội không
Phiền
lụy của vị này
Kết
quả bi thảm hơn
Các
thầy trò ngoại đạo.
Phật
khuyên các tỷ kheo
Ðừng
đối xử với Ngài
Với
tâm lý thù nghịch
Không
theo lời chỉ giáo
Hãy
đối xử với Ngài
Bằng
tâm lý thân thiện
Nương
theo Pháp tu hành
Ðể
an lạc dài lâu.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
122. Mahāsuññatasuttaṃ [Mūla]
185. Evaṃ me sutaṃ
: ekaṃ samayaṃ Bhagavā sakkesu viharati kapilavatthusmiṃ nigrodhārāme.
Atha kho Bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya
kapilavatthuṃ piṇḍāya pāvisi. Kapilavatthusmiṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto
yena kāḷakhemakassa sakkassa vihāro tenupasaṅkami divāvihārāya. Tena kho pana
samayena kāḷakhemakassa sakkassa vihāre
sambahulāni senāsanāni paññattāni honti. Addasā kho Bhagavā kāḷakhemakassa
sakkassa vihāre sambahulāni senāsanāni
paññattāni. Disvāna bhagavato etadahosi : ''sambahulāni kho kāḷakhemakassa
sakkassa vihāre senāsanāni paññattāni. Sambahulā nu kho idha bhikkhū
viharantīti.
186. Tena kho pana samayena āyasmā ānando sambahulehi
bhikkhūhi saddhiṃ ghaṭāya sakkassa vihāre cīvarakammaṃ karoti. Atha kho Bhagavā
sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena ghaṭāya sakkassa vihāro tenupasaṅkami
upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho Bhagavā āyasmantaṃ
ānandaṃ āmantesi : ''sambahulāni kho, ānanda, kāḷakhemakassa sakkassa vihāre senāsanāni paññattāni.
Sambahulā nu kho ettha bhikkhū viharantīti? ''sambahulāni, bhante, kāḷakhemakassa
sakkassa vihāre senāsanāni paññattāni. Sambahulā bhikkhū ettha viharanti.
Cīvarakārasamayo no, bhante, vattatīti. ''Na kho, ānanda, bhikkhu sobhati saṅgaṇikārāmo
saṅgaṇikarato saṅgaṇikārāmataṃ anuyutto gaṇārāmo gaṇarato gaṇasammudito. So
vatānanda, bhikkhu saṅgaṇikārāmo saṅgaṇikarato saṅgaṇikārāmataṃ anuyutto gaṇārāmo
gaṇarato gaṇasammudito yaṃ taṃ nekkhammasukhaṃ pavivekasukhaṃ upasamasukhaṃ
sambodhisukhaṃ [sambodhasukhaṃ (sī. pī.), sambodhasukhaṃ cittekaggatāsukhaṃ
(ka.) upari araṇavibhaṅgasutte pana sambodhisukhantveva dissati] tassa sukhassa
nikāmalābhī bhavissati akicchalābhī akasiralābhīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Yo
ca kho so, ānanda, bhikkhu eko gaṇasmā vūpakaṭṭho viharati tassetaṃ bhikkhuno
pāṭikaṅkhaṃ yaṃ taṃ nekkhammasukhaṃ pavivekasukhaṃ upasamasukhaṃ sambodhisukhaṃ tassa sukhassa nikāmalābhī bhavissati
akicchalābhī akasiralābhīti : ṭhānametaṃ vijjati. ''So vatānanda, bhikkhu saṅgaṇikārāmo
saṅgaṇikarato saṅgaṇikārāmataṃ anuyutto gaṇārāmo gaṇarato gaṇasammudito
sāmāyikaṃ vā kantaṃ cetovimuttiṃ upasampajja viharissati asāmāyikaṃ vā
akuppanti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Yo ca kho so, ānanda, bhikkhu eko gaṇasmā
vūpakaṭṭho viharati tassetaṃ bhikkhuno
pāṭikaṅkhaṃ sāmāyikaṃ vā kantaṃ cetovimuttiṃ
upasampajja viharissati asāmāyikaṃ vā akuppanti : ṭhānametaṃ vijjati.
''Nāhaṃ, ānanda, ekaṃ rūpampi [ekarūpampi (sī.)] samanupassāmi yattha rattassa
yathābhiratassa rūpassa vipariṇāmaññathābhāvā na uppajjeyyuṃ
sokaparidevadukkhadomanassūpāyāsā.
187. ''Ayaṃ kho
panānanda, vihāro tathāgatena abhisambuddho yadidaṃ : sabbanimittānaṃ
amanasikārā ajjhattaṃ suññataṃ upasampajja viharituṃ [viharataṃ (ka. sī.),
viharati (syā. kaṃ. ka.)]. Tatra ce, ānanda, tathāgataṃ iminā vihārena
viharantaṃ bhavanti [bhagavantaṃ (sī. syā. kaṃ. ka.)] upasaṅkamitāro bhikkhū
bhikkhuniyo upāsakā upāsikāyo rājāno rājamahāmattā titthiyā titthiyasāvakā.
Tatrānanda, tathāgato vivekaninneneva cittena vivekapoṇena vivekapabbhārena
vūpakaṭṭhena nekkhammābhiratena byantībhūtena sabbaso āsavaṭṭhānīyehi dhammehi
aññadatthu uyyojanikapaṭisaṃyuttaṃyeva kathaṃ kattā hoti. Tasmātihānanda,
bhikkhu cepi ākaṅkheyya : 'ajjhattaṃ suññataṃ upasampajja vihareyyanti,
tenānanda, bhikkhunā ajjhattameva cittaṃ saṇṭhapetabbaṃ sannisādetabbaṃ ekodi
kātabbaṃ samādahātabbaṃ.
188. ''Kathañcānanda, bhikkhu ajjhattameva cittaṃ saṇṭhapeti
sannisādeti ekodiṃ karoti [ekodikaroti (sī. syā. kaṃ. pī.)] samādahati?
idhānanda, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi - pe - paṭhamaṃ
jhānaṃ upasampajja viharati - pe - dutiyaṃ jhānaṃ... tatiyaṃ jhānaṃ... catutthaṃ
jhānaṃ upasampajja viharati. Evaṃ kho, ānanda, bhikkhu ajjhattameva cittaṃ saṇṭhapeti
sannisādeti ekodiṃ karoti samādahati. So
ajjhattaṃ suññataṃ manasi karoti. Tassa ajjhattaṃ suññataṃ manasikaroto
suññatāya cittaṃ na pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati na vimuccati . Evaṃ
santametaṃ, ānanda, bhikkhu evaṃ pajānāti : 'ajjhattaṃ suññataṃ kho me manasikaroto ajjhattaṃ
suññatāya cittaṃ na pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati na vimuccatīti.
Itiha tattha sampajāno hoti. So bahiddhā suññataṃ manasi karoti - pe - so
ajjhattabahiddhā suññataṃ manasi karoti
- pe - so āneñjaṃ manasi karoti. Tassa āneñjaṃ manasikaroto āneñjāya
cittaṃ na pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati na vimuccati. Evaṃ santametaṃ,
ānanda, bhikkhu evaṃ pajānāti : 'āneñjaṃ kho me manasikaroto āneñjāya cittaṃ na
pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati na vimuccatīti. Itiha tattha sampajāno
hoti. ''Tenānanda, bhikkhunā tasmiṃyeva purimasmiṃ samādhinimitte ajjhattameva
cittaṃ saṇṭhapetabbaṃ sannisādetabbaṃ ekodi kātabbaṃ samādahātabbaṃ. So
ajjhattaṃ suññataṃ manasi karoti. Tassa ajjhattaṃ suññataṃ manasikaroto
ajjhattaṃ suññatāya cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati vimuccati. Evaṃ
santametaṃ, ānanda, bhikkhu evaṃ pajānāti : 'ajjhattaṃ suññataṃ kho me
manasikaroto ajjhattaṃ suññatāya cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati
vimuccatīti. Itiha tattha sampajāno hoti. So bahiddhā suññataṃ manasi karoti -
pe - so ajjhattabahiddhā suññataṃ manasi karoti - pe - so āneñjaṃ manasi
karoti. Tassa āneñjaṃ manasikaroto āneñjāya cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati
vimuccati. Evaṃ santametaṃ, ānanda, bhikkhu evaṃ pajānāti : 'āneñjaṃ kho
me manasikaroto āneñjāya cittaṃ
pakkhandati pasīdati santiṭṭhati vimuccatīti. Itiha tattha sampajāno hoti.
189. ''Tassa ce, ānanda, bhikkhuno iminā vihārena viharato
caṅkamāya cittaṃ namati, so caṅkamati : 'evaṃ maṃ caṅkamantaṃ
nābhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssavissantīti . Itiha tattha
sampajāno hoti. Tassa ce, ānanda, bhikkhuno iminā vihārena viharato ṭhānāya
cittaṃ namati, so tiṭṭhati : 'evaṃ maṃ ṭhitaṃ nābhijjhādomanassā pāpakā akusalā
dhammā anvāssavissantīti. Itiha tattha sampajāno hoti. Tassa ce, ānanda,
bhikkhuno iminā vihārena viharato nisajjāya cittaṃ namati, so nisīdati : 'evaṃ
maṃ nisinnaṃ nābhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssavissantīti. Itiha
tattha sampajāno hoti. Tassa ce, ānanda, bhikkhuno iminā vihārena viharato
sayanāya cittaṃ namati , so sayati : 'evaṃ maṃ sayantaṃ nābhijjhādomanassā
pāpakā akusalā dhammā anvāssavissantīti. Itiha tattha sampajāno hoti.
''Tassa ce, ānanda, bhikkhuno iminā
vihārena viharato kathāya [bhassāya (sī.), bhāsāya (syā. kaṃ. pī.)] cittaṃ
namati, so : 'yāyaṃ kathā hīnā gammā pothujjanikā anariyā anatthasaṃhitā na
nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na
nibbānāya saṃvattati, seyyathidaṃ : rājakathā corakathā mahāmattakathā
senākathā bhayakathā yuddhakathā
annakathā pānakathā vatthakathā sayanakathā mālākathā gandhakathā
ñātikathā yānakathā gāmakathā nigamakathā nagarakathā janapadakathā itthikathā
surākathā visikhākathā kumbhaṭṭhānakathā pubbapetakathā nānattakathā
lokakkhāyikā samuddakkhāyikā itibhavābhavakathā iti vā iti : evarūpiṃ kathaṃ na
kathessāmīti. Itiha tattha sampajāno hoti. Yā ca kho ayaṃ, ānanda, kathā
abhisallekhikā cetovinīvaraṇasappāyā [cetovicāraṇasappāyā (sī. syā. kaṃ.),
cetovivaraṇasappāyā (pī.)] ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya
abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati, seyyathidaṃ : appicchakathā santuṭṭhikathā
pavivekakathā asaṃsaggakathā vīriyārambhakathā sīlakathā samādhikathā
paññākathā vimuttikathā vimuttiñāṇadassanakathā iti : 'evarūpiṃ kathaṃ
kathessāmīti. Itiha tattha sampajāno hoti. ''Tassa ce, ānanda, bhikkhuno iminā
vihārena viharato vitakkāya cittaṃ
namati, so : 'ye te vitakkā hīnā gammā pothujjanikā anariyā anatthasaṃhitā na
nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na
nibbānāya saṃvattanti, seyyathidaṃ : kāmavitakko byāpādavitakko vihiṃsāvitakko
iti evarūpe vitakke [evarūpena vitakkena (sī. syā. kaṃ. ka.)] na
vitakkessāmīti. Itiha tattha sampajāno hoti. Ye ca kho ime, ānanda, vitakkā
ariyā niyyānikā niyyanti takkarassa sammādukkhakkhayāya, seyyathidaṃ :
nekkhammavitakko abyāpādavitakko avihiṃsāvitakko iti : 'evarūpe vitakke
[evarūpena vitakkena (ka.)] vitakkessāmīti. Itiha tattha sampajāno hoti.
190. ''Pañca kho
ime, ānanda, kāmaguṇā. Katame pañca? cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā
piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, sotaviññeyyā
saddā... ghānaviññeyyā gandhā... jivhāviññeyyā rasā... kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā
iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā
rajanīyā : ime kho, ānanda, pañca kāmaguṇā yattha bhikkhunā abhikkhaṇaṃ
sakaṃ cittaṃ paccavekkhitabbaṃ : 'atthi nu kho me imesu pañcasu kāmaguṇesu
aññatarasmiṃ vā aññatarasmiṃ vā āyatane uppajjati cetaso samudācāroti? sace,
ānanda, bhikkhu paccavekkhamāno evaṃ pajānāti : 'atthi kho me imesu pañcasu
kāmaguṇesu aññatarasmiṃ vā aññatarasmiṃ vā āyatane uppajjati cetaso
samudācāroti, evaṃ santametaṃ [evaṃ santaṃ (aṭṭha0)], ānanda, bhikkhu evaṃ pajānāti
: 'yo kho imesu pañcasu kāmaguṇesu chandarāgo so me nappahīnoti. Itiha tattha
sampajāno hoti. Sace panānanda, bhikkhu paccavekkhamāno evaṃ pajānāti : 'natthi
kho me imesu pañcasu kāmaguṇesu aññatarasmiṃ vā aññatarasmiṃ vā āyatane
uppajjati cetaso samudācāroti, evaṃ santametaṃ, ānanda, bhikkhu evaṃ pajānāti :
'yo kho imesu pañcasu kāmaguṇesu chandarāgo so me pahīnoti. Itiha tattha
sampajāno hoti.
191. ''Pañca kho ime, ānanda, upādānakkhandhā yattha
bhikkhunā udayabbayānupassinā vihātabbaṃ : 'iti rūpaṃ iti rūpassa samudayo iti rūpassa atthaṅgamo, iti vedanā... iti saññā... iti saṅkhārā... iti viññāṇaṃ iti
viññāṇassa samudayo iti viññāṇassa atthaṅgamoti. Tassa imesu pañcasu
upādānakkhandhesu udayabbayānupassino viharato yo pañcasu upādānakkhandhesu asmimāno
so pahīyati. Evaṃ santametaṃ, ānanda, bhikkhu evaṃ pajānāti : 'yo kho imesu
pañcasu upādānakkhandhesu asmimāno so me pahīnoti. Itiha tattha sampajāno hoti.
Ime kho te, ānanda, dhammā ekantakusalā kusalāyātikā [dhammā ekantakusalāyatikā
(sabbattha) aṭṭhakathāṭīkā oloketabbā] ariyā lokuttarā anavakkantā pāpimatā. Taṃ
kiṃ maññasi, ānanda, kaṃ atthavasaṃ sampassamāno arahati sāvako satthāraṃ
anubandhituṃ api paṇujjamānoti [api panujjamānopīti (ka. sī.), api
payujjamānoti (syā. kaṃ. pī.)]? ''bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā bhagavaṃnettikā
bhagavaṃpaṭisaraṇā . Sādhu vata, bhante, bhagavantaṃyeva paṭibhātu etassa
bhāsitassa attho. Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantīti.
192. ''Na kho, ānanda, arahati sāvako satthāraṃ
anubandhituṃ, yadidaṃ suttaṃ geyyaṃ veyyākaraṇaṃ tassa hetu [veyyākaraṇassa
hetu (ka.)]. Taṃ kissa hetu? dīgharattassa [dīgharattaṃ + assāti padacchedo] hi
te, ānanda, dhammā sutā dhātā vacasā paricitā manasānupekkhitā diṭṭhiyā suppaṭividdhā.
Yā ca kho ayaṃ, ānanda, kathā abhisallekhikā cetovinīvaraṇasappāyā
ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamā abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati, seyyathidaṃ :
appicchakathā santuṭṭhikathā pavivekakathā asaṃsaggakathā vīriyārambhakathā
sīlakathā samādhikathā paññākathā
vimuttikathā vimuttiñāṇadassanakathā : evarūpiyā kho, ānanda, kathāya hetu
arahati sāvako satthāraṃ anubandhituṃ api paṇujjamāno. ''Evaṃ sante kho,
ānanda, ācariyūpaddavo hoti, evaṃ sante antevāsūpaddavo hoti, evaṃ sante
brahmacārūpaddavo hoti.
193. ''Kathañcānanda, ācariyūpaddavo hoti? idhānanda,
ekacco satthā vivittaṃ senāsanaṃ bhajati araññaṃ rukkhamūlaṃ pabbataṃ kandaraṃ
giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ abbhokāsaṃ
palālapuñjaṃ. Tassa tathāvūpakaṭṭhassa viharato anvāvattanti [anvāvaṭṭanti (sī.
syā. kaṃ. pī.)] brāhmaṇagahapatikā negamā ceva jānapadā ca. So anvāvattantesu
brāhmaṇagahapatikesu negamesu ceva jānapadesu ca mucchaṃ nikāmayati [mucchati
kāmayati (sī. pī.) aṭṭhakathāyaṃ pana na tathā dissati], gedhaṃ āpajjati,
āvattati bāhullāya. Ayaṃ vuccatānanda, upaddavo [upadduto (sī. pī.)] ācariyo.
Ācariyūpaddavena avadhiṃsu naṃ pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā ponobbhavikā
[ponobhavikā (sī. pī.)] sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇiyā. Evaṃ kho,
ānanda, ācariyūpaddavo hoti.
194. ''Kathañcānanda, antevāsūpaddavo hoti? tasseva kho
panānanda, satthu sāvako tassa satthu vivekamanubrūhayamāno vivittaṃ senāsanaṃ
bhajati araññaṃ rukkhamūlaṃ pabbataṃ
kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ abbhokāsaṃ palālapuñjaṃ. Tassa
tathāvūpakaṭṭhassa viharato anvāvattanti brāhmaṇagahapatikā negamā ceva
jānapadā ca. So anvāvattantesu brāhmaṇagahapatikesu
negamesu ceva jānapadesu ca mucchaṃ nikāmayati, gedhaṃ āpajjati, āvattati
bāhullāya. Ayaṃ vuccatānanda, upaddavo antevāsī. Antevāsūpaddavena avadhiṃsu naṃ
pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā ponobbhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ
jātijarāmaraṇiyā. Evaṃ kho, ānanda, antevāsūpaddavo hoti.
195. ''Kathañcānanda, brahmacārūpaddavo hoti? idhānanda,
tathāgato loke uppajjati arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato
lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho Bhagavā. So vivittaṃ senāsanaṃ
bhajati araññaṃ rukkhamūlaṃ pabbataṃ kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ
abbhokāsaṃ palālapuñjaṃ. Tassa tathāvūpakaṭṭhassa viharato anvāvattanti brāhmaṇagahapatikā
negamā ceva jānapadā ca. So anvāvattantesu brāhmaṇagahapatikesu negamesu ceva
jānapadesu ca na mucchaṃ nikāmayati, na gedhaṃ āpajjati, na āvattati bāhullāya. Tasseva kho panānanda, satthu
sāvako tassa satthu vivekamanubrūhayamāno vivittaṃ senāsanaṃ bhajati araññaṃ
rukkhamūlaṃ pabbataṃ kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ abbhokāsaṃ
palālapuñjaṃ. Tassa tathāvūpakaṭṭhassa viharato anvāvattanti brāhmaṇagahapatikā
negamā ceva jānapadā ca. So anvāvattantesu brāhmaṇagahapatikesu negamesu ceva
jānapadesu ca mucchaṃ nikāmayati, gedhaṃ
āpajjati, āvattati bāhullāya. Ayaṃ vuccatānanda, upaddavo brahmacārī.
Brahmacārūpaddavena avadhiṃsu naṃ pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā
ponobbhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇiyā. Evaṃ kho, ānanda,
brahmacārūpaddavo hoti. ''Tatrānanda, yo cevāyaṃ ācariyūpaddavo, yo ca
antevāsūpaddavo ayaṃ tehi brahmacārūpaddavo dukkhavipākataro ceva kaṭukavipākataro
ca, api ca vinipātāya saṃvattati.
196. ''Tasmātiha maṃ, ānanda, mittavatāya samudācaratha,
mā sapattavatāya. Taṃ vo bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāya. ''Kathañcānanda
, satthāraṃ sāvakā sapattavatāya samudācaranti, no mittavatāya? idhānanda,
satthā sāvakānaṃ dhammaṃ deseti anukampako hitesī anukampaṃ upādāya : 'idaṃ vo
hitāya, idaṃ vo sukhāyāti. Tassa sāvakā na sussūsanti, na sotaṃ odahanti, na
aññā cittaṃ upaṭṭhapenti, vokkamma ca
satthusāsanā vattanti. Evaṃ kho, ānanda, satthāraṃ sāvakā sapattavatāya
samudācaranti, no mittavatāya. ''Kathañcānanda, satthāraṃ sāvakā mittavatāya
samudācaranti, no sapattavatāya? idhānanda, satthā sāvakānaṃ dhammaṃ deseti
anukampako hitesī anukampaṃ upādāya : 'idaṃ vo hitāya, idaṃ vo sukhāyāti. Tassa
sāvakā sussūsanti, sotaṃ odahanti, aññā cittaṃ upaṭṭhapenti, na ca vokkama satthusāsanā vattanti. Evaṃ kho,
ānanda, satthāraṃ sāvakā mittavatāya samudācaranti, no sapattavatāya.
''Tasmātiha maṃ, ānanda, mittavatāya
samudācaratha, mā sapattavatāya. Taṃ vo bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāya.
Na vo ahaṃ, ānanda, tathā parakkamissāmi yathā kumbhakāro āmake āmakamatte.
Niggayha niggayhāhaṃ, ānanda, vakkhāmi pavayha pavayha, ānanda, vakkhāmi
[pavayha pavayha (sī. pī.), paggayha paggayha ānanda vakkhāmi (ka.)]. Yo sāro
so ṭhassatīti. Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā ānando bhagavato
bhāsitaṃ abhinandīti.
Mahāsuññatasuttaṃ niṭṭhitaṃ dutiyaṃ.
-ooOoo-
122.
Mahāsuññatasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
185. Evaṃ me sutanti
mahāsuññatasuttaṃ. Tattha kāḷakhemakassāti chavivaṇṇena so kāḷo,
khemakoti panassa nāmaṃ. Vihāroti tasmiṃyeva nigrodhārāme ekasmiṃ padese
pākārena parikkhipitvā dvārakoṭṭhakaṃ māpetvā haṃsavaṭṭakādisenāsanāni ceva maṇḍalamāḷabhojanasālādīni
ca patiṭṭhapetvā kato vihāro. Sambahulāni senāsanānīti mañco pīṭhaṃ
bhisibimbohanaṃ taṭṭikā cammakhaṇḍo tiṇasanthāro paṇṇasanthāro
palālasanthārotiādīni paññattāni honti, mañcena mañcaṃ…pe… palālasanthāreneva
palālasanthāraṃ āhacca ṭhapitāni, gaṇabhikkhūnaṃ vasanaṭṭhānasadisaṃ ahosi.
Sambahulā nu khoti bhagavato
bodhipallaṅkeyeva sabbakilesānaṃ samugghāṭitattā saṃsayo nāma natthi,
vitakkapubbabhāgā pucchā, vitakkapubbabhāge cāyaṃ nukāro nipātamatto. Pāṭimatthakaṃ
gacchante avinicchito nāma na hoti. Ito kira pubbe bhagavatā dasa dvādasa
bhikkhū ekaṭṭhāne vasantā na diṭṭhapubbā.
Athassa etadahosi – gaṇavāso nāmāyaṃ vaṭṭe āciṇṇasamāciṇṇo
nadīotiṇṇaudakasadiso, nirayatiracchānayonipettivisayāsurakāyesupi,
manussaloka-devalokabrahmalokesupi gaṇavāsova āciṇṇo. Dasayojanasahasso hi nirayo
tipucuṇṇabharitā nāḷi viya sattehi nirantaro, pañcavidhabandhanakammakāraṇakaraṇaṭṭhāne
sattānaṃ pamāṇaṃ vā paricchedo vā natthi, tathā vāsīhi tacchanādiṭhānesu, iti
gaṇabhūtāva paccanti. Tiracchānayoniyaṃ ekasmiṃ vammike upasikānaṃ pamāṇaṃ
vā paricchedo vā natthi, tathā ekekabilādīsupi kipillikādīnaṃ.
Tiracchānayoniyampi gaṇavāsova. Petanagarāni ca gāvutikāni aḍḍhayojanikānipi
petabharitāni honti. Evaṃ pettivisayepi gaṇavāsova. Asurabhavanaṃ
dasayojanasahassaṃ kaṇṇe pakkhittasūciyā kaṇṇabilaṃ viya hoti. Iti asurakāyepi
gaṇavāsova. Manussaloke sāvatthiyaṃ sattapaṇṇāsa kulasatasahassāni,
rājagahe anto ca bahi ca aṭṭhārasa manussakoṭiyo vasiṃsu. Evaṃ aññesupi ṭhānesūti
manussalokepi gaṇavāsova. Bhummadevatā ādiṃ katvā devalokabrahmalokesupi
gaṇavāsova. Ekekassa hi devaputtassa aḍḍhatiyā nāṭakakoṭiyo honti, navapi koṭiyo
honti, ekaṭṭhāne dasasahassāpi brahmāno vasanti.
Tato cintesi – ‘‘mayā satasahassakappādhikāni cattāri
asaṅkhyeyyāni gaṇavāsaviddhaṃsanatthaṃ dasa pāramiyo pūritā, ime ca bhikkhū ito
paṭṭhāyeva gaṇaṃ bandhitvā gaṇābhiratā jātā ananucchavikaṃ karontī’’ti. So
dhammasaṃvegaṃ uppādetvā puna cintesi – ‘‘sace ‘ekaṭṭhāne dvīhi bhikkhūhi na
vasitabba’nti sakkā bhaveyya sikkhāpadaṃ paññapetuṃ, sikkhāpadaṃ paññāpeyyaṃ,
na kho panetaṃ sakkā. Handāhaṃ mahāsuññatāpaṭipattiṃ nāma suttantaṃ desemi, yaṃ
sikkhākāmānaṃ kulaputtānaṃ sikkhāpadapaññatti viya nagaradvāre
nikkhittasabbakāyikaādāso viya ca bhavissati. Tato yathā nāmekasmiṃ ādāse
khattiyādayo attano vajjaṃ disvā taṃ pahāya anavajjā honti, evamevaṃ mayi
parinibbutepi pañcavassasahassāni imaṃ suttaṃ āvajjitvā gaṇaṃ vinodetvā
ekībhāvābhiratā kulaputtā vaṭṭadukkhassa antaṃ karissantī’’ti. Bhagavato ca
manorathaṃ pūrentā viya imaṃ suttaṃ āvajjitvā gaṇaṃ vinodetvā vaṭṭadukkhaṃ
khepetvā parinibbutā kulaputtā gaṇanapathaṃ vītivattā. Vālikapiṭṭhivihārepi hi
ābhidhammikaabhayatthero nāma vassūpanāyikasamaye sambahulehi bhikkhūhi saddhiṃ
imaṃ suttaṃ sañjhāyitvā ‘‘sammāsambuddho evaṃ kāreti, mayaṃ kiṃ karomā’’ti āha.
Te sabbepi antovasse gaṇaṃ vinodetvā ekībhāvābhiratā arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Gaṇabhedanaṃ
nāma idaṃ suttanti.
186. Ghaṭāyāti evaṃnāmakassa
sakkassa. Vihāreti ayampi vihāro nigrodhārāmasseva ekadese kāḷakhemakassa
vihāro viya katoti veditabbo. Cīvarakammanti jiṇṇamalinānaṃ aggaḷaṭṭhānuppādanadhovanādīhi
kataparibhaṇḍampi, cīvaratthāya uppannavatthānaṃ vicāraṇasibbanādīhi akataṃ saṃvidhānampi
vaṭṭati, idha pana akataṃ saṃvidhānaṃ adhippetaṃ. Manussā hi ānandattherassa
cīvarasāṭake adaṃsu. Tasmā thero sambahule bhikkhū gahetvā tattha cīvarakammaṃ
akāsi. Tepi bhikkhū pātova sūcipāsakassa paññāyanakālato paṭṭhāya nisinnā
apaññāyanakāle uṭṭhahanti. Sūcikamme niṭṭhiteyeva senāsanāni saṃvidahissāmāti
na saṃvidahiṃsu. Cīvarakārasamayo noti thero kira cintesi – ‘‘addhā
etehi bhikkhūhi na paṭisāmitāni senāsanāni, bhagavatā ca diṭṭhāni bhavissanti.
Iti anattamano satthā suṭṭhu niggahetukāmo, imesaṃ bhikkhūnaṃ upatthambho
bhavissāmī’’ti; tasmā evamāha. Ayaṃ panettha adhippāyo – ‘‘na, bhante, ime
bhikkhū kammārāmā eva, cīvarakiccavasena pana evaṃ vasantī’’ti.
Na kho, ānandāti, ānanda, kammasamayo vā hotu
akammasamayo vā, cīvarakārasamayo vā hotu acīvarakārasamayo vā, atha kho saṅgaṇikārāmo
bhikkhu na sobhatiyeva. Mā tvaṃ anupatthambhaṭṭhāne upatthambho ahosīti. Tattha
saṅgaṇikāti sakaparisasamodhānaṃ. Gaṇoti nānājanasamodhānaṃ. Iti
saṅgaṇikārāmo vā hotu gaṇārāmo vā, sabbathāpi gaṇabāhullābhirato gaṇabandhanabaddho
bhikkhu na sobhati. Pacchābhatte pana divāṭṭhānaṃ sammajjitvā sudhotahatthapādo
mūlakammaṭṭhānaṃ gahetvā ekārāmatamanuyutto bhikkhu buddhasāsane sobhati. Nekkhammasukhanti
kāmato nikkhantassa sukhaṃ. Pavivekasukhampi kāmapavivekasukhameva.
Rāgādīnaṃ pana vūpasamatthāya saṃvattatīti upasamasukhaṃ.
Maggasambodhatthāya saṃvattatīti sambodhisukhaṃ. Nikāmalābhīti kāmalābhī
icchitalābhī. Akicchalābhīti adukkhalābhī. Akasiralābhīti
vipulalābhī.
Sāmāyikanti appitappitasamaye kilesehi
vimuttaṃ. Kantanti manāpaṃ. Cetovimuttinti
rūpārūpāvacaracittavimuttiṃ. Vuttañhetaṃ – ‘‘cattāri ca jhānāni catasso ca
arūpasamāpattiyo, ayaṃ sāmāyiko vimokkho’’ti (paṭi. ma. 1.213). Asāmāyikanti
na samayavasena kilesehi vimuttaṃ, atha kho accantavimuttaṃ lokuttaraṃ vuttaṃ.
Vuttañhetaṃ – ‘‘cattāro ca ariyamaggā cattāri ca sāmaññaphalāni, ayaṃ asāmāyiko
vimokkho’’ti. Akuppanti kilesehi akopetabbaṃ.
Ettāvatā kiṃ kathitaṃ hoti? Saṅgaṇikārāmo bhikkhu gaṇabandhanabaddho
neva lokiyaguṇaṃ, na ca lokuttaraguṇaṃ nibbattetuṃ sakkoti, gaṇaṃ vinodetvā
pana ekābhirato sakkoti. Tathā hi vipassī bodhisatto caturāsītiyā
pabbajitasahassehi parivuto satta vassāni vicaranto sabbaññuguṇaṃ nibbattetuṃ
nāsakkhi, gaṇaṃ vinodetvā sattadivase ekībhāvābhirato bodhimaṇḍaṃ āruyha
sabbaññuguṇaṃ nibbattesi. Amhākaṃ bodhisatto pañcavaggiyehi saddhiṃ chabbassāni
vicaranto sabbaññuguṇaṃ nibbattetuṃ nāsakkhi, tesu pakkantesu ekībhāvābhirato
bodhimaṇḍaṃ āruyha sabbaññuguṇaṃ nibbattesi.
Evaṃ saṅgaṇikārāmassa guṇādhigamābhāvaṃ dassetvā idāni
dosuppattiṃ dassento nāhaṃ ānandātiādimāha. Tattha rūpanti sarīraṃ.
Yattha rattassāti yasmiṃ rūpe rāgavasena rattassa. Na uppajjeyyunti
yasmiṃ rūpe rattassa na uppajjeyyuṃ, taṃ rūpaṃ na samanupassāmi, atha kho
sāriputtamoggallānānaṃ dasabalasāvakattupagamanasaṅkhātena aññathābhāvena
sañcayassa viya, upāligahapatino aññathābhāvena nāṭaputtassa viya,
piyajātikasutte seṭṭhiādīnaṃ viya ca uppajjantiyeva.
187. Ayaṃ kho panānandāti
ko anusandhi? Sace hi koci dubbuddhī navapabbajito vadeyya – ‘‘sammāsambuddho
khettaṃ paviṭṭhā gāviyo viya amheyeva gaṇato nīharati, ekībhāve niyojeti, sayaṃ
pana rājarājamahāmattādīhi parivuto viharatī’’ti, tassa
vacanokāsupacchedanatthaṃ – ‘‘cakkavāḷapariyantāya parisāya majjhe nisinnopi
tathāgato ekakovā’’ti dassetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha sabbanimittānanti
rūpādīnaṃ saṅkhanimittānaṃ. Ajjhattanti visayajjhattaṃ. Suññatanti
suññataphalasamāpattiṃ. Tatra ceti upayogatthe bhummaṃ, taṃ ceti vuttaṃ
hoti. Puna tatrāti tasmiṃ parisamajjhe ṭhito. Vivekaninnenāti
nibbānaninnena. Byantībhūtenāti āsavaṭṭhānīyadhammehi vigatantena nissaṭena
visaṃyuttena. Uyyojanikapaṭisaṃyuttanti gacchatha tumheti evaṃ
uyyojanikena vacanena paṭisaṃyuttaṃ.
Kāya pana velāya bhagavā evaṃ katheti?
Pacchābhattakiccavelāya, vā purimayāmakiccavelāya vā. Bhagavā hi pacchābhatte
gandhakuṭiyaṃ sīhaseyyaṃ kappetvā vuṭṭhāya phalasamāpattiṃ appetvā nisīdati.
Tasmiṃ samaye dhammassavanatthāya parisā sannipatanti. Atha bhagavā kālaṃ
viditvā gandhakuṭito nikkhamitvā buddhāsanavaragato dhammaṃ desetvā
bhesajjatelapākaṃ gaṇhanto viya kālaṃ anatikkamitvā vivekaninnena cittena
parisaṃ uyyojeti. Purimayāmepi ‘‘abhikkantā kho vāseṭṭhā ratti, yassa dāni kālaṃ
maññathā’’ti (dī. ni. 3.299) evaṃ uyyojeti. Buddhānañhi bodhipattito paṭṭhāya
dve pañcaviññāṇānipi nibbānaninnāneva. Tasmātihānandāti yasmā
suññatāvihāro santo paṇīto, tasmā.
188. Ajjhattamevāti
gocarajjhattameva. Ajjhattaṃ suññatanti idha niyakajjhattaṃ, attano
pañcasu khandhesu nissitanti attho. Sampajāno hotīti kammaṭṭhānassa
asampajjanabhāvajānanena sampajāno. Bahiddhāti parassa pañcasu
khandhesu. Ajjhattabahiddhāti kālena ajjhattaṃ kālena bahiddhā. Āneñjanti
ubhatobhāgavimutto bhavissāmāti āneñjaṃ arūpasamāpattiṃ manasi karoti.
Tasmiṃyeva purimasminti pādakajjhānaṃ sandhāya vuttaṃ.
Apaguṇapādakajjhānato vuṭṭhitassa hi ajjhattaṃ suññataṃ manasikaroto tattha cittaṃ
na pakkhandati. Tato ‘‘parassa santāne nu kho katha’’nti bahiddhā manasi
karoti, tatthapi na pakkhandati. Tato – ‘‘kālena attano santāne, kālena parassa
santāne nu kho katha’’nti ajjhattabahiddhā manasi karoti, tatthapi na
pakkhandati. Tato ubhatobhāgavimutto hotukāmo ‘‘arūpasamāpattiyaṃ nu kho
katha’’nti āneñjaṃ manasi karoti, tatthapi na pakkhandati. Idāni – ‘‘na me
cittaṃ pakkhandatīti vissaṭṭhavīriyena upaṭṭhākādīnaṃ pacchato na caritabbaṃ,
pādakajjhānameva pana sādhukaṃ punappunaṃ manasikātabbaṃ. Evamassa rukkhe
chindato pharasumhi avahante puna nisitaṃ kāretvā chindantassa chijjesu pharasu
viya kammaṭṭhāne manasikāro vahatī’’ti dassetuṃ tasmiṃyevātiādimāha.
Idānissa evaṃ paṭipannassa yaṃ yaṃ manasi karoti, tattha tattha manasikāro
sampajjatīti dassento pakkhandatīti āha.
189. Iminā vihārenāti iminā
samathavipassanāvihārena. Itiha tattha sampajānoti iti caṅkamantopi
tasmiṃ kammaṭṭhāne sampajjamāne ‘‘sampajjati me kammaṭṭhāna’’nti jānanena
sampajāno hoti. Sayatīti nipajjati. Ettha kañci kālaṃ caṅkamitvā –
‘‘idāni ettakaṃ kālaṃ caṅkamituṃ sakkhissāmī’’ti ñatvā iriyāpathaṃ ahāpetvā ṭhātabbaṃ.
Esa nayo sabbavāresu. Na kathessāmīti, itiha tatthāti evaṃ na
kathessāmīti jānanena tattha sampajānakārī hoti.
Puna dutiyavāre evarūpiṃ kathaṃ kathessāmīti
jānanena sampajānakārī hoti, imassa bhikkhuno samathavipassanā taruṇāva, tāsaṃ
anurakkhaṇatthaṃ –
‘‘Āvāso gocaro bhassaṃ, puggalo atha bhojanaṃ;
Utu iriyāpatho ceva, sappāyo sevitabbako’’ti.
Satta sappāyāni icchitabbāni. Tesaṃ dassanatthamidaṃ
vuttaṃ. Vitakkavāresu avitakkanassa ca vitakkanassa ca jānanena sampajānatā
veditabbā.
190. Iti vitakkapahānena dve magge
kathetvā idāni tatiyamaggassa vipassanaṃ ācikkhanto pañca kho ime, ānanda,
kāmaguṇātiādimāha. Āyataneti tesuyeva kāmaguṇesu kismiñcideva
kilesuppattikāraṇe. Samudācāroti samudācaraṇato appahīnakileso. Evaṃ
santanti evaṃ vijjamānameva. Sampajānoti kammaṭṭhānassa
asampattijānanena sampajāno. Dutiyavāre evaṃ santametanti evaṃ sante etaṃ.
Sampajānoti kammaṭṭhānasampattijānanena sampajāno. Ayañhi ‘‘pahīno nu
kho me pañcasu kāmaguṇesu chandarāgo no’’ti paccavekkhamāno apahīnabhāvaṃ ñatvā
vīriyaṃ paggahetvā taṃ anāgāmimaggena samugghāṭeti, tato maggānantaraṃ phalaṃ,
phalato vuṭṭhāya paccavekkhamāno pahīnabhāvaṃ jānāti, tassa jānanena
‘‘sampajāno hotī’’ti vuttaṃ.
191. Idāni arahattamaggassa
vipassanaṃ ācikkhanto pañca kho ime, ānanda, upādānakkhandhātiādimāha.
Tattha so pahīyatīti rūpe asmīti māno asmīti chando asmīti anusayo
pahīyati. Tathā vedanādīsu sampajānatā vuttanāyeneva veditabbā.
Ime kho te, ānanda, dhammāti heṭṭhā kathite
samathavipassanāmaggaphaladhamme sandhāyāha. Kusalāyatikāti kusalato
āgatā. Kusalā hi kusalāpi honti kusalāyatikāpi, seyyathidaṃ, paṭhamajjhānaṃ
kusalaṃ, dutiyajjhānaṃ kusalañceva kusalāyatikañca…pe… ākiñcaññāyatanaṃ kusalaṃ,
nevasaññānāsaññāyatanaṃ kusalañceva kusalāyatikañca, nevasaññānāsaññāyatanaṃ
kusalaṃ, sotāpattimaggo kusalo ceva kusalāyatiko ca…pe… anāgāmimaggo kusalo,
arahattamaggo kusalo ceva kusalāyatiko ca. Tathā paṭhamajjhānaṃ kusalaṃ, taṃsampayuttakā
dhammā kusalā ceva kusalāyatikā ca…pe… arahattamaggo kusalo, taṃsampayuttakā
dhammā kusalā ceva kusalāyatikā ca.
Ariyāti nikkilesā visuddhā. Lokuttarāti
loke uttarā visiṭṭhā. Anavakkantā pāpimatāti pāpimantena mārena
anokkantā. Vipassanāpādakā aṭṭha samāpattiyo appetvā nisinnassa hi bhikkhuno
cittaṃ māro na passati, ‘‘idaṃ nāma ārammaṇaṃ nissāya saṃvattatī’’ti jātituṃ na
sakkoti. Tasmā ‘‘anavakkantā’’ti vuttaṃ.
Taṃ kiṃ maññasīti idaṃ kasmā āha? Gaṇepi eko
ānisaṃso atthi, taṃ dassetuṃ idamāha. Anubandhitunti anugacchituṃ
paricarituṃ.
Na kho, ānandāti ettha kiñcāpi bhagavatā –
‘‘sutāvudho, bhikkhave, ariyasāvako akusalaṃ pajahati, kusalaṃ bhāveti, sāvajjaṃ
pajahati, anavajjaṃ bhāveti, suddhaṃ attānaṃ pariharatī’’ti (a. ni. 7.67)
bahussuto pañcāvudhasampanno yodho viya kato. Yasmā pana so sutapariyattiṃ
uggahetvāpi tadanucchavikaṃ anulomapaṭipadaṃ na paṭipajjati, na tassa taṃ
āvudhaṃ hoti. Yo paṭipajjati, tasseva hoti. Tasmā etadatthaṃ anubandhituṃ
nārahatīti dassento na kho, ānandāti āha.
Idāni yadatthaṃ anubandhitabbo, taṃ dassetuṃ yā ca
khotiādimāha. Iti imasmiṃ sutte tīsu ṭhānesu dasa kathāvatthūni āgatāni.
‘‘Iti evarūpaṃ kathaṃ kathessāmī’’ti sappāyāsappāyavasena āgatāni, ‘‘yadidaṃ
suttaṃ geyya’’nti ettha sutapariyattivasena āgatāni, imasmiṃ ṭhāne paripūraṇavasena
āgatāni. Tasmā imasmiṃ sutte dasa kathāvatthūni kathentena imasmiṃ ṭhāne ṭhatvā
kathetabbāni.
Idāni yasmā ekaccassa ekakassa viharatopi attho na
sampajjati, tasmā taṃ sandhāya ekībhāve ādīnavaṃ dassento evaṃ sante kho,
ānandātiādimāha. Tattha evaṃ santeti evaṃ ekībhāve sante.
193. Satthāti bāhirako
titthakarasatthā. Anvāvattantīti anuāvattanti upasaṅkamanti. Mucchaṃ
kāmayatīti mucchanataṇhaṃ pattheti, pavattetīti attho. Ācariyūpaddavenāti
abbhantare uppannena kilesūpaddavena ācariyassupaddavo. Sesupaddavesupi eseva
nayo. Avadhiṃsu nanti mārayiṃsu naṃ. Etena hi guṇamaraṇaṃ kathitaṃ.
Vinipātāyāti suṭṭhu nipatanāya. Kasmā pana
brahmacārupaddavova – ‘‘dukkhavipākataro ca kaṭukavipākataro ca vinipātāya ca
saṃvattatī’’ti vuttoti. Bāhirapabbajjā hi appalābhā, tattha mahanto
nibbattetabbaguṇo natthi, aṭṭhasamāpattipañcābhiññāmattakameva hoti. Iti yathā
gadrabhapiṭṭhito patitassa mahantaṃ dukkhaṃ na hoti, sarīrassa paṃsumakkhanamattameva
hoti, evaṃ bāhirasamaye lokiyaguṇamattatova parihāyati, tena purimaṃ
upaddavadvayaṃ na evaṃ vuttaṃ. Sāsane pana pabbajjā mahālābhā, tattha cattāro
maggā cattāri phalāni nibbānanti mahantā adhigantabbaguṇā. Iti yathā ubhato
sujāto khattiyakumāro hatthikkhandhavaragato nagaraṃ anusañcaranto
hatthikkhandhato patito mahādukkhaṃ nigacchati, evaṃ sāsanato parihāyamāno
navahi lokuttaraguṇehi parihāyati. Tenāyaṃ brahmacārupaddavo evaṃ vutto.
196. Tasmāti yasmā
sesupaddavehi brahmacārupaddavo dukkhavipākataro, yasmā vā sapattapaṭipattiṃ
vītikkamanto dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattati, mittapaṭipatti hitāya,
tasmā. Evaṃ uparimenapi heṭṭhimenapi atthena yojetabbaṃ. Mittavatāyāti
mittapaṭipattiyā. Sapattavatāyāti verapaṭipattiyā.
Vokkamma ca satthusāsanāti dukkaṭadubbhāsitamattampi
hi sañcicca vītikkamanto vokkamma vattati nāma. Tadeva avītikkamanto na
vokkamma vattati nāma.
Na vo ahaṃ, ānanda, tathā
parakkamissāmīti ahaṃ tumhesu tathā
na paṭipajjissāmi. Āmaketi apakke. Āmakamatteti āmake nātisukkhe
bhājane. Kumbhakāro hi āmakaṃ nātisukkhaṃ apakkaṃ ubhohi hatthehi saṇhikaṃ gaṇhāti
‘‘mā bhijjatū’’ti. Iti yathā kumbhakāro tattha paṭipajjati, nāhaṃ tumhesu tathā
paṭipajjissāmi. Niggayha niggayhāti sakiṃ ovaditvā tuṇhī na bhavissāmi,
niggaṇhitvā niggaṇhitvā punappunaṃ ovadissāmi anusāsissāmi. Pavayha pavayhāti
dose pavāhetvā pavāhetvā. Yathā pakkabhājanesu kumbhakāro bhinnachinnajajjarāni
pavāhetvā ekato katvā supakkāneva ākoṭetvā ākoṭetvā gaṇhāti, evameva ahampi
pavāhetvā pavāhetvā punappunaṃ ovadissāmi anusāsissāmi. Yo sāro so ṭhassatīti
evaṃ vo mayā ovadiyamānānaṃ yo maggaphalasāro, so ṭhassati. Apica lokiyaguṇāpi
idha sārotveva adhippetā. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahāsuññatasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Trong bài kinh này Đức Thế Tôn giảng về tánh không có đoạn nhấn mạnh về đời sống viễn ly tránh xa quần tụ. Điều này có khác biệt lớn với cách tổ chức các đạo tràng tu học ngày nay chăng ? - TT Pháp Tân
Thảo luận 3. Trong sự hướng dẫn tu tập cho học trò sự nghiêm huấn của vị thầy ở mức độ nào được xem là vừa phải ? - ĐĐ Nguyên Thông
Thảo luận 4. Câu Phật ngôn: cái gì cốt lõi sẽ tồn tại nên được lãnh hội thế nào? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 5. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
Thảo luận 5. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment