Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 14/5/2020
123. Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp
(Acchariya-abbhūta
Sutta)
Acchariya-abbhūta
có nghĩa là hy hữu chưa từng có. Tên bài kinh được đặt theo nội dung nói về những
sự kiện rất lạ lùng trong đời của Đức Thế Tôn, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngoài
những hiện tượng hãn hữu còn có sự tỉnh giác của một vị Phật mà không có một chúng
sanh nào trên thế gian có được tương tự.
1100. Cảm
nhận những kỳ diệu của Bậc Đạo Sư
Trong một lần
đàm luận về Đức Phật, các tỳ kheo khởi tâm hoan hỷ sâu xa về những điềm hãn hữu
xẩy ra đối với bậc chánh đẳng chánh giác:
Như vầy tôi
nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc).
Rồi một số rất
đông Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực về, đang ngồi tụ họp
trong thị giả đường (upatthanasala), câu chuyện này được khởi lên
giữa chúng Tăng:
"Thật hy
hữu thay chư Hiền! Thật vị tằng hữu thay chư Hiền, là đại thần
thông lực, đại uy lực của Như Lai! Vì Ngài biết được chư Phật quá
khứ, đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các hý luận, đã đoạn các chướng
đạo, đã chấm dứt luân hồi, đã thoát ly mọi khổ: "Chư Thế Tôn
ấy sanh tánh như vậy, danh tánh như vậy, tộc tánh như vậy, giới
hạnh như vậy, pháp hạnh như vậy, tuệ hạnh như vậy, trú hạnh như
vậy, chư Thế Tôn ấy giải thoát như vậy".
Khi được nghe
nói như vậy, Tôn giả Ananda nói với các Tỷ-kheo ấy: "Thật hy
hữu thay chư Hiền, Như Lai được đầy đủ các pháp hy hữu! Thật vị
tằng hữu thay chư Hiền, Như Lai được đầy đủ các pháp vị tằng hữu!"
Và câu chuyện
giữa các Tỷ-kheo ấy bị gián đoạn. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ
Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến thị giả đường, sau khi đến,
ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các
Tỷ-kheo, nay các Ông ngồi nói chuyện gì? Câu chuyện gì giữa các
Ông bị gián đoạn?
-- Ở đây, bạch
Thế Tôn, chúng con sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, chúng
con ngồi tụ họp tại thị giả đường, câu chuyện sau đây được khởi
lên: "Hy hữu thay, chư Hiền! ... chư Thế Tôn ấy được giải
thoát như vậy". Khi được nghe nói vậy, bạch Thế Tôn, Tôn giả
Ananda nói với chúng con như sau: "Thật hy hữu thay... Như Lai
được đầy đủ các pháp hy hữu! Thật vị tằng hữu thay... Như Lai
được đầy đủ các pháp vị tằng hữu!" Câu chuyện này giữa chúng
con, bạch Thế Tôn, bị gián đoạn. Rồi Thế Tôn đến.
1011. Những điều
kỳ diệu về sự ra đời trong kiếp chót của Bậc Toàn giác.
Do sự mãn túc của
ba la mật, chư bồ tát toàn giác trong kiếp chót và kiếp trước đó có sự tỉnh giác
trong hành trình sanh tử, một điều mà không hạng chúng sanh nào khác có được:
Thế Tôn bảo
Tôn giả Ananda:
-- Do vậy, này
Ananda, hãy nói lên nhiều nữa, những đặc tánh hy hữu, vị tằng hữu
của Như Lai.
-- Bạch Thế
Tôn, con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Chánh
niệm tỉnh giác, này Ananda, Bồ-tát sanh trong Thiên chúng (Kaya)
Tusita". Vì rằng, bạch Thế Tôn, chánh niệm tỉnh giác Bồ-tát
sanh trong Thiên chúng Tusita, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn,
là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Chánh niệm
tỉnh giác, này Ananda, Bồ-tát an trú trong Thiên chúng Tusita".
Vì rằng, bạch Thế Tôn, chánh niệm tỉnh giác, Bồ-tát an trú trong
Thiên chúng Tusita, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một
hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Chánh niệm
tỉnh giác, này Ananda, Bồ-tát an trú tại Thiên chúng Tusita cho đến
trọn thọ mạng". Vì rằng, bạch Thế Tôn, chánh niệm tỉnh giác,
Bồ-tát an trú tại Thiên chúng Tusita cho đến trọn thọ mạng, con thọ
trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu
của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Chánh niệm,
tỉnh giác này Ananda, Bồ-tát sau khi từ Thiên chúng Tusita mạng chung,
nhập vào mẫu thai". Vì rằng, bạch Thế Tôn, chánh niệm tỉnh
giác, Bồ-tát sau khi từ Thiên chúng Tusita mạng chung, nhập vào mẫu
thai, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị
tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
nhập vào mẫu thai, này Ananda, khi ấy một hào quang vô lượng, thần
diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới,
gồm có các thế giới ở trên chư Thiên, thế giới của các Ma vương
và Phạm thiên và thế giới ở dưới gồm các vị Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên và loài Người. Cho đến các thế giới ở giữa các thế
giới, tối tăm, u ám không có nền tảng, những cảnh giới mà mặt
trăng mặt trời với đại thần lực, với đại oai lực như vậy cũng
không thể chiếu thấu, trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô
lượng, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh
sống tại những chỗ ấy nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói:
"Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây". Và mười ngàn
thế giới này chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và hào quang
vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra ở thế
giới. Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế
Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn".
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
nhập mẫu thai, này Ananda, bốn vị Thiên tử đến canh gác bốn phương
trời và nói: "Không cho một ai, người hay không phải loài
người được phiền nhiễu Bồ-tát, hay mẹ vị Bồ-tát". Vì rằng,
bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy
hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn".
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
nhập mẫu thai, này Ananda, mẹ Bồ-tát giữ giới một cách hồn nhiên,
không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không
uống các thứ rượu nấu, rượu lên chất men". Vì rằng, bạch Thế
Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu. là một
vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
nhập mẫu thai, này Ananda, mẹ Bồ-tát không khởi dục tâm đối với
một nam nhân nào, và mẹ Bồ-tát không bị xâm phạm bởi bất kỳ
người đàn ông nào có nhiễm tâm". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con
thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng
hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
nhập mẫu thai, này Ananda, mẹ vị Bồ-tát tận hưởng năm dục công
đức đầy đủ, tận hưởng trọn năm dục công đức". Vì rằng, bạch
Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu,
một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
nhập mẫu thai, này Ananda, mẹ Bồ-tát không bị một bệnh tật gì. Bà
sống với tâm hoan hỷ, với tâm khoan khoái. Bà thấy trong bào thai
của mình vị Bồ-tát đầy đủ mọi bộ phận và chân tay. Này Ananda, ví
như viên ngọc lưu ly, thanh tịnh, thuần nhất, có tám cạnh, khéo
cắt, khéo dũa, trong sáng, không tỳ vết, hoàn hảo trong mọi phương
diện. Rồi một sợi dây được xâu qua viên ngọc ấy, dây màu xanh,
màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng lợt. Nếu có người có
mắt để viên ngọc trên bàn tay của mình, người ấy sẽ thấy rõ
ràng: "Ðây là viên ngọc lưu ly, thanh tịnh, thuần nhất, có tám
cạnh, khéo cắt, khéo dũa, trong sáng, không tỳ vết, hoàn hảo trong
mọi phương diện. Ðây là sợi dây xâu qua, sợi dây màu xanh, màu vàng,
màu đỏ, màu trắng hay màu vàng lợt". Cũng vậy, này Ananda, khi
Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ Bồ-tát không bị một bệnh tật gì. Bà
sống với tâm hoan hỷ, với thân khoan khoái.
Bà thấy trong
bào thai của mình vị Bồ-tát đầy đủ bộ phận và chân tay". Vì
rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một
hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Sau khi sanh Bồ-tát
bảy ngày, này Ananda, mẹ Bồ-tát mệnh chung và sanh lên cõi trời Ðâu
suất". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch
Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Trong khi các
người đàn bà khác, này Ananda, mang bầu thai trong bụng chín tháng
hay mười tháng rồi mới sanh, mẹ Bồ-tát sanh Bồ-tát không phải như
vậy. Mẹ Bồ-tát mang Bồ-tát trong bụng mười tháng rồi mới
sanh". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch
Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Trong khi các
người đàn bà khác, này Ananda, hoặc ngồi hoặc nằm mà sanh con, mẹ
vị Bồ-tát sanh Bồ- tát không phải như vậy. Mẹ Bồ-tát đứng mà sanh
Bồ-tát". Vì rằng bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch
Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
từ bụng mẹ sanh ra, này Ananda, chư Thiên đỡ lấy Ngài trước, sau
mới đến loài người". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự
việc này, bạch Thế Tôn là một hy hữu, một vi tằng hữu của Thế
Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
từ bụng mẹ sanh ra, này Ananda, Bồ-tát không đụng đến đất. Có bốn
Thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng
hậu hãy hoan hỷ! Hoàng Hậu sanh một bậc vĩ nhân". Vì rằng,
bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu,
một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
từ bụng mẹ sanh ra, này Ananda, Ngài sanh ra thanh tịnh, không bị
nhiễm ô bởi nước nhớt nào, không bị nhiễm ô bởi loại mủ nào,
không bị nhiễm ô bởi loại máu nào, không bị nhiễm ô bởi bất cứ
vật bất tịnh nào, thanh tịnh, trong sạch. Này Ananda, ví như một
viên ngọc ma-ni bảo châu đặt trên một tấm vải Ba-la-nại. Viên ngọc
không làm nhiễm ô tấm vải Ba-la-nại, tấm vải Ba-la-nai cũng không
làm nhiễm ô hòn ngọc. Vì sao vậy? Vì cả hai đều thanh tịnh. Cũng
vậy, này Ananda, khi Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, Ngài sanh ra thanh
tịnh, không bị nhiễm ô bởi nước nhớt nào, không bị nhiễm ô bởi
loại mủ nào, không bị nhiễm ô bởi loại máu nào, không bị nhiễm ô
bởi bất cứ sự vật bất tịnh nào, thanh tịnh, trong sạch". Vì
rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một
hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
từ bụng mẹ sanh ra, này Ananda, hai dòng nước từ hư không hiện ra,
một dòng lạnh, một dòng nóng. Hai dòng nước ấy tắm rửa sạch sẽ
cho Bồ-tát và cho bà mẹ". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì
sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của
Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Bồ-tát khi
sanh ra, này Ananda, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt
hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che lên.
Ngài nhìn khắp cả mọi phương lên tiếng như con ngưu vương, thốt
ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc
tối tôn ở trên đời! Ta là bậc cao nhất ở trên đời! Nay là đời
sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Vì
rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một
hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn,
con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát
từ bụng mẹ sanh ra, này Ananda, khi ấy một hào quang vô lượng thần
diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên, hiện ra cùng khắp thế giới,
gồm có các thế giới trên chư Thiên, thế giới của các Ma vương và
Phạm thiên, và thế giới ở dưới gồm các Sa-môn, Bà-la-môn, chư
Thiên và loài Người. Cho đến các cảnh giới giữa các thế giới, tối
tăm, u ám, không có nền tảng, những cảnh giới mà mặt trăng mặt
trời với đại thần lực, đại oai lực như vậy cũng không thể chiếu
thấu, trong những cảnh giới ấy một hào quang vô lượng, thắng xa oai
lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh sống tại các chỗ ấy, nhờ
hào quang ấy mới thấy nhau mà nói: "Cũng có những chúng sanh khác
sống ở đây". Và mười ngàn thế giới này chuyển động, rung
động, chuyển động mạnh. Và hào quang vô lượng thần diệu, thắng xa
oai lực của chư Thiên hiện ra ở thế giới. Vì rằng, bạch Thế Tôn,
con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn là một hy hữu, một vị tằng
hữu của Thế Tôn.
1012. Tất cả những
hiện tượng kỳ diệu xẩy ra nơi Thế Tôn đều được Ngài tỉnh giác nhận biết
Theo sớ giải chư
vị bồ tát toàn giác trong kiếp sau cùng đều có có năng nhận biết rõ về những hiện
tượng phi thường xẩy ra ở bản thân:
-- Do vậy, này
Ananda, hãy thọ trì sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu
của Như Lai. Ở đây, này Ananda, các cảm thọ khởi lên nơi Thế Tôn
được biết đến; được biết đến, chúng an trú; được biết đến, chúng
đi đến biến hoại; các tưởng được biết đến; các tầm khởi lên
được biết đến; được biết đến, chúng an trú; được biết đến, chúng
đi đến biến hoại. Này Ananda, hãy thọ trì việc này là một hy hữu,
một vị tằng hữu của Như Lai.
-- Vì rằng,
bạch Thế Tôn, các cảm thọ khởi lên nơi Thế Tôn được biết đến;
được biết đến, chúng an trú; được biết đến, chúng đi đến biến
hoại; các tưởng được biết đến; các tầm khởi lên được biết đến;
được biết đến, chúng an trú; được biết đến, chúng đi đến biến
hoại. Bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này là một hy hữu, một vị
tằng hữu của Như Lai.
Tôn giả Ananda,
nói như vậy. Bậc Ðạo Sư chấp nhận. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ
lời Tôn giả Ananda nói.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 123 [tóm tắt]
Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp
(Acchariyabhūtadhamma Sutta)
(M.iii,
118)
Kinh này nói đến 20
đặc tánh hy hữu, vị tằng hữu của Như Lai:
1. Chánh niệm tỉnh
giác, Bồ-tát sanh trong Thiên chúng Tusitā (Đâu-suất-đà).
2. Chánh niệm tỉnh
giác, Bồ-tát trú trong Thiên chúng ấy.
3. Chánh niệm tỉnh
giác, Bồ-tát trú trong Thiên chúng Tusitā cho đến hết thọ mạng.
4. Sau khi mệnh
chung từ Đâu-suất, chánh niệm tỉnh giác, Ngài nhập mẫu thai.
5. Khi Bồ-tát nhập mẫu thai, có một vầng hào quang vô lượng chiếu sáng mười ngàn thế giới, mười ngàn thế giới này rung động mạnh.
6. Lúc Bồ-tát nhập
thai, có bốn Thiên tử canh gác bốn phương trời bảo vệ Bồ-tát và mẹ.
7. Khi Bồ-tát nhập
thai, mẹ Bồ-tát tự nhiên giữ năm giới trọn vẹn.
8. Khi Bồ-tát nhập
thai, người mẹ không có dục tâm, không bị một nam nhân nào có nhiễm tâm
xâm phạm đến.
9. Khi Bồ-tát nhập
thai, mẹ Ngài tận hưởng năm dục.
10. Mẹ Bồ-tát khi
hoài thai không có bệnh, thấy rõ bào thai trong mình đầy đủ bộ phận tay
chân.
11. Sau khi sanh
Bồ-tát bảy ngày, mẹ thác sinh lên Trời Đâu suất.
12. Mẹ Bồ-tát mang
thai Bồ-tát mười tháng mới sinh.
13. Mẹ Bồ-tát đứng
mà sanh Bồ-tát.
14. Khi sanh ra
Bồ-tát được chư Thiên đỡ trước.
15. Vị Bồ-tát không
chạm đất, được chư Thiên đỡ trao cho bà mẹ và nói: “Hoàng hậu hãy hoan
hỷ. Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân”.
16. Khi Bồ-tát sanh
ra, Ngài được thanh tịnh, không bị nước nhớt làm ô nhiễm hay bất cứ
loại máu mũ nào.
17. Có hai dòng
nước nóng, lạnh từ hư không tắm cho Bồ-tát và người mẹ.
18. Khi sanh ra,
Bồ-tát liền đứng vững, mặt hướng phía Bắc, đi bảy bước thốt lên
lời: “Ta là bậc tối tôn, tối thượng trên đời. Nay là đời sống cuối
cùng không còn phải tái sanh ở đời này nữa”.
19. Khi Bồ-tát sanh
ra, có vầng hào quang chiếu sáng khắp các thế giới, mười ngàn thế giới
chuyển động mạnh.
20. Sau khi Ānanda
kể mười chín đặc tánh trên, đức Phật thêm: “Các cảm thọ khởi lên
được Thế Tôn biết đến, biết chúng an trú và diệt, các tưởng và các
tầm cũng vậy”.
Đó là 20 đặc tánh hy
hữu, vị tằng hữu của Như Lai được Tôn giả Ānanda nói lên và được
Thế Tôn ấn khả. Các Tỷ- kheo hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Ānanda.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 123
[dàn ý]
Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp
(Acchariyabhūtadhamma Sutta)
(M.iii, 118)
A. Duyên khởi:
Các Tỷ-kheo và Tôn giả
nanda tán thán đại uy lực của Như Lai. Đức Phật đến và được thuật rõ câu chuyện
đang bàn luận, liền nói Tôn giả nanda nói lên những đặc tánh hy hữu của Như
Lai.
B. Chánh kinh:
Tôn giả nanda nói lên
19 pháp hy hữu của Như Lai. Đức Phật bổ sung thêm một pháp thành ra 20 pháp.
I. Bốn pháp hy hữu
khi Thế Tôn sanh ở cõi Đâu xuất, trú tại đấy và từ bỏ cõi ấy nhập mẫu thai.
II. Sáu pháp hy hữu
khi Thế Tôn nhập mẫu thai (5-11).
III. Chín pháp hy hữu
khi Thế Tôn từ mẫu thai sanh ra (11-19).
IV. Một pháp hy hữu
sau khi đức Bồ tát đã sanh, Bồ tát biết các cảm thọ và các tưởng, các tầm sanh,
an trú và biến hoại.
C. Kết luận:
Thế Tôn chấp nhận lời
thuyết giảng của Tôn giả nanda và các Tỷ-kheo tín thọ lời Tôn giả nanda nói.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 123
[dàn ý]
Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp
(Acchariyabhūtadhamma Sutta)
(M.iii, 118)
I. Toát yếu
Wonderful and
Marvellous.
At a gathering of
bhikkhus the venerable Ānanda recounts the wonderful and marvellous events
that preceded and attended the birth of the Buddha.
Hy hữu và kỳ
diệu.
Trong một buổi họp
chúng, tôn giả A-nan thuật lại những sự cố ly kỳ mầu nhiệm trước
và trong ngày Phật đản sanh.
II. Tóm tắt
Chúng tỷ kheo đang
bàn tán về một thần lực của Phật là Ngài biết được chi tiết về
chư Phật quá khứ [1]. Phật bèn dạy tôn giả A-nan trình bày những
điều kỳ diệu hy hữu về đức Như Lai đúng như tôn giả đã được nghe
từ chính kim khẩu của Thế Tôn:
1. Chánh niệm tỉnh
giác, Bồ-tát sinh vào cung trời Ðâu- suất [2].
2. Chánh niệm tỉnh
giác, Bồ-tát trú tại cung trời ấy đến hết thọ mạng.
3. Chánh niệm tỉnh
giác, Ngài giáng hạ mẫu thai.
4. Khi Ngài mệnh
chung tại cung trời Ðâu-suất thì có một ánh sáng vô lượng xuất
hiện trên thế gian làm cho những cõi chúng sinh từ lâu sống trong
bóng tối [3] tự nhiên nhờ ánh sáng ấy liền trông thấy lẫn nhau và
tưởng là chúng mới xuất hiện lần đầu.
5. Khi đức Bồ-tát
đã giáng hạ mẫu thai thì có bốn vị thiên nhân [4] canh gác bốn góc
để hộ vệ Ngài và mẫu hậu, không một ai có thể làm hại mẹ hay con.
6. Khi đức Bồ-tát
đã giáng hạ mẫu thai, bà mẹ tự nhiên sống đức hạnh, nghiêm trì
ngũ giới.
7. Khi đức Bồ-tát
đã giáng hạ mẫu thai, bà không có dục tưởng đối với đàn ông, và
không kẻ nào có dục tâm có thể đến gần bà.
8. Khiđức Bồ-tát
đã giáng hạ mẫu thai, bà thụ hưởng đầy đủ năm dục: không cảm
thấy mệt mỏi gì, lại thấy được Bồ-tát trong bụng mình với đầy đủ
tứ chi như thể là ngắm một viên ngọc khéo giũa đặt trên lòng bàn
tay.
9. Bảy ngày sau khi
sinh hạ Bồ-tát, bà mẹ chết [5] và tái sinh vào cõi Ðâu-suất.
10. Bồ-tát trú
thai mẹ đúng mười tháng.
11. Mẹ Bồ-tát sinh
trong lúc đứng thay vì nằm hoặc ngồi như các sản phụ khác.
12. Khi đức Bồ-tát
ra khỏi bụng mẹ, thì chư thiên đón Ngài trước, sau mới đến người
đỡ.
13. Khiđức Bồ-tát
ra khỏi bụng mẹ, Ngài không chạm đất. Chư thiên đỡ lấy Ngài đưa
cho bà mẹ mà nói: Bà hãy sung sướng vì một người con trai có đại
oai thần lực đã đến với bà.
14. Khi đức Bồ-tát
ra khỏi bụng mẹ, Ngài không bị lấm bẩn vì máu mủ hay bất cứ thứ
gì bất tịnh.
15. Khi đức Bồ-tát
ra khỏi bụng mẹ, có hai vòi nước tuôn xuống từ trên trời, một
nóng một lạnh, để tắm cho hai mẹ con.
16. Vừa khi mới
sinh ra, đức Bồ-tát đã đứng vững hai chân trên đất [6], đi bảy bước
về phương Bắc, và được che với chiếc lọng trắng, Ngài nhìn bốn
hướng và thốt lên lời của bậc Ðiều ngự sư: "Trên thế gian
này Ta là tối thượng. Ðây là đời cuối cùng của Ta, từ nay không
còn tái sinh nữa."
Sau
khi tôn giả A-nan kể xong những điều kỳ diệu ấy, Phật thêm rằng còn
một điều này nữa [7], là đối với đức Như Lai, các cảm thọ được
biết đến lúc sinh khởi, lúc trú và diệt, các ý tưởng và tư duy
cũng thế.
III.
Chú giải
1.
Khả năng này của Phật được Trường bộ kinh 14 đề cập trong những
thông tin chi tiết về sáu vị Phật trước đức Thích ca Gotama.
2.
Ðây ám chỉ sự tái sinh của đức Bồ-tát tại cung trời Ðâu-suất sau
khi sinh làm người tên Vessantara và trước khi tái sinh vào cõi
người làm thái tử Siddhartha Gotama.
3.
Cứ ở khoảng giữa mỗi ba thế giới hệ lại có một khoảng trống tám
ngàn do tuần, giống như khoảng trống giữa ba bánh xe bò hay ba cây
cung đụng nhau. Chúng sinh sinh vào khoảng này là do ác nghiệp cực
trọng như giết cha mẹ, giết thánh nhân, hoặc do thường xuyên làm nghề
ác như giết súc vật.
4.
Bốn vị trời này là Tứ thiên vương, những vị thống lĩnh cõi trời
là Tứ thiên vương.
5.
MA: Ðiều này xảy ra không phải lỗi ở sự sinh nở mà do bà mẹ đã
chấm dứt thọ mạng; vì cái nơi mà Bồ-tát đã chiếm dụng (bào thai
mẹ) thì không ai khác sử dụng được, như một điện thờ.
6.
MA: Mỗi khía cạnh của biến cố này đều báo trước những sở đắc của
đức Phật sau này. Vậy, sự việc Ngài đứng vững trên đất là điềm
báo Ngài sẽ chứng các thần túc; mặt hướng về phương Bắc báo
hiệu Ngài sẽ vượt trên thế tình; đi bảy bước là Ngài sẽ có
được bảy giác chi; lọng trắng là Ngài sẽ đạt chiếc lọng giải
thoát; nhìn quanh bốn hướng là Ngài sẽ có được minh trí vô ngại;
những lời Ngài thốt ra báo hiệu Ngài sẽ chuyển bánh xe Pháp không
ai có thể chuyển ngược lại. Lời tuyên bố Ðây là tái sinh cuối
cùng báo hiệu Ngài sẽ nhập vô dư Niết-bàn, không còn
quay lại cõi hữu.
7.
Lời này dường như là một cách đức Phật kêu gọi ta chú ý đến cái
phẩm chất mà Ngài xem là điều kỳ diệu đích thực.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
‘Chúng tỷ kheo đang bàn
Một thần lực của Phật
Là biết đủ chi tiết
Về chư Phật trước kia.
Về chư Phật trước kia.
Phật bèn dạy A-nan
Trình bày những kỳ diệu
Mà tôn giả được nghe
Từ kim khẩu đức Phật:
‘Bồ-tát lúc tái sinh
Vào cung trời Ðâu-suất
Và lúc ở cõi trời
Cho đến hết thọ mạng.
Vào cung trời Ðâu-suất
Và lúc ở cõi trời
Cho đến hết thọ mạng.
Giáng phàm nhập mẫu thai
Ðều chánh niệm tỉnh giác
Khi Bồ-tát đản sinh
Có ánh sáng nhiệm mầu
Có ánh sáng nhiệm mầu
Soi ba ngàn thế giới
Những chúng sinh từ lâu
Bị sống trong u tối
Tự nhiên trông thấy nhau
Tự nhiên trông thấy nhau
Mới ngạc nhiên làm sao.
‘Lúc Bồ-tát nhập thai
Tứ thiên vương canh gác
Tứ thiên vương canh gác
Gìn giữ mẹ và con
Tránh xa mọi bất trắc.
‘Bà mẹ lúc hoài thai
Tự nhiên sống đức hạnh
Tự nhiên sống đức hạnh
Và nghiêm trì ngũ giới.
Tâm xa lìa dục tưởng
Nam nhân có lòng dục
Không thể đến gần bà.
Bà thụ hưởng đầy đủ
Sắc thanh hương vị xúc
Thân không bị mệt mỏi
Lại thấy được Bồ-tát
Ðang ở trong bụng mình
Có đầy đủ tứ chi
Như ngắm nhìn ngọc quý.
‘Bảy ngày sau sinh nở
Bà từ giã cõi trần
Và được tái sinh ngay
Và được tái sinh ngay
Vào cung trời Ðâu-suất.
‘Bồ-tát trú mẫu thai
Thời gian đúng mười tháng
Thời gian đúng mười tháng
Mẹ Bồ-tát lâm bồn
Trong lúc đứng vịn cây
Trong lúc đứng vịn cây
Thay vì nằm hoặc ngồi
Như các bà sản phụ.
‘Khi Bồ-tát chào đời
Ðược chư thiên đón trước,
Ðược chư thiên đón trước,
Sau mới đến loài người.
Khi ra khỏi bụng mẹ
Thân Ngài không chạm đất.
Khi ra khỏi bụng mẹ
Thân Ngài không chạm đất.
Chư thiên đỡ lấy Ngài
Ðưa cho bà mẹ xem
Kèm theo lời chúc tụng:
Ðưa cho bà mẹ xem
Kèm theo lời chúc tụng:
Mẫu hậu hãy vui mừng
Ðã sinh được người con
Có đại oai thần lực
Hơn tất cả thế gian.
Khi ra khỏi bụng mẹ,
Ngài không bị lấm bẩn
Ðã sinh được người con
Có đại oai thần lực
Hơn tất cả thế gian.
Khi ra khỏi bụng mẹ,
Ngài không bị lấm bẩn
Vì những thế uế ô.
Lại có hai vòi rồng
Từ trời cao tuôn xuống
Lại có hai vòi rồng
Từ trời cao tuôn xuống
Nóng với lạnh hòa nhau
Ðể tắm con và mẹ.
‘Vừa khi mới sinh ra,
Ngài đã đứng vững được
Với hai chân trên đất
Bảy bước về phương Bắc
Ðược tàn lọng trắng che,
Ngài nhìn quanh bốn hướng
Và thốt lên lời rằng
Trên trời và dưới trời
Chỉ Ta là tối thượng
Trên trời và dưới trời
Chỉ Ta là tối thượng
Thân này là thân cuối
Không còn thọ thân sau.
‘Nghe A-nan kể xong
Ðức Phật bèn bổ túc:
Ðối với đức Như Lai,
Tất cả các cảm thọ
Ðều được Ngài biết rõ
Ðều được Ngài biết rõ
Trong cả ba giai đoạn
Trú diệt cũng như sinh.
Cũng vậy với tưởng, tư
Ngài luôn luôn giác tỉnh.
Ðây cũng điều kỳ diệu
Của đức Phật Thế Tôn.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
123. Acchariyaabbhutasuttaṃ [Mūla]
197. Evaṃ me sutaṃ
: ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa
ārāme. Atha kho sambahulānaṃ bhikkhūnaṃ pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantānaṃ
upaṭṭhānasālāyaṃ sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ ayamantarākathā udapādi :
''acchariyaṃ, āvuso, abbhutaṃ, āvuso, tathāgatassa mahiddhikatā mahānubhāvatā,
yatra hi nāma tathāgato atīte buddhe
parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte
jānissati [anussarissati jānissati (ka.)] : 'evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ
itipi, 'evaṃnāmā te bhagavanto ahesuṃ itipi, 'evaṃgottā te bhagavanto ahesuṃ
itipi, 'evaṃsīlā te bhagavanto ahesuṃ itipi, 'evaṃdhammā te bhagavanto ahesuṃ
itipi, 'evaṃpaññā te bhagavanto ahesuṃ itipi, 'evaṃvihārī te bhagavanto ahesuṃ
itipi, 'evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ itipīti! evaṃ vutte, āyasmā ānando te
bhikkhū etadavoca : ''acchariyā ceva, āvuso, tathāgatā
acchariyadhammasamannāgatā ca abbhutā ceva, āvuso, tathāgatā
abbhutadhammasamannāgatā cāti. Ayañca
hidaṃ tesaṃ bhikkhūnaṃ antarākathā vippakatā hoti.
198. Atha kho Bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito
yenupaṭṭhānasālā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi . Nisajja
kho Bhagavā bhikkhū āmantesi : ''kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya
sannisinnā, kā ca pana vo antarākathā vippakatāti? ''idha, bhante, amhākaṃ
pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantānaṃ upaṭṭhānasālāyaṃ sannisinnānaṃ
sannipatitānaṃ ayamantarākathā udapādi : 'acchariyaṃ, āvuso, abbhutaṃ, āvuso,
tathāgatassa mahiddhikatā mahānubhāvatā, yatra hi nāma tathāgato atīte buddhe
parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte
jānissati : evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ itipi, evaṃnāmā... evaṃgottā... evaṃsīlā...
evaṃdhammā.. evaṃpaññā... evaṃvihārī... evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ
itipīti! evaṃ vutte, bhante, āyasmā ānando amhe etadavoca : 'acchariyā ceva,
āvuso, tathāgatā acchariyadhammasamannāgatā ca, abbhutā ceva, āvuso, tathāgatā
abbhutadhammasamannāgatā cāti. Ayaṃ kho no, bhante, antarākathā vippakatā atha Bhagavā
anuppattoti.
199. Atha kho Bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi :
''tasmātiha taṃ, ānanda, bhiyyosomattāya paṭibhantu tathāgatassa acchariyā
abbhutadhammāti [abbhutā dhammāti (?)]. ''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ
: 'sato sampajāno, ānanda, bodhisatto tusitaṃ kāyaṃ upapajjīti. Yampi, bhante,
sato sampajāno bodhisatto tusitaṃ kāyaṃ upapajji idaṃpāhaṃ , bhante, bhagavato
acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi. ''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ,
sammukhā paṭiggahitaṃ : 'sato sampajāno, ānanda, bodhisatto tusite kāye aṭṭhāsīti.
Yampi, bhante, sato sampajāno bodhisatto tusite kāye aṭṭhāsi idaṃpāhaṃ [idaṃpahaṃ
(sī. syā. kaṃ. pī.)], bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi.
200. ''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā
paṭiggahitaṃ : 'yāvatāyukaṃ, ānanda, bodhisatto tusite kāye aṭṭhāsīti. Yampi,
bhante, yāvatāyukaṃ bodhisatto tusite kāye aṭṭhāsi idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato
acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi. ''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ,
sammukhā paṭiggahitaṃ : 'sato sampajāno, ānanda, bodhisatto tusitā, kāyā
cavitvā mātukucchiṃ okkamīti. Yampi, bhante , sato sampajāno bodhisatto tusitā
kāyā cavitvā mātukucchiṃ okkami idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato acchariyaṃ
abbhutadhammaṃ dhāremi.
201. ''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā
paṭiggahitaṃ : 'yadā, ānanda, bodhisatto tusitā kāyā cavitvā mātukucchiṃ
okkamati, atha sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya
sadevamanussāya appamāṇo uḷāro obhāso loke pātubhavati atikkammeva devānaṃ
devānubhāvaṃ. Yāpi tā lokantarikā aghā asaṃvutā andhakārā andhakāratimisā,
yatthapime candimasūriyā evaṃmahiddhikā evaṃmahānubhāvā ābhāya nānubhonti tatthapi appamāṇo uḷāro obhāso loke
pātubhavati atikkammeva devānaṃ devānubhāvaṃ. Yepi tattha sattā upapannā tepi
tenobhāsena aññamaññaṃ sañjānanti : aññepi kira, bho, santi sattā
idhūpapannāti. Ayañca dasasahassī lokadhātu saṅkampati sampakampati
sampavedhati appamāṇo ca uḷāro obhāso
loke pātubhavati atikkammeva devānaṃ devānubhāvanti. Yampi, bhante - pe - idaṃpāhaṃ,
bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi.
202. ''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā
paṭiggahitaṃ : 'yadā, ānanda, bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti, cattāro
devaputtā catuddisaṃ ārakkhāya upagacchanti : mā naṃ bodhisattaṃ vā
bodhisattamātaraṃ vā manusso vā amanusso vā koci vā viheṭhesīti. Yampi, bhante
- pe - idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi.
203. ''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā
paṭiggahitaṃ : 'yadā, ānanda, bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti, pakatiyā
sīlavatī bodhisattamātā hoti viratā pāṇātipātā viratā adinnādānā viratā
kāmesumicchācārā viratā musāvādā viratā surāmerayamajjapamādaṭṭhānāti. Yampi,
bhante - pe - idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi.
''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ,
sammukhā paṭiggahitaṃ : 'yadā , ānanda, bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti, na
bodhisattamātu purisesu mānasaṃ uppajjati kāmaguṇūpasaṃhitaṃ, anatikkamanīyā ca
bodhisattamātā hoti kenaci purisena rattacittenāti. Yampi, bhante - pe - idaṃpāhaṃ,
bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi. ''Sammukhā metaṃ, bhante,
bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ : 'yadā, ānanda, bodhisatto mātukucchiṃ
okkanto hoti, lābhinī bodhisattamātā hoti pañcannaṃ kāmaguṇānaṃ. Sā pañcahi
kāmaguṇehi samappitā samaṅgībhūtā paricāretīti. Yampi, bhante - pe - idaṃpāhaṃ,
bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi.
204. ''Sammukhā
metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ : 'yadā, ānanda,
bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti, na bodhisattamātu kocideva ābādho
uppajjati sukhinī bodhisattamātā hoti akilantakāyā bodhisattañca bodhisattamātā
tirokucchigataṃ passati sabbaṅgapaccaṅgaṃ
ahīnindriyaṃ. Seyyathāpi, ānanda, maṇi veḷuriyo subho jātimā aṭṭhaṃso
suparikammakato. Tatrāssa suttaṃ āvutaṃ nīlaṃ vā pītaṃ vā lohitaṃ vā odātaṃ vā
paṇḍusuttaṃ vā. Tamenaṃ cakkhumā puriso hatthe karitvā paccavekkheyya : ayaṃ
kho maṇi veḷuriyo subho jātimā aṭṭhaṃso suparikammakato, tatridaṃ suttaṃ āvutaṃ
nīlaṃ vā pītaṃ vā lohitaṃ vā odātaṃ vā paṇḍusuttaṃ vāti. Evameva kho, ānanda,
yadā bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti , na bodhisattamātu kocideva ābādho
uppajjati sukhinī bodhisattamātā hoti akilantakāyā bodhisattañca bodhisattamātā
tirokucchigataṃ passati sabbaṅgapaccaṅgaṃ ahīnindriyanti. Yampi, bhante - pe -
idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi.
205. ''Sammukhā
metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ : 'sattāhajāte,
ānanda, bodhisatte bodhisattamātā kālaṃ karoti, tusitaṃ kāyaṃ upapajjatīti.
Yampi, bhante - pe - idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ
dhāremi. ''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ :
'yathā kho panānanda, aññā itthikā nava vā dasa vā māse gabbhaṃ kucchinā
pariharitvā vijāyanti, na hevaṃ bodhisattaṃ bodhisattamātā vijāyati. Daseva
māsāni bodhisattaṃ bodhisattamātā kucchinā pariharitvā vijāyatīti. Yampi,
bhante - pe - idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi. ''Sammukhā
metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ : 'yathā kho panānanda,
aññā itthikā nisinnā vā nipannā vā vijāyanti, na hevaṃ bodhisattaṃ
bodhisattamātā vijāyati. Ṭhitāva bodhisattaṃ bodhisattamātā vijāyatīti. Yampi,
bhante - pe - idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi.
''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ,
sammukhā paṭiggahitaṃ : 'yadā , ānanda, bodhisatto mātukucchimhā nikkhamati,
devā naṃ paṭhamaṃ paṭiggaṇhanti pacchā manussāti. Yampi, bhante - pe - idaṃpāhaṃ,
bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi.
206. ''Sammukhā
metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ : 'yadā, ānanda,
bodhisatto mātukucchimhā nikkhamati, appattova bodhisatto pathaviṃ hoti,
cattāro naṃ devaputtā paṭiggahetvā mātu purato ṭhapenti : attamanā, devi, hohi
mahesakkho te putto uppannoti. Yampi, bhante - pe - idaṃpāhaṃ, bhante,
bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi. ''Sammukhā metaṃ, bhante,
bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ : 'yadā, ānanda, bodhisatto mātukucchimhā
nikkhamati, visadova nikkhamati amakkhito udena [uddena (sī. syā. kaṃ. pī.)]
amakkhito semhena amakkhito ruhirena amakkhito kenaci asucinā suddho visado [visuddho (syā.)].
Seyyathāpi, ānanda, maṇiratanaṃ kāsike vatthe nikkhittaṃ neva maṇiratanaṃ
kāsikaṃ vatthaṃ makkheti nāpi kāsikaṃ vatthaṃ maṇiratanaṃ makkheti. Taṃ kissa
hetu? ubhinnaṃ suddhattā. Evameva kho, ānanda, yadā bodhisatto mātukucchimhā
nikkhamati, visadova nikkhamati amakkhito udena amakkhito semhena amakkhito
ruhirena amakkhito kenaci asucinā suddho visadoti. Yampi, bhante - pe - idaṃpāhaṃ,
bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi. ''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ
: 'yadā, ānanda, bodhisatto mātukucchimhā nikkhamati, dve udakassa dhārā antalikkhā
pātubhavanti : ekā sītassa, ekā uṇhassa yena bodhisattassa udakakiccaṃ karonti
mātu cāti. Yampi, bhante - pe - idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato acchariyaṃ
abbhutadhammaṃ dhāremi.
207. ''Sammukhā
metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ : 'sampatijāto,
ānanda, bodhisatto samehi pādehi pathaviyaṃ patiṭṭhahitvā uttarābhimukho
sattapadavītihārena gacchati, setamhi chatte anudhāriyamāne, sabbā ca disā
viloketi, āsabhiñca vācaṃ bhāsati : aggohamasmi lokassa, jeṭṭhohamasmi lokassa,
seṭṭhohamasmi lokassa. Ayamantimā jāti , natthi dāni punabbhavoti. Yampi,
bhante - pe - idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremi.
''Sammukhā metaṃ, bhante, bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ : 'yadā,
ānanda, bodhisatto mātukucchimhā nikkhamati, atha sadevake loke samārake
sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya appamāṇo uḷāro obhāso
loke pātubhavati atikkammeva devānaṃ devānubhāvaṃ. Yāpi tā lokantarikā aghā asaṃvutā
andhakārā andhakāratimisā yatthapime candimasūriyā evaṃmahiddhikā evaṃmahānubhāvā
ābhāya nānubhonti tatthapi appamāṇo uḷāro
obhāso loke pātubhavati atikkammeva devānaṃ devānubhāvaṃ. Yepi tattha sattā upapannā tepi tenobhāsena aññamaññaṃ
sañjānanti : aññepi kira, bho, santi sattā idhūpapannāti. Ayañca dasasahassī
lokadhātu saṅkampati sampakampati sampavedhati, appamāṇo ca uḷāro obhāso loke
pātubhavati atikkammeva devānaṃ devānubhāvanti. Yampi, bhante - pe - idaṃpāhaṃ,
bhante, bhagavato acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhāremīti.
208. ''Tasmātiha tvaṃ, ānanda, idampi tathāgatassa
acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhārehi. Idhānanda, tathāgatassa viditā vedanā
uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā abbhatthaṃ gacchanti viditā saññā
uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā abbhatthaṃ gacchanti viditā vitakkā
uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā abbhatthaṃ gacchanti. Idampi kho, tvaṃ,
ānanda, tathāgatassa acchariyaṃ abbhutadhammaṃ dhārehīti. ''Yampi, bhante,
bhagavato viditā vedanā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā abbhatthaṃ
gacchanti viditā saññā... viditā vitakkā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti,
viditā abbhatthaṃ gacchanti. Idaṃpāhaṃ, bhante, bhagavato acchariyaṃ
abbhutadhammaṃ dhāremīti.
Idamavoca
āyasmā ānando. Samanuñño satthā ahosi attamanā ca te bhikkhū āyasmato ānandassa
bhāsitaṃ abhinandunti. Acchariyaabbhutasuttaṃ niṭṭhitaṃ tatiyaṃ.
-ooOoo-
123.
Acchariyaabbhutasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
197. Evaṃ
me sutanti acchariyaabbhutasuttaṃ. Tattha yatra hi nāmāti
acchariyatthe nipāto. Yo nāma tathāgatoti attho. Chinnapapañceti ettha
papañcā nāma taṇhā māno diṭṭhīti ime tayo kilesā. Chinnavaṭumeti ettha vaṭumanti
kusalākusalakammavaṭṭaṃ vuccati. Pariyādinnavaṭṭeti tasseva vevacanaṃ. Sabbadukkhavītivatteti
sabbaṃ vipākavaṭṭasaṅkhātaṃ dukkhaṃ vītivatte. Anussarissatīti idaṃ
yatrāti nipātavasena anāgatavacanaṃ, attho panettha atītavasena veditabbo.
Bhagavā hi te buddhe anussari, na idāni anussarissati. Evaṃjaccāti
vipassīādayo khattiyajaccā, kakusandhādayo brāhmaṇajaccāti. Evaṃgottāti
vipassīādayo koṇḍaññagottā, kakusandhādayo kassapagottāti. Evaṃsīlāti
lokiyalokuttarasīlena evaṃsīlā. Evaṃdhammāti ettha samādhipakkhā dhammā
adhippetā. Lokiyalokuttarena samādhinā evaṃsamādhinoti attho. Evaṃpaññāti
lokiyalokuttarapaññāya evaṃpaññā. Evaṃvihārīti ettha pana heṭṭhā
samādhipakkhānaṃ dhammānaṃ gahitattā vihāro gahitova, puna kasmā gahitameva gaṇhātīti
ce, na idaṃ gahitameva. Idañhi nirodhasamāpattidīpanatthaṃ, tasmā evaṃnirodhasamāpattivihārīti
ayamettha attho.
Evaṃvimuttāti ettha
vikkhambhanavimutti tadaṅgavimutti samucchedavimutti paṭippassaddhivimutti
nissaraṇavimuttīti pañcavidhā vimuttiyo. Tattha aṭṭha samāpattiyo sayaṃ
vikkhambhitehi nīvaraṇādīhi vimuttattā vikkhambhanavimuttīti saṅkhaṃ
gacchanti. Aniccānupassanādikā satta anupassanā sayaṃ tassa tassa paccanīkaṅgavasena
paricattāhi niccasaññādīhi vimuttattā tadaṅgavimuttīti saṅkhaṃ
gacchanti. Cattāro ariyamaggā sayaṃ samucchinnehi kilesehi vimuttattā samucchedavimuttīti
saṅkhaṃ gacchanti. Cattāri sāmaññaphalāni maggānubhāvena kilesānaṃ paṭippassaddhante
uppannattā paṭippassaddhivimuttīti saṅkhaṃ gacchanti. Nibbānaṃ
sabbakilesehi nissaṭattā apagatattā dūre ṭhitattā nissaraṇavimuttīti saṅkhaṃ
gataṃ. Iti imāsaṃ pañcannaṃ vimuttīnaṃ vasena evaṃvimuttāti evamettha attho
veditabbo.
199. Tasmātihāti
yasmā tvaṃ ‘‘tathāgatā acchariyā’’ti vadasi, tasmā taṃ bhiyyoso mattāya paṭibhantu
tathāgatassa acchariyā abbhutadhammāti. Sato sampajānoti ettha
dvesampajaññāni manussaloke devaloke ca. Tattha vessantarajātake brāhmaṇassa
dve putte datvā punadivase sakkassa deviṃ datvā sakkena pasīditvā dinne aṭṭha
vare gaṇhanto –
‘‘Ito
vimuccamānāhaṃ, saggagāmī visesagū;
Anivattī
tato assaṃ, aṭṭhametaṃ varaṃ vare’’ti. (jā. 2.22.2300) –
Evaṃ
tusitabhavane me paṭisandhi hotūti varaṃ aggahesi, tato paṭṭhāya tusitabhavane
uppajjissāmīti jānāti, idaṃ manussaloke sampajaññaṃ. Vessantarattabhāvato pana
cuto puna tusitabhavane nibbattitvā nibbattosmīti aññāsi, idaṃ devaloke
sampajaññaṃ.
Kiṃ
pana sesadevatā na jānantīti? No na jānanti. Tā pana uyyānavimānakapparukkhe
oloketvā devanāṭakehi tūriyasaddena pabodhitā ‘‘mārisa ayaṃ devaloko tumhe idha
nibbattā’’ti sāritā jānanti. Bodhisatto paṭhamajavanavāre na jānāti,
dutiyajavanato paṭṭhāya jānāti. Iccassa aññehi asādhāraṇajānanaṃ hoti.
Aṭṭhāsīti ettha
kiñcāpi aññepi devā tattha ṭhitā ṭhitamhāti jānanti, te pana chasu dvāresu
balavatā iṭṭhārammaṇena abhibhuyyamānā satiṃ vissajjetvā attano
bhuttapītabhāvampi ajānantā āhārūpacchedena kālaṃ karonti. Bodhisattassa kiṃ
tathārūpaṃ ārammaṇaṃ natthīti? No natthi. So hi sesadeve dasahi ṭhānehi adhiggaṇhāti,
ārammaṇena pana attānaṃ maddituṃ na deti, taṃ ārammaṇaṃ abhibhavitvā tiṭṭhati.
Tena vuttaṃ – ‘‘sato sampajāno, ānanda, bodhisatto tusite kāye aṭṭhāsī’’ti.
200. Yāvatāyukanti
sesattabhāvesu kiṃ yāvatāyukaṃ na tiṭṭhattīti? Āma na tiṭṭhati. Aññadā hi
dīghāyukadevaloke nibbatto tattha pāramiyo na sakkā pūretunti akkhīni nimīletvā
adhimuttikālaṃkiriyaṃ nāma katvā manussaloke nibbattati. Ayaṃ kālaṅkiriyā
aññesaṃ na hoti. Tadā pana adinnadānaṃ nāma natthi, arakkhitasīlaṃ nāma natthi,
sabbapāramīnaṃ pūritattā yāvatāyukaṃ aṭṭhāsi.
Sato sampajāno tusitā kāyā cavitvā mātukucchiṃ
okkamatīti evaṃ tāva sabbapāramiyo pūretvā tadā
bodhisatto yāvatāyukaṃ aṭṭhāsi. Devatānaṃ pana – ‘‘manussagaṇanāvasena idāni
sattahi divasehi cuti bhavissatī’’ti pañca pubbanimittāni uppajjanti – mālā
milāyanti, vatthāni kilissanti, kacchehi sedā muccanti, kāye dubbaṇṇiyaṃ
okkamati, devo devāsane na saṇṭhāti.
Tattha
mālāti paṭisandhiggahaṇadivase piḷandhanamālā. Tā kira saṭṭhisatasahassādhikā
sattapaṇṇāsa-vassakoṭiyo amilāyitvā tadā milāyanti. Vatthesupi eseva
nayo. Ettakaṃ pana kālaṃ devānaṃ neva sītaṃ na uṇhaṃ hoti, tasmiṃ kāle sarīrato
bindubinduvasena sedā muccanti. Ettakañca kālaṃ tesaṃ sarīre khaṇḍiccapāliccādivasena
vivaṇṇatā na paññāyati, devadhītā soḷasavassuddesikā viya, devaputtā
vīsativassuddesikā viya khāyanti. Maraṇakāle pana nesaṃ kilantarūpo attabhāvo
hoti. Ettakañca nesaṃ kālaṃ devaloke ukkaṇṭhitā nāma natthi, maraṇakāle
pana nissasanti vijambhanti, sake āsane nābhiramanti.
Imāni
pana pubbanimittāni, yathā loke mahāpuññānaṃ rājarājamahāmattādīnaṃyeva
ukkāpātabhūmicālacandaggāhādīni nimittāni paññāyanti, na sabbesaṃ, evameva
mahesakkhānaṃ devatānaṃyeva paññāyanti, na sabbesaṃ. Yathā ca manussesu
pubbanimittāni nakkhattapāṭhakādayova jānanti, na sabbe, evameva tānipi sabbe
devā na jānanti, paṇḍitā eva pana jānanti. Tattha ye ca mandena kusalakammena
nibbattā devaputtā, te tesu uppannesu – ‘‘idāni ko jānāti, kuhiṃ
nibbattissāmā’’ti bhāyanti. Ye mahāpuññā, te – ‘‘amhehi dinnaṃ dānaṃ rakkhitaṃ sīlaṃ
bhāvitaṃ bhāvanaṃ āgamma uparidevalokesu sampattiṃ anubhavissāmā’’ti na
bhāyanti. Bodhisattopi tāni pubbanimittāni disvā ‘‘idāni anantare attabhāve
buddho bhavissāmī’’ti na bhāyi. Athassa tesu nimittesu pātubhūtesu
dasasahassacakkavāḷadevatā sannipatitvā – ‘‘mārisa tumhehi dasa pāramiyo
pūrentehi na sakkasampattiṃ na mārabrahmacakkavattisampattiṃ patthentehi
pūritā, lokanittharaṇatthāya pana buddhattaṃ patthayamānehi pūritā. So vo idāni
kālo mārisa buddhattāya, samayo mārisa buddhattāyā’’ti yācanti.
Atha
mahāsatto devatānaṃ paṭiññaṃ adatvāva
kāladīpadesakulajanettiāyuparicchedavasena pañcamahāvilokanaṃ nāma
vilokesi. Tattha ‘‘kālo nu kho, na kālo’’ti paṭhamaṃ kālaṃ vilokesi. Tattha
vassasatasahassato uddhaṃ vaḍḍhitaāyukālo kālo nāma na hoti. Kasmā? Tadā hi
sattānaṃ jātijarāmaraṇāni na paññāyanti, buddhānañca dhammadesanā nāma tilakkhaṇamuttā
natthi, tesaṃ aniccaṃ dukkhaṃ anattāti kathentānaṃ ‘‘kiṃ nāmetaṃ kathentī’’ti
neva sotuṃ na saddhātuṃ maññanti, tato abhisamayo na hoti, tasmiṃ asati
aniyyānikaṃ sāsanaṃ hoti. Tasmā so akālo. Vassasatato ūnaāyukālopi kālo nāma na
hoti. Kasmā? Tadā hi sattā ussannakilesā honti, ussannakilesānañca dinnovādo
ovādaṭṭhāne na tiṭṭhati. Udake daṇḍarāji viya khippaṃ vigacchati. Tasmā sopi
akālo. Satasahassato pana paṭṭhāya heṭṭhā vassasatato paṭṭhāya uddhaṃ āyukālo
kālo nāma. Tadā ca vassasatakālo hoti. Atha mahāsatto ‘‘nibbattitabbakālo’’ti kālaṃ
passi.
Tato
dīpaṃ vilokento saparivāre cattāro dīpe oloketvā – ‘‘tīsu dīpesu buddhā
na nibbattanti, jambudīpeyeva nibbattantī’’ti dīpaṃ passi.
Tato
– ‘‘jambudīpo nāma mahā, dasayojanasahassaparimāṇo, katarasmiṃ nu kho padese
buddhā nibbattantī’’ti desaṃ vilokento majjhimadesaṃ passi. Majjhimadeso
nāma ‘‘puratthimāya disāya gajaṅgalaṃ nāma nigamo’’tiādinā nayena vinaye
(mahāva. 259) vuttova. So pana āyāmato tīṇi yojanasatāni. Vitthārato aḍḍhatiyāni,
parikkhepato navayojanasatānīti. Etasmiñhi padese cattāri aṭṭha soḷasa vā asaṅkhyeyyāni,
kappasatasahassañca pāramiyo pūretvā sammāsambuddhā uppajjanti. Dve asaṅkhyeyyāni,
kappasatasahassañca pāramiyo pūretvā paccekabuddhā uppajjanti, ekaṃ asaṅkhyeyyaṃ,
kappasatasahassañca pāramiyo pūretvā sāriputtamoggallānādayo mahāsāvakā
uppajjanti, catunnaṃ mahādīpānaṃ dvisahassānaṃ parittadīpānañca
issariyādhipaccakārakacakkavattirājāno uppajjanti, aññe ca mahesakkhā
khattiyabrāhmaṇagahapatimahāsālā uppajjanti. Idañcettha kapilavatthu nāma
nagaraṃ, tattha mayā nibbattitabbanti niṭṭhamagamāsi.
Tato
kulaṃ vilokento – ‘‘buddhā nāma lokasammate kule nibbattanti, idāni ca
khattiyakulaṃ lokasammataṃ, tattha nibbattissāmi, suddhodano nāma rājā me pitā
bhavissatī’’ti kulaṃ passi.
Tato
mātaraṃ vilokento – ‘‘buddhamātā nāma lolā surādhuttā na hoti,
kappasatasahassaṃ pūritapāramī jātito paṭṭhāya akhaṇḍapañcasīlā hoti, ayañca
mahāmāyā nāma devī edisā. Ayaṃ me mātā bhavissati. Kittakaṃ panassā āyū’’ti
āvajjanto – ‘‘dasannaṃ māsānaṃ upari satta divasānī’’ti passi.
Iti
imaṃ pañcamahāvilokanaṃ viloketvā – ‘‘kālo me mārisā buddhabhāvāyā’’ti
devatānaṃ saṅgahaṃ karonto paṭiññaṃ datvā ‘‘gacchatha tumhe’’ti tā devatā
uyyojetvā tusitadevatāhi parivuto tusitapure nandanavanaṃ pāvisi.
Sabbadevalokesu hi nandanavanaṃ atthiyeva. Tattha naṃ devatā – ‘‘ito cuto
sugatiṃ gaccha, ito cuto sugatiṃ gacchā’’ti pubbekatakusalakammokāsaṃ
sārayamānā vicaranti. So evaṃ devatāhi kusalaṃ sārayamānāhi parivuto tattha
vicarantova cavi.
Evaṃ
cuto cavāmīti pajānāti, cuticittaṃ na jānāti. Paṭisandhiṃ gahetvāpi paṭisandhicittaṃ
na jānāti, imasmiṃ me ṭhāne paṭisandhi gahitāti evaṃ pana jānāti. Keci pana
therā ‘‘āvajjanapariyāyo nāma laddhuṃ vaṭṭati, dutiyatatiyacittavāreyeva
jānissatī’’ti vadanti. Tipiṭakamahāsīvatthero panāha – ‘‘mahāsattānaṃ paṭisandhi
na aññesaṃ paṭisandhisadisā, koṭippattaṃ tesaṃ satisampajaññaṃ. Yasmā pana
teneva cittena taṃ cittaṃ ñātuṃ na sakkā, tasmā cuticittaṃ na jānāti. Cutikkhaṇepi
cavāmīti pajānāti, paṭisandhiṃ gahetvāpi paṭisandhicittaṃ na jānāti, asukasmiṃ ṭhāne
paṭisandhi gahitāti pajānāti, tasmiṃ kāle dasasahassī kampatī’’ti. Evaṃ sato
sampajāno mātukucchiṃ okkamanto pana ekūnavīsatiyā paṭisandhicittesu
mettāpubbabhāgassa somanassa-sahagata-ñāṇasampayutta-asaṅkhārika-kusalacittassa
sadisamahāvipākacittena paṭisandhiṃ gaṇhi. Mahāsīvatthero pana ‘‘upekkhāsahagatenā’’ti
āha.
Paṭisandhiṃ
gaṇhanto pana āsāḷhīpuṇṇamāyaṃ uttarāsāḷhanakkhattena aggahesi. Tadā kira
mahāmāyā pure puṇṇamāya sattamadivasato paṭṭhāya vigatasurāpānaṃ
mālāgandhavibhūsanasampannaṃ nakkhattakīḷaṃ anubhavamānā sattame divase pāto vuṭṭhāya
gandhodakena nhāyitvā sabbālaṅkāravibhūsitā varabhojanaṃ bhuñjitvā uposathaṅgāni
adhiṭṭhāya sirīgabbhaṃ pavisitvā sirīsayane nipannā niddaṃ okkamamānā idaṃ
supinaṃ addasa – ‘‘cattāro kira naṃ mahārājāno sayaneneva saddhiṃ ukkhipitvā
anotattadahaṃ netvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Atha nesaṃ deviyo āgantvā
manussamalaharaṇatthaṃ nhāpetvā dibbavatthaṃ nivāsetvā gandhehi vilimpetvā
dibbapupphāni piḷandhitvā tato avidūre rajatapabbato, tassa anto kanakavimānaṃ
atthi, tasmiṃ pācīnato sīsaṃ katvā nipajjāpesuṃ. Atha bodhisatto setavaravāraṇo
hutvā tato avidūre eko suvaṇṇapabbato, tattha caritvā tato oruyha rajatapabbataṃ
abhiruhitvā uttaradisato āgamma kanakavimānaṃ pavisitvā mātaraṃ padakkhiṇaṃ
katvā dakkhiṇapassaṃ phāletvā kucchiṃ paviṭṭhasadiso ahosi.
Atha
pabuddhā devī taṃ supinaṃ rañño ārocesi. Rājā pabhātāya rattiyā catusaṭṭhimatte
brāhmaṇapāmokkhe pakkosāpetvā haritūpalittāya lājādīhi katamaṅgalasakkārāya
bhūmiyā mahārahāni āsanāni paññāpetvā tattha nisinnānaṃ brāhmaṇānaṃ
sappimadhusakkarābhisaṅkhārassa varapāyāsassa suvaṇṇarajatapātiyo pūretvā suvaṇṇarajatapātītiheva
paṭikujjitvā adāsi, aññehi ca ahatavatthakapilagāvīdānādīhi te santappesi. Atha
nesaṃ sabbakāmasantappitānaṃ supinaṃ ārocāpetvā – ‘‘kiṃ bhavissatī’’ti pucchi.
Brāhmaṇā āhaṃsu – ‘‘mā cintayi mahārāja, deviyā te kucchimhi gabbho patiṭṭhito,
so ca kho purisagabbho, na itthigabbho, putto te bhavissati. So sace agāraṃ
ajjhāvasissati, rājā bhavissati cakkavattī. Sace agārā nikkhamma pabbajissati,
buddho bhavissati loke vivaṭṭacchado’’ti. Evaṃ sato sampajāno bodhisatto
tusitakāyā cavitvā mātukucchiṃ okkamati.
Tattha
sato sampajānoti iminā catutthāya gabbhāvakkantiyā okkamatīti dasseti.
Catasso hi gabbhāvakkantiyo.
‘‘Catasso
imā, bhante, gabbhāvakkantiyo. Idha, bhante, ekacco asampajāno mātukucchiṃ okkamati,
asampajāno mātukucchismiṃ ṭhāti, asampajāno mātukucchimhā nikkhamati, ayaṃ paṭhamā
gabbhāvakkanti.
Puna
caparaṃ, bhante, idhekacco sampajāno mātukucchiṃ okkamati, asampajāno
mātukucchismiṃ ṭhāti, asampajāno mātukucchimhā nikkhamati, ayaṃ dutiyā gabbhāvakkanti.
Puna
caparaṃ, bhante, idhekacco sampajāno mātukucchiṃ okkamati, sampajāno
mātukucchismiṃ ṭhāti, asampajāno mātukucchimhā nikkhamati, ayaṃ tatiyā
gabbhāvakkanti.
Puna
caparaṃ, bhante, idhekacco sampajāno mātukucchiṃ okkamati, sampajāno mātukucchismiṃ
ṭhāti, sampajāno mātukucchimhā nikkhamati, ayaṃ catutthā gabbhāvakkantī’’ti
(dī. ni. 3.147).
Etāsu
paṭhamā lokiyamanussānaṃ hoti, dutiyā asītimahāsāvakānaṃ, tatiyā dvinnaṃ
aggasāvakānaṃ paccekabodhisattānañca. Te kira kammajavātehi uddhaṃpādā adhosirā
anekasataporise papāte viya yonimukhe tāḷacchiggalena hatthī viya ativiya
sambādhena yonimukhena nikkhamamānā anantaṃ dukkhaṃ pāpuṇanti. Tena nesaṃ
‘‘mayaṃ nikkhamāmā’’ti sampajānatā na hoti. Catutthā sabbaññubodhisattānaṃ. Te
hi mātukucchismiṃ paṭisandhiṃ gaṇhantāpi jānanti, tattha vasantāpi jānanti.
Nikkhamanakālepi nesaṃ kammajavātā uddhaṃpāde adhosire katvā khipituṃ na
sakkonti, dve hatthe pasāretvā akkhīni ummīletvā ṭhitakāva nikkhamanti.
201. Mātukucchiṃ
okkamatīti ettha mātukucchiṃ okkanto hotīti attho. Okkante hi tasmiṃ evaṃ
hoti, na okkamamāne. Appamāṇoti buddhappamāṇo, vipuloti attho. Uḷāroti
tasseva vevacanaṃ. Devānubhāvanti ettha devānaṃ ayamānubhāvo –
nivatthavatthassa pabhā dvādasa yojanāni pharati, tathā sarīrassa, tathā alaṅkārassa,
tathā vimānassa, taṃ atikkamitvāti attho.
Lokantarikāti tiṇṇaṃ
tiṇṇaṃ cakkavāḷānaṃ antarā ekeko lokantarikā hoti, tiṇṇaṃ sakaṭacakkānaṃ
pattānaṃ vā aññamaññaṃ āhacca ṭhapitānaṃ majjhe okāso viya. So pana
lokantarikanirayo parimāṇato aṭṭhayojanasahasso hoti. Aghāti niccavivaṭā.
Asaṃvutāti heṭṭhāpi appatiṭṭhā. Andhakārāti tamabhūtā. Andhakāratimisāti
cakkhuviññāṇuppattinivāraṇato andhabhāvakaraṇatimisena samannāgatā. Tattha kira
cakkhuviññāṇaṃ na jāyati. Evaṃmahiddhikāti candimasūriyā kira
ekappahāreneva tīsu dīpesu paññāyanti, evaṃmahiddhikā. Ekekāya disāya navanavayojanasatasahassāni
andhakāraṃ vidhamitvā ālokaṃ dassenti, evaṃ mahānubhāvā. Ābhāya nānubhontīti
attano pabhāya nappahonti. Te kira cakkavāḷapabbatassa vemajjhena caranti,
cakkavāḷapabbatañca atikkamma lokantarikanirayo, tasmā te tattha ābhāya nappahonti.
Yepi tattha sattāti
yepi tasmiṃ lokantaramahāniraye sattā upapannā. Kiṃ pana kammaṃ katvā te tattha
uppajjantīti? Bhāriyaṃ dāruṇaṃ mātāpitūnaṃ dhammikasamaṇabrāhmaṇānañca upari
aparādhaṃ aññañca divase divase pāṇavadhādisāhasikakammaṃ katvā uppajjanti
tambapaṇṇidīpe abhayacoranāgacorādayo viya. Tesaṃ attabhāvo tigāvutiko hoti,
vaggulīnaṃ viya dīghanakhā honti. Te rukkhe vagguliyo viya nakhehi cakkavāḷapāde
lagganti. Yadā pana saṃsappantā aññamaññassa hatthapāsaṃ gatā honti, atha
‘‘bhakkho no laddho’’ti maññamānā tattha vāvaṭā viparivattitvā
lokasandhārakaudake patanti. Vāte paharante madhukaphalāni viya chijjitvā udake
patanti. Patitamattā ca accantakhāre udake piṭṭhapiṇḍi viya vilīyanti.
Aññepi kira bho santi sattāti – ‘‘yathā mayaṃ mahādukkhaṃ anubhavāma, evaṃ aññepi
kira sattā idaṃ dukkhaṃ anubhavantā idhūpapannā’’ti taṃ divasaṃ passanti. Ayaṃ
pana obhāso ekayāgupānamattampi na tiṭṭhati, yāvatā niddāyitvā pabuddho ārammaṇaṃ
vibhāveti, tattakaṃ kālaṃ hoti. Dīghabhāṇakā pana ‘‘accharāsaṅghāṭamattameva
vijjubhāso viya niccharitvā kiṃ idanti bhaṇantānaṃyeva antaradhāyatī’’ti
vadanti. Saṅkampatīti samantato kampati. Itaradvayaṃ purimapasseva
vevacanaṃ. Puna appamāṇo cātiādi nigamanatthaṃ vuttaṃ.
202. Cattāro
devaputtā catuddisaṃ ārakkhāya upagacchantīti ettha cattāroti
catunnaṃ mahārājūnaṃ vasena vuttaṃ, dasasahassacakkavāḷe pana cattāro cattāro
katvā cattālīsadasasahassā honti. Tattha imasmiṃ cakkavāḷe mahārājāno
khaggahatthā āgantvā bodhisattassa ārakkhaṇatthāya upagantvā sirīgabbhaṃ paviṭṭhā,
itare gabbhadvārato paṭṭhāya avaruddhapaṃsupisācakādiyakkhagaṇe paṭikkamāpetvā
yāva cakkavāḷā ārakkhaṃ gaṇhiṃsu.
Kimatthaṃ
panāyaṃ rakkhā āgatā? Nanu paṭisandhikkhaṇe kalalakālato paṭṭhāya sacepi koṭisatasahassā
mārā koṭisatasahassaṃ sineruṃ ukkhipitvā bodhisattassa vā bodhisattamātuyā vā
antarāyakaraṇatthaṃ āgaccheyyuṃ, sabbe antarāva antaradhāyeyyuṃ. Vuttampi cetaṃ
bhagavatā ruhiruppādavatthusmiṃ – ‘‘aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ
parūpakkamena tathāgataṃ jīvitā voropeyya. Anupakkamena, bhikkhave, tathāgatā
parinibbāyanti. Gacchatha tumhe, bhikkhave, yathāvihāraṃ, arakkhiyā, bhikkhave,
tathāgatā’’ti (cūḷava. 341). Evametaṃ, na parūpakkamena tesaṃ jīvitantarāyo
atthi. Santi kho pana amanussā virūpā duddasikā, bheravarupā pakkhino, yesaṃ
rūpaṃ disvā saddaṃ vā sutvā bodhisattamātu bhayaṃ vā santāso vā uppajjeyya,
tesaṃ nivāraṇatthāya rakkhaṃ aggahesuṃ. Apica kho bodhisattassa puññatejena
sañjātagāravā attano gāravacoditāpi te evamakaṃsu.
Kiṃ
pana te antogabbhaṃ pavisitvā ṭhitā cattāro mahārājāno bodhisattamātuyā attānaṃ
dassenti na dassentīti? Nahānamaṇḍanabhojanādisarīrakiccakāle na dassenti,
sirīgabbhaṃ pavisitvā varasayane nipannakāle pana dassenti. Tattha kiñcāpi
amanussadassanaṃ nāma manussānaṃ sappaṭibhayaṃ hoti, bodhisattamātā pana attano
ceva puttassa ca puññānubhāvena te disvā na bhāyati, pakatiantepurapālakesu
viya assā tesu cittaṃ uppajjati.
203. Pakatiyā
sīlavatīti sabhāveneva sīlasampannā. Anuppanne kira buddhe manussā
tāpasaparibbājakānaṃ santike vanditvā ukkuṭikaṃ nisīditvā sīlaṃ gaṇhanti,
bodhisattamātāpi kāladevilassa isino santike gaṇhāti. Bodhisatte pana
kucchigate aññassa pādamūle nisīdituṃ nāma na sakkā, samāsane nisīditvā
gahitasīlampi avaññā kāraṇamattaṃ hoti. Tasmā sayameva sīlaṃ aggahesīti vuttaṃ
hoti.
Purisesūti
bodhisattassa pitaraṃ ādiṃ katvā kesuci manussesu purisādhippāyacittaṃ
nuppajjati. Tañca kho bodhisatte gāravena, na pahīnakilesatāya. Bodhisattamātu
rūpaṃ pana sukusalāpi sippikā potthakammādīsupi kātuṃ na sakkonti, taṃ disvā
purisassa rāgo nuppajjatīti na sakkā vattuṃ. Sace pana taṃ rattacitto upasaṅkamitukāmo
hoti, pādā na vahanti, dibbasaṅkhalikā viya bajjhanti. Tasmā
‘‘anatikkamanīyā’’tiādi vuttaṃ.
Pañcannaṃ kāmaguṇānanti
pubbe ‘‘kāmaguṇūpasaṃhita’’nti purisādhippāyavasena vatthupaṭikkhepo kathito,
idha ārammaṇappaṭilābho dassito. Tadā kira ‘‘deviyā evarūpo putto kucchismiṃ
uppanno’’ti, sutvā samantato rājāno mahagghaābharaṇatūriyādivasena
pañcadvārārammaṇavatthubhūtaṃ paṇṇākāraṃ pesenti, bodhisattassa ca
bodhisattamātuyā ca katakammassa ussannattā lābhasakkārassa pamāṇaparicchedo
nāma natthi.
204. Akilantakāyāti
yathā aññā itthiyo gabbhabhārena kilamanti, hatthapādā uddhumātakādīni pāpuṇanti,
na evaṃ tassā koci kilamatho ahosi. Tirokucchigatanti antokucchigataṃ.
Kalalādikālaṃ atikkamitvā sañjātaaṅgapaccaṅgaṃ ahīnindriyabhāvaṃ upagataṃyeva
passati. Kimatthaṃ passati? Sukhavāsatthaṃ. Yatheva hi mātā puttena saddhiṃ
nisinnā vā nipannā vā ‘‘hatthaṃ vā pādaṃ vā olambantaṃ ukkhipitvā saṇṭhapessāmī’’ti
sukhavāsatthaṃ puttaṃ oloketi, evaṃ bodhisattamātāpi yaṃ taṃ mātu uṭṭhānagamanaparivattananisajjādīsu
uṇhasītaloṇikatittakakaṭukāhāraajjhoharaṇakālesu ca gabbhassa dukkhaṃ
uppajjati, atthi nu kho me taṃ puttassāti sukhavāsatthaṃ bodhisattaṃ
olokayamānā pallaṅkaṃ ābhujitvā nisinnaṃ bodhisattaṃ passati. Yathā hi aññe
antokucchigatā pakkāsayaṃ ajjhottharitvā āmāsayaṃ ukkhipitvā udarapaṭalaṃ piṭṭhito
katvā piṭṭhikaṇṭakaṃ nissāya ukkuṭikā dvīsu muṭṭhīsu hanukaṃ ṭhapetvā deve
vassante rukkhasusire makkaṭā viya nisīdanti, na evaṃ bodhisatto. Bodhisatto
pana piṭṭhikaṇṭakaṃ piṭṭhito katvā dhammāsane dhammakathiko viya pallaṅkaṃ
ābhujitvā puratthābhimukho nisīdati. Pubbe katakammaṃ panassā vatthuṃ sodheti,
suddhe vatthumhi sukhumacchavilakkhaṇaṃ nibbattati. Atha naṃ kucchigataṃ taco
paṭicchādetuṃ na sakkoti, olokentiyā bahi ṭhito viya paññāyati. Tamatthaṃ
upamāya vibhāvento seyyathāpītiādimāha. Bodhisatto pana antokucchigato
mātaraṃ na passati. Na hi antokucchiyaṃ cakkhuviññāṇaṃ uppajjati.
205. Kālaṃ
karotīti na vijātabhāvapaccayā, āyuparikkhayeneva. Bodhisattena vasitaṭṭhānañhi
cetiyakuṭisadisaṃ hoti aññesaṃ aparibhogaṃ, na ca sakkā bodhisattamātaraṃ
apanetvā aññaṃ aggamahesiṭṭhāne ṭhapetunti tattakaṃyeva bodhisattamātu āyuppamāṇaṃ
hoti, tasmā tadā kālaṃ karoti. Katarasmiṃ pana vaye kālaṃ karotīti?
Majjhimavaye. Paṭhamavayasmiñhi sattānaṃ attabhāve chandarāgo balavā hoti, tena
tadā sañjātagabbhā itthī taṃ gabbhaṃ anurakkhituṃ na sakkonti, gabbho
bahvābādho hoti. Majjhimavayassa pana dve koṭṭhāse atikkamma tatiyakoṭṭhāse
vatthuṃ visadaṃ hoti, visade vatthumhi nibbattā dārakā arogā honti. Tasmā
bodhisattamātāpi paṭhamavaye sampattiṃ anubhavitvā majjhimavayassa tatiyakoṭṭhāse
vijāyitvā kālaṃ karoti.
Nava vā dasa vāti ettha
vā-saddena vikappanavasena satta vā aṭṭha vā ekādasa vā dvādasa vāti
evamādīnampi saṅgaho veditabbo. Tattha sattamāsajāto jīvati, sītuṇhakkhamo pana
na hoti. Aṭṭhamāsajāto na jīvati, sesā jīvanti.
Ṭhitāvāti ṭhitāva
hutvā. Mahāmāyāpi devī upavijaññā ñātikulagharaṃ gamissāmīti rañño ārocesi.
Rājā kapilavatthuto devadahanagaragāmimaggaṃ alaṅkārāpetvā deviṃ suvaṇṇasivikāya
nisīdāpesi. Sakalanagaravāsino sakyā parivāretvā gandhamālādīhi pūjayamānā deviṃ
gahetvā pāyiṃsu. Sā devadahanagarassa avidūre lumbinisālavanuyyānaṃ disvā
uyyānavicaraṇatthāya cittaṃ uppādetvā rañño saññaṃ adāsi. Rājā uyyānaṃ paṭijaggāpetvā
ārakkhaṃ saṃvidahāpesi. Deviyā uyyānaṃ paviṭṭhamattāya kāyadubbalyaṃ ahosi,
athassā maṅgalasālamūle sirīsayanaṃ paññāpetvā sāṇiyā parikkhipiṃsu. Sā antosāṇiṃ
pavisitvā sālasākhaṃ hatthena gahetvā aṭṭhāsi. Athassā tāvadeva gabbhavuṭṭhānaṃ
ahosi.
Devā naṃ paṭhamaṃ paṭiggaṇhantīti khīṇāsavā suddhāvāsabrahmāno paṭiggaṇhanti. Kathaṃ?
Sūtivesaṃ gaṇhitvāti eke. Taṃ pana paṭikkhipitvā idaṃ vuttaṃ – tadā
bodhisattamātā suvaṇṇakhacitaṃ vatthaṃ nivāsetvā macchakkhisadisaṃ dukūlapaṭaṃ
yāva pādantāva pārupitvā aṭṭhāsi. Athassā sallahukaṃ gabbhavuṭṭhānaṃ ahosi
dhammakaraṇato udakanikkhamanasadisaṃ. Atha te pakatibrahmaveseneva upasaṅkamitvā
paṭhamaṃ suvaṇṇajālena paṭiggahesuṃ. Tesaṃ hatthato manussā dukūlacumbaṭakena
paṭiggahesuṃ. Tena vuttaṃ – ‘‘devā naṃ paṭhamaṃ paṭiggaṇhanti pacchā
manussā’’ti.
206. Cattāro
naṃ devaputtāti cattāro mahārājāno. Paṭiggahetvāti ajinappaveṇiyā paṭiggahetvā.
Mahesakkhoti mahātejo mahāyaso lakkhaṇasampannoti attho.
Visadova nikkhamatīti
yathā aññe sattā yonimagge laggantā bhaggavibhaggā nikkhamanti, na evaṃ
nikkhamati, alaggo hutvā nikkhamatīti attho. Udenāti udakena. Kenaci
asucināti yathā aññe sattā kammajavātehi uddhaṃpādā adhosirā yonimagge
pakkhittā sataporisanarakapapātaṃ patantā viya tāḷacchiddena nikkaḍḍhiyamānā
hatthī viya mahādukkhaṃ anubhavantā nānāasucimakkhitāva nikkhamanti, na evaṃ
bodhisatto. Bodhisattañhi kammajavātā uddhaṃpādaṃ adhosiraṃ kātuṃ na sakkonti.
So dhammāsanato otaranto dhammakathiko viya nisseṇito otaranto puriso viya ca
dve hatthe ca pāde ca pasāretvā ṭhitakova mātukucchisambhavena kenaci asucinā
amakkhitova nikkhamati.
Udakassa dhārāti
udakavaṭṭiyo. Tāsu sītā suvaṇṇakaṭāhe patati, uṇhā rajatakaṭāhe. Idañca
pathavītale kenaci asucinā asammissaṃ tesaṃ pānīyaparibhojanīyaudakañceva
aññehi asādhāraṇaṃ kīḷanaudakañca dassetuṃ vuttaṃ. Aññassa pana suvaṇṇarajataghaṭehi
āhariyamānaudakassa ceva haṃsavaṭṭakādipokkharaṇigatassa ca udakassa paricchedo
natthi.
207. Sampatijātoti
muhuttajāto. Pāḷiyaṃ pana mātukucchito nikkhantamatto viya dassito, na pana evaṃ
daṭṭhabbaṃ. Nikkhantamattañhi taṃ paṭhamaṃ brahmāno suvaṇṇajālena paṭiggaṇhiṃsu,
tesaṃ hatthato cattāro mahārājāno maṅgalasammatāya sukhasamphassāya ajinappaveṇiyā,
tesaṃ hatthato manussā dukūlacumbaṭakena, manussānaṃ hatthato muccitvā
pathaviyaṃ patiṭṭhito.
Setamhi chatte anudhāriyamāneti dibbasetacchatte anudhāriyamāne. Ettha ca chattassa
parivārāni khaggādīni pañca rājakakudhabhaṇḍānipi āgatāneva. Pāḷiyaṃ pana
rājagamane rājā viya chattameva vuttaṃ. Tesu chattameva paññāyati, na
chattaggāhakā. Tathā khagga-tālavaṇṭa-morahatthaka-vāḷabījani-uṇhīsamattāyeva
paññāyanti, na tesaṃ gāhakā. Sabbāni kira tāni adissamānarūpā devatā gaṇhiṃsu.
Vuttampi cetaṃ –
‘‘Anekasākhañca
sahassamaṇḍalaṃ,
Chattaṃ
marū dhārayumantalikkhe;
Suvaṇṇadaṇḍā
vipatanti cāmarā,
Na
dissare cāmarachattagāhakā’’ti. (su. ni. 693);
Sabbā ca disāti idaṃ
sattapadavītihārūpari ṭhitassa viya sabbadisānuvilokanaṃ vuttaṃ, na kho panevaṃ
daṭṭhabbaṃ. Mahāsatto hi manussānaṃ hatthato muccitvā puratthimadisaṃ olokesi,
anekacakkavāḷasahassāni ekaṅgaṇāni ahesuṃ. Tattha devamanussā gandhamālādīhi
pūjayamānā – ‘‘mahāpurisa idha tumhehi sadisopi natthi, kuto uttaritaro’’ti āhaṃsu.
Evaṃ catasso disā, catasso anudisā, heṭṭhā, uparīti dasapi disā anuviloketvā
attanā sadisaṃ adisvā ayaṃ uttarā disāti sattapadavītihārena agamāsīti
evamettha attho daṭṭhabbo. Āsabhinti uttamaṃ. Aggoti guṇehi
sabbapaṭhamo. Itarāni dve padāni etasseva vevacanāni. Ayamantimā jāti,
natthi dāni punabbhavoti padadvayena imasmiṃ attabhāve pattabbaṃ arahattaṃ
byākāsi.
Ettha
ca samehi pādehi pathaviyaṃ patiṭṭhānaṃ catuiddhipādapaṭilābhassa pubbanimittaṃ,
uttarābhimukhabhāvo mahājanaṃ ajjhottharitvā abhibhavitvā gamanassa
pubbanimittaṃ, sattapadagamanaṃ sattabojjhaṅgaratanapaṭilābhassa pubbanimittaṃ,
dibbasetacchattadhāraṇaṃ vimutticchattapaṭilābhassa pubbanimittaṃ,
pañcarājakakudhabhaṇḍāni pañcahi vimuttīhi vimuccanassa pubbanimittaṃ,
disānuvilokanaṃ anāvaraṇañāṇapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, āsabhīvācābhāsanaṃ
appaṭivattiyadhammacakkappavattanassa pubbanimittaṃ. ‘‘Ayamantimā jātī’’ti
sīhanādo anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbānassa pubbanimittanti veditabbaṃ.
Ime vārā pāḷiyaṃ āgatā, sambahulavāro pana āgato, āharitvā dīpetabbo.
Mahāpurisassa
hi jātadivase dasasahassilokadhātu kampi. Dasasahassilokadhātumhi devatā
ekacakkavāḷe sannipatiṃsu. Paṭhamaṃ devā paṭiggahiṃsu, pacchā manussā.
Tantibaddhā vīṇā cammabaddhā bheriyo ca kenaci avāditā sayameva vajjiṃsu,
manussānaṃ andubandhanādīni khaṇḍākhaṇḍaṃ bhijjiṃsu. Sabbarogā ambilena
dhotatambamalaṃ viya vigacchiṃsu, jaccandhā rūpāni passiṃsu. Jaccabadhirā saddaṃ
suṇiṃsu, pīṭhasappī javanasampannā ahesuṃ, jātijaḷānampi eḷamūgānaṃ sati patiṭṭhāsi,
videse pakkhandanāvā supaṭṭanaṃ pāpuṇiṃsu, ākāsaṭṭhakabhūmaṭṭhakaratanāni
sakatejobhāsitāni ahesuṃ, verino mettacittaṃ paṭilabhiṃsu, avīcimhi aggi
nibbāyi. Lokantare āloko udapādi, nadīsu jalaṃ na pavatti, mahāsamuddesu
madhurasadisaṃ udakaṃ ahosi, vāto na vāyi, ākāsapabbatarukkhagatā sakuṇā
bhassitvā pathavīgatā ahesuṃ, cando atiroci, sūriyo na uṇho na sītalo nimmalo
utusampanno ahosi, devatā attano attano vimānadvāre ṭhatvā apphoṭanaseḷanacelukkhepādīhi
mahākīḷaṃ kīḷiṃsu, cātuddīpikamahāmegho vassi, mahājanaṃ neva khudā na pipāsā
pīḷesi, dvārakavāṭāni sayameva vivariṃsu, pupphūpagaphalūpagā rukkhā
pupphaphalāni gaṇhiṃsu, dasasahassilokadhātu ekaddhajamālā ahosīti.
Tatrāpissa
dasasahassilokadhātukampo sabbaññutañāṇapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, devatānaṃ
ekacakkavāḷe sannipāto dhammacakkappavattanakāle ekappahārena sannipatitvā
dhammapaṭiggaṇhanassa pubbanimittaṃ, paṭhamaṃ devatānaṃ paṭiggahaṇaṃ catunnaṃ
rūpāvacarajjhānānaṃ paṭilābhassa pubbanimittaṃ. Pacchā manussānaṃ paṭiggahaṇaṃ
catunnaṃ arūpajjhānānaṃ paṭilābhassa pubbanimittaṃ, tantibaddhavīṇānaṃ sayaṃ
vajjanaṃ anupubbavihārapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, cammabaddhabherīnaṃ vajjanaṃ
mahatiyā dhammabheriyā anussāvanassa pubbanimittaṃ, andubandhanādīnaṃ chedo
asmimānasamucchedassa pubbanimittaṃ, sabbarogavigamo sabbakilesavigamassa
pubbanimittaṃ, jaccandhānaṃ rūpadassanaṃ dibbacakkhupaṭilābhassa pubbanimittaṃ,
jaccabadhirānaṃ saddassavanaṃ dibbasotadhātupaṭilābhassa pubbanimittaṃ, pīṭhasappīnaṃ
javanasampadā catuiddhipādādhigamassa pubbanimittaṃ, jaḷānaṃ satipatiṭṭhānaṃ
catusatipaṭṭhānapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, videsapakkhandanāvānaṃ supaṭṭanasampāpuṇanaṃ
catupaṭisambhidādhigamassa pubbanimittaṃ, ratanānaṃ sakatejobhāsitattaṃ yaṃ
lokassa dhammobhāsaṃ dassessati tassa pubbanimittaṃ.
Verīnaṃ
mettacittapaṭilābho catubrahmavihārapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, avīcimhi
agginibbānaṃ ekādasaagginibbānassa pubbanimittaṃ, lokantarāloko avijjandhakāraṃ
vidhamitvā ñāṇālokadassanassa pubbanimittaṃ, mahāsamuddassa madhuratā
nibbānarasena ekarasabhāvassa pubbanimittaṃ, vātassa avāyanaṃ dvāsaṭṭhidiṭṭhigatabhindanassa
pubbanimittaṃ, sakuṇānaṃ pathavīgamanaṃ mahājanassa ovādaṃ sutvā pāṇehi saraṇagamanassa
pubbanimittaṃ, candassa ativirocanaṃ bahujanakantatāya pubbanimittaṃ, sūriyassa
uṇhasītavivajjanautusukhatā kāyikacetasikasukhuppattiyā pubbanimittaṃ, devatānaṃ
vimānadvāresu apphoṭanādīhi kīḷanaṃ buddhabhāvaṃ patvā udānaṃ udānassa pubbanimittaṃ,
cātuddīpikamahāmeghavassanaṃ mahato dhammameghavassanassa pubbanimittaṃ,
khudāpīḷanassa abhāvo kāyagatāsatiamatapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, pipāsāpīḷanassa
abhāvo vimuttisukhena sukhitabhāvassa pubbanimittaṃ, dvārakavāṭānaṃ sayameva
vivaraṇaṃ aṭṭhaṅgikamaggadvāravivaraṇassa pubbanimittaṃ, rukkhānaṃ
pupphaphalagahaṇaṃ vimuttipupphehi pupphitassa ca
sāmaññaphalabhārabharitabhāvassa ca pubbanimittaṃ, dasasahassilokadhātuyā
ekaddhajamālatā ariyaddhajamālāmālitāya pubbanimittanti veditabbaṃ. Ayaṃ
sambahulavāro nāma.
Ettha
pañhe pucchanti – ‘‘yadā mahāpuriso pathaviyaṃ patiṭṭhahitvā uttarābhimukho
gantvā āsabhiṃ vācaṃ bhāsati, tadā kiṃ pathaviyā gato, udāhu ākāsena? Dissamāno
gato, udāhu adissamāno? Acelako gato, udāhu alaṅkatappaṭiyatto? Daharo hutvā
gato, udāhu mahallako? Pacchāpi kiṃ tādisova ahosi, udāhu puna bāladārako’’ti?
Ayaṃ pana pañho heṭṭhā lohapāsāde saṅghasannipāte tipiṭakacūḷābhayattherena
vissajjitova. Thero kirettha niyati pubbekatakamma-issaranimmānavādavasena taṃ
taṃ bahuṃ vatvā avasāne evaṃ byākāsi – ‘‘mahāpuriso pathaviyaṃ gato,
mahājanassa pana ākāse gacchanto viya ahosi. Dissamāno gato, mahājanassa pana
adissamāno viya ahosi. Acelako gato, mahājanassa pana alaṅkatappaṭiyattova upaṭṭhāsi.
Daharova gato, mahājanassa pana soḷasavassuddesiko viya ahosi. Pacchā pana
bāladārakova ahosi, na tādiso’’ti. Evaṃ vutte parisā cassa ‘‘buddhena viya
hutvā bho therena pañho kathito’’ti attamanā ahosi. Lokantarikavāro vuttanayo
eva.
Viditāti pākaṭā
hutvā. Yathā hi sāvakā nahānamukhadhovanakhādanapivanādikāle anokāsagate
atītasaṅkhāre nippadese sammasituṃ na sakkonti, okāsapattayeva sammasanti, na
evaṃ buddhā. Buddhā hi sattadivasabbhantare vavatthitasaṅkhāre ādito paṭṭhāya
sammasitvā tilakkhaṇaṃ āropetvāva vissajjenti, tesaṃ avipassitadhammo nāma
natthi, tasmā ‘‘viditā’’ti āha. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Acchariyaabbhutasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Tại sao chư vị bồ tát toàn giác trong kiếp áp chót đều sanh về cõi Đâu Suất? - TT Pháp Đăng
Thảo luận 2. Tại sao chánh niệm tỉnh giác là phẩm chất đặc biệt kỳ diệu được đề cập nhiều trong tiến trình sanh tử của bồ tát? - TT Pháp Tân
Thảo luận 3. Trong câu nói của Đức Đại bồ tát khi vừa sanh ra đời với bản dịch chữ Hán: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn..." câu nói đó được hiểu thế nào và kinh điển Pali? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
Thảo luận 4. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment