Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 11/5/2020
120.
Kinh Hành Sanh
(Sankhārupapatti
Sutta)
Phạn ngữ
sankhārupapatti có nghĩa là tái sanh theo ước nguyện. Luân hồi thường là bước
đi vô định nhưng theo Phật Pháp thì với một người có đầy đủ năm pháp là tín, giới,
văn, thí, tuệ thì ước nguyện tái sanh được thành tựu. Năm pháp nầy còn là nền tảng
cho chí nguyện giải thoát sanh tử.
1087. Ước nguyện tái
sanh trong cõi nhân loại
Một người muốn sanh vào
cảnh giới nào đó ở kiếp sau cầ đầy đủ
tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí, đầy đủ trí tuệ. Cõi người
là cảnh giới thích hợp để huân tập công đức:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn
trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá ông
Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo" -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng
đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như
sau: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông sự tái sanh do hành
đưa lại. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng". -- "Thưa
vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói
như sau:
-- Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy nghĩ như sau: "Mong rằng sau khi thân hoại
mạng chung, ta sẽ sanh cọng trú trong đại gia tộc Sát đế lỵ!" Vị
ấy chuyên định tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Những hành ấy của
Tỷ-kheo được an trú, tu tập, làm cho sung mãn như vậy đưa vị ấy thọ
sanh tại chỗ ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là đạo, đây là lộ trình đưa đến
tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy nghĩ: "Mong rằng, sau khi thân hoại mạng
chung, ta sẽ sanh cọng trú trong đại gia tộc Bà-la-môn... hay trong đại
gia tộc cư sĩ!" Vị ấy chuyên định tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập
tâm ấy. Những hành ấy của Tỷ- kheo được an trú, tu tập, làm cho sung
mãn như vậy đưa vị ấy thọ sanh tại chỗ ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là
đạo, đây là lộ trình đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
1088. Ước nguyện tái
sanh trong các cõi trời dục giới
Những cõi trời dục giới
là các cõi thiên chúng sanh thọ sanh nhờ phước báu của thiện hạnh. Những thiện
nghiệp đã làm nếu có năm chi phần tín, giới, văn, thí, tuệ thì sở nguyện thọ
sanh được thành tựu:
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Bốn Ðại Thiên vương có thọ
mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ". Vị ấy nghĩ:
"Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh cọng trú với
chư Thiên ở cõi trời Tứ thiên!" Vị ấy chuyên định tâm ấy, an trú
tâm ấy, tu tập tâm ấy. Những hành ấy của Tỷ-kheo được an trú, tu tập,...
đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Chư Thiên Tavatimsa (Tam thập
tam thiên)..., chư Thiên Yama (Dạ-ma)..., chư Thiên Tusita
(Ðâu-suất-đà)..., chư Thiên Nimmanarati (Hóa Lạc)..., chư Thiên
Paramimmitavasavatti (Tha Hóa Tự Tại) có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng,
có nhiều lạc thọ. Vị ấy nghĩ: "Mong rằng sau khi thân hoại mạng
chung, ta được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tha Hóa Tự Tại Thiên!"
Vị ấy chuyên định tâm ấy... đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
1089. Ước nguyện tái
sanh trong các cõi Phạm thiên
Phạm thiên sắc giới
và vô sắc giới là những cõi thiên sanh ra do năng lực của các thiền chứng không
bị hoại lúc lâm chung. Tuy vậy vẫn cần năm pháp tín, giới, văn, thí, tuệ để ước
nguyện được viên thành:
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Ngàn Phạm thiên có thọ mạng
lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ"... Này các Tỷ-kheo, ngàn
Phạm thiên sống thấm nhuần biến mãn một ngàn thế giới. Và vị ấy sống
thuấn nhuần, biến mãn các chúng sanh được sanh lên thế giới ấy. Ví
như, này các Tỷ-kheo, một người có mắt cầm một trái amanda (a-ma-lặc)
trong tay và nhìn trái ấy; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ngàn Phạm thiên
sống thấm nhuần, biến mãn một ngàn thế giới . Và vị ấy sống thấm
nhuần, biến mãn các chúng sanh được sanh lên thế giới ấy. Vị ấy nghĩ:
"Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh cọng trú
với ngàn Phạm thiên!" Vị ấy chuyên định tâm ấy... đưa đến tái sanh
tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ
thí, đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Hai ngàn Phạm thiên
giới... ba ngàn Phạm thiên.. bốn ngàn Phạm thiên... năm ngàn Phạm thiên
có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ. Này các Tỷ-kheo,
năm ngàn Phạm thiên có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc
thọ. Này các Tỷ-kheo, năm ngàn Phạm thiên sống thấm nhuần, biến mãn
năm ngàn thế giới. Và vị ấy sống thấm nhuần biến mãn các chúng sanh
được sanh lên thế giới ấy. Ví như này các Tỷ-kheo, một người có mắt
cầm năm trái amanda (a-ma-lặc) trong tay và nhìn các trái ấy. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, năm ngàn Phạm thiên sống thấm nhuần, biến mãn năm ngàn
thế giới. Và vị ấy sống thấm nhuần biến mãn các chúng sanh được sanh
lên các thế giới ấy". Vị ấy nghĩ: "Mong rằng sau khi thân
hoại mạng chung, ta sẽ được sanh cọng trú với năm ngàn Phạm
thiên!" Vị ấy chuyên định tâm ấy.... đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Mười ngàn Phạm thiên có thọ
mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ". Này các Tỷ- kheo,
mười ngàn Phạm thiên giới thấm nhuần biến mãn mười ngàn thế giới.
Vị ấy sống thấm nhuần biến mãn các chúng sanh được sanh lên các thế
giới ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ
trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, đặt trên một tấm nàm màu
lạt, sẽ chiếu sáng, sáng chói; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, mười ngàn
Phạm thiên sống thấm nhuần, biến mãn mười ngàn thế giới ấy. Vị ấy
nghĩ: "Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh cọng
trú với mười ngàn Phạm thiên!" Vị ấy chuyên định tâm ấy... đưa
đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Trăm ngàn Phạm thiên có thọ
mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ". Này các Tỷ- kheo,
trăm ngàn Phạm thiên, sống thấm nhuần, biến mãn trăm ngàn thế giới...
Vị ấy cũng thấm nhuần, biến mãn các chúng sanh được sanh lên các thế
giới ấy. Ví như một đồ trang sức làm bằng vàng ròng (jambonada), được
khéo tôi luyện trong lò của một thợ vàng thiện xảo, nếu được đặt trên
một tấm màn màu lạt sẽ chiếu sáng, rực sáng, chói sáng; cũng vậy này
các Tỷ-kheo, trăm ngàn Phạm thiên an trú thấm nhuần biến mãn trăm ngàn
thế giới... Vị ấy nghĩ: "Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung,
ta được sanh cọng trú với trăm ngàn Phạm thiên!" Vị ấy chuyên
định tâm ấy... đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Chư Quang thiên... Thiểu Quang
thiên, Vô Lượng Quang thiên... Quang Âm thiên có thọ mạng lâu dài, có mỹ
tướng, có nhiều lạc thọ". Vị ấy nghĩ: "Mong rằng ...
"... đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Chư Tịnh thiên.... Thiểu Tịnh
thiên... Vô lượng Tịnh thiên... Biến Tịnh thiên có thọ mạng lâu dài, có
mỹ tướng, có nhiều lạc thọ". Vị ấy nghĩ: "Mong rằng...
"... , đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Quảng Quả thiên... Vô Phiền
thiên... Vô Nhiệt thiên... Thiện Kiến thiên.. A-ca-ni-sa thiên có thọ mạng
lâu dài có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ". Vị ấy nghĩ: "Mong
rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh cọng trú với chư
A-ca-ni-sa-thiên". Vị ấy chuyên định tâm ấy... đưa đến tái sanh tại
chỗ ấy.
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Chư Thiên đã đạt được Hư
không vô biên xứ, có thọ mạng lâu dài, cửu trú, có nhiều lạc thọ".
Vị ấy nghĩ: "Mong rằng... "... , đưa đến tái sanh chỗ ấy.
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe: "Chư Thiên đã đạt được Thức
vô biên xứ... đã được Vô sở hữu xứ... đã đạt được Phi tưởng phi phi
tưởng xứ có thọ mạng lâu dài, cửu trú, có nhiều lạc thọ" Vị ấy
nghĩ: "Mong rằng ... "... , đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
1090. Ước nguyện giải
thoát sanh tử
Ngay cả ước nguyện chấm
dứt sanh tử cũng cần có năm yếu tố trợ duyên:
Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí,
đầy đủ trí tuệ. Vị ấy nghĩ: "Mong rằng, với sự đoạn trừ các lậu
hoặc, với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện
tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu!" Vị ấy với sự đoạn
trừ các lậu hoặc, với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay
trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu. Này các Tỷ- kheo,
Tỷ-kheo này không sinh ra một nơi nào, không sinh ra một chỗ nào.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 120 [tóm tắt]
Kinh Hành Sanh
(Sankhāruppati Sutta)
(M.iii,
99)
Đức Thế Tôn giảng
về sự tái sanh do hành đưa đến. Một vị Tỷ-kheo đầy đủ năm pháp là
tín, bố thí, giới, đa văn, trí tuệ, khi chú tâm đến một cảnh giới thọ
sanh nào, thì do những hành của vị ấy được an trú, làm cho sung mãn như
vậy, vị ấy sẽ được thọ sanh tại cảnh giới mình muốn: Vị ấy có thể
thọ sanh cộng trú trong một đại gia thuộc dòng Sát-đế-lợi, Bà-la- môn,
cư sĩ hay cộng trú với chư Thiên ở bốn Đại thiên vương, Tam thập tam
thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất-đà thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại
thiên, ngàn Phạm thiên giới, hai ngàn cho đến trăm ngàn Phạm thiên giới,
hoặc thọ sanh ở Chư quang thiên, Chư tịnh thiên, Quảng quả thiên, Vô
phiền thiên, Vô nhiệt thiên.... Những cõi trời thuộc Sắc giới cho đến
Sắc cứu cánh thiên. Vị ấy có thể thọ sanh ở các cõi trời vô sắc, ở
Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thọ
hưởng lạc thọ lâu dài.
Nếu vị Tỷ-kheo
đầy đủ năm pháp tín, thí ở trên khởi ý nghĩ: “Mong rằng với sự đoạn
trừ lậu hoặc, với thắng trí, ta chứng đạt, an trú ngay trong hiện tại,
tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu”, thì với sự đoạn trừ các lậu hoặc,
với thắng trí, vị ấy sẽ chứng đạt tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vị
Tỷ-kheo này không thọ sanh ở một nơi nào nữa./.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Kinh số 120 [dàn ý]
Kinh Hành Sanh
(Sankhāruppati Sutta)
(M.iii,
99)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và nói rõ
sẽ giảng về sự tái sanh do hành đem lại.
B. Chánh kinh:
I. Đạo lộ đưa đến tái sinh trong
đại gia tộc Sát-đế-lỵ.
II. Đạo lộ đưa đến tái sinh trong
đại gia tộc Bà-la-môn, cư sĩ.
III. Đạo lộ đưa đến tái sinh lên
4 đại thiên vương.
IV. Đạo lộ đưa đến tái sinh lên
Tam thập tam thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại
thiên.
V. Đạo lộ đưa đến tái sinh trong
ngàn Phạm thiên giới.
VI. Đạo lộ đưa đến tái sinh trong
2, 3, 4, 5 ngàn Phạm thiên giới.
VII. Đạo lộ đưa đến tái sinh
trong mười ngàn Phạm thiên giới.
VIII. Đạo lộ đưa đến tái sinh
trong trăm ngàn Phạm thiên giới.
IX. Đạo lộ đưa đến tái sinh lên
chư quang thiên giới.
X. Đạo lộ đưa đến tái sinh lên
chư định thiên giới.
XI. Đạo lộ đưa đến tái sinh lên
chư thiên tứ thân sắc giới.
XII. Đạo lộ đưa đến tái sinh lên
hư không vô biên xứ.
XIII. Đạo lộ đưa đến tái sinh lên
thức vô biên xứ.
XIV. Đạo lộ đưa đến tái sinh chứng
được tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Kinh số 120 [dàn ý]
Kinh Hành Sanh
(Sankhāruppati Sutta)
(M.iii,
99)
I. Toát yếu
Reappearance by Aspiration.
The Buddha teaches how one can be reborn in accordance
with one's wish.
Sự tái sinh do ước nguyện.
Phật dạy làm thế nào ta có thể tái sanh tùy
theo mong ước của mình.
II. Tóm tắt
Phật dạy về sự tái sinh do ý hành [1] mang
lại. Một tỷ kheo đầy đủ năm pháp là tín giới thí văn tuệ, nếu
khởi lên mong ước được tái sinh vào giai cấp nào hay cõi nào, thì
hãy chú tâm vào cõi ấy, tu tập tâm ấy, khi thân hoại mạng chung
liền được như ý. Ðấy là đạo lộ đưa đến tái sinh theo ước nguyện
[2]. Như mong sinh vào dòng họ Sát đế lỵ, Bà- la-môn, cư sĩ, Bốn
đại thiên vương, Tam thập tam thiên, Dạ-ma, Ðâu-suất, Hóa lạc, Tha
hóa tự tại, hoặc mong sinh vào cõi Phạm thiên có tâm biến mãn [3]
từ một ngàn đến một trăm ngàn thế giới. Hoặc mong sinh vào chư
quang thiên [4]: Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm thiên; hay chư
Tịnh thiên: Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh; hoặc cõi trời
Quảng quả, Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, sắc cứu cánh; hoặc vào
cõi Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi
tưởng xứ. Tùy ý muốn và sự tu tập tương ưng cõi nào, vị tỷ kheo
sẽ tái sinh vào cõi ấy. Nếu đầy đủ năm pháp trên, nhưng chỉ mong
an trú tâm
giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu, thì vị ấy do đoạn trừ các lậu
hoặc, sẽ chứng đạt antrú vô lậu tâm ngay hiện tại, không còn tái
sinh ở bất cứ nơi nào [5].
III. Chú giải
1. Sankhārā luôn luôn được dịch là formation
(hành) nhưng nội dung kinh này có lẽ cần dịch cách khác để làm
sáng tỏ ý nghĩa. MA lúc đầu giải là sự tái hiện của các hành
(thay vì của một cái ngã hay con người) hoặc tái hiện các uẩn trong
một hiện hữu mới nhờ một nghiệp hành có công đức. Tuy nhiên trong
các đoạn kế tiếp, MA lại chú thích sankhārā là patthanā,
chữ này có một ý nghĩa dứt khoát là nguyện vọng.
2. MA: Ðạo là năm đức tín tấn niệm định tuệ
cùng với nguyện. Người có năm đức mà không nguyện hoặc có nguyện
mà thiếu năm đức thì không có một số phận quyết định. Số phận có
tính quyết định chỉ khi có đủ cả hai yếu tố.
3. MA giải thích có năm thứ biến mãn: biến
mãn tâm, nghĩa là biết tâm chúng sinh trong một ngàn thế giới; biến
mãn kasina là triển khai được tướng của kasina đến ngàn thế
giới; biến mãn thiên nhãn, biến mãn ánh sáng, biến mãn thân, như
trên.
4. Xem chú thích kinh số 1 về các cõi trời.
5. MA: Năm đức đã kể cũng đủ để tái sinh vào
cõi dục, nhưng muốn có tái sinh thù thắng hơn và muốn đoạn trừ
lậu hoặc thì cần nhiều điều kiện hơn. Căn cứ trên năm đức mà đắc
thiền chứng thì sẽ sinh vào cõi Phạm thiên; nếu đắc các vô sắc
thì sẽ sinh vào vô sắc giới. Nếu phát triển tuệ giác và đắc quả
Bất hoàn, thì được sinh vào cõi Tịnh cư thiên; nếu đắc A-la-hán
đạo thì sẽ được lậu tận.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
‘Phật dạy về tái sinh
Do ý hành [1] mang lại.
Do ý hành [1] mang lại.
Cần có đủ năm đức
Tín giới thí tuệ văn
‘Mong tái sinh về đâu
Hãy chú tâm tu tập,
Khi thân hoại mạng chung
Hãy chú tâm tu tập,
Khi thân hoại mạng chung
Liền tái sinh như nguyện [2]:
Vào dòng Sát đế lỵ,
Bà-la-môn, cư sĩ,
Hoặc Bốn đại thiên vương,
Hoặc Bốn đại thiên vương,
Hoặc Tam thập tam thiên,
Dạ-ma, Ðâu-suất-đà,
Hóa lạc, Tự tại thiên,
Hoặc các cõi Phạm thiên
Hóa lạc, Tự tại thiên,
Hoặc các cõi Phạm thiên
Biến mãn [3] từ một ngàn
Đến trăm ngàn thế giới
Hoặc vào chư quang thiên [4]
Hoặc vào chư quang thiên [4]
Thiểu, Vô lượng, Quang âm
Hay là chư Tịnh thiên:
Thiểu, Vô lượng, Biến tịnh;
Thiểu, Vô lượng, Biến tịnh;
Hoặc cõi trời Quảng quả
Vô phiền, Vô nhiệt thiên,
Vô phiền, Vô nhiệt thiên,
Thiện kiến, Sắc cứu cánh;
Hoặc cõi Không vô biên
Hay cõi Thức vô biên,
Hay Vô sở hữu xứ
Hay cõi Thức vô biên,
Hay Vô sở hữu xứ
‘Cõi Phi tưởng phi phi
Do ước nguyện, tu tập,
Tỷ kheo sẽ tái sinh
Vào cõi như ý nguyện.
‘Nếu đầy đủ năm pháp
Nhưng chỉ mong an trú
Vô lậu tâm giải thoát
Vô lậu tuệ giải thoát
Ðoạn trừ các lậu hoặc,
Tỷ kheo sẽ chứng đạt
An trú vô lậu tâm
Ngay trong đời hiện tại,
Không còn phải tái sinh
Ở bất cứ nơi nào [5].
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
120. Saṅkhārupapattisuttaṃ [Mūla]
160. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca : ''saṅkhārupapattiṃ [saṅkhārūpapattiṃ (syā. kaṃ.), saṅkhāruppattiṃ
(sī. pī.)] vo, bhikkhave, desessāmi, taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha
bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhanteti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā
etadavoca :
161. ''Idha, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato hoti,
sīlena samannāgato hoti, sutena samannāgato hoti, cāgena samannāgato hoti,
paññāya samannāgato hoti. Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā khattiyamahāsālānaṃ [khattiyamahāsālānaṃ vā (syā. kaṃ. pī.)] sahabyataṃ
upapajjeyyanti. So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti
.
Tassa te saṅkhārā ca vihārā [vihāro (sī. pī.)] ca evaṃ bhāvitā evaṃ bahulīkatā tatrupapattiyā [tatrūpapattiyā (syā. kaṃ.),
tatruppattiyā (sī. pī.)] saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā
tatrupapattiyā saṃvattati.
162. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena samannāgato hoti, sutena samannāgato hoti, cāgena samannāgato
hoti, paññāya samannāgato hoti. Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā brāhmaṇamahāsālānaṃ - pe - gahapatimahāsālānaṃ [brāhmaṇamahāsālānaṃ vā gahapatimahāsālānaṃ vā
(syā. kaṃ. pī.)] sahabyataṃ upapajjeyyanti. So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ
adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā ca evaṃ bhāvitā evaṃ
bahulīkatā tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā
tatrupapattiyā saṃvattati.
163. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena samannāgato hoti, sutena samannāgato hoti, cāgena samannāgato
hoti, paññāya samannāgato hoti. Tassa sutaṃ hoti : 'cātumahārājikā
[cātummahārājikā (sī. syā. kaṃ. pī.)] devā dīghāyukā vaṇṇavanto sukhabahulāti.
Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ
devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyyanti . So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ
adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā ca evaṃ bhāvitā evaṃ
bahulīkatā tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā
tatrupapattiyā saṃvattati.
164. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena samannāgato hoti, sutena samannāgato hoti, cāgena samannāgato
hoti, paññāya samannāgato hoti. Tassa sutaṃ hoti : tāvatiṃsā devā - pe - yāmā
devā... tusitā devā... nimmānaratī devā... paranimmitavasavattī devā dīghāyukā
vaṇṇavanto sukhabahulāti. Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyyanti . So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ
adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā ca evaṃ bhāvitā evaṃ bahulīkatā tatrupapattiyā saṃvattanti.
Ayaṃ, bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā tatrupapattiyā saṃvattati.
165. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato hoti, sīlena samannāgato hoti, sutena
samannāgato hoti, cāgena samannāgato hoti, paññāya samannāgato hoti. Tassa sutaṃ
hoti : 'sahasso brahmā dīghāyuko vaṇṇavā sukhabahuloti. Sahasso, bhikkhave,
brahmā sahassilokadhātuṃ [sahassiṃ lokadhātuṃ (sī.)] pharitvā adhimuccitvā
[adhimuñcitvā (ka.)] viharati. Yepi tattha sattā upapannā tepi pharitvā
adhimuccitvā viharati. Seyyathāpi, bhikkhave, cakkhumā puriso ekaṃ āmaṇḍaṃ
hatthe karitvā paccavekkheyya evameva kho, bhikkhave, sahasso brahmā
sahassilokadhātuṃ pharitvā adhimuccitvā viharati. Yepi tattha sattā upapannā
tepi pharitvā adhimuccitvā viharati. Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā sahassassa brahmuno sahabyataṃ upapajjeyyanti. So taṃ cittaṃ
dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā
ca evaṃ bhāvitā evaṃ bahulīkatā tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave,
maggo ayaṃ paṭipadā tatrupapattiyā saṃvattati.
166. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya
samannāgato hoti, sīlena samannāgato hoti, sutena... cāgena... paññāya
samannāgato hoti. Tassa sutaṃ hoti : dvisahasso brahmā - pe - tisahasso brahmā...
catusahasso brahmā... pañcasahasso brahmā dīghāyuko vaṇṇavā sukhabahuloti. Pañcasahasso, bhikkhave, brahmā
pañcasahassilokadhātuṃ pharitvā adhimuccitvā viharati. Yepi tattha sattā upapannā
tepi pharitvā adhimuccitvā viharati. Seyyathāpi, bhikkhave, cakkhumā puriso
pañca āmaṇḍāni hatthe karitvā paccavekkheyya evameva kho, bhikkhave,
pañcasahasso brahmā pañcasahassilokadhātuṃ pharitvā adhimuccitvā viharati. Yepi
tattha sattā upapannā tepi pharitvā adhimuccitvā viharati. Tassa evaṃ hoti :
'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pañcasahassassa brahmuno sahabyataṃ
upapajjeyyanti. So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ
bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā ca evaṃ bhāvitā evaṃ
bahulīkatā tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā
tatrupapattiyā saṃvattati.
167. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena samannāgato hoti, sutena... cāgena... paññāya samannāgato hoti.
Tassa sutaṃ hoti : 'dasasahasso brahmā dīghāyuko vaṇṇavā sukhabahuloti.
Dasasahasso, bhikkhave, brahmā dasasahassilokadhātuṃ pharitvā adhimuccitvā viharati. Yepi tattha sattā upapannā tepi
pharitvā adhimuccitvā viharati. Seyyathāpi, bhikkhave, maṇi veḷuriyo subho
jātimā aṭṭhaṃso suparikammakato paṇḍukambale nikkhitto bhāsate ca tapate ca
[bhāsati ca tapati ca (sī. syā. kaṃ. pī.)] virocati ca evameva kho, bhikkhave,
dasasahasso brahmā dasasahassilokadhātuṃ pharitvā adhimuccitvā viharati. Yepi
tattha sattā upapannā tepi pharitvā adhimuccitvā viharati. Tassa evaṃ hoti :
'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā dasasahassassa brahmuno sahabyataṃ
upapajjeyyanti. So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ
bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā ca evaṃ bhāvitā evaṃ bahulīkatā
tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā tatrupapattiyā
saṃvattati.
168. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena... sutena... cāgena... paññāya samannāgato hoti. Tassa sutaṃ hoti
: 'satasahasso brahmā dīghāyuko vaṇṇavā sukhabahuloti. Satasahasso, bhikkhave,
brahmā satasahassilokadhātuṃ pharitvā adhimuccitvā viharati. Yepi tattha sattā
upapannā tepi pharitvā adhimuccitvā viharati. Seyyathāpi, bhikkhave, nikkhaṃ
jambonadaṃ [nekkhaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)]
dakkhakammāraputtaukkāmukhasukusalasampahaṭṭhaṃ paṇḍukambale nikkhittaṃ bhāsate ca tapate ca virocati ca
evameva kho, bhikkhave, satasahasso brahmā satasahassilokadhātuṃ pharitvā
adhimuccitvā viharati. Yepi tattha sattā upapannā tepi pharitvā adhimuccitvā
viharati. Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
satasahassassa brahmuno sahabyataṃ upapajjeyyanti . So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ
adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā ca evaṃ bhāvitā evaṃ
bahulīkatā tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā
tatrupapattiyā saṃvattati.
169. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena... sutena... cāgena... paññāya samannāgato hoti. Tassa sutaṃ hoti
: ābhā devā - pe - parittābhā devā... appamāṇābhā devā... ābhassarā devā
dīghāyukā vaṇṇavanto sukhabahulāti. Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā ābhassarānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyyanti. So taṃ cittaṃ
dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā
ca evaṃ bhāvitā evaṃ bahulīkatā tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave,
maggo ayaṃ paṭipadā tatrupapattiyā saṃvattati.
170. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena ...
sutena... cāgena... paññāya samannāgato hoti. Tassa sutaṃ hoti : parittasubhā
devā - pe - appamāṇasubhā devā... subhakiṇhā devā dīghāyukā vaṇṇavanto
sukhabahulāti. Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
subhakiṇhānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyyanti. So taṃ cittaṃ dahati, taṃ
cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā ca evaṃ
bhāvitā evaṃ bahulīkatā tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave, maggo ayaṃ
paṭipadā tatrupapattiyā saṃvattati.
171. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena... sutena... cāgena... paññāya samannāgato hoti. Tassa sutaṃ hoti : vehapphalā devā - pe - avihā
devā... atappā devā... sudassā devā... sudassī devā... akaniṭṭhā devā dīghāyukā
vaṇṇavanto sukhabahulāti. Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā akaniṭṭhānaṃ devānaṃ sahabyataṃ
upapajjeyyanti. So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ
bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā ca evaṃ bhāvitā evaṃ bahulīkatā tatrupapattiyā
saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā tatrupapattiyā saṃvattati.
172. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena... sutena... cāgena... paññāya samannāgato hoti. Tassa sutaṃ hoti
: 'ākāsānañcāyatanūpagā devā dīghāyukā ciraṭṭhitikā sukhabahulāti . Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā ākāsānañcāyatanūpagānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyyanti.
So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa te saṅkhārā
ca vihārā ca evaṃ bhāvitā evaṃ bahulīkatā tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ,
bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā tatrupapattiyā saṃvattati.
173. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena... sutena... cāgena... paññāya samannāgato hoti. Tassa sutaṃ hoti
: 'viññāṇañcāyatanūpagā devā dīghāyukā ciraṭṭhitikā sukhabahulāti. Tassa evaṃ
hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā viññāṇañcāyatanūpagānaṃ devānaṃ
sahabyataṃ upapajjeyyanti. So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ
cittaṃ bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca vihārā ca evaṃ bhāvitā evaṃ bahulīkatā
tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ, bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā tatrupapattiyā
saṃvattati.
174. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya samannāgato
hoti, sīlena... sutena... cāgena... paññāya samannāgato hoti. Tassa sutaṃ hoti
: ākiñcaññāyatanūpagā devā - pe - nevasaññānāsaññāyatanūpagā devā dīghāyukā
ciraṭṭhitikā sukhabahulāti. Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā nevasaññānāsaññāyatanūpagānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyyanti. So taṃ
cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa te saṅkhārā ca
vihārā ca evaṃ bhāvitā evaṃ bahulīkatā tatrupapattiyā saṃvattanti. Ayaṃ,
bhikkhave, maggo ayaṃ paṭipadā tatrupapattiyā saṃvattati.
175. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu saddhāya
samannāgato hoti, sīlena... sutena... cāgena... paññāya samannāgato hoti. Tassa evaṃ hoti : 'aho vatāhaṃ āsavānaṃ khayā anāsavaṃ
cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja vihareyyanti. So āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ
diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati. Ayaṃ,
bhikkhave, bhikkhu na katthaci upapajjatīti [na katthaci upapajjati, na kuhiñci
upapajjatīti (sī. pī.), na katthaci upapajjati, na kuhiñci upasampajja
viharatīti. (Ka0)]. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato
bhāsitaṃ abhinandunti.
Saṅkhārupapattisuttaṃ niṭṭhitaṃ dasamaṃ.
Anupadavaggo niṭṭhito dutiyo.
Tassuddānaṃ :
Anupāda-sodhana-porisadhammo,
sevitabba-bahudhātu-vibhatti.
Buddhassa kittināma-cattārīsena,
ānāpāno kāyagato upapatti [ito paraṃ syā. kaṃ. ka. potthakesu evampi dissati :-
candake vimale parisuddhe, puṇṇasammodinirodhaattano. Dandhā bahujanasevitaṃ
dhammavaraṃ, yaṃ anupadaṃ vaggavaraṃ dutiyāti]..
120. Saṅkhārupapattisuttavaṇṇanā [Atthakathā]
160.
Evaṃ me sutanti
saṅkhārupapattisuttaṃ. Tattha saṅkhārupapattinti saṅkhārānaṃyeva
upapattiṃ, na sattassa, na posassa, puññābhisaṅkhārena vā bhavūpagakkhandhānaṃ
upapattiṃ.
161.
Saddhāya samannāgatoti saddhādayo pañca dhammā lokikā vaṭṭanti. Dahatīti
ṭhapeti. Adhiṭṭhātīti patiṭṭhāpeti. Saṅkhārā ca vihārā cāti saha
patthanāya saddhādayova pañca dhammā. Tatrupapattiyāti tasmiṃ ṭhāne
nibbattanatthāya. Ayaṃ maggo ayaṃ paṭipadāti saha patthanāya pañca dhammāva. Yassa hi pañca dhammā atthi, na patthanā, tassa gati
anibaddhā. Yassa patthanā atthi, na pañca dhammā, tassapi anibaddhā. Yesaṃ
ubhayaṃ atthi, tesaṃ gati nibaddhā. Yathā hi ākāse khittadaṇḍo aggena vā
majjhena vā mūlena vā nipatissatīti niyamo natthi, evaṃ sattānaṃ
paṭisandhiggahaṇaṃ aniyataṃ. Tasmā kusalaṃ kammaṃ katvā ekasmiṃ ṭhāne patthanaṃ
kātuṃ vaṭṭati.
165. Āmaṇḍanti āmalakaṃ. Yathā
taṃ parisuddhacakkhussa purisassa sabbasova pākaṭaṃ hoti, evaṃ tassa brahmuno
saddhiṃ tattha nibbattasattehi sahassī lokadhātu. Esa nayo sabbattha.
167.
Subhoti sundaro. Jātimāti ākarasampanno. Suparikammakatoti
dhovanādīhi suṭṭhukataparikammo. Paṇḍukambale nikkhittoti rattakambale
ṭhapito.
168.
Satasahassoti lokadhātusatasahassamhi ālokapharaṇabrahmā. Nikkhanti
nikkhena kataṃ piḷandhanaṃ, nikkhaṃ nāma pañcasuvaṇṇaṃ, ūnakanikkhena kataṃ
pasādhanañhi ghaṭṭanamajjanakkhamaṃ na hoti, atirekena kataṃ ghaṭṭanamajjanaṃ
khamati, vaṇṇavantaṃ pana na hoti, pharusadhātukaṃ khāyati. Nikkhena kataṃ
ghaṭṭanamajjanañceva khamati, vaṇṇavantañca hoti. Jambonadanti
jambunadiyaṃ nibbattaṃ. Mahājamburukkhassa hi ekekā sākhā paṇṇāsa paṇṇāsa
yojanāni vaḍḍhitā, tāsu mahantā nadiyo sandanti, tāsaṃ
nadīnaṃ ubhayatīresu jambupakkānaṃ patitaṭṭhāne
suvaṇṇaṅkurā uṭṭhahanti, te nadījalena vuyhamānā anupubbena
mahāsamuddaṃ pavisanti. Taṃ sandhāya jambonadanti vuttaṃ. Dakkhakammāraputtaukkāmukhasukusalasampahaṭṭhanti
dakkhena sukusalena kammāraputtena ukkāmukhe pacitvā sampahaṭṭhaṃ. Ukkāmukheti
uddhane. Sampahaṭṭhanti dhotaghaṭṭitamajjitaṃ. Vatthopame (ma. ni.
1.75-76) ca dhātuvibhaṅge (ma. ni. 3.357-360) ca piṇḍasodhanaṃ vuttaṃ. Imasmiṃ
sutte katabhaṇḍasodhanaṃ vuttaṃ.
Yaṃ pana sabbavāresu pharitvā adhimuccitvāti vuttaṃ,
tattha pañcavidhaṃ pharaṇaṃ cetopharaṇaṃ kasiṇapharaṇaṃ dibbacakkhupharaṇaṃ
ālokapharaṇaṃ sarīrapharaṇanti. Tattha cetopharaṇaṃ nāma lokadhātusahasse
sattānaṃ cittajānanaṃ. Kasiṇapharaṇaṃ nāma lokadhātusahasse kasiṇapattharaṇaṃ.
Dibbacakkhupharaṇaṃ nāma ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbena cakkhunā
sahassalokadhātudassanaṃ. Ālokapharaṇampi etadeva. Sarīrapharaṇaṃ nāma
lokadhātusahasse sarīrapabhāya pattharaṇaṃ. Sabbattha imāni pañca pharaṇāni
avināsentena kathetabbanti.
Tipiṭakacūḷābhayatthero panāha – ‘‘maṇiopamme kasiṇapharaṇaṃ
viya nikkhopamme sarīrapharaṇaṃ viya dissatī’’ti. Tassa vādaṃ viya aṭṭhakathā
nāma natthīti paṭikkhitvā sarīrapharaṇaṃ na sabbakālikaṃ, cattārimāni pharaṇāni avināsetvāva kathetabbanti vuttaṃ. Adhimuccatīti
padaṃ pharaṇapadasseva vevacanaṃ, atha vā pharatīti pattharati. Adhimuccatīti
jānāti.
169.
Ābhātiādīsu ābhādayo nāma pāṭiyekkā devā natthi, tayo parittābhādayo
devā ābhā nāma, parittāsubhādayo ca. Subhakiṇhādayo ca subhā nāma. Vehapphalādivārā
pākaṭāyeva.
Ime tāva pañca dhamme bhāvetvā kāmāvacaresu nibbattatu.
Brahmaloke nibbattaṃ pana āsavakkhayañca kathaṃ pāpuṇātīti? Ime pañca dhammā
sīlaṃ, so imasmiṃ sīle patiṭṭhāya kasiṇaparikammaṃ katvā tā tā samāpattiyo
bhāvetvā rūpībrahmaloke nibbattati, arūpajjhānāni nibbattetvā
arūpībrahmaloke, samāpattipadaṭṭhānaṃ vipassanaṃ vaḍḍhetvā
anāgāmiphalaṃ sacchikatvā pañcasu suddhāvāsesu nibbattati. Uparimaggaṃ bhāvetvā
āsavakkhayaṃ pāpuṇātīti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Saṅkhārupapattisuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Dutiyavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Có câu “không phải hễ muốn là được nhưng đa phần không muốn thì không được”. Câu nói đó có xác đáng trong ý nghĩa của bài kinh hôm nay chăng? - TT Tuệ Siêu
III Trắc Nghiệm
Trắc nghiệm 1. Câu nào sau đây được xem là hợp lý theo Phật Pháp:
A. Có những chúng sanh tái sanh do phước báu đã tạo mà không có ước nguyện /
B. Có những chúng sanh tái sanh do phước báu được dẫn đạo bởi ước nguyện /
C. Có những chúng sanh tái sanh không do phước cũng không có ước nguyện /
D. Cả ba trường hợp trên đều có
TT Tuệ Quyền cho đáp án trắc nghiệm 1: D
Trắc nghiệm 2. Phải chăng theo Phật pháp tất cả ước nguyện đều thành tựu nếu sự mong muốn đủ mạnh?
A. Không phải ước nguyện nào cũng thành tựu nếu không có những tố chất đi kèm /
B. Sự mong muốn gọi là đủ mạnh khi có đầy đủ tố chất/
C. Câu A và B đều đúng /
D. Câu A và B đều sai
TT Pháp Tân cho đáp án trắc nghiệm 2: C
Trắc nghiệm 2. Phải chăng theo Phật pháp tất cả ước nguyện đều thành tựu nếu sự mong muốn đủ mạnh?
A. Không phải ước nguyện nào cũng thành tựu nếu không có những tố chất đi kèm /
B. Sự mong muốn gọi là đủ mạnh khi có đầy đủ tố chất/
C. Câu A và B đều đúng /
D. Câu A và B đều sai
TT Pháp Tân cho đáp án trắc nghiệm 2: C
No comments:
Post a Comment